Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Chuyên đề thực tập: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.44 KB, 83 trang )

Chuyên đề thực tập
MỤC LỤC
1
Chuyên đề thực tập
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh
Bảng 2.2: Phân loại nguồn vốn của Chi nhánh
Bảng 2.3: Tình hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh
Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ có quan hệ thường xuyên với
Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội
Bảng 2.5: Qui mô cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bảng 2.6: Tình hình mở rộng qui mô cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Bảng 2.7: Dư nợ tín dụng phân theo thời hạn
Bảng 2.8: Tình hình mở rộng tín dụng phân theo thời gian
Bảng 2.9: Tình hình nợ xấu
Bảng 2.10: Tình hình tăng (giảm) nợ xấu
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu hoạt động của Chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội
2
Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ đang dần khẳng định vai trò và vị trí của
mình trong nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang góp sức
không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế và giúp Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế
xã hội.
Để có thể đầu tư thêm vào tài sản cố định mở rộng sản xuất kinh doanh, thực
hiện các dự án, doanh nghiệp vừa và nhỏ rất cần có sự góp sức của các nguồn vốn khác
đặc biệt là tín dụng ngân hàng.
Về phía các ngân hàng thương mại, xuất phát từ mục tiêu quản lý của mình đặc
biệt là từ mối quan hệ chặt chẽ giữa chiến lược quản lý lãi suất, doanh thu, chi phí và
lợi nhuận. Các ngân hàng thương mại cần phát triển đồng đều các khoản tín dụng cho


doanh nghiệp vừa và nhỏ với các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp lớn trên cơ sở
đảm bảo chất lượng tín dụng. Với số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng
số các doanh nghiệp cả nước đây chính là lượng khách hàng tiềm năng mà các ngân
hàng thương mại đang hướng tới.
Mặc dù trong vài năm gần đây, Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Nam Hà Nội đã thực hiện một số biện pháp nhằm tăng cường tín dụng đáp
ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng doanh số cho vay, dư nợ
cho vay trung hạn và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng vẫn rất
thấp so với số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đứng trước vấn đề như vậy thì: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Nam Hà Nội” là một vấn đề rất bức thiết.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến đến hoạt động tín đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ, xem xét tình hình tín dụng, mở rộng tín dụng và tìm ra nguyên nhân, để từ
đó đưa ra các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội.
3
Chuyên đề thực tập
Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu việc mở rộng tín dụng và các giải pháp nhằm mở rộng hoạt
động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Nam Hà Nội qua các năm 2005 – 2008.
Kết cấu chuyên đề
Bài viết gồm 3 phần:
Chương I: Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng và tình hình mở rộng tín dụng
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Nam Hà Nội

Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà
Nội
4
Chuyên đề thực tập
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm
Trước khi xem xét định nghĩa thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ, ta xem
xét định nghĩa về doanh nghiệp là gì? Một định nghĩa về doanh nghiệp bao gồm các yếu
tố sau:
− Phối hợp những lợi thế đang có theo một cách mới hiệu quả hơn.
− Tạo ra nhiều giá trị hơn từ nguyên liệu thô và nhân lực trước đây bị coi là vô
ích.
− Cải thiện những gì đã xuất hiện với việc sử dụng các kĩ thuật mới.
− Di chuyển tài nguyên kinh tế ra khỏi khu vực năng xuất thấp tới khu vực sản
xuất hiệu quả hơn và lớn hơn.
− Có phương pháp tìm kiếm và hưởng ứng lại những nhu cầu chưa được thỏa
mãn và các đòi hỏi của khách hàng.
Đó là những yều cầu đúng nghĩa về một doanh nghiệp. Trên thực tế tùy theo tình
hình mỗi nước và cũng tùy vào mục đích của từng nơi mà người ta có thể bỏ đi một hai
yếu tố để đảm bảo những định hướng đề ra ví dụ như các công trình phúc lợi thì có thể
bỏ những yếu tố mang tính lợi nhuận mà mục đích chỉ đem lại phúc lợi cho những
người hưởng thụ nó. Trên thực tế, người ta phân chia doanh nghiệp thành những doanh
nghiệp lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, người ta còn đưa ra cả loại doanh
nghiệp siêu nhỏ, bởi vì những doanh nghiệp này có qui mô quá bé cả về số lượng lao
động và số vốn đăng kí. Ngược lại là các tập đoàn kinh tế với số vốn lớn, số lượng lao
động nhiều kinh doanh đa dạng, thường là độc lập về cả mặt tài chính.
Việc xác định như thế nào là một doanh nghiệp vừa và nhỏ của một đất nước

được cân nhắc đối với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế,tình hình việc làm nói
chung và tính chất nền kinh tế hiện hàng lúc đó. Việc xác định qui mô của doanh nghiệp
vừa và nhỏ chỉ mang tính chất tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ
5
Chuyên đề thực tập
phát triển của một nước, tính chất ngành nghề và điều kiện phát triển của một vùng lãnh
thổ nhất định. Nhìn chung trên thế giới, việc xác định thế nào là một doanh nghiệp vừa
và nhỏ chủ yếu căn cứ vào hai tiêu chí phổ biến:
Tiêu chí định tính: Được xây dựng dựa trên những đặc trưng cơ bản của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ như trình độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức
độ phức tạp của quản lý… Tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của việc
phân định nhưng trên thực tế thường khó xác định. Do đó, chỉ được dùng để tham khảo,
kiểm chứng mà ít được dùng để xác định qui mô doanh nghiệp.
Tiêu chí định lượng: Xây dựng dựa trên những tiêu chí như số lượng lao động,
tổng giá trị tài sản (hay tổng vốn), doanh thu hoặc lợi nhuận của doanh nghiệp. Số lượng
lao động có thể là số lao động trung bình trong danh sách hoặc số lao động thường
xuyên thực tế của doanh nghiệp. Tài sản hoặc vốn có thể bao gồm tổng giá trị tài sản
(hay vốn) cố định hoặc giá trị tài sản còn lại (hay vốn) còn lại của doanh nghiệp.
Các tiêu chí định lượng có vai trò rất quan trọng trong việc xác định qui mô
doanh nghiệp. Tuy nhiên ở mỗi nước trên thế giới có các tiêu chí khác nhau để xác định
doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Trình độ phát triển của mỗi nước và tính chất của mỗi ngành nghề: Trình độ phát
triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng. Ngoài ra phụ thuộc vào tính chất yêu cầu
của từng ngành nghề mà có ngành sử dụng nhiều lao động. Ở các nước phát triển thì chỉ
số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ càng cao. Ví dụ như ở Nhật
Bản, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có 300 lao động và nguồn vốn là 1triệu
USD trong đó các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo có từ 1 đến 300 lao động
và số vốn kinh doanh không vượt quá 300 triệu Yên, còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong ngành thương mại - dịch vụ có số lao động không quá 100 người với số vốn kinh
doanh không quá 100 triệu Yên. Còn ở Đài Loan, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất,

chế tạo có từ 1 đến 200 lao động được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi các doanh
nghiệp trong ngành thương mại - dịch vụ có từ 1 đến 50 lao động. Ngược lại ở Mỹ một
nước phát triển có một tiêu chí xác định chung cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là số lao
động không quá 500 người.
6
Chuyên đề thực tập
Vùng lãnh thổ: Mỗi vùng miền có trình độ phát triển khác nhau về cả quy mô và số
lượng doanh nghiệp. Chính vì vậy, để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh giữa các
vùng với nhau cũng cần tính đến hệ số vùng trong tiêu chuẩn xác định doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Vùng có nền kinh tế phát triển cao thì số lượng và quy mô doanh nghiệp phải cao hơn
so với vùng có nền kinh tế phát triển thấp.
Tính chất lịch sử: Trong quá trình phát triển kinh tế, quy mô của các doanh nghiệp
không ngừng tăng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Do vậy mà ở mỗi giai đoạn
kinh tế lại có các quan niệm khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi nền kinh tế còn
chưa phát triển thì qui mô các doanh nghiệp còn nhỏ do vậy mà lúc này quan niệm về
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là với số lượng lao động ít, số vốn đăng kí nhở. Ngược lại khi
nền kinh tế đã phát triển thì cũng những doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có số lao động và số
vốn đăng kí sẽ lớn hơn nhiều so với giai đoạn nền kinh tế ở giai đoạn ban đầu còn chưa
phát triển. Như vậy tính chất lịch sử có ảnh hưởng đến việc xác định qui mô của doanh
nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
Tóm lại, từ các yếu tố trên ta có thể hiểu: “doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản
xuất kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn
đăng kí và số lao động ở một mức nhất định tùy theo từng thời kì, từng điều kiện của
từng nước, đặc điểm từng vùng lãnh thổ, tính chất từng ngành nghề mà đặt ra yêu cầu
khác nhau về chúng”. Như vậy, việc xác định rõ thế nào là doanh nghiệp vừa và nhỏ là
rất linh hoạt và tùy thuộc vào từng quốc gia từng khu vực kinh tế. Để xác định được đâu
là một doanh nghiệp vừa và nhỏ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong mỗi điều kiện cụ
thể ta đưa ra các mức giới hạn về qui mô và số lượng lao động khác nhau để đánh giá
đâu là một doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ

Thông qua khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ta đã có được cái nhìn cơ bản về
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bây giờ ta đi xem xét các đặc điểm về doanh nghiệp vừa và
nhỏ để có thể hiểu sâu hơn về chúng. Một doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn có những đặc
điểm cơ bản sau: doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn lao động dồi dào; doanh nghiệp
vừa và nhỏ có tiềm lực tài chính hạn chế; doanh nghiệp vừa và nhỏ năng động và linh
7
Chuyên đề thực tập
hoạt trong sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp vừa và nhỏ có trình độ khoa học công
nghệ và quản lý thấp. Sau đây ta xem xét từng đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2.1 Doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng
không cao
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút nhiều lao động không đòi hỏi tay nghề quá cao do
đó có lợi thế trong việc khai thác nguồn lực sẵn có của địa phương đặc biệt là ngành sử
dụng nhiều lao động, doanh nghiệp vừa và nhỏ có những tác động tích cực trong việc tạo ra
việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư tại địa phương hoặc
duy trì và bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo,
giảm sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó cũng góp phần làm giảm tệ nạn xã
hội và giúp Chính phủ giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội khác.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ do có nhiều nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố
định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn đặc biệt là ở nước kém phát
triển, các nước này có nguồn lao động dồi dào với giá công lao động thấp, để tiến hành sản
xuất kinh doanh phục vụ dân sinh đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Quan hệ lao động
trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các
doanh nghiệp lớn. Chính vì vậy mà người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động
viên, khuyến khích hơn trong công việc. Đây là một lợi thế của loại hình doanh nghiệp này,
bởi khi gần gũi với người lao động thì họ sẽ biết được các nhu cầu của người lao động, từ
đó có thể đáp ứng các nhu cầu đó, lúc này người lao động được đáp ứng nguyện vọng sẽ
lao động hăng say hơn, tập trung công việc hơn, từ đó giúp tăng năng suất lao động, và đó
là điều mọi doanh nghiệp đều muốn.

Bên cạnh những điểm mạnh đó khó khăn hiện nay mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ
gặp phải như do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ tính ổn định thấp, sản phẩm tiêu thụ
không nhiều nên không thể trả lương cao cho người lao động được do đó khó thu hút được
đội ngũ lao động và người quản lý giỏi, có khả năng đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trình độ học vấn thấp quy mô
doanh nghiệp nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu các nguồn
8
Chuyên đề thực tập
lực để thực hiện các ý tưởng kinh doanh lớn, hoặc các dự án đầu tư lớn, các dự án đầu tư
công cộng.
Phần lớn chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý chưa qua đào tạo hoặc đào tạo chưa có
bài bản, tiến hành sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của chính bản thân và gia đình.
Trong quản lý tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu minh bạch, số liệu chưa
phản ánh được thực trạng của doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê cho biết, ở các nước
kém phát triển: hơn nửa các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có trình độ học vấn từ trung cấp
trở xuống (trong đó chỉ một ít là tốt nghiệp trung cấp; phần còn lại có trình độ thấp) và chỉ
có khoảng 0,6% là tiến sĩ; 2% thạc sĩ; 37% đại học; 3% cao đẳng; những con số này có cao
hơn ở các nước phát triển. Như vậy, các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu kinh nghiệm về
nhiều mặt từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Có tới 80% doanh
nghiệp vừa và nhỏ hướng vào khai thác chế biến nguyên liệu tại chỗ, chế biến nông sản
thực phẩm, gỗ, dệt may, sản xuất gạch ngói… Người lao động có tay nghề kém, ít qua đào
tạo cơ bản, chủ yếu được truyền theo kiểu cha truyền con nối. Lao động phổ thông, trình độ
tay nghề còn đơn giản, chưa được đào tạo chiếm khoảng 60 đến 70% lực lượng lao động
trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đó là những mặt hạn chế về mặt nhân lực của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tóm lại, mặt dù có nguồn lao động dồi dào nhưng lại có chất lượng thấp. Đây cũng
chính là một đặc điểm rất riêng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.2.2 Tiềm lực tài chính hạn chế
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn tài chính hạn chế, khả năng tiếp cận nguồn vốn
tín dụng còn thấp. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần một lượng vốn ít, số lao

động không nhiều, diện tích mặt bằng nhỏ với các điều kiện làm việc đơn giản đã có thể bắt
đầu kinh doanh ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh. Loại hình doanh nghiệp này gần như
không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Việc tạo nguồn vớn kinh
doanh thường là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp, nhưng do tốc độ quay vòng
vốn nhanh nên doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động vốn từ nhiều nguồn không chính
thức khác nhau như bạn bè, người thân để nhanh chóng biến ý tưởng kinh doanh thành hiện
9
Chuyên đề thực tập
thực. doanh nghiệp vừa và nhỏ thường khởi sự từ nguồn vốn ban đầu không cao nhưng họ
chủ yều hoạt động nhờ nguồn vốn này.
Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp rất quan trọng và tăng theo quy mô phát
triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng hoạt động có hiệu quả thì càng có điều kiện để
tăng trưởng nguồn vốn. Trong quá trình phát triển của đất nước, sự phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ là cách tốt nhất để có thể khai thác nhiều tiềm năng trong dân cư. Do có vốn ít
nên doanh nghiệp vừa và nhỏ sẵn sàng chấp nhận đầu tư vào lĩnh vực mới, còn các doanh
nghiệp lớn thường rất thận trọng khi đầu tư vào lĩnh vực mới bởi vì nếu gặp phải rủi ro thì
tổn thất của họ là rất lớn. Tuy nhiên doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn đầu tư phải có nguồn
vốn đáp ứng nhu cầu, doanh nghiệp có thể huy động được vốn nợ đặc biệt là nguồn vốn tín
dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có nhiều ưu thế vượt trội nhưng doanh nghiệp vừa và
nhỏ không dễ dàng tiếp cận được. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng
phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Năng lực tài chính nội tại của
doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp, các chỉ tiêu tài chính thường không đảm bảo yêu cầu của
ngân hàng, thêm vào đó doanh nghiệp không có tài sản có giá trị để làm tài sản đảm bảo khi
nhận tín dụng…
Doanh nghiệp vừa và nhỏ không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và ở một số
nước thì loại hình doanh nghiệp này thường bị yếu thế trong các mối quan hệ với ngân
hàng, với Chính phủ và giới báo chí bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong
quá trình phát triển như về thương hiệu hàng hoá, thị trường, công nghệ, tài chính…
Đối với tín dụng thương mại, là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt nhưng
mức độ rủi ro cho nhà cung cấp cao cần có quan hệ hợp tác lâu bền tín nhiệm lẫn nhau. Tín

dụng thương mại được hình thành trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả
góp. Nhưng đối với các doanh nghiệp mới thành lập thì điều này sẽ rất khó khăn vì họ vẫn
chưa có được sự tin tưởng của ngân hàng.
Nói chung tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế, việc tiếp
cận nguồn vốn rẻ rất khó khăn mà thường là các nguồn vốn đắt. Điều này sẽ làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp. Trên thực tế có rất ít doanh nghiệp vừa và nhỏ có được những
nguồn vốn được coi là rẻ hơn so với các doanh nghiệp khác, thường do có mối quan hệ cá
10
Chuyên đề thực tập
nhân nào đó mới giúp họ có được nguồn vốn này, nhưng lại có những điều kiện rằng buộc
khác thêm vào đó. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp vẫn luôn đau đầu để tìm kiếm các
giải pháp phù hợp với doanh nghiệp mình.
1.1.2.3 Doanh nghiệp vừa và nhỏ năng động linh hoạt trong sản xuất kinh
doanh
Do yêu cầu về vốn đăng kí không lớn, việc thành lập một doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường dễ dàng nên việc doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại và phát triển ở mọi ngành nghề
mọi thành phần kinh tế, lĩnh vực sản xuất kinh doanh là điều dễ hiểu , do vậy mà dễ thích
ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường. Điều này được thể hiện qua khả năng chuyển
đổi mặt hàng nhanh, phù hợp với xu hướng thay đổi nhanh chóng của nhu cầu trên thị
trường. Trước những biến động của thị trường, đứng trước nhu cầu ngày càng phong phú
đa dạng của khách hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất linh động và mạnh dạn đầu tư
sản xuất, cải tiến và trang bị công nghệ với chi phí bổ sung không cao. Chỉ cần số vốn hạn
chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể tiến hành sản xuất kinh doanh như nhận gia công đơn
đặt hàng của các doanh nghiệp lớn đặc biệt là trong ngành dệt, may, cơ khí…
Bên cạnh đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp lớn
trong việc khai thác, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống. Có rất nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã từng bước trưởng thành và lớn mạnh khi khai thác các nguồn lực sẵn
có của địa phương. Tổ chức quản lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ đơn giản, dễ đưa ra quyết
định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hay gặp khó khăn dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ
đi đến thống nhất. Trước những biến động của thị trường, họ rất linh hoạt và mạnh dạn đầu

tư, thay đổi trong sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật với chi phí bổ sung không cao. Ngoài ra
các doanh nghiệp nhỏ còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong việc nắm bắt kịp
thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng, qua đó tạo ra nhiều loại
hàng hoá và dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Theo khía cạnh này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế hơn trong việc định hướng và
làm xuất hiện nhiều nhu cầu mới từ phía người tiêu dùng. Nhờ sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ mà nhiều loại sản phẩm và dịch vụ mới đã ra đời. Đây là một lợi thế rất
11
Chuyên đề thực tập
lớn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cơ chế thị trường, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hơn nữa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần ít diện tích sản xuất tập trung cho khả
năng sản xuất phân tán, khả năng này phát huy lợi thế về giảm đầu tư ban đầu cho cơ sở vật
chất, tận dụng được các nguồn lực phân tán đồng thời tạo ra tính linh hoạt cao trong tổ chức
sản xuất.
Vì hoạt động với quy mô nhỏ cho nên hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều rất
năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường. Trong một số
trường hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn năng động trong việc đón đầu những biến
động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội, hay các dao động đột biến trên
thị trường. Trên góc độ thương mại, nhờ tính năng động này mà các doanh nghiệp vừa và
nhỏ dễ dàng tìm kiếm những thị trường mới và gia nhập thị trường này khi công việc kinh
doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi thị trường này khi công việc kinh doanh trở
nên khó khăn và kém hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang
chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển.
1.1.2.4 Trình độ khoa học công nghệ và quản lý chưa cao
Để thành công trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, bất kỳ một
doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp và bí
quyết sản xuất. Nó giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm
bớt chi phí sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Năng lực tiếp nhận, ứng dụng công nghệ
vào sản phẩm và quản lý phụ thuộc vào nhận thức, thông tin, nguồn nhân lực và nguồn vốn

của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt là những doanh
nghiệp thường xuyên có những thay đổi công nghệ và cần nhiều vốn.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ với nguồn vốn, trình độ nhân lực hạn chế nên ít có thay
đổi công nghệ phù hợp. Thực tế, hầu hết các thiết bị được sử dụng đều rất lạc hậu. Các chủ
doanh nghiệp chưa đánh giá hết tầm quan trọng và tính bức bách trong việc đổi mới công
nghệ. Đầu tư công nghệ ít quan tâm đến phương pháp và bí quyết sản xuất, đầu tư “nhỏ
giọt”, thiếu động bộ dẫn đến hiệu suất sử dụng công nghệ không cao.
12
Chuyên đề thực tập
Các chủ doanh nghiệp không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề
liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được
thành lập chủ yếu từ các cá nhân. Do vậy trình độ quản lý, điều hành thường theo thói quen,
kỹ năng quản lý theo định hướng thị trường hiện đại còn thiếu. Tuy trình độ kỹ thuật công
nghệ thấp nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít có nhu cầu đào tạo về kỹ thuật công nghệ
cũng như trình độ quản lý.
1.1.3 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đối với sự phát triển kinh tế của một đất nước thì không thể không kể đến sự đóng
góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thì
doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Trong bối cảnh cạnh tranh
gay gắt như hiện nay, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nước đặc biệt là các nước kém
phát triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, có như vậy mới
huy động được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn phát triển,
tăng sức cạnh tranh trên thị trường…Vị trí và vai trò đó của doanh nghiệp vừa và nhỏ được
thể hiện như sau:
1.1.3.1 Thu hút vốn và khai thác nguồn lực có sẵn trong dân cư
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài chính
của dân cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa phương. Với việc
thành lập một doanh nghiệp loại này chỉ cần một số vốn nhỏ do đó đã tạo điều kiện cho dân
cư tham gia đầu tư góp vốn vào doanh nghiệp vừa và nhỏ. Như vậy thông qua các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh lời.

Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất
hạn chế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ những người thân quen vì thế
doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiếp xúc trực tiếp với người cho vay, người cho vay có khi
là chủ sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên việc sử
dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tận dụng được
nguồn lao động và nguyên vật liệu với giá rẻ do đó làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành
sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Như
vậy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tận dụng được tối đa các nguồn lực
13
Chuyên đề thực tập
của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có trình độ, tay nghề thấp góp phần
làm ổn định và phát triển xã hội.
Về vốn: Vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Vốn là yếu tố cơ
bản để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao động, đất đai, công nghệ và
quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh nghiệp. Vốn có vai trò to lớn trong việc đầu
tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân
cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là
trong khi có nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng thì nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính sách tài chính tín dụng của
Chính phủ và các Ngân hàng chưa thực sự gây được niềm tin đối với những người có vốn
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thì nhờ sự đa dạng hoá trong các loại hình hoạt động sản
xuất kinh doanh, khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được
đông đảo người dân tham gia. Do đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào đầu tư
sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tiếp xúc trực tiếp với người dân và
huy động được vốn để kinh doanh, thành lập doanh nghiệp. Dưới khía cạnh đó, doanh
nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế.
Về lao động: Đặc điểm chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là ít vốn và hoạt động
chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tất cả
các nước có thể tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ở nhiều nước
trên thế giới, kể cả các nước phát triển, doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi tạo ra nhiều việc làm

nhất. Hiện nay, theo thông kê doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 90-99% trong tổng số lượng
các doanh nghiệp các nước. Mặc dù số lượng lao động trong các doanh nghiệp không nhiều
nhưng tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ đáng kể từ
50-80%, khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội tăng việc làm, thu
hút lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường
nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng
nhiều lao động, vốn ít với chi phí thấp nên phần lớn lao động trong khu vực này không đòi
hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc là
người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn
14
Chuyên đề thực tập
ứng dụng công nghệ tự động hóa, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối
với doanh nghiệp lớn giảm mạnh. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi thu hút tiếp nhận và đảm
bảo thu nhập cho họ. Như vậy có thể thấy rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc tạo ra và tăng thêm việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp và ổn định xã hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu bằng
vốn của dân.
Về khoa học kỹ thuật: Với quy mô hoạt động nhỏ, doanh nghiệp vừa và nhỏ thường
lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn. Họ kết hợp kỹ thuật
thủ công với kỹ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản
xuất. Việc tiếp cận khoa học công nghệ cao ở các nước kém phát triển thường khó khăn
hơn ở các nước phát triển. Có những nước đi trước hàng trăm năm về khoa học công nghệ,
vì vậy mà ở những nước này, những doanh nghiệp cùng qui mô thường có công nghệ cao
hơn những nước kém phát triển. Tuy nhiên thì ở những nước kém phát triển lại có lợi thế về
nhân công rẻ và nhiều hơn ở những nước phát triển. Do vậy mà vẫn đảm bảo được việc
hoạt động kinh doanh như nhau ở các doanh nghiệp cùng qui mô nhưng ở một nước kém
phát triển và một nước phát triển.
1.1.3.2 Góp phần quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế
Sự phát triển nhanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ về cả số lượng và chất lượng đã

đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các nước.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hóa khác nhau
đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết
cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng
hóa tiêu dùng khác. Theo số liệu thống kê trong những năm vừa qua doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã đóng góp 25-28% GDP của ở nước kém phát triển và có cao hơn ở nước phát triển,
tuy nhiên vốn kinh doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ so với
vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn cung
cấp hầu hết sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều lao động
như giầy dép, gốm sứ… việc mở rộng và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ góp
15
Chuyên đề thực tập
phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà
nước.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ làm số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn,
tăng tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp
nguyên liệu, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá thâm nhập vào ngõ ngách thị trường những nơi
doanh nghiệp lớn không làm được.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu, số lượng
doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm đến 80% tổng số
doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên ở một nước. Doanh nghiệp vừa và
nhỏ thường không có tình trạng cạnh tranh độc quyền, họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự
do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực. Sự phát
triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu là phương thức tốt nhất để sản xuất
thay thế nhập khẩu với mức chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù
hợp với sức mua của dân, từ đó tăng năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
Quá trình phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng là quá trình cải tiến máy móc
thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của thị trường. Từ đó đổi mới công nghệ, làm quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá diễn
ra ở cả chiều rộng và chiều sâu.

Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị trường cao, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm đáp ứng
nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ở một số nước doanh nghiệp vừa và nhỏ tham
gia xuất khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30-50%.
1.1.3.3 Tạo ra sự phát triển giữa các vùng, ngành góp phần phát triển quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia
Trong quá trình kinh doanh, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hỗ trợ cho các
doanh nghiệp lớn kinh doanh một cách hiệu quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho các
doanh nghiệp lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu vào cho các doanh
nghiệp lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn khó có thể
với tới để phân phối các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng
16
Chuyên đề thực tập
giữa các vùng. Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ là phục vụ nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động do đó giải quyết được tình trạng thất
nghiệp ở các địa phương. Bên cạnh đó, khi số doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên sẽ kéo theo
sự gia tăng nhanh chóng số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt
động với quy mô nhỏ và vừa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ưu thế là chuyển hướng kinh
doanh nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn, thoả
mãn nhu cầu linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế.
Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo tất cả các khía cạnh vùng kinh tế, ngành kinh tế và thành phần kinh tế. Trước tiên,
đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn qua phát
triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình
trạng thuần nông và độc canh. Các doanh nghiệp được phân bổ đều hơn về lãnh thổ ở cả
vùng nông thôn, đô thị, miền núi, đồng bằng. Ngoài ra, sự phát triển manh các doanh
nghiệp vừa và nhỏ còn có tác dụng làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự tăng
mạnh của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh và việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước. Sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu

ngành kinh tế thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước
đo. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có tác dụng duy trì và thúc đẩy sự phát
triển của các ngành nghề truyền thống và sản xuất ra các sản phẩm mang bản sắc văn hoá
dân tộc, khai thác thế mạnh của đất nước.
Mỗi một nước đều có những ngành nghề truyền thống, những ngành nghề này
thường hoạt động với qui mô nhở, lao động chủ yếu là thủ công. Vì vậy, các ngành nghề
này ngày càng thu hút được sự đầu tư phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần
làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thực hiện các chương trình xoá đói
giảm nghèo, tạo sự phát triển đồng đều, bền vững giữa các vùng. Hình thành nên các vùng
sản xuất lớn, nhiều làng nghề xuất hiện góp phần gia tăng sản phẩm hàng hoá tinh chế, tăng
sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, thúc đẩy các ngành nghề phát triển.
17
Chuyên đề thực tập
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hình thành và phát triển trong những ngành nghề khác
nhau luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các doanh nghiệp lớn.
Nhiều doanh nghiệp nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích làm vệ tinh cung cấp các sản
phẩm cho các doanh nghiệp lớn. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các
doanh nghiệp lớn cũng chính là nguyên nhân thành công của nền kinh tế Nhật Bản trong
nhiều thập kỷ qua. Do đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển sẽ góp phần tăng cường
các mối quan hệ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và nhỏ và các doanh nghiệp
vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn, nhờ đó các rủi ro kinh doanh dược phân tán làm tăng
hiệu quả kinh tế xã hội. Đồng thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là nguồn tích luỹ
ban đầu và là cơ sở cho các doanh nghiệp lớn. Các cơ sở doanh nhân thường xuất phát từ
một doanh nghiệp vừa và nhỏ do chưa có nhiều kinh nghiệm và chưa thật hiểu rõ về thị
trường sau một thời gian hoạt động đã tích luỹ kinh nghiệm và khẳng định vị thế của mình
và mở rộng hoạt động kinh doanh và phát triển với quy mô lớn. Từ doanh nghiệp vừa và
nhỏ phát triển và mở rộng thành doanh nghiệp lớn còn tiết kiệm chi phí đào tạo khi tuyển
được các nhân viên có tay nghề từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển sang có thể nói,
doanh nghiệp vừa và nhỏ là tiền đề cho các doanh nghiệp lớn.
1.1.4 Nhu cầu vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Với những vai trò như vậy, ta thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan
trọng trong nền kinh tế. Việc cần đầu tư cố gắng khuyến khích phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Vì
vậy mà cần phải chú ý đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần đầu tư nhiều
cho họ, đặc biệt là vốn. Vốn là điều kiện đầu tiên để một doanh nghiệp tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh. Vốn có ý nghĩa quan trọng trong suốt quá trình hoạt động của doanh
nghiệp vì vốn duy trì hoạt động và đảm bảo cho sản xuất được liên tục. Doanh nghiệp vừa
và nhỏ có tiềm lực tài chính rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu động lại càng ít.
Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có điều kiện chọn lựa các mặt hàng
có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ. Bản thân
các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động theo hướng tự huy động vốn từ nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư, từ các mối quan hệ họ hàng thân quen là chủ yếu. Doanh nghiệp vừa và nhỏ
18
Chuyên đề thực tập
có thể huy động vốn từ nguồn tín dụng ngân hàng nhưng để tiếp cận với nguồn vốn này
doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng cũng như phải chịu sự giám sát của
ngân hàng. Vốn và vay vốn luôn là một khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bởi vì
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là các doanh nghiệp mới thành lập, chưa có bề dày và
uy tín trên thương trường, lại thiếu tài sản thế chấp khi muốn vay vốn ngân hàng hay các tổ
chức tín dụng. Chính phủ và các tổ chức tín dụng đã có nhiều nỗ lực trong việc đơn giản
hoá các thủ tục vay vốn nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với các nguồn
vốn dễ dàng hơn.
Tuy nhiên trên thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có thể huy động từ các tổ
chức tín dụng thương mại, đây là phương thức tài trợ rẻ, linh hoạt và tiện dụng nhưng rủi ro
lại cao do các doanh nghiệp dễ dàng chiếm dụng vốn của nhau. Vì vậy mà các tổ chức tín
dụng cần có các biện pháp hỗ trợ nhằm vừa đảm bảo việc không bị mất vốn của mình, mà
còn giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng hiệu quả nguồn vốn có được bằng các biện
pháp như giúp họ quản lý tài chính vì các tổ chức tín dụng rất sẵn có nhân lực về mặt quản
lý tài chính, hay là thấy họ khó khăn trong việc trả nợ vì những lý do khách quan mang lại
thì tái nợ cho họ để họ tiếp tục sản xuất…

Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, canh tranh rất gay gắt, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đứng trước rất nhiều thách thức. Với điều kiện có hạn của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ thì khó có thể canh tranh được. Đó là trình độ công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh còn
quá thấp dẫn đến năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao. Hay là nguồn
nhân lực dồi dào nhưng trình độ còn hạn chế gây khó khăn cho quá trình tiếp thu và chuyển
giao công nghệ. Bên cạnh đó là cơ sở hạ tầng còn chưa thật sự tốt, chi phí đầu vào cao do
chưa tìm được nhưng đầu mối nguyên liệu giá rẻ, vẫn còn bị phụ thuộc thị trường… Hơn
nữa, do doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là doanh nghiệp mới thành lập do cá nhân hay tập
hợp một vài cá nhân thành lập nên còn rất ít kinh nghiệm trên thị trường, đặc biệt là trên thị
trường quốc tế. Vì vậy mà việc kinh doanh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, cơ hội hội nhập với
thế giới sẽ bị hạn chế, và như vậy mà việc vay được vốn trên thị trường quốc tế là rất khó.
19
Chuyên đề thực tập
1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó là quan hệ
tin cậy lẫn nhau trong việc vay và cho vay giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng
với các pháp nhân và cá nhân, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
1.2.2 Các hình thức tín dụng ngân hàng thương mại
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các Ngân hàng nói chung và các trung
gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nhiều lợi
nhuận nhất trong hoạt động của Ngân hàng đồng thời cũng mang lại rủi ro cao nhất. Việc
phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình tín dụng thích hợp,
nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro cũng như đảm bảo an toàn hoạt động của toàn ngân hàng
đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Ngân hàng phân loại tín dụng dựa vào các tiêu chí sau:
1.2.2.1 Phân loại tín dụng theo thời gian
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm.
Tín dụng trung và dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên một năm trong đó các
khoản tín dụng từ trên 1 đến 5 năm được coi là tín dụng trung hạn, tín dụng trên 5 năm
được coi là tín dụng dài hạn.

1.2.2.2 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Chiết khấu giấy nợ:

Giấy nợ là các chứng từ dùng để xác nhận cho người thụ hưởng một trái quyền về
tiền đối với người phải trả. Giấy nợ là công cụ tài chính phổ biến, mang tính thống nhất trên
thị trường tài chính.
Chiết khấu giấy nợ là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó khách hàng chuyển
nhượng quyền sở hữu giấy nợ chưa đáo hạn cho ngân hàng để đổi một số tiền bằng giá trị
của giấy nợ trừ chi phí chiết khấu và hoa hồng phí (nếu có).
Cho vay:

Là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao tiền cho khách hàng với
cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Nghiệp vụ cho vay cũng bao gồm nhiều loại khác nhau trong đó có:
20
Chuyên đề thực tập
Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được cho trội
(vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng
thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi. Các khoản chi quá hạn mức thấu
chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có đảm bảo. Nhìn chung hình thức này chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin
cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng
đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được
cấp hạn mức thấu chi hay khi khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn theo thời vụ như mở
rộng sản xuất đặc biệt mới vay vốn ngân hàng.
Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho
khách hàng hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời gian nhất định. Hạn
mức tín dụg có thể tính cho cả đầu kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.

Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu
cầu vay vốn của khách hàng.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá.
Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ
thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý doanh nghiệp làm đơn xin vay
luân chuyển và thoả thuận với ngân hàng về phương thức vay, hạn mức tín dụng các nguồn
cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ.
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả
gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được áp
dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Số tiền mỗi lần trả được tính toán phù hợp với khả năng trả nợ.
Cho vay gián tiếp: phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp bên cạnh đó
các ngân hàng còn phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Cho vay gián tiếp là hình thức
cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt
động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Hình thức này áp
21
Chuyên đề thực tập
dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Trong
trường hợp như vậy, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay.
Cho thuê tài sản (thuê – mua):

Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng
mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho khách hàng phải thu gần hoặc đủ giá trị
của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Cho
thuê (thuê – mua) giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ ngân hàng phải xuất tiền với
kỳ vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải có trách nhiệm trả gốc
và lãi hàng kỳ. Ngân hàng phải đảm bảo cung cấp đúng loại tài sản khách hàng yêu cầu và
phải đảm bảo chất lượng của tài sản đó. Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách
hàng kinh doanh không có hiệu quả nên không trả tiền đúng hạn cho ngân hàng. Ngân hàng
có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng. Cho thuê mang lại rủi

ro rất cao đối với ngân hàng.
Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh:

Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về
việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như đã cam kết.
Hình thức bảo lãnh rất đa dạng, phân theo mục tiêu bảo lãnh bao gồm:
Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư (hay
chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng
dự thầu.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ
khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất
cho bên thứ ba.
Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ
hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không trả.
22
Chuyên đề thực tập
1.2.2.3 Phân loại theo mục đích đảm bảo
Theo tiêu thức này, tín dụng được phân thành các loại sau:
Tín dụng có đảm bảo: thông thường các khoản tín dụng của ngân hàng đều có tài
sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo có thể là tài sản của người nhận tín dụng hay tài sản, uy tín
của người thứ ba. Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng
cách bán các tài sản đó hoặc thông qua khả năng trả nợ của người thứ ba khi nguồn thu nợ
thứ nhất không có hoặc không đủ.
Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tín dụng không có tài sản đảm bảo hoặc
không có bảo lãnh của bên thứ ba. Tín dụng không có đảm bảo có thể được cấp cho các
khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính
vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn
của người vay, khách hàng thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt,
chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà Nước, chương trình kinh tế xã hội. Những khoản

vay của các công ty lớn trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng kiển soát việc bán
hàng cũng có thể không cần sử dụng tài sản đảm bảo. Hình thức tín dụng này chiếm tỷ lệ
không nhiều trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.3 Sự cần thiết phải mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa
và nhỏ
1.3.1 Vai trò của tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chúng ta phải thừa nhận rằng hiện nay nhu cầu vốn cho phát triển nền kinh tế nói
chung và nhu cầu vốn phát triển các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp vừa và nhỏ
là rất lớn. Nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm
nguồn tài trợ. Nguồn tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một
vai trò rất quan trọng. Nó thể hiện ở các điểm sau:
Một là, nguồn vốn vay đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Có thể nói đây là vai trò quan trọng nhất của nguồn vốn vay đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn tự có rất thấp nên hạn chế
việc huy động vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều trường hợp doanh
23
Chuyên đề thực tập
nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả song lại không thể huy động đủ vốn
để thực hiện. Ngoài việc vay vốn để đầu tư và tài sản lưu động, doanh nghiệp vừa và
nhỏ có thể vay vốn để đầu tư vào trang thiết bị. dây chuyền sản xuất hay nhà xưởng kho
bãi, hay mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện các dự án kinh tế. Như vậy việc vay
vốn đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ rất cần có những
khoản vay đó để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình; những khoản vay đó
cũng ảnh hưởng đến qui mô kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
Hai là, Nguồn vốn vay của Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khi vay vốn phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thì hiệu quả của các hoạt
động sản xuất kinh doanh là vấn đề được cả doanh nghiệp và ngân hàng quan tâm. Đối
với doanh nghiệp thì hiệu quả sản xuất sẽ tạo ra lợi nhuận và thu nhập để doanh nghiệp

có thể trả nợ ngân hàng và để doanh nghiệp đó có thể tồn tại và phát triển được. Còn đối
với ngân hàng, doanh nghiệp sẽ đủ khả năng trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này đòi
hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đã vay được vốn rồi thì phải cố gắng nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn thông qua các biện pháp quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường một cách tốt nhất. Có như vậy doanh nghiệp mới có
thể tạo ra nguồn trả nợ cho ngân hàng và tạo thu nhập cho mình.
1.3.2 Đây là một thị trường tiềm năng đối với các ngân hàng
Hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một tỉ trọng rất lớn trong các cơ sở sản
xuất kinh doanh, đang thu hút được phần lớn lượng lao động trong xã hội. Có thể nói doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết hàng chục ngàn công ăn việc làm cho xã hội. Đây là điểu
rất quan trọng trong quá trình phát triển của bất kì một đất nước nào. Tuy nhiên, doanh
nghiệp vừa và nhỏ luôn gặp phải những khó khăn mà không phải lúc nào cũng giải quyết
được. Những khó khăn đó xuất phát từ cả phía ngân hàng lẫn doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nguyên nhân thuộc về ngân hàng:

Một là, xuất phát từ đặc điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
nhiều đặc điểm khác biệt với cho vay đối với các doanh nghiệp lớn như: số tiền vay
thấp, số lượng các doanh nghiệp nhiều và mức độ rủi ro cao nên các ngân hàng thương
24
Chuyên đề thực tập
mại rất thận trọng khi xét duyệt cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân
hàng thương mại thường ưu tiên cho vay các doanh nghiệp có quan hệ vay mượn lâu
năm với ngân hàng hoặc các doanh nghiệp lớn có tiềm năng tài chính lớn mạnh. Điều
này đã tạo ra sự phân biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bức tường ngăn
cản sự tiếp cận của doanh nghiệp vừa và nhỏ với nguồn vốn.
Sự phân biệt khi cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp lớn
là do hầu như bảo lãnh ít dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc biệt là có sự
phân biệt giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh
nghiệp quốc doanh khi cho vay thường là không cần tài sản đảm bảo, hoặc được bảo
lãnh của Nhà nước nên các ngân hàng dễ dàng khi quyết định cho vay với loại hình

doanh nghiệp này. Trong khi đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh (chủ yếu là doanh
nghiệp vừa và nhỏ) rất ít nhận được bảo lãnh vì vậy mà ngân hàng thường không muốn
cho vay. Với nguyên nhân trên mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tiếp cận được
với nguồn vốn vay ngân hàng.
Thứ hai, khó khăn trong việc vay các khoản trung và dài hạn: Nguồn vốn huy
động được của các ngân hàng thương mại chủ yếu có kì hạn dưới 1 năm. Tuy nhiên nhu
cầu vay vốn của các khách hàng nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng
cũng cần nhiều vốn vay trung hạn và dài hạn để thực hiện dự án hay mở rộng sản xuất
kinh doanh, mua sắm thiết bị. Các ngân hàng thương mại thường thực hiện nghiệp vụ
chuyển hoán kì hạn để thực hiện cho vay với kì hạn dài hơn kì hạn huy động. Điều này
có thể dẫn tới việc các ngân hàng sẽ gặp các rủi ro như: rủi ro lãi suất, rủi ro thanh
khoản. Vì vậy, ngân hàng Nhà nước hay bản thân từng ngân hàng thường đặt ra một tỷ
lệ chuyển hoán kì hạn nhất định nhằm phòng ngừa rủi ro cho từng ngân hàng.
Thứ ba, những hạn chế về hoạt động tín dụng là phải tuân theo qui định của
pháp luật trong khi sức ép vay vốn lớn, nguồn vốn tự có có hạn. Trong điều kiện luôn
phải duy trì một tỉ lệ vốn an toàn nhất định theo qui định của pháp luật, việc cho vay sẽ
gặp phải những hạn chế về qui mô cho vay.
25

×