Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.9 KB, 74 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Làng nghề là một nhân tố đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, là nơi chứa đựng và gìn giữ những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Trong
những năm gần đây, cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước rất
quan tâm đến việc phục hồi và phát triển các làng nghề. Sự phát triển của các
làng nghề có ý nghĩa hết sức to lớn và được xem là giải pháp cơ bản để tiến
hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Tỉnh Hà Tây từ lâu đã được coi là “đất trăm nghề ” và ngày nay số làng
nghề trong tỉnh vẫn không ngừng tăng lên, đưa tỉnh trở thành một trong những
địa phương có nhiều làng nghề nhất trong cả nước. Toàn tỉnh có 972 làng có
nghề, trong đó có 120 làng được công nhận đạt tiêu chuẩn. Nhiều làng nghề phát
triển rất mạnh, xuất hiện nhu cầu vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn có những làng nghề đang dần bị mai một, cần vốn để
khôi phục lại. Do đó, có thể nói đây là một thị trường đầy tiềm năng để các tổ
chức tín dụng trên địa bàn tỉnh có thể mở rộng hoạt động tín dụng.
Qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại phòng tín dụng Ngân hàng Công
thương Hà Tây, được tìm hiểu về thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng
đối với làng nghề và đặc điểm của các làng nghề trong tỉnh, em đã hoàn thành
luận văn của mình với đề tài: “ Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với
làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây” và hy vọng luận văn sẽ góp
phần tìm ra giải pháp để Ngân hàng mở rộng nghiệp vụ cho vay, đáp ứng nhu
cầu về vốn sản xuất kinh doanh - hiện đang là vấn đề bức xúc với các làng nghề
của tỉnh. Đồng thời em cũng mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị nhằm tạo thuận
lợi cho việc mở rộng tín dụng của Ngân hàng đối với các làng nghề để góp phần
thúc đẩy sự phát triển của làng nghề ở Hà Tây nói riêng và trong cả nước nói
chung.
Luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Tín dụng Ngân hàng thương mại và quá trình phát triển làng
nghề.


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 2: Thực trạng tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công
thương Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng
Công thương Hà Tây.
Với trình độ hiểu biết và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn chắc chắn
không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy
cô để có được nhận thức đầy đủ hơn về vấn đề này.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ
1. Quan niệm về làng nghề
Trải qua quá trình lịch sử lâu đời, nhân dân Việt Nam không chỉ xây dựng
và phát triển được nền văn minh lúa nước còn tồn tại đến ngày nay mà ở các
làng xã còn hình thành và phát triển được nhiều ngành nghề ngoài nông nghiệp
nhưng có quan hệ mật thiết với xã hội nông thôn. Trải qua hàng nghìn năm, đến
nay những ngành nghề, những sản phẩm thủ công mang tính truyền thống từ cấu
tạo đơn giản đến kỹ thuật tinh xảo không những vẫn tồn tại mà còn đang được
phục hồi và ngày càng phát triển. Có thể nói những sản phẩm này đã đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông thôn. Chính vì vậy
mà ngày nay các làng nghề mới đang xuất hiện ngày càng nhiều.
Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử nhưng cho đến nay nước ta
vẫn chưa có một văn bản nào công bố một cách chính thức khái niệm về làng
nghề. Tuy nhiên ta có thể hiểu làng nghề là một thuật ngữ bao gồm hai yếu tố
cấu thành là “làng” và “nghề”. Theo những nghiên cứu về làng Việt cổ ở Bắc Bộ
thì: làng là tế bào sống của xã hội Việt, là sản phẩm tự nhiên tiết ra từ quá trình
định cư và cộng cư của người Việt trồng trọt. Đã có thời làng được coi là đơn vị

hành chính quốc gia của một nước. Sự hình thành của làng thường bắt đầu từ
việc một bộ phận cư dân của một tộc người hay một dòng họ nào đó đến chiếm
lĩnh và định cư đầu tiên trên một vùng đất. Ban đầu chỉ có một dòng họ, sau đó
có thêm những dòng họ khác đến cư trú và tạo thành làng với đầy đủ các đặc
điểm riêng có của nó. Giữa các làng thường có ranh giới rõ ràng và người dân
trong một làng có rất nhiều những mối quan hệ kinh tế - nhân văn phong phú,
phức tạp như: quan hệ huyết thống, quan hệ láng giềng, nghề nghiệp... Những
mối quan hệ này đã gắn kết một cách chặt chẽ những người dân trong làng với
nhau và nó chi phối mạnh mẽ những hoạt động sản xuất diễn ra trong làng.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự hình thành một nghề ở làng theo quy luật là một hộ gia đình biết nghề
sẽ truyền cho con cháu, họ hàng trong dòng tộc theo phương thức truyền nghề
trực tiếp. Hoạt động này nếu mang lại lợi ích kinh tế cao thì dần dần các hộ khác
trong làng sẽ tìm cách học hỏi thông qua các mối quan hệ và khi số hộ trong
làng làm nghề ngày một nhiều thì nó sẽ trở thành mối quan tâm chung của cả
làng. Một đặc trưng nổi bật của các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp là nó được
kết tinh từ sự tài hoa, khéo léo và tâm hồn của người thợ, đồng thời nó mang
trong mình những bí quyết riêng để tạo nên sự khác biệt, đặc trưng riêng có khác
hẳn những sản phẩm cùng loại. Do đó, để có thể gìn giữ và phát triển nghề của
làng thì vấn đề sống còn là phải bảo vệ được bí quyết nghề và từ đó những tục lệ
khắt khe về việc cấm truyền nghề đi nơi khác xuất hiện.
Như vậy, có thể quan niệm làng nghề là làng ở nông thôn có một hoặc
một số nghề thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và tồn tại độc lập. Về
mặt định lượng có thể hiểu làng nghề là làng ở nông thôn có từ 35% - 40% số hộ
trở lên chuyên làm một hoặc một số nghề thủ công nghiệp mà các hộ có thể sinh
sống chính bằng nguồn thu nhập từ nghề đó và giá trị sản lượng của nghề chiếm
trên 50% tổng giá trị sản lượng của địa phương. Vậy làng nghề là làng ở nông
thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và
thu nhập so với nghề nông.

2. Tiêu chuẩn làng nghề
Từ những năm 1990 - 1991 trở lại đây, việc khôi phục và phát triển những
ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề đã được đẩy
mạnh. Nhằm vận động nhân dân xây dựng, phát triển ngành nghề, làng nghề
truyền thống, cổ truyền, làng nghề mới để góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, đồng thời tăng cường công
tác quản lý nhà nước về công nghiệp - thủ công nghiệp trên địa bàn, tỉnh Hà Tây
đã ban hành tiêu chuẩn làng nghề như sau:
- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và mọi
quy định hợp pháp của chính quyền địa phương.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Số hộ hoặc lao động làm nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở
làng đạt từ 50% trở lên so với tổng số hộ hoặc lao động của làng.
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở làng
chiếm tỷ trọng trên 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong
năm. Đảm bảo vệ sinh môi trường theo các quy định hiện hành.
- Có hình thức tổ chức phù hợp, chịu sự quản lý Nhà nước của chính
quyền địa phương, gắn với các mục tiêu kinh tế - xã hội và làng văn hoá của địa
phương.
Tên nghề của làng phải được gắn với tên làng: nếu là làng nghề truyền
thống, cổ truyền còn tồn tại và phát triển thì lấy nghề đó đặt tên cho nghề của
làng. Nếu làng có nhiều nghề phát triển, sản phẩm nghề nào nổi tiếng nhất thì
nên lấy nghề đó đặt tên cho nghề của làng, hoặc trong làng có nhiều nghề không
phải là nghề truyền thống hay chưa có sản phẩm nghề nào nổi tiếng thì tên nghề
của làng nên dựa vào nghề nào có giá trị sản xuất và thu nhập cao nhất để đặt
tên nghề gắn với tên làng. Việc đặt tên nghề của làng do nhân dân bàn bạc thống
nhất và chính quyền địa phương xem xét đề nghị .
3. Phân loại làng nghề

Người ta thường phân loại làng nghề theo những tiêu thức sau:
Căn cứ vào số nghề của một làng, làng nghề được chia thành làng một
nghề và làng nhiều nghề.
- Làng một nghề là những làng ngoài nghề nông ra chỉ làm thêm một nghề
thủ công duy nhất, chiếm ưu thế tuyệt đối như: Vạn Phúc, Bát Tràng...
- Làng nhiều nghề là những làng ngoài nghề nông ra còn làm thêm một số
nghề thủ công khác như Đồng Kỵ, La Phù...
Căn cứ vào thời gian hình thành, làng nghề được chia thành làng nghề
truyền thống và làng nghề mới.
- Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện lâu đời trong lịch
sử và tồn tại đến ngày nay.
- Làng nghề mới là những làng mới xuất hiện trong thời gian gần đây do
nhu cầu tiêu dùng các loại hàng hoá đó xuất hiện.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Sự cần thiết của việc phát triển các làng nghề
Cùng với việc xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, nước ta đang từng bước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá -
hiện đại hoá, trong đó đặc biệt chú ý đến khu vực nông thôn. Trải qua quá trình
tồn tại và phát triển, các làng nghề đã chứng tỏ được vai trò vô cùng quan trọng
của mình trong việc thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam. Như
vậy phát triển các làng nghề là một trong những chiến lược quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn vì không chỉ
mang lại lợi ích kinh tế, nó còn góp phần ổn định đời sống chính trị - xã hội cho
bà con nông dân.
* Về mặt kinh tế
Làng nghề giúp phát triển kinh tế của địa phương, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế - cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, góp phần xây dựng nông thôn mới.
Thực tế cho thấy việc phát triển các ngành nghề đã tạo ra một nguồn thu

nhập cho các hộ gia đình và lao động làm nghề cao hơn các hộ thuần nông. Theo
số liệu điều tra của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thu nhập bình quân
hàng tháng của một lao động hộ chuyên ngành nghề là 240.000 đồng đến
250.000 đồng và đối với hộ kiêm nghiệp là 180.000 đồng đến 190.000 đồng, cao
gấp 1,5 lần so với hộ thuần nông. Thu nhập bình quân của một lao động ở cơ sở
chuyên ngành nghề (doanh nghiệp, tổ hợp...) là trên 400.000 đồng / tháng, gấp 3
- 4 lần lao động hộ thuần nông. Tỷ trọng thu nhập từ ngành nghề của các hộ
ngành nghề kiêm nông nghiệp là khoảng 70% - 75% tổng thu nhập, và của các
hộ nông nghiệp kiêm ngành nghề là 40%. Có những làng nghề mà thu nhập bình
quân từ sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp lên tới trên 10 triệu đồng /
người / năm như: làng nghề dệt kim - bánh kẹo La Phù - Hà Tây (12,58 triệu
đồng), làng nghề chế biến nông sản Minh Khai - Hà Tây (10,3 triệu đồng)... Các
làng nghề tiểu thủ công nghiệp hàng năm đã sản xuất một khối lượng hàng hoá
lớn đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và còn xuất khẩu được ra thị trường
quốc tế. Các sản phẩm xuất khẩu đã mang lại một nguồn thu lớn cho các hộ sản

Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất phải kể đến như: lụa, thổ cẩm, gốm sứ, các sản phẩm đá chạm khắc...
Phát triển các ngành nghề còn tạo ra nguồn giá trị sản lượng cao cho các
địa phương có làng nghề. Ở Hà Tây, các làng nghề như La Phù, Dương Liễu,
Lưu Xá, Đức Giang, Minh Khai, Chuyên Mỹ, Phương Trung, Hoà Xá, doanh
thu từ nghề chế biến nông sản, thực phẩm chiếm 75% - 85% tổng giá trị sản
lượng của xã. Ở Bắc Ninh, các làng nghề chiếm 70%-90% tổng giá trị sản lượng
của địa phương. Ở Nam Định, các làng nghề như Tông Xá, Vân Thành, Xuân
Tiến, La Xuyên, Cát Đằng... giá trị sản lượng cũng chiếm tới 80% - 90%. Nhờ
đó, các làng nghề đã có nguồn vốn đầu tư để cải thiện và tăng cường cơ sở hạ
tầng nông thôn như xây dựng giao thông, phát triển mạng lưới điện và điện
thoại, xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, xây dựng nhà ở kiên cố, hình thành các
thị trấn, phố làng.
* Về mặt xã hội

Các làng nghề phát triển góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho lao
động nông thôn đang dư thừa nhiều, qua đó làm giảm tỷ lệ thất nghệp, giảm tốc
độ di dân lên thành phố, thực hiện chủ trương “ly nông bất ly hương” và hạn chế
các tệ nạn xã hội.
Các hộ làm nghề trước hết tạo công ăn việc làm cho cho các thành viên
trong gia đình. Các cơ sở chuyên làm nghề tạo việc làm thường xuyên cho bình
quân khoảng 30 lao động, ngoài ra còn thu hút thêm những lao động nhàn rỗi
trong nông thôn. Các làng nghề thường sử dụng tối thiểu khoảng 50% số lao
động trong làng làm nghề thường xuyên và khoảng 20% lao động không thường
xuyên. Những làng nghề có quy mô sản xuất lớn còn thu hút cả lao động ở các
làng lân cận, hình thành nên chợ lao động. Ngoài ra làng nghề phát triển còn tạo
ra việc làm cho đội ngũ lao động làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản phẩm của
mình như: khai thác, vận chuyển, cung cấp nguyên vật liệu, lưu thông, tiêu thụ
sản phẩm...
Nhờ tạo việc làm, tăng thu nhập, giải quyết thời gian nông nhàn, các làng
nghề được coi là động lực trực tiếp làm chuyển dịch cơ cấu xã hội nông thôn
theo hướng tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, nâng cao phúc lợi cho người lao động,

Website: Email : Tel : 0918.775.368
đồng thời góp phần đáng kể trong việc hạn chế phát sinh các tệ nạn xã hội ở
nông thôn.
* Về mặt chính trị
Nhà nước chủ trương phát triển các làng nghề sẽ cải thiện được đời sống
của người lao động, làm cho họ tin tưởng vào đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Nhờ đó sẽ ổn định được tình hình chính trị ở nông thôn.
Làng nghề phát triển cũng góp phần làm tăng sức mạnh kinh tế, qua đó củng cố
tiềm lực an ninh quốc phòng của địa phương và của cả nước.
Ngoài ra, các sản phẩm mang tính truyền thống của làng nghề cũng góp
phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc, bảo tồn tinh hoa nghề
nghiệp của cha ông. Các sản phẩm này khi đến với cộng đồng quốc tế sẽ giúp

bạn bè quốc tế hiểu biết hơn về đất nước, về nét đẹp truyền thống của con người
Việt Nam.
II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA LÀNG NGHỀ
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trên cơ sở hoạt động của ngân hàng thì ta có thể hiểu: Tín dụng ngân
hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa ngân hàng và bên đi
vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó ngân hàng chuyển giao
tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến
hạn thanh toán.
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng nhưng trên thực tế, các
ngân hàng thương mại thường phân chia tín dụng dựa trên hai tiêu thức: đối
tượng khách hàng và thời hạn cho vay.
Căn cứ vào đối tượng khách hàng, tín dụng ngân hàng được chia thành hai
loại: Tín dụng đối với các doanh nghiệp quốc doanh và tín dụng đối với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Căn cứ vào thời hạn cho vay, tín dụng ngân hàng được chia thành ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thường được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp
và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng
đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản
cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là các khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm và
thường được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các
thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.

Trong hoạt động thực tế của các ngân hàng thương mại thì tỷ trọng của
các khoản tín dụng ngắn hạn là lớn nhất.
2. Quy trình tín dụng của ngân hàng
Quy trình tín dụng của ngân hàng chính là quy trình nghiệp vụ cho vay,
một trong những nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại. Theo quy
định của Ngân hàng Công thương Việt Nam thì quy trình nghiệp vụ cho vay là
bản hướng dẫn về trình tự tổ chức thực hiện các nội dung cơ bản của kỹ thuật
nghiệp vụ cho vay của ngân hàng, từ khi phát sinh đến khi kết thúc mà các cán
bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo ngân hàng có liên quan phải thực hiện.
Để giúp cán bộ tín dụng thực hiện được một khoản cho vay có chất lượng
và hiệu quả, các ngân hàng thường đưa ra một quy trình tín dụng chặt chẽ, thích
hợp với một nhóm đối tượng nhất định hoặc chung cho toàn bộ khách hàng vay
vốn. Quy trình tín dụng thường bao gồm các bước như sau:
- Bước 1: Cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và
làm hồ sơ vay vốn, bao gồm: giấy đề nghị vay vốn, các báo cáo tài chính thời
điểm gần nhất.
- Bước 2: Điều tra, tổng hợp, thu thập thông tin về khách hàng và phương
án vay vốn: phỏng vấn khách hàng, tổng hợp những thông tin từ các ngân hàng
có quan hệ với khách hàng, các tổ chức có liên quan, thông tin từ thị trường và
tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn: năng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực pháp lý, uy tín, năng lực tài chính của khách hàng, phương án vay vốn và
khả năng trả nợ, đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh.
- Bước 4: Trưởng phòng tín dụng căn cứ vào tờ trình thẩm định, đề nghị
duyệt cho vay của cán bộ tín dụng và hồ sơ vay vốn của khách hàng để ra quyết
định đối với khách hàng.
- Bước 5: Cán bộ tín dụng hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và chuyển hồ sơ sang
bộ phận kế toán.

- Bước 6: Căn cứ vào mục đích sử dụng tiền vay để quyết định hình thức
phát tiền vay bằng tiền mặt, ngân phiếu, chuyển khoản cho phù hợp.
Sau khi phát tiền vay cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải kiểm tra, giám
sát khách hàng trong quá trình sử dụng vốn vay, đồng thời tiến hành thu hồi nợ
khi đến hạn và tiến hành xử lý rủi ro nếu có.
Quy trình tín dụng nói chung phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với
hoạt động của ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng vay vốn. Quy trình tín
dụng đưa ra phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt để đảm bảo cho tính hệ
thống và an toàn của hoạt động tín dụng, tạo điều kiện cho khâu kiểm tra, kiểm
soát tín dụng trước, trong và sau khi cho vay.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển làng nghề
* Tín dụng ngân hàng cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở
các làng nghề
Có thể nói vốn là một yếu tố quan trọng nhất với mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh, là tiền đề của mọi hoạt động sản xuất vật chất. Đơn vị sản xuất ở
làng nghề hầu hết là các hộ gia đình mà nguồn tiền dự trữ nhỏ, không đủ để đầu
tư ban đầu cũng như mở rộng sản xuất kinh doanh. Mặt khác quá trình sản xuất
ở làng nghề trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, phụ thuộc nhiều vào tính thất
thường của nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Vì vậy, nhu cầu vốn ở các
làng nghề là rất lớn. Các ngân hàng thương mại với nguồn vốn dồi dào sẽ đáp
ứng được mọi nhu cầu tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở các làng
nghề, góp phần cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục.
Nhờ có nguồn tín dụng của Ngân hàng mà các làng nghề có vốn để mua

Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguyên vật liệu dự trữ cho mùa sản xuất sau, đây là một yếu tố quan trọng do
sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc rất nhiều và nguồn nguyên vật liệu, do đó có
những lúc nhu cầu của thị trường lớn nhưng các hộ và cơ sở lại không có
nguyên liệu để sản xuất. Chủ động được khâu này sẽ giúp cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các làng nghề ổn định, đảm bảo được thu nhập cho người

lao động.
* Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của làng
nghề
Các đơn vị sản xuất kinh doanh ở làng nghề khi vay vốn ngân hàng đều
phải trả lãi cho đồng vốn mà họ được sử dụng. Do đó họ buộc phải sử dụng
đồng vốn một cách có hiệu quả và làm ăn có lãi. Họ phải tính toán sao cho mỗi
đồng vốn bỏ ra phải bù đắp được chi phí sản xuất, thuế, lãi ngân hàng đồng thời
phải thu được lãi. Như vậy, thông qua việc cung cấp vốn, ngân hàng đã gián tiếp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các làng nghề, buộc họ phải chú ý đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng, nâng cao hiệu quả sản
xuất và hạ giá thành sản phẩm...
Nhờ có nguồn vốn vay ngân hàng, các hộ và cơ sở ở làng nghề có thể mở
rộng quy mô sản xuất, qua đó sẽ tiết kiệm được chi phí cho một đơn vị sản
phẩm, nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm của làng nghề. Thêm vào đó, khi
tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, các chủ hộ và cơ sở sản xuất ở làng nghề
phải thực hiện hạch toán kinh tế đầy đủ để chứng minh việc sử dụng vốn đúng
mục đích. Việc làm này gián tiếp tăng trình độ quản lý sản xuất kinh doanh cho
các chủ hộ và cơ sở và đồng thời cũng góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh ở làng nghề.
Bên cạnh việc cung cấp nguồn tín dụng cho làng nghề, các cán bộ tín
dụng của ngân hàng còn đóng vai trò là những người tư vấn, giúp cho các dự án
sản xuất kinh doanh ở làng nghề hoàn thiện hơn, mang lại lợi ích kinh tế cao hơn
cho các hộ và cơ sở sản xuất. Ngoài ra, đối với những đơn vị có hoạt động xuất
khẩu, các cán bộ tín dụng còn có thể cung cấp cho họ những thông tin về thị
trường quốc tế, những thông tin luật pháp cũng như các hình thức thanh toán...

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của các làng nghề. Tuy nhiên việc tiếp cận nguồn tín dụng ngân hàng của
các làng nghề còn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả các

nhân tố chủ quan và khách quan có thể kể đến dưới đây.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối
với làng nghề
4.1. Những nhân tố từ phía ngân hàng
* Mục tiêu của ngân hàng
Tất cả mọi hoạt động của ngân hàng đều nhằm đạt được những mục tiêu,
chiến lược kinh doanh của ngân hàng đặt ra. Do đó, khi quyết định cho vay đối
với bất kỳ một đối tượng khách hàng nào cũng phải căn cứ vào mục tiêu chung
của ngân hàng. Thông thường, ngân hàng tiếp cận khách hàng mục tiêu thông
qua việc huy động các nguồn lực để mở rộng quan hệ tín dụng, có chính sách lãi
suất thuận lợi và thực hiện các nguyên tắc an toàn tín dụng một cách phù hợp.
Như vậy, quyết định mở rộng tín dụng đối với làng nghề sẽ tuỳ thuộc vào
chiến lược kinh doanh và mục tiêu của ngân hàng.
* Lãi suất cho vay
Các khách hàng ở làng nghề khi vay vốn ở ngân hàng thường xem xét rất
kỹ yếu tố lãi suất vì nó là một yếu tố rất quan trọng, quyết định đến lợi ích kinh
tế của họ.
Lãi suất thực chất là giá cả của khoản cho vay, nó được thể hiện bằng tỷ lệ
% trên tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Những yếu tố ảnh
hưởng đến việc hình thành một mức lãi suất cho vay bao gồm: mức lợi nhuận
mong muốn, chi phí quản lý ngân hàng, lợi tức tương đương nếu đầu tư vào hoạt
động khác, rủi ro tín dụng của khoản vay, chi phi điều hành khoản cho vay, lãi
suất cạnh tranh...
Lãi suất viết trên hồ sơ tín dụng khi cho vay là lãi suất danh nghĩa, còn lãi
suất mà ngân hàng thu được (lãi suất thực) thì nhỏ hơn, lãi suất thực = lãi suất
danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Để đảm bảo cho hoạt động cho vay của ngân hàng
có lãi thì lãi suất thực phải dương.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các mức lãi suất đưa ra thường tỷ lệ với mức độ rủi ro, tỷ lệ rủi ro của

khoản vay càng lớn thì mức lãi suất đưa ra càng cao. Ngoài ra lãi suất còn phụ
thuộc rất lớn vào chi phí vốn và chi phí quản lý khác của ngân hàng.
Do trên thị trường có rất nhiều tổ chức tín dụng có thể cho vay nên khách
hàng thường chọn vay vốn ở nơi có lãi suất thấp nhất. Điều này ảnh hưởng rất
nhiều đến khả năng mở rộng tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng phải
đưa ra được một mức lãi suất phù hợp, sao cho vừa đảm bảo được lợi nhuận của
ngân hàng, vừa phù hợp với lợi ích của khách hàng. Đặc biệt là đối với khách
hàng ở các làng nghề, ngân hàng nên có một chính sách lãi suất ưu đãi để
khuyến khích họ vay vốn.
* Bộ máy tổ chức và nguồn nhân lực
Mạng lưới chi nhánh, địa bàn hoạt động của ngân hàng phải phù hợp với
hoạt động của làng nghề, phải đáp ứng được các nhu cầu cần thiết của làng nghề
thì mới mở rộng được tín dụng đối với các hộ và cơ sở sản xuất kinh doanh. Để
có thể thu hút được khách hàng ở các làng nghề thì ngân hàng cần có một mạng
lưới chi nhánh rộng khắp, tiếp cận được từng làng nghề. Đây là một yếu tố quan
trọng vì thực tế ở các làng nghề cho thấy nhiều hộ, cơ sở có nhu cầu vay vốn
nhưng do ở địa bàn không có phòng giao dịch của ngân hàng nên họ lại tìm đến
các quỹ tín dụng của xã mặc dù lãi suất vay ở các quỹ tín dụng này cao hơn
ngân hàng. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ, nhân viên của ngân hàng cũng cần phải
có thái độ lịch sự, chu đáo, tôn trọng khách hàng, nhất là các khách hàng là nông
dân ở làng nghề đến vay vốn. Ngân hàng cần phải chú trọng đến vấn đề này vì
chỉ cần một khách hàng ở làng nghề có ấn tượng tốt về ngân hàng thì chắc chắn
họ sẽ quảng bá hình ảnh về ngân hàng và các khách hàng khác cũng sẽ tìm đến
ngân hàng khi có nhu cầu vay vốn và ngược lại. Ngoài ra ngân hàng cần phải cử
cán bộ tín dụng đến với các làng nghề để giúp cho người dân hiểu thêm về quy
trình, điều kiện vay vốn vì trên thực tế vẫn có nhiều người cho rằng vay vốn
ngân hàng thì thủ tục rất phiền hà, thậm chí còn phải có cả xác nhận của chính
quyền xã về phương án sản xuất kinh doanh của họ. Do vậy, nếu có chính sách
mở rộng tín dụng đối với làng nghề thì ngân hàng cần phải xem xét đến vấn đề


Website: Email : Tel : 0918.775.368
này.
* Cơ chế tín dụng của ngân hàng
Cơ chế tín dụng đối với làng nghề bao gồm quy trình, thủ tục, thời hạn,
điều kiện, phương thức cho vay và một số quy định khác. Ngân hàng chỉ có thể
mở rộng được tín dụng đối với làng nghề khi có một cơ chế tín dụng phù hợp
với đặc điểm và nhu cầu của các hộ, cơ sở trong làng nghề và khả năng đáp ứng
của ngân hàng. Khi các nhân tố này được thực hiện tốt thì số hộ ở làng nghề có
quan hệ với ngân hàng sẽ nhiều hơn, thường xuyên hơn. Đây chính là một trong
những nhân tố quan trọng nhất quyết định việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối
với làng nghề.
Các quy trình, thủ tục tín dụng phải trung hoà được hai mục tiêu là an
toàn tín dụng cho ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Thời
hạn, quy mô, phương thức tín dụng nên linh hoạt đối với từng khách hàng, xây
dựng trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi.
4.2. Những nhân tố từ phía làng nghề
Những nhân tố từ phía ngân hàng tuy rất quan trọng trong việc mở rộng
tín dụng đối với làng nghề nhưng trên thực tế thì nhóm nhân tố từ phía làng
nghề lại đóng vai trò quyết định. Ngân hàng chỉ có thể mở rộng tín dụng đối với
làng nghề nếu các hộ và cơ sở ở các làng nghề có nhu cầu vay vốn và quan trọng
hơn là phải đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng. Những yếu tố mà ngân
hàng thường xem xét khi quyết định cho các khách hàng ở làng nghề vay vốn
bao gồm: nhu cầu vay vốn, khả năng tài chính, khả năng trả nợ và đảm bảo tín
dụng.
* Nhu cầu vay vốn
Ngân hàng thường chỉ cho vay khi xét thấy nhu cầu tín dụng của khách
hàng là thiết yếu. Nhu cầu tín dụng thiết yếu là nhu cầu vay vốn để sử dụng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, nhằm duy trì và phát triển sản
xuất. Nhu cầu này tuỳ thuộc vào ngành nghề hoạt động, số lượng đơn đặt hàng,
nguồn vốn tự có và quy mô mở rộng sản xuất kinh doanh của khách hàng ở làng

nghề trong từng giai đoạn cụ thể, bao gồm:

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nhu cầu tín dụng ngắn hạn: Chu kỳ sản xuất kinh doanh của làng nghề
thường không dài như các hoạt động xây dựng cơ bản, chỉ trong một vài ngày
hay một vài tháng là đã cho ra sản phẩm, tức là chỉ trong một thời gian ngắn là
đã thu hồi được vốn và có lãi. Do đó, các hộ và cơ sở thường vay ngắn hạn trong
một vài tháng (thường là 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng) để tài trợ cho các nhu cầu
về nguyên vật liệu, chi phí hoạt động như điện, nước, nhiên liệu, hàng dự trữ
cho mùa sản xuất sau, mua các máy móc đơn giản...
- Nhu cầu tín dụng trung và dài hạn: thường là các khoản vay để mua sắm
tài sản cố định như máy móc, trang thiết bị, bất động sản... thường có quy mô
lớn so với nguồn vốn tự có của khách hàng. Các nguồn thu trong một hay một
vài chu kỳ thường chưa đủ để thanh toán nợ gốc cho ngân hàng nên xuất hiện
nhu cầu tín dụng trung hạn và dài hạn.
Ở các làng nghề, nhu cầu tín dụng của các cơ sở thường lớn hơn so với hộ
và ngân hàng cũng dễ dàng chấp nhận các khoản vay với quy mô lớn của các cơ
sở sản xuất hơn so với hộ vì các cơ sở sản xuất có tư cách pháp nhân, trình độ tổ
chức và quản lý kinh doanh cao hơn nên họ có thể ký kết được các hợp đồng về
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm với quy mô lớn hơn. Mặt khác ngân hàng có
thể kiểm soát hoạt động kinh doanh của các cơ sở dễ dàng hơn.
* Khả năng tài chính
Ngân hàng thường quyết định cho vay với những hộ và cơ sở chứng minh
được khả năng tài chính lành mạnh và phát triển. Thông qua các chỉ tiêu: tỷ lệ
tài sản lưu động / tài sản cố định, bất động sản tính theo giá thị trường, các
khoản phải thu, dự phòng phải thu, quan hệ giữa tổng tài sản, tổng nguồn vốn
với vốn tự có... cán bộ tín dụng sẽ xác định được tình hình tài chính hiện tại của
khách hàng và qua đó sẽ dự đoán được xu hướng tài chính trong tương lai.
* Khả năng trả nợ
Khả năng trả nợ là yếu tố quan trọng nhất cho biết mức an toàn và thành

công của món vay. Để xác định được khả năng trả nợ của khách hàng, cán bộ tín
dụng phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh doanh, tài chính của khách hàng để
lập bảng cân đối các nguồn thu, chi tài chính trong một thời gian nhất định; rồi

Website: Email : Tel : 0918.775.368
căn cứ vào số chênh lệch thu - chi để xác định nguồn trả nợ vay của khách hàng.
Đây là thông tin quan trọng liên quan đến khả năng trả nợ của khách hàng, thậm
chí nó cón được chú ý hơn cả lợi nhuận mà khách hàng có thể đạt được vì trong
thực tế có những khách hàng làm ăn có lãi nhưng vẫn không có khả năng trả nợ
do mất cân đối thu chi trong một thời gian.
Khách hàng phải thể hiện được khả năng trả nợ theo kế hoạch trả nợ do cả
hai bên cùng thoả thuận, bao gồm: nguồn đảm bảo trả nợ, số lượng dự tính của
mỗi nguồn và mỗi nguồn trả cho những khoản trả nợ nào, ngày dự tính của mỗi
khoản nợ.
* Bảo đảm tín dụng
Bảo đảm tín dụng được các ngân hàng coi là nguồn thu nợ thứ hai khi
nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thanh toán được nợ. Đó là
việc bảo vệ quyền lợi của ngân hàng dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản
thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Do đó, các khách
hàng có tài sản đảm bảo bao giờ cũng tạo ấn tượng an toàn hơn cho các ngân
hàng. Đối với khách hàng ở các làng nghề, ngân hàng thường đòi hỏi phải có tài
sản đảm bảo do tính biến động của nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ.
Tài sản đảm bảo của các hộ và cơ sở phải dễ xác định, có giá trị, tuổi thọ
phải tương đối dài, có thị trường tiêu thụ và ngân hàng có khả năng định giá.
Đối với khách hàng là hộ sản xuất ở các làng nghề, tài sản đảm bảo thường là
nhà đất, máy móc thiết bị, còn đối với các doanh nghiệp thì tài sản đảm bảo
thường là hàng tồn kho, các khoản phải thu và động sản khác mà ngân hàng có
khả năng kiểm soát chặt chẽ và không để các chủ nợ khác giành quyền đảm bảo
từ các tài sản đó. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể thế chấp bằng bất động sản
và quyền sở hữu các phương tiện vận tải khác.

4.3. Những nhân tố khác
* Chính sách của Đảng và Nhà nước và chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của địa phương
Chính sách tín dụng của các ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng rất
lớn bởi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và chính sách tài chính

Website: Email : Tel : 0918.775.368
quốc gia áp dụng trong từng thời kỳ nhất định. Khi Đảng và Nhà nước có chủ
trương phát triển các làng nghề thì sẽ có những đường lối, chính sách cụ thể để
hỗ trợ cho mục tiêu đó. Một trong những yếu tố cần thiết cho sự phát triển của
bất cứ ngành nghề nào là vốn mà các ngân hàng thương mại chính là kênh phân
phối vốn có hiệu quả nhất cho nền kinh tế. Chính vì vậy mà các ngân hàng
thương mại cần phải nắm được một cách nhanh chóng chính sách của Đảng và
Nhà nước đồng thời dự báo được những xu hướng diễn biến trong tương lai để
có các chiến lược kinh doanh phù hợp. Các làng nghề khi đã được đầu tư thì hệ
thống cơ sở hạ tầng, nguyên liệu, thị trường... đều phát triển; đồng thời nó sẽ tác
động trở lại làm các làng nghề phát triển, các làng nghề càng phát triển thì nhu
cầu vốn để dầu tư mới, để mở rộng lại càng lớn.
Thêm vào đó, mỗi địa phương lại có những đặc điểm và điều kiện kinh tế
khác nhau nên các ngân hàng cón phải căn cứ vào phương hướng phát triển kinh
tế của địa phương mình để có biện pháp thích nghi phù hợp. Nếu địa phương
quan tâm đến việc phát triển các làng nghề thì Ngân hàng cũng phải có các
chính sách tín dụng để hỗ trợ chính sách của địa phương. Do đó có thể nói mục
tiêu và biện pháp mở rộng tín dụng đối với làng nghề phải nằm trong quỹ đạo
phát triển chung mà các chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương đã vạch
ra.
* Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cũng là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng đến
việc mở rộng tín dụng đối với các làng nghề. Việc các làng nghề được thừa nhận
về mặt pháp lý và tạo khung pháp lý rõ ràng, thuận lợi cho các sản phẩm của

làng nghề sẽ tạo điều kiện cho những người có vốn yên tâm và mạnh dạn đầu tư
sản xuất, đồng thời các ngân hàng cũng dễ dàng hơn trong quyết định cho vay.
* Chính sách tín dụng và tiềm lực của đối thủ cạnh tranh
Trên một địa bàn thường có rất nhiều tổ chức tín dụng hoạt động: các
ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, các quỹ tín
dụng... và khách hàng sẽ lựa chọn tổ chức tín dụng nào tốt nhất cho mình. Do đó
chính sách tín dụng và tiềm lực của đối thủ cạnh tranh cũng là một trong những

Website: Email : Tel : 0918.775.368
yếu tố tác động đến việc mở rộng tín dụng đối với làng nghề. Một ngân hàng
muốn mở rộng tín dụng đối với làng nghề thì phải đứng trên địa vị của khách
hàng để xem xét đến yếu tố này.
Nếu các tổ chức tín dụng trên địa bàn cùng cho vay làng nghề với mức lãi
suất như nhau thì khi quyết định mở rộng tín dụng đối với khu vực này, Ngân
hàng phải cho vay với mức lãi suất ưu đãi hơn hoặc có chính sách tín dụng phù
hợp hơn các đối thủ khác. Nếu không, Ngân hàng phải có chiến lược marketing
ưu việt hơn các đối thủ để thu hút khách hàng: thái độ phục vụ, có các dịch vụ tư
vấn, mạng lưới phòng giao dịch rộng lớn...
5. Kinh nghiệm mở rộng tín dụng ngân hàng đối với các ngành nghề
nhỏ của một số nước
* Kinh nghiệm của Ấn Độ
Tương tự Việt Nam, Ấn Độ là một nước đông dân với 72% dân số sống
dựa vào nông nghiệp. Hiện nay, khu vực ngành nghề nhỏ của nước này tạo ra
khoảng 7.500 loại sản phẩm, từ cấu tạo đơn giản đến kỹ thuật tinh xảo, phụ trợ
đắc lực cho các khu công nghiệp vừa và lớn. Vào thời kỳ trước năm 1997, hoạt
động thủ công nghiệp của Ấn Độ không mấy phát triển, nhưng từ sau năm 1991,
khi Chính phủ thông qua “ Chính sách đặc biệt cho khu vực ngành nghề nhỏ” thì
đã tạo thêm sức sống và động lực tăng trưởng cho khu vực này. Để mở rộng
được hoạt động tín dụng đối với ngành nghề nhỏ, Chính phủ và các Ngân hàng
Ấn Độ đã sử dụng các biện pháp sau:

- Huỷ bỏ sự phân biệt giữa các định chế tín dụng ngắn hạn và trung dài
hạn. Các ngân hàng và tập đoàn tài chính đẩy mạnh cung cấp các khoản vay hỗn
hợp (giữa ngắn hạn với trung dài hạn). Nguyên nhân chính là do sự yếu kém
trong việc phối kết hợp giữa các định chế cho vay vốn lưu động và vốn cố định
đã gây khó khăn chủ yếu cho sự phát triển các ngành nghề nhỏ. Các định chế
này không phân biệt được một cách cơ bản các khía cạnh thuộc về cơ cấu,
nguốn vốn, việc quản lý... Kết quả là không có sự liên quan ý nghĩa nào giữa
việc thực hiện các định chế và kết quả của việc kiểm soát, đánh giá.
- Để tạo điều kiện cho tập đoàn tài chính Nhà nước và tập đoàn phát triển

Website: Email : Tel : 0918.775.368
công nghiệp hoạt động, Ấn Độ đã để các cơ quan này độc lập với các chính
quyền bang: giảm vốn của các chính quyền bang xuống còn 50% và tăng tương
ứng tỷ lệ vốn cho các tổ chức trên.
- Dịch vụ mua bán nợ và chiết khấu được thúc đẩy mạnh mẽ hơn để giải
quyết các vấn đề về khả năng thanh toán và vốn lưu động.
- Các ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương đưa ra một danh
mục đã qua đánh giá về việc thực hiện chức năng phục vụ các đơn vị ngành
nghề nhỏ của các chi nhánh “đặc biệt”... Trong nội dung bao gồm cả vị trí, tổ
chức nhân viên và dịch vụ. Các chi nhánh này có thể được chuyển tới vị trí
thuận lợi ngay trong các khu ngành nghề nhỏ tập trung nếu xét thấy cần thiết.
Do các khu ngành nghề nhỏ chỉ tập trung sản xuất các loại sản phẩm nhất
định nên các chi nhánh này có thể mở rộng các dịch vụ phi tài chính như: cung
cấp thông tin, công nghệ, marketing, tư vấn...
- Những đơn vị cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tài chính như các cơ quan
nghiên cứu và phát triển, các nhà cung cấp thông tin, marketing, các nhà tư
vấn... là nhân tố quyết định của các đơn vị ngành nghề nhỏ. Vì vậy, các cơ quan
này đều được nhận tài trợ ưu tiên của các tổ chức tài chính và ngân hàng.
- Các ngân hàng và tổ chức tài chính đã tìm cách mở rộng hoạt động tín
dụng tới khách hàng tiềm năng thuộc khu vực ngành nghề nhỏ bằng cách giới

thiệu miễn phí các chương trình đào tạo về quản lý doanh nghiệp, marketing,
quản lý tài chính, kỹ thuật sản xuất...
- Việc cấp các giấy phép hoạt động cho các ngân hàng địa phương cũng tự
do hơn để hướng họ tới phục vụ các huyện có các khu ngành nghề nhỏ tập trung.
Ngân hàng trung ương tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ngành nghề nhỏ có
quyền lựa chọn các chi nhánh ngân hàng mà họ thấy thuận tiện nhất.
- Dịch vụ xếp hạng tín dụng được mở rộng đến các ngành nghề nhỏ nhằm
giảm bớt các chi phí của các khoản vay và rủi ro của người cho vay. Các chi phí
liên quan đến việc xếp hạng tín dụng của các đơn vị được xếp hạng và của các
cơ quan xếp hạng tín dụng thường thấp hơn khi việc tổ chức đánh giá xếp hạng
tín dụng thực hiện trong một khu vực ngành nghề nhỏ tập trung.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kết quả đạt được của Ấn Độ sau một số năm thực hiện rất ấn tượng: năm
1997, các đơn vị ngành nghề nhỏ chiếm 31% GNP; 17,4% tổng lực lượng lao
động và 40% tổng giá trị xuất khẩu.
* Kinh nghiệm của Nhật Bản
Ở Nhật Bản, phát triển ngành nghề thủ công nói riêng và thủ công mỹ
nghệ nói chung được đặc biệt chú trọng. Năm 1974, “Luật Nghề truyền thống”
đã được ban hành để bảo tồn và phát triển khu vực này. Năm 1992, luật này
được sửa đổi và quy định thêm, ngoài kế hoạch khôi phục và phát triển còn có
thêm kế hoạch phát triển cộng đồng, kế hoạch hoạt động, kế hoạch chi viện... và
đặc biệt là chính sách nhằm trợ giúp và mở rộng cho vay vốn.
Việc trợ giúp được tiến hành như sau: các hợp tác xã, các liên minh hợp
tác xã, các tổ hợp công thương hoặc các pháp nhân theo quy định của Chính
phủ, các thành viên trực tiếp hay gián tiếp là những người sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ phải lập kế hoạch khôi phục và phát triển nghề thủ công truyền
thống. Dựa trên bản kế hoạch này, các chương trình trợ giúp sẽ được tiến hành
thông qua các biện pháp hỗ trợ kinh phí, bảo đảm vốn... Trợ giúp về vốn cho các
kế hoạch này có thể bao gồm 70% là vốn Chính phủ, 25% là vốn của các ngân

hàng thương mại và chỉ có 5% là vốn tự có người được trợ giúp.
Như vậy, thông qua việc ban hành một luật riêng, các đơn vị sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ ở Nhật được bảo đảm rất lớn từ phía cơ chế, pháp lý để
hoạt động. Chính phủ Nhật Bản cũng đã xây dựng các chương trình trợ giúp vốn
một cách cụ thể thông qua việc xem xét những bản kế hoạch do người xin trợ
giúp nộp lên. Vốn đầu tư cho các nghề truyền thống này lấy từ hai nguồn, trong
đó nguồn vốn Chính phủ đóng vai trò chủ yếu, các ngân hàng thương mại thực
hiện chức năng là một kênh chuyển vốn đến những đơn vị có nhu cầu.
Kết quả là ở Nhật, những ngành nghề truyền thống đã trưởng thành và
phát triển được một cách tự lập, góp phần duy trì truyền thống, cung cấp các mặt
hàng có sức hấp dẫn và góp phần phát triển kinh tế địa phương, nâng cao đời
sống văn hoá của nhân dân.
Nhận rõ những lợi ích của việc phát triển kinh tế làng nghề đối với địa

Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương, với các làng nghề cũng như đối với bản thân ngân hàng; trong thời gian
vừa qua, Ngân hàng công thương Hà Tây đã chú trọng phát triển hoạt động tín
dụng đối với các làng nghề trên địa bàn tỉnh và đã thu được những kết quả đáng
kể. Điều này được trình bày rõ trong nội dung chương 2 của luận văn.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY
1. Quá trình xây dựng và trưởng thành
Ngân hàng công thương Hà Tây là một chi nhánh của Ngân hàng công
thương Việt Nam, có trụ sở tại 269 - Quang Trung - Thị xã Hà Đông - Tỉnh Hà
Tây. Được thành lập tháng 6 năm 1988 và chính thức đi vào hoạt động tháng 8
năm 1988, Ngân hàng công thương (NHCT) Hà Tây có nhiệm vụ huy động vốn

trong xã hội và thực hiện những dịch vụ ngân hàng nhằm mục đích thu lợi
nhuận, góp phần ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
Trước năm 1991, Ngân hàng thuộc tỉnh Hà Sơn Bình và có tên là NHCT
tỉnh Hà Sơn Bình, có trụ sở chính tại thị xã Hà Đông và một chi nhánh trực
thuộc tại thị xã Hoà Bình. Tháng 9 năm 1991, tỉnh Hà Sơn Bình được tách thành
hai tỉnh Hà Tây và Hoà Bình, NHCT Hà Tây được thành lập, chi nhánh Hoà
Bình được bàn giao cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh
Hoà Bình.
Chi nhánh NHCT Hà Tây là đơn vị thành viên, hạch toán phụ thuộc và đại
diện theo uỷ quyền của NHCT Việt Nam trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín
dụng và dịch vụ ngân hàng, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp và chịu
sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCT Việt Nam.
Chi nhánh NHCT Hà Tây là ngân hàng chuyên doanh được thành lập theo
nghị định số 53 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và chính
thức hoạt động từ tháng 8 năm 1988, có trụ sở chính tại thị xã Hà Đông - tỉnh Hà
Tây, hoạt động kinh doanh đối với các thành phần kinh tế và dân cư trên địa bàn
tỉnh Hà Tây và một số quận, huyện thuộc thành phố Hà Nội; ngoài ra còn cho
vay vốn tài trợ đối với khách hàng thuộc các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình.
Chi nhánh NHCT Hà Tây lấy hiệu quả kinh doanh của khách hàng làm
mục tiêu hoạt động trên cơ sở quy định của Luật các tổ chức tín dụng và Điều lệ

Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoạt động của NHCT Việt Nam. Tính đến 31/12/2002, tổng nguồn vốn huy động
của toàn chi nhánh là 837.563 triệu đồng; tổng dư nợ cho vay đạt 1.200.950
triệu đồng trong đó cho vay trung và dài hạn là 401.336 triệu đồng, chiếm tỷ lệ
33,42% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ là 0,23% trên tổng dư nợ.
2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng công thương Hà Tây
Với lực lượng cán bộ nhân viên 240 người, bộ máy tổ chức của NHCT
Hà Tây được áp dụng theo phương thức quản lý trực tuyến, ban giám đốc quản
lý tất cả các phòng ban tại trụ sở chính và các phòng giao dịch. Các phòng tại trụ

sở chính quản lý về mặt nghiệp vụ đối với các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm.
Sơ đồ 2.1: Bộ máy tổ chức của chi nhánh NHCT Hà Tây

Ban giám đốc
Phòng
kinh
doanh
Phòng
kế toán
tài chính
Phòng
tiền tệ
kho quỹ
Phòng
quản lý
tiền gửi
dân cư
Phòng
thanh
toán
quốc tế
Phòng
kiểm
tra nội
bộ
Chi
nhánh
Sông
Nhuệ
Phòng

giao
dịch
số ...
Phòng
giao
dịch số...
Phòng
giao
dịch số...
Phòng
giao
dịch
số...
Phòng
kế
toán
Quỹ tiết
kiệm
số...
Quỹ tiết
kiệm
số...
Quỹ tiết
kiệm
số...
Quỹ tiết
kiệm
số...
Quỹ tiết
kiệm

số...
Phòng tổ
chức
hành
chính
Phòng
kinh
doanh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ban giám đốc bao gồm: giám đốc và ba phó giám đốc. Ban giám đốc trực
tiếp ra quyết định thi hành, quản lý hoạt động của tất cả các phòng ban trong chi
nhánh. Giám đốc là người trực tiếp ra các quyết định kinh doanh, ký các văn
bản, hợp đồng liên quan đến hoạt động của toàn chi nhánh NHCT Hà Tây.
Tại hội sở có 7 phòng chức năng: phòng tổ chức hành chính, phòng kinh
doanh, phòng kế toán - tài chính, phòng quản lý tiền gửi dân cư, phòng thanh
toán quốc tế, phòng tiền tệ kho quỹ, phòng kiểm tra nội bộ. Chi nhánh có 4
phòng giao dịch và 1 chi nhánh trực thuộc. Dưới mỗi phòng giao dịch hoặc chi
nhánh trực thuộc có các bộ phận huy động vốn là các quỹ tiết kiệm, có bộ phận
tín dụng làm công tác cho vay, có bộ phận kế toán đảm nhận các công việc kế
toán cho vay - thu nợ, kế toán tiết kiệm thực hiện theo chế độ hạch toán báo sổ.
Tuỳ theo tình hình kinh tế từng thời kỳ mà ban giám đốc có uỷ quyền mức quyết
định cho vay đối với các trưởng phòng và giám đốc chi nhánh trực thuộc cho
phù hợp.
Trong hoạt động hàng ngày, giữa các phòng ban có mối quan hệ mật thiết
với nhau để đạt được mục đích của toàn NHCT Hà Tây là: Phát triển - An toàn -
Hiệu quả.
3. Những đặc điểm kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của NHCT Hà Tây
* Những đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây
Có thể nói Hà Tây có một vị trí khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế -

xã hội : nằm bao quanh thủ đô Hà Nội về hai phía Tây - Nam, Hà Tây có 3 trong
số 7 cửa ngõ vào thủ đô qua các quốc lộ 1, 6, 32; Hà Tây còn nằm cạnh khu tam
giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hạt nhân kinh tế miền Bắc. Vị trí
này tạo điều kiện thuận lợi cho Hà Tây trong việc mở rộng thị trường buôn bán,
trao đổi hàng hoá với Hà Nội và các tỉnh khác.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã xem Hà Tây như là địa bàn
mở rộng của thủ đô Hà Nội và quyết định quy hoạch các khu công nghiệp tập
trung như: Xuân Mai, khu công nghệ cao Láng Hoà Lạc, khu nghỉ mát Ba Vì,
mở đường Láng - Hoà Lạc, quy hoạch cấp nước cho đô thị Hà Nội - Ba Vì,

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xuân Mai... Tất cả đã tạo điều kiện để Hà Tây thu hút vốn trong và ngoài nước,
thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo đà cho Hà Tây sớm thực hiện quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn thành công.
Không như các tỉnh khác có nhiều khoáng sản quý báu, Hà Tây chỉ có
một số khoáng sản có thể khai thác để sản xuất vật liệu xây dựng như: Đá vôi,
đá granít, cao lanh, đất sét, than bùn (Mỹ Đức, Bàn, Sơn Tây, Quốc Oai, Chương
Mỹ) để sản xuất phân vi sinh phục vụ công nghệ công nghiệp sạch. Tuy những
khoáng sản này không nhiều nhưng cũng cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ
hoạt động để khai thác. Ngoài ra còn có một số khoáng sản quý báu như vàng
gốc, sa khoáng, đồng, pyrit, abet, đôlômít... đang còn tiềm ẩn cần được khảo sát.
Tất cả những đặc điểm kinh tế xã hội trên của tỉnh có tác động mạnh mẽ
đến hoạt động của Chi nhánh NHCT Hà Tây trên cả mặt thuận lợi và khó khăn.
* Thuận lợi
Chi nhánh NHCT Hà Tây có một vị trí kinh doanh rất thuận lợi: nằm ở
trung tâm thị xã Hà Đông, nơi tập trung dân cư và là đầu mối kinh tế xã hội của
tỉnh, nơi có đường giao thông đi lại rất thuận tiện. Nhờ đó Ngân hàng thu hút
được sự quan tâm chú ý của một số lượng lớn khách hàng, nhất là các đơn vị
kinh tế sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực khác nhau.
Về du lịch: Hà Tây có nhiều danh lam thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng từ

lâu đời được người dân trong và ngoài nước lưu truyền như Hương Sơn, Ao
Vua, Đồng Mô, Suối Hai - Ba Vì.... cùng nhiều di tích lịch sử văn hoá, đền, chùa
đã đi vào lòng người, là điều kiện rất thuận lợi để xây dựng chuỗi du lịch. Ngày
nay khi đời sống xã hội đã và đang phát triển, thu nhập của người dân ngày một
khá, thời gian nghỉ ngơi nhiều (tuần nghỉ 2 ngày) thì những nơi có nhiều danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử sẽ là điểm đến của khách du lịch.
Tuy nhiên để có thể đưa được những tiềm năng đó thực sự trở thành thế
mạnh kinh tế của tỉnh thì các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực du lịch
cần phải có một sức cạnh tranh lớn; nhất là với các công ty du lịch của Hà Nội
với rất nhiều những ưu thế do vị trí thuận lợi và thị trường rộng lớn đem lại. Do
nhu cầu của khách hàng ngày càng tăng, nhất là về mặt chất lượng nên để có thể

×