Tải bản đầy đủ (.pdf) (292 trang)

Di tích kiến trúc Hội An trong tiến trình lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.83 MB, 292 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TẠ THỊ HOÀNG VÂN




DI TÍCH KIẾN TRÚC HỘI AN TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ




Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại
Mã số: 62 22 54 01




TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ















Hà nội - 2007
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5
3. Mục đích, đối tượng phạm vi nghiên cứu
10
3.1. Mục đích nghiên cứu
10
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cúu
11
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
11
5. Các nguồn tư liệu
12
6. Các phương pháp nghiên cứu
14
7. Đóng góp của luận án
14

8. Cấu trúc luận án
15

B. NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH CẢNG THỊ HỘI AN
1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÙNG HỘI AN

1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành vùng đất
19
1.1.2. Đặc điểm khí tƣợng thuỷ văn
20
1.1.2.1. Đặc điểm khí hậu
20
1.1.2.2. Đặc điểm thuỷ văn
22
1.1.3. Đặc điểm chung về sự phát triển địa hình khu vực Hội An
24
1.1.4. Vị thế vùng Hội An với quan hệ thông thƣơng trong nƣớc
và ngoài nƣớc
25
1.2. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ NHỮNG BIẾN ĐỘNG VỀ KINH TẾ TÁC
ĐỘNG TỚI SỰ HÌNH THÀNH CẢNG THỊ HỘI AN
1.2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII

1.2.1.1. Hoàn cảnh quốc tế và khu vực
29
1.2.1.2. Tình hình chính trị - xã hội ở Việt Nam
31

1.2.2. Hội An thời các chúa Nguyễn

1.2.2.1. Chính sách của chính quyền
35
1.2.2.2. Người Việt ở Hội An
37
1.2.2.3. Người Nhật ở Hội An
39
1.2.2.4. Người Trung Quốc ở Hội An
42
1.2.2.5. Người phương Tây ở Hội An
45
1.2.3. Vai trò của chúa Nguyễn đối với sự hình thành phố cảng Hội An
1.2.3.1. Vai trò của các chúa Nguyễn trong việc phát triển kinh
tế - xã hội
50
1.2.3.2. Chính sách của các chúa Nguyễn đối với dân nhập cư
và cư dân gốc
52
1.3. TIỂU KẾT
54

CHƢƠNG 2. DI TÍCH KIẾN TRÚC HỘI AN TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XVIII

2.1. DẤU TÍCH NHỮNG BẾN THUYỀN CỔ
56
2.2. CÁC LOẠI HÌNH KIẾN TRÚC TIÊU BIỂU

2.2.1. Giếng
64

2.2.2. Chùa
65
2.2.3. Đền - miếu
68
2.2.4. Cầu
69
2.2.5. Mộ
71
2.2.6. Nhà thờ tộc/từ đƣờng
75
2.3. VỊ TRÍ, QUY MÔ VÀ CÁC THƢƠNG ĐIẾM
77
2.3.1. Thƣơng điếm và vị trí, quy mô phố Nhật Bản
78
2.3.2. Các thƣơng điếm phƣơng Tây
86
2.3.3. Thƣơng điếm và vị trí quy mô phố Khách
92
2.4. DIỆN MẠO ĐÔ THỊ HỘI AN THỜI KỲ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
93
2.5. TIỂU KẾT
101

CHƢƠNG 3: DI TÍCH KIẾN TRÚC HỘI AN TỪ THẾ KỶ XVIII ĐẾN NỬA
ĐẦU THẾ KỶ XX

3.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH SUY TÀN CỦA CẢNG
THỊ HỘI AN
3.1.1. Các nhân tố tự nhiên
103

3.1.2. Các nhân tố xã hội
106
3.2. DI TÍCH KIẾN TRÚC HỘI AN TỪ THẾ KỶ XVIII ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
3.2.1. Các loại hình kiến trúc

3.2.1.1. Đình
110
3.2.1.2. Văn miếu, văn chỉ
112
3.2.1.3. Hội quán
112
3.2.1.4. Nhà thờ, thánh thất
114
3.2.1.5. Chợ
115
3.2.2. Phạm vi và quy mô
116
3.2.3. Diện mạo đô thị Hội An thời kỳ suy tàn
120
3.3. DI TÍCH KIẾN TRÚC HỘI AN TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
3.3.1. Tình hình quy hoạch - kiến trúc ở Hội An
122
3.3.2. Những công trình xây dựng ở Hội An

3.3.2.1. Kiến trúc nhà ở/nhà phố
127
3.3.2.2. Kiến trúc công sở
133
3.4. TIỂU KẾT
134


CHƢƠNG 4: PHONG CÁCH KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ HỘI AN

4.1. NGHỆ THUẬT-KIẾN TRÚC ĐÔ THỊ HỘI AN
4.1.1. Đặc điểm bố cục mặt bằng kiến trúc
136
4.1.1.1. Đặc điểm chung
136
4.1.1.2. Bố cục mặt bằng và không gian kiến trúc
136
4.1.2. Tổ hợp công trình và cấu trúc không gian kiến trúc
139
4.1.2.1. Tổ hợp công trình theo tuyến
139
4.1.2.2. Cấu trúc không gian kiến trúc
141
4.1.3. Những đặc trƣng trong nghệ thuật trang trí - điêu khắc và biểu tƣợng
kiến trúc truyền thống Hội An
4.1.3.1. Những đặc trưng chung
144
4.1.3.2. Ý nghĩa - biểu tượng của một số môtíp trang trí
149
4.1.3.2. Nghệ thuật khảm sành sứ và sử dụng màu sắc trang trí
kiến trúc
158
4.2. SO SÁNH ĐÔ THỊ HỘI AN VỚI MỘT SỐ ĐÔ THỊ TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC
4.2.1. Hội An với một số đô thị trong nƣớc
159
4.2.1.1. Hội An với Thăng Long - Kẻ Chợ
159

4.2.1.2. Hội An với Phố Hiến
162
4.2.1.3. Hội An với đô thị Huế - phố cổ Bao Vinh
164
4.2.2. Hội An với một số đô thị phƣơng Đông

4.2.2.1. Trung Quốc
167
4.2.2.2. Nhật Bản
171
4.3. TIỂU KẾT

175
C. KẾT LUẬN
177
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
181
TÀI LIỆU THAM KHẢO
183
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Về tên gọi Đàng Trong và Hội An
Phụ lục 2: Về chùa Bà Mụ hay thương quán Nhật Bản ở Hội An
Phụ lục 3: Mộ của người Hoa
Phụ lục 4: Mộ của người Việt
Phụ lục 5: Mộ chum Sa Huỳnh
Phụ lục 6: Giếng Chăm
Phụ lục 7: Thương quán người Hà Lan ở Nagasaki
Phụ lục 8: Những công trình kiến trúc của người Minh Hương
Phụ lục 9: Văn bia trong các công trình kiến trúc ở Hội An

Phụ lục 10: Khổng Tử miếu ở Hội An
Phụ lục 11: Hội An - Đà Nẵng thời Pháp thuộc

230
234
240
244
246
247
255
269
244
252
262












CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

A.
Ảnh

B.A.V.H
Những người bạn cố đô Huế

Bản đồ
BV
Bản vẽ
BTDT
Bảo tồn Di tích
BTDS
Bảo tồn Di sản
BXD
Bộ Xây dựng
DS
Di sản
DTH
Dân tộc học
ĐHTH
Đại học tổng hợp
ĐNA
Đông Nam Á
HTQT
Hội thảo Quốc tế
KCH
Khảo cổ học
KHKT
Khoa học Kỹ thuật
KHLS
Khoa học Lịch sử
KHXH
Khoa học Xã hội

KTS
Kiến trúc sư
NCKH
Nghiên cứu Khoa học
NCKT
Nghiên cứu Kiến trúc
NCLS
Nghiên cứu Lịch sử
Những PHMVKCH
Những Phát hiện mới về Khảo cổ
học
NTMK
Nguyễn Thị Minh Khai
NTH
Nguyễn Thái Học
NXB
Nhà xuất bản
h.
Huyện
SCN
Sau công nguyên

Sơ đồ
QN - ĐN
Quảng Nam - Đà Nẵng
TBD
Thái Bình Dương
TCN
Trước công nguyên
Toàn thư

Đại Việt sử ký toàn thư
t.
Tỉnh
x.


Khoảng



Tp.


Thành phố
TP
Trần Phú
T/c
Tạp chí
PCT
Phan Chu Trinh
PL
Phụ lục
VHTT
Văn hoá Thông tin

4

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Cùng với sự phát triển của Thăng Long, Phố Hiến, Thanh Hà đô thị Hội An
có tác động không nhỏ đến quá trình phát triển chung của các đô thị trung đại Việt
Nam nói riêng và vùng ĐNA nói chung. Tuy không phải là đô thị cổ xưa nhất,
nhưng Hội An cũng có một quá trình hình thành lâu dài và trở thành đô thị tiêu biểu
của Việt Nam ở thế kỷ XVII - XVIII.
Từng là đô thị một thời vang bóng, song Hội An để lại nhiều dấu ấn tạo nên
những nét quyến rũ đặc biệt. So với các đô thị khác ở Việt Nam trên nhiều phương
diện Hội An có nhiều đặc điểm riêng tạo nên dáng vẻ lịch sử, văn hoá, nghệ thuật
kiến trúc, tôn giáo tín ngưỡng và tâm linh Bằng chứng là một hệ thống di tích,
phần lớn là nhà ở, công trình công cộng, công trình tôn giáo tín ngưỡng còn khá
vẹn nguyên - cũng là duy nhất của Việt Nam và trường hợp hiếm có trên thế giới.
Bộ môn đô thị học được đề cập trên nhiều phương diện xã hội, dân cư, kinh
tế là những yếu tố ban đầu đặt nền tảng cho việc tìm hiểu sâu rộng hơn những vấn
đề về đô thị. Biến động của xã hội dẫn đến những biến đổi về diện mạo đô thị, biểu
hiện rõ ràng nhất giữa không gian đô thị truyền thống và không gian đô thị đang bị
thoái hoá, bên cạnh không gian đô thị được cách tân và ngày một hiện đại. Đó là
hiện trạng ở đô thị Hội An. Vì thế, tiến hành nghiên cứu cụ thể và toàn diện đô thị
cổ Hội An là nhiệm vụ của giới sử học nhằm góp phần vào đánh giá chính xác hơn
về đô thị đã từng phồn vinh, bổ sung thêm vào những nghiên cứu chuyên sâu về hệ
thống đô thị Việt Nam trong lịch sử.
Hội An được tôn vinh là Di sản Văn hoá Thế giới đã khẳng định những giá
trị trường tồn về Văn hoá - Lịch sử - Kiến trúc đặc sắc của khu phố cổ, thu hút sự
quan tâm của giới khoa học trên nhiều lĩnh vực trong nước và quốc tế. Quỹ di sản
kiến trúc đô thị mặc dù đã được nghiên cứu nhưng vẫn thiếu vắng công trình
5

chuyên sâu tổng hợp đầy đủ có hệ thống dưới góc nhìn biện chứng của sử học, phân
tích và làm rõ bản chất cũng như những đặc trưng của các loại hình kiến trúc nhằm
xây dựng nền tảng cơ bản cho việc nghiên cứu khoa học về lịch sử kiến trúc đô thị
Hội An, góp phần vào công tác nghiên cứu lịch sử kiến trúc Việt Nam nói chung.

Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Di tích kiến trúc Hội
An trong tiến trình lịch sử” làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ những năm đầu thế kỷ XX, đã có một số công trình đơn lẻ dưới dạng
khảo sát trực tiếp của các nhà nghiên cứu trong, ngoài nước tại Hội An. Nếu Sallet
với Le vieux Faifo - BAVH 1919 là người mở đầu, thì Trần Kinh Hoà là người có
đóng góp nhiều hơn về học thuật, với Historical Notes on Hoi An được Indiana
University ấn bản năm 1975; Phố Đường Nhai và việc buôn bán ở Hội An thế kỷ
XVII - XVIII (bằng Trung văn); Mấy điều nhận xét về Minh Hương xã và cổ tích tại
Hội An. Tác giả Nguyễn Thiệu Lâu có chuyên khảo La formation et l’évolution du
village de Minh Hương (Faifo) - BAVH 1941 Các tác giả này đều đi sâu vào hai
thế kỷ XVII - XVIII, nghiên cứu các vấn đề trên nhiều phương diện (kinh tế, chính
trị, địa lý, tự nhiên, xã hội, nguồn gốc cư dân. Các loại hình kiến trúc mà chủ yếu là
kiến trúc tôn giáo cũng đã có một số chuyên khảo nhưng chỉ riêng đối với một vài
công trình điển hình được nhìn nhận dưới góc độ lịch sử ) có liên quan tới Hội An
ở mỗi giai đoạn lịch sử. Đặc biệt, các tác giả đã khai thác rất tỉ mỉ về phố Khách,
Hoa thương, Minh Hương xã Bức tranh Giao chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của
dòng họ Chaya (Nhật Bản) là nguồn tư liệu quý phác hoạ về diện mạo Hội An thời kỳ
hưng thịnh.
Một cuốn sách khá thú vị, mặc dù không đề cập tới trực tiếp tới đô thị Hội
An nhưng cho ta hình dung một cách khái quát về hình ảnh đô thị cổ Nhật Bản vào
thế kỷ XVII, từ đó ta có những so sánh về hình ảnh Hội An đương thời là Deshima:
Its Pictorical Heritage. Sách được ấn bản ở Nhật Bản năm 1990 là bộ sưu tập khá
6

đầy đủ và hệ thống bản đồ, bản vẽ, tranh ảnh đã được sử lý bằng kỹ thuật cao để
bảo tồn lượng tư liệu quý giá này.
Không ít các tác giả Việt Nam cũng đã quan tâm đến Hội An trên nhiều
phương diện. Có thể coi Ô châu cận lục (1553) của Dương Văn An là tác phẩm đầu
tiên đề cập đến vấn đề hình thành Hội An thông qua khảo cứu những vùng đất mới.

Tiếp đó là các công trình biên niên và địa chí như: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô
Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam nhất thống chí
của Quốc sử quán triều Nguyễn; cùng với cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn
hay cuốn Ngoại phiên thông thư góp phần phác họa hình ảnh đô thị thương cảng
Hội An trong bối cảnh xã hội chung của vùng Thuận Hoá - Quảng Nam đương thời.
Sử dụng lối kể chuyện lịch sử, cuốn Nam triều công nghiệp diễn chí của Bảng trung
hầu Nguyễn Khoa Chiêm (1659 - 1736), người đã gắn bó cả cuộc đời với sự nghiệp
của các chúa Nguyễn đã tái hiện môi trường lịch sử - xã hội rộng lớn ở Đàng Trong.
Đây là những nguồn tư liệu quý báu về Hội An qua nhiều giai đoạn.
Tài liệu chi chép về Hội An của người nước ngoài, đầu tiên phải nói tới
những ghi chép của các giáo sĩ, thương nhân có mặt vào thời kỳ Hội An phồn thịnh.
Ghi chép về Xứ Đàng Trong 1621 của Cristoforo Borri; Hành trình và truyền giáo
của Alexandre de Rhodes; hay những tác phẩm của giáo sĩ Bồ Đào Nha Léon
Pagére và Manguin; Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán (thế kỷ XVII) là ghi chép
của tác giả khi đến Quảng Nam cho thấy Hội An dưới thời các chúa Nguyễn và tình
hình buôn bán ở thương cảng này. Ông cũng dành một phần lớn để miêu tả về diện
mạo đô thị Hội An với cảnh trên bến dưới thuyền, và các kiến trúc trong khu phố.
Đến cuối thế kỷ XVII, ghi chép về Hội An được thương nhân Anh - Thomas Boyear
tiếp tục khi ông đến đây với nhiệm vụ xin chúa Nguyễn cho lập thương điếm.
Học giả Hàn Quốc, GS. Cho Jea Hyun đã giới thiệu cho người đọc sách Trú
Vĩnh Biên (Ju Yong Pyon) (1805-1806) của Huyền Đồng Trịnh Đông Dũ (Chung
Dong Yu) một tác phẩm khảo cứu lịch sử, ngoại giao, tập tục…đã ghi chép lại nội
dung Câu chuyện những người dân đảo Tế Châu (Jêju) Hàn Quốc trôi dạt đến An
7

Nam năm 1689… phản ánh chính sách đối ngoại mở cửa của khu vực Hội An và
tình hình ở nước An Nam bấy giờ.
Cách đây 20 năm, những đợt điều tra, thám sát đầu tiên của các nhà khoa học
Việt Nam đã đào xới từ lòng đất Hội An những lớp tầng văn hoá bị quên lãng. Từ
đó, nhiều đợt thám sát, điền dã có quy mô của nhiều tổ chức trong và ngoài nước ở

Hội An được tiến hành với nhiều góc độ. Điều này đã cho thấy khu đô thị với
những ý nghĩa khoa học, giá trị văn hoá, nghệ thuật, du lịch. Công việc nghiên cứu
Hội An hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu khoa học và sức hấp dẫn hiếm có của khu phố
cổ này.
Tuy nhiên, để nhìn nhận kiến trúc Hội An cũng cần có hệ thống từ thời kỳ Sa
Huỳnh - Chămpa trước đó mà những tác phẩm và dấu vết kiến trúc phản ánh khá đầy
đủ một Hội An tiền khởi đã có những tiềm ẩn, tạo lực đẩy cho thương cảng Hội An có
tầm vóc bậc nhất vùng ĐNA thời trung đại.
Hội thảo về đô thị cổ Hội An năm 1985, với nhiều tham luận các ngành lịch
sử, khảo cổ, kiến trúc, nghiên cứu nghệ thuật và phương hướng bảo tồn những giá
trị sống trong lòng phố cổ đã xác định được khung thời gian “vận hành” của Hội
An từ thời Chămpa đến đầu thế kỷ XX mà thời gian thịnh đạt là vào nửa đầu thế kỷ
XVII, cùng nhiều ý nghĩa lịch sử, văn hoá được làm sáng tỏ hơn; nhất là vị trí của
Hội An trong các đô thị cổ Việt Nam với mối quan hệ ở trong và ngoài nước. Kể từ
đó, những nỗ lực nghiên cứu về Hội An được triển khai mạnh mẽ hơn trên nhiều lĩnh
vực.
Năm năm sau đó (1990), HTQT về Đô thị cổ Hội An được nhiều nhà nghiên
cứu của các lĩnh vực tham gia. Mảng kiến trúc đô thị Hội An đã được đặt ra thành
một nội dung cấp thiết. Tại hội thảo này, những vấn đề về văn hoá Sa Huỳnh,
Chămpa chỉ được đề cập đến trước đây, nay đã được khẳng định; mối quan hệ Hội
An với các nước trong khu vực và thế giới được làm sáng tỏ và có sức thuyết phục
hơn. Diện mạo kiến trúc của Hội An dần được nhìn nhận theo từng thời kỳ lịch sử.
8

HTQT Quan hệ Việt - Nhật thế kỷ XV - XVII qua giao lưu gốm sứ tháng
12/1999; HTQT Bảo tồn khu phố cổ Hội An (từ 21-22/3/2000) đã đưa ra những vấn
đề khoa học nóng hổi. Các nhà khoa học mở rộng mối quan tâm của mình trên
phương diện khảo cổ, xã hội học, kiến trúc (đề cập tới cách xây dựng, bố cục mặt
bằng, trang trí và công năng sử dụng của công trình) tranh luận về cách thức xây
dựng các công trình kiến trúc truyền thống ở Hội An có khác biệt ra sao với những

vùng/miền khác ở Việt Nam. Đặc biệt vấn đề mới được đặt ra là việc gìn giữ, bảo
tồn phát huy những giá trị kiến trúc, văn hoá để Hội An xứng đáng là Di sản Văn
hoá thế giới.
Giới KTS, khai thác Hội An ở nhiều vấn đề, từ kiến trúc nhà ở, không gian
đô thị, cảnh quan môi trường, quy hoạch phát triển, cho đến công tác bảo tồn, khai
thác, gìn giữ, chống xuống cấp như thế nào?. Một số bài nghiên cứu như Đô thị cổ
Hội An (QN-ĐN) (Nguyễn Hồng Kiên); Gặp lại bộ “vài” trong kiến trúc cổ Hội
An; Phố cổ Hội An và việc giao lưu văn hoá ở Hội An (Nguyễn Quốc Hùng) là bước
khởi đầu cho việc nhìn nhận một cách tổng quan di tích kiến trúc ở Hội An. Tiếp
đến là Kiến trúc nhà ở khu phố cổ Hội An (Hoàng Mạnh Nguyên); Nhà ở cho dân tự
xây - Viện NCKT.
Trung tâm Tu bổ Di tích TW (nay là Viện BTDT - Bộ VHTT) là cơ quan đầu
tiên ở Việt Nam khai nguồn cho những đợt khảo cứu và trùng tu di tích kiến trúc tại
Hội An kể từ thập niên 80 của thế kỷ trước. Dựa trên yêu cầu nghiên cứu và bảo tồn
quỹ kiến trúc đô thị Hội An, dự án hợp tác quốc tế giữa hai nước Việt Nam và Nhật
Bản về việc tiến hành điều tra hiện trạng các di tích và tìm hiểu sự hiện diện của
người Nhật trước đấy ở Hội An đã được tiến hành và liên tục kéo dài, đặt ra nhiều
vấn đề về nghiên cứu kiến trúc Hội An.
Nhiều chuyên gia Nhật Bản gắn bó với công cuộc nghiên cứu và bảo tồn khu
phố Hội An như GS. Ogura Sadao, TS. Kikuchi Seiichi, TS. March Chang, GS.
Matsuda… nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của các học viên Nhật Bản về các lĩnh vực
9

KCH, kiến trúc, văn hoá cũng được đào sâu nghiên cứu. Đó thực sự là một khối
lượng tư liệu quý báu kết quả của việc gắn nghiên cứu và thực tiễn.
Trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản về sử liệu và xã hội học nhằm bổ sung
cho công tác bảo tồn, trùng tu các công trình ở phố cổ Hội An, các nhóm nghiên
cứu từ Viện BTDT (Bộ VHTT); Viện NCKT, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội
(BXD), dưới sự hỗ trợ về kỹ thuật của các chuyên gia trùng tu Nhật Bản đã cơ bản
hoàn thành trùng tu những công trình có giá trị lịch sử và kiến trúc đặc biệt quan

trọng. Điều đó minh chứng rằng, kiến trúc đã trở thành một thành tố quan trọng, một
phần cơ thể sống của đô thị Hội An.
Cuốn sách Kiến trúc phố cổ Hội An - Việt Nam (NXB Thế giới 2003), là kết
quả của hợp tác giữa Đại học Showa (Nhật Bản) và các đối tác Việt Nam trong sự
nghiệp nghiên cứu, bảo tồn phố cổ Hội An, tổng kết 10 năm thực hiện dự án nghiên
cứu Hội An và có những đánh giá, phân loại kiến trúc Hội An chủ yếu ở loại hình
kiến trúc nhà ở và đã đưa một số nhận xét về những “xu hướng kiến trúc mới” ở
Hội An đang ảnh hưởng trực tiếp đến diện mạo đô thị hiện tại và tương lai.
Kỷ niệm 30 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản, HTQT Di sản
văn hoá thế giới ở Việt Nam tổ chức tại Hội An (13-15/9/2002) lại tập trung chính
vào mối quan hệ giữa hai nước qua giao lưu gốm sứ, trong đó, vấn đề bảo tồn di sản
văn hoá thế giới và hợp tác quốc tế được đặt lên hàng đầu, mà Hội An là một minh
chứng điển hình. Kỷ yếu Vai trò của Dinh trấn Quảng Nam (2003), đánh dấu bước
nghiên cứu sâu hơn về Hội An.
Gần đây, các nhà nghiên cứu Nhật Bản và Trung Quốc đã đặt Hội An trong
bối cảnh lịch sử và đối sánh với hình mẫu đô thị phương Đông nói chung và những
đặc trưng riêng/chung với những đô thị đương thời ở quốc gia họ để minh chứng về
mối cộng hưởng, giao lưu trong lịch sử giữa các vùng đất và các nền văn hoá.
Nghiên cứu của TS. Lan-Shiang Huang - Comparison of Traditional Chinese
Townhouse in Hoi An and Lu-Gang (Viện Nghiên cứu Lịch sử Đài Loan) đã có những
đối sánh giữa kiến trúc nhà phố Hội An và nhà phố ở Lu-Gang qua từng giai đoạn.
10

Nghiên cứu của TS. Charles Wheeler - Đại học California (Mỹ), lại đánh giá
vị trí quan trọng của Hội An trong lịch sử Việt Nam nói chung và trong lịch sử
thương mại châu Á nói riêng, để có cách nhìn mới về Hội An khác với các quan
điểm của các học giả Trung Quốc hoặc phương Tây.
Tháng 8/2006, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia
Hà Nội) phối hợp với Trường Đại học Chiêu Hoà (Nhật Bản) và Sở VHTT tỉnh
Quảng Nam, Trung tâm Quản lý BTDT Hội An đã tiến hành khai quật và phát hiện

một khối lượng hiện vật kiến trúc phong phú ngay dưới lòng đất đô thị Hội An.
Những kết quả khai quật này có ý nghĩa quan trọng đã chứng minh về sự hiện diện
của người Nhật ở Hội An và khẳng định rõ hơn về giao thông thương mại cũng như
sự hiện diện của lớp cư dân tại Hội An ở thế kỷ XVI - XVII.
Ngót nửa thế kỷ, các nhà khoa học trên mọi lĩnh vực đã tìm hiểu, khám phá,
nghiên cứu dần được nhận diện khu phố cổ nhỏ bé mà ẩn chứa nhiều bí ẩn. Thế
nhưng, sức quyến rũ của nó khiến bao nhiêu bài viết, công trình nghiên cứu vẫn cứ
chảy đều theo dòng lịch sử. Đó cũng là nguồn tư liệu dồi dào để chúng tôi có thể
khai thác và chắt lọc cho luận án của mình.
3. Mục đích, đối tượng phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Cho đến nửa sau thế kỷ XX, phố cổ Hội An và các công trình kiến trúc ở
đây đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Tổn thất này, đầu tiên phải kể tới sự khắc nghiệt
của khí hậu nóng nắng và lũ lụt thường xuyên. Thứ hai là, những mất mát trong hai
cuộc chiến tranh kéo dài đã khiến cho Hội An có những thay đổi lớn trong cấu trúc
và hình thái đô thị so với thuở ban đầu. Và cuối cùng, quan trọng hơn là quá trình
hiện đại hoá và đô thị hoá cùng với nhu cầu sinh hoạt ngày một nâng cao đã khiến
cho phố cổ Hội An mất đi phần nào những yếu tố văn hoá truyền thống xưa.
Luận án được hình thành trên cơ sở kết quả của các cuộc điều tra, khảo sát,
lập hồ sơ khoa học, thiết kế và trùng tu nhà ở Hội An trong chương trình hợp tác
nghiên cứu giữa Viện NCKT với Trường Đại học Showa (Nhật Bản); Trung tâm
11

Quản lý BTDT Hội An từ năm 1992 đến 2000 và hồ sơ khoa học về phố cổ Hội An
của Viện Bảo tồn Di tích (Bộ VHTT).
Luận án không chỉ cung cấp một cái nhìn toàn diện về một loại hình kiến
trúc đô thị khá điển hình trong lịch sử đô thị Việt Nam mà còn bổ sung và làm đầy
đặn hơn hệ thống tư liệu về kiến trúc đô thị cổ Hội An theo các giai đoạn lịch sử.
Kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi trước, dựa trên cơ sở
bổ sung nguồn tư liệu thực địa, luận án tập trung vào việc tìm hiểu và phân tích sự

chuyển đổi hình thái đô thị Hội An qua các thời kỳ lịch sử, thông qua việc hệ thống
và đánh giá các loại hình kiến trúc ở Hội An, từ đó có so sánh và phân tích sự hình
thành, phát triển, suy thoái của đô thị qua các mốc lịch sử dựa trên niên đại và hình
thái kiến trúc của các công trình… để nhìn nhận vẻ độc đáo hiếm có về phong cách
kiến trúc đô thị Hội An trong khung cảnh các đô thị Việt Nam và bối cảnh quốc tế
đa chiều.
Đánh giá vai trò của loại hình đô thị thương cảng trong xu hướng phát triển
giao lưu thương mại đa phương trong khu vực và quốc tế. Vai trò của loại hình kiến
trúc đô thị tiêu biểu trong quỹ kiến trúc đô thị Việt Nam.
Nội dung của luận án là nhìn lại đô thị Hội An trong một tiến trình lịch sử
dài để từ đó rút ra những kinh nghiệm về quản lý kiến trúc - quy hoạch trong chiến
lược phát triển đô thị theo đặc trưng vùng. Công việc phát huy giá trị và ý thức bảo
tồn di sản cũng được đặt ra trong cuộc sống hiện đại hôm nay.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu di sản đô thị cổ Hội An một cách toàn diện:
những vấn đề trong lịch sử, xuyên suốt quá trình hình thành phát triển cho đến khi
không còn là đô thị hưng khởi ở miền Trung và đặt vấn đề “quỹ kiến trúc đô thị” là
trọng tâm thông qua việc xác định đặc điểm của từng loại hình kiến trúc truyền
thống và vai trò của chúng trong không gian đô thị Hội An giai đoạn từ đầu đến đầu
thế kỷ XX.
12

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Nghiên cứu các loại hình kiến trúc trong đô thị cổ Hội An (chức năng, quy
mô, kết cấu, bố cục, vai trò và giá trị trong lịch sử ) nhằm góp phần tìm hiểu bối
cảnh xã hội xứ Đàng Trong giai đoạn trung và cuối trung đại. Từ những đánh giá
tổng quan đó, chúng ta có thể hình dung diện mạo đô thị Hội An qua từng giai đoạn.
Luận án không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các vấn đề về điều kiện tự
nhiên vùng, những biến đổi chính trị, lịch sử mà còn mở rộng phân tích theo mối
liên hệ giữa bối cảnh địa lý, văn hoá của những vùng/miền/quốc gia lân cận nhằm

đánh giá về kiến trúc Hội An từ nhiều góc độ khác nhau để đưa ra những giả thuyết
mang tính tổng hợp. Những vấn đề về kiến trúc truyền thống, hình thức của vì kèo,
hình thức kết cấu, mối liên hệ giữa các hình thức này và tác dụng của nó trong cấu
trúc không gian, cũng như những thuật ngữ địa phương, tên gọi kiến trúc… là minh
chứng về kiểu hình thái kiến trúc đô thị Hội An có phong cách độc đáo.
Luận án mong muốn đây là một nghiên cứu về lịch sử kiến trúc đô thị Hội
An một cách tổng hợp và đầy đủ.
5. Các nguồn tư liệu
Nhìn chung, nguồn tư liệu ghi chép và khảo sát về đô thị Hội An khá đa dạng
và phong phú. Tuy nhiên để giải quyết những yêu cầu đặt ra trong luận án, chúng
tôi dựa vào các nguồn sử liệu chính có liên quan trực tiếp đến luận án. Luận án khai
thác triệt để nguồn tư liệu gốc: các thư tịch cổ, ghi chép của các tác giả trong và
ngoài nước… xem đây là nguồn tài liệu quan trọng đối với đối tượng nghiên cứu
của luận án.
* Các thư tịch cổ
- An Nam chí lược (2002), (bản dịch) NXB Thuận Hoá.
- Đại Việt sử ký toàn thư (1993) (tập I, II, III), (bản dịch) NXB KHXH.
- Đại Nam nhất thống chí (1992), (bản dịch) Quốc sử quán triều Nguyễn,
NXB Thuận Hoá.
13

- Đại Nam thực lục tiền biên (1969), (bản dịch) Quốc sử quán triều Nguyễn,
NXB KHXH.
- Đại Nam thực lục chính biên (1969), (bản dịch) Quốc sử quán triều
Nguyễn, NXB KHXH.
* Sách, tạp chí của các nhà nghiên cứu trong nước
Luận án sử dụng các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước xuất
bản từ năm 1960 đến nay.
- Các sách về lịch sử Việt Nam nói chung của Đào Duy Anh, Phan Huy Lê…
- Sách nghiên cứu về bối cảnh xã hội, kinh tế của Đàng Trong qua các thời

kỳ lịch sử của các tác giả: Phan Khoang, Đào Duy Anh, Nguyễn Thế Anh, Li Ta
Na…
- Những tác phẩm lần đầu đề cập đến Hội An trong lịch sử: Dương Văn An,
Lê Quý Đôn…
- Những ấn bản về tình hình thương nghiệp của Việt Nam của tác giả: Thành
Thế Vĩ, Đỗ Bang…
- Các nghiên cứu về lịch sử kiến trúc của các nhà sử học và KTS: Nguyễn
Đình Đầu, Ngô Huy Quỳnh, Vũ Tam Lang, Trần Quốc Vượng, Chu Quang Trứ,
Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Khắc Tụng, Nguyễn Hồng Kiên… và các nhà nghiên
cứu về Hội An: Nguyễn Phước Tương, Nguyễn Văn Xuân.
- Các tạp chí KCH, NCLS, Kiến trúc Việt Nam, Những PHMVKCH…được
chúng tôi khai thác và tham khảo để có những cứ liệu khảo cổ học lịch sử cho luận
án của các tác giả đã nhiều năm dày công nghiên cứu về Hội An: Hoàng Đạo
Kính,Vũ Hữu Minh, Lâm Mỹ Dung, Nguyễn Chiều, Hồ Xuân Tịnh…
- Tài liệu của Hội thảo về Hội An (trong nước và quốc tế).
* Ghi chép của các giáo sĩ
14

- Những ghi chép của các giáo sĩ phương Tây khi với Hội An như Cristoforo
Borri, A.de. Rhode.
* Sách nghiên cứu của tác giả nước ngoài
- Các nghiên cứu về nghệ thuật: L. Cadière, A. Sallet Nghiên cứu về lịch sử
kiến trúc của các nhà nghiên cứu Nhật Bản: Ogura Sadao, Kikuchi Seiichi, Mark
Chang
- Các sách của các tác giả nước ngoài bằng Anh văn, Pháp văn: Alastair
Lamb, Barrow, John White, Charles Wheeler…
- Chúng tôi cũng sử dụng một số đối chiếu so sánh giữa kiến trúc Hội An với
kiến trúc ở một số nước trong khu vực (Nhật Bản, Trung Quốc) của các tác giả:
Kazuo Nishi & Kozuo Hozumi, Yasuo Nakahara, Lan-Shiang Huang…
Bên cạnh đó là những tư liệu điền dã thu thập được trong các chuyến đi thực

tế ở Trung Quốc, Huế, Thanh Hà, Bao Vinh, Phố Hiến và đặc biệt là Hội An trong
nhiều năm qua. Luận án cũng sử dụng các tư liệu bản vẽ của các đồng nghiệp.
Luận án kế thừa những tư liệu từ luận văn thạc sĩ đã bảo vệ tháng 5/2000 và
cập nhận những thành tựu nghiên cứu mới, kể cả những thông tin mới qua website.
6. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài thuộc lĩnh vực lịch sử Việt Nam cổ trung đại mà đối tượng nghiên cứu
của luận án là mảng lịch sử kiến trúc. Vì thế, phương pháp tiến hành của luận án đòi
hỏi sự kết hợp giữa lôgíc sử học và phân tích, đánh giá, miêu tả về bố cục, kết cấu
công trình và các thuật ngữ kiến trúc chuyên ngành.
Trong quá trình làm luận án, chúng tôi đã hệ thống hoá tư liệu theo phương
thức tổng hợp liên ngành để có những phân tích cho các vấn đề nêu trong luận án.
Phương pháp so sánh đồng đại cũng giúp cho chúng tôi có những kết luận chính xác
và khách quan hơn. Sử dụng các phương pháp sử học, điều tra XHH cũng như vẽ ghi
đạc hoạ, mô tả kiến trúc để từ đó có những lập luận lý giải.
15

Thừa hưởng những nguồn tư liệu đã có, kết hợp cùng tư liệu thực địa chúng
tôi mong muốn khớp nối, tổng hợp, đánh giá, phân tích để hình dung một đô thị Hội
An như đã từng là một đô thị nổi tiếng trong lịch sử. Một cách nhìn mới là tiếp cận
tiến trình lịch sử đô thị qua di sản kiến trúc. Vì chính những di sản này đã tạo nên
một “phong cách Hội An”. Đặt vấn đề hình thành và phát triển của Hội An từ góc
độ các di sản kiến trúc trong lòng đô thị.
7. Đóng góp của luận án
Luận án tiếp cận nghiên cứu đô thị dưới góc độ lịch sử kiến trúc đô thị thuộc
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam cổ trung đại. Luận án đã loại hình hoá các di tích
kiến trúc ở Hội An và so sánh có tính chất tương đồng với các đô thị trong nước và
nước ngoài.
Luận án cũng làm rõ sự tương tác giữa những vấn đề về điều kiện tự nhiên
và lịch sử - xã hội đương đại tác động tới hình thái đô thị. Dựa trên những cứ liệu
xác đáng đã được kiểm định, với lôgíc sử học tác giả luận án cũng cố gắng dẫn dắt

vấn đề từ những so sánh, nghiệm suy về đô thị Hội An trong lịch sử thông qua các
di tích kiến trúc.
- Tập hợp, hệ thống, phân loại các di sản kiến trúc Hội An từ đầu đến nay.
- Tiếp cận lịch sử kiến trúc làm rõ quá trình hình thành, thay đổi và phát triển
của các loại hình kiến trúc Hội An và qua đó hiểu được diện mạo lịch sử đô thị Hội An.
- Chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số ý tưởng về mối tương quan giữa sử học
và kiến trúc (so sánh, đối chiếu, suy luận về niên đại lịch sử đặt vấn đề hình thành
và phát triển của Hội An thông qua ngôn ngữ kiến trúc). Luận án đã tổng hợp và
được kiểm nghiệm qua khảo sát thực tế để tạo ra cái nhìn mới mẻ hơn về đô thị học.
Luận án hoàn thành sẽ góp phần vào việc biên soạn giáo trình về lịch sử kiến
trúc đô thị Việt Nam phục vụ cho công tác giảng dạy nghiên cứu chuyên ngành về
lịch sử và lịch sử kiến trúc Việt Nam. Đồng thời cũng góp vào khối tư liệu nghiên
cứu về lịch sử đô thị Hội An.
16

Luận án góp phần tăng thêm những cứ liệu cho công tác bảo tồn, tôn tạo di
tích trong giai đoạn mới, góp phần phát triển du lịch, văn hoá và kinh tế ở Hội An
hiện nay.
8. Cấu trúc luận án
Luận án gồm: 4 chương chính văn và phụ lục (viết, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ, ảnh chụp)
A. MỞ ĐẦU: (15 trang)
B. NỘI DUNG: gồm 3 chương (182 trang)
Chương 1. Những điều kiện tự nhiên xã hội và quá trình hình thành cảng thị
Hội An (37 trang)
Luận án tập trung phân tích những đặc điểm về vị trí địa lý tự nhiên vùng
Hội An và những điều kiện lịch sử - xã hội cũng như những biến động về kinh tế tác
động tới sự hình thành đô thị thương cảng Hội An. Đánh giá vai trò của Hội An trên
tuyến đường thương mại ở biển Đông, trong khu vực ĐNA và đóng góp của nó trên
tuyến hàng hải thế giới. Những đặc điểm này cho thấy rõ tính chất của một thương
cảng trong lịch sử. Từ đó định hình một cảng thị Hội An phát triển mạnh vào thế kỷ

XVII đến nửa đầu thế kỷ XVIII.
Được kế thừa và hội tụ của các nền văn hoá Sa Huỳnh, Chămpa, vùng QN -
ĐN đã trở thành một trung tâm văn hoá lớn tạo tiền đề cho Hội An hình thành và
phát triển. Tuy nhiên, để có được một cảng thị Hội An phải kể tới quá trình hình
thành và phát triển của nó trong suốt thời kỳ các chúa Nguyễn. Nhờ vào những
chính sách khai thông và cởi mở, Hội An là vùng đất mời chào nhiều thương nhân
từ khắp nơi đến buôn bán, giao thương và sinh sống dài lâu. Để có được khối cộng
đồng dân cư Việt chung sống với các cư dân từ các nước khác tới, chúa Nguyễn đã
phải có những chính sách điều phối linh hoạt vừa có thể hài lòng được khách
thương mà vẫn an lòng được người dân bản xứ.
Cũng dưới thời các chúa Nguyễn, thiết chế xã hội và dân cư ở Hội An được
định hình. Hiện tượng “cộng sinh” “hỗn dung văn hoá” xuất hiện, cư dân Việt gốc
17

ngày càng nhường chỗ cho cư dân và thương nhân các nước sinh sống. Đặc trưng
này tạo nên nền văn hoá có dáng vẻ quốc tế đa dân tộc.
Chương 2: Di tích kiến trúc Hội An từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII (45 trang)
Ở chương này, chúng tôi phân tích các yếu tố cơ bản từ khi Hội An chỉ là
vùng đất mới cho đến khi nó đã định hình là đô thị. Đó là thời kỳ tiền Hội An (trước
thế kỷ XVI) và thời kỳ Hội An (thế kỷ XVI - XVIII) để thấy rõ qua những bước
thăng trầm trong lịch sử đô thị vẫn có sự góp mặt của các loại hình kiến trúc mang
phong cách, đặc trưng bố cục và niên đại hình thành cùng với những biến động của
lịch sử Hội An.
Chúng tôi cũng mạnh dạn đưa ra những phỏng đoán về loại hình kiến trúc
thương điếm dựa trên những cứ liệu ghi chép lịch sử, bản vẽ… để có hình dung một
cách tương đối hình ảnh của loại hình kiến trúc này cũng như những khu phố riêng
biệt của các thương nhân khi trú chân ở Hội An
Thông qua các loại hình di tích kiến trúc, luận án cũng đưa ra những luận
điểm về quy mô và diện mạo của Hội An thời kỳ hình thành và phát triển.



Chương 3: Di tích kiến trúc Hội An từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX (33 trang)
Ở chương3, chúng tôi chia niên đại di tích theo 2 thời kỳ, đó cũng là niên đại
tương đồng của đô thị Hội An:
- Di tích kiến trúc đô thị Hội An từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
- Di tích kiến trúc đô thị Hội An từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Ở giai kỳ lịch sử này, yếu tố tự nhiên và lịch sử - xã hội là tác nhân quan
trọng làm biến đổi hình thái đô thị Hội An. Hội An không còn giữ vai trò như trước
trong lịch sử. Đô thị này hưng khởi vì chính những lý do trên và cũng lụi tàn vì lý
do đó. Tuy nhiên, các loại hình kiến trúc truyền thống vẫn tồn tại và xuất hiện
18

những loại hình mới bổ xung thêm vẻ đa dạng của quỹ kiến trúc đô thị. Các loại
hình kiến trúc về cơ bản đã dần định hình và thống nhất về hình thức. Điều kiện lịch
sử - xã hội chính là nguyên nhân ra đời các loại hình kiến trúc này, nói cách khác,
cách thức thể hiện và phân bố của các loại hình kiến trúc này lại phản ảnh trực tiếp
đến diện mạo, quy mô, phạm vi của đô thị Hội An khi đó.
Trước thế kỷ XIX, về cơ bản, cấu trúc phố xá ở Hội An vẫn mang nét truyền
thống chỉ đến khi người Pháp đến thì Hội An được tiếp nhận loại hình kiến trúc
công sở mới so với phong cách kiến trúc theo kiểu thức phương Đông trước đó. Còn
kiến trúc nhà phố được bổ sung và có những biến đổi về hình thức mặt tiền và cấu
trúc bên trong. Các khu phố được mở rộng do sự biến đổi của địa hình thì cũng
được quy hoạch và chỉnh trang dưới ý đồ của chính quyền thuộc địa. Kết quả là,
một hình ảnh đô thị Hội An có sự pha trộn kiến trúc Việt Nam truyền thống và kiến
trúc địa phương Pháp.
Có thể nói, đến thời điểm đầu thế kỷ XX, về cơ bản đường phố và di tích
kiến trúc Hội An đã căn bản được hoạch định và tồn tại cho đến ngày nay.
Chương 4: Phong cách kiến trúc đô thị Hội An (41 trang)
Sau khi đã hệ thống và phân tích sự chuyển đổi hình thái đô thị và các di tích
kiến trúc Hội An qua tiến trình lịch sử (từ đầu đến đầu thế kỷ XX), chúng tôi rút ra

những đặc trưng cơ bản của kiến trúc đô thị Hội An. Đặc trưng này thể hiện bản sắc
riêng của khu phố và quỹ kiến trúc đô thị Hội An là độc đáo và có phong cách
riêng.
Chương 4 phân tích 2 đặc trưng cơ bản: Đặc trưng về không gian kiến trúc
đô thị và nghệ thuật trang trí kiến trúc công trình. Từ những đặc trưng đó, chúng tôi
có những so sánh với những đô thị trong và ngoài nước để tìm ra đặc trưng chung
của các đô thị trung cổ Việt Nam, cũng như của các đô thị ở phương Đông.
Có thể thấy, nằm trong hệ thống đô thị cổ của châu Á, đô thị Hội An có
những đặc điểm riêng biệt, có phần nổi trội hơn so với các đô thị trong nước và
ngoài nước. Vì thế, vẫn có thể nhận thấy hình thái đô thị phương Đông đặc trưng và
19

hình thái đô thị miền Trung trong hệ thống đô thị cổ Việt Nam. Chúng tôi đặc biệt
chú trọng đến việc so sánh trên cơ sở các loại hình kiến trúc, sự ảnh hưởng và nét
tương đồng trong kết cấu kiến trúc giữa Hội An với đô thị trong nước và 2 đô thị
điển hình của châu Á là Nhật Bản và Trung Quốc.
C. KẾT LUẬN (4 trang)
D. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN (2 trang)
E. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 272 tài liệu (22 trang)
D. PHỤ LỤC:
Phụ lục viết: 11phụ lục (59 trang) và 65 ảnh minh hoạ
Phụ lục minh hoạ: 19 bảng ảnh, 4 bảng biểu, 8 sơ đồ, 22 bản đồ, 45 bản vẽ.


19

CHƢƠNG 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CẢNG THỊ HỘI AN

--

1.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÙNG HỘI AN
1.1.1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành vùng đất
Hội An hiện là một thị xã của tỉnh Quảng Nam cách Đà Nẵng 32km về phía
đông nam và cách thị xã tỉnh lỵ Tam Kỳ 55km về phía bắc. Hội An có diện tích
6.084ha, dân số khoảng 80.000 người, gồm 5 phường: Minh An, Sơn Phong, Cẩm
Phô, Thanh Hà, Tân An và 7 xã Cẩm Nam, Cẩm Hà, Cẩm Kim, Cẩm Châu, Cẩm
Thanh, Cẩm An, Tân Hiệp. Hội An nằm trên toạ độ trải rộng từ 17
0
52

đến 17
0
63’
vĩ Bắc và từ 108
0
15

đến 108
0
50’ kinh Đông. [BĐ1.1]
Vùng Đà Nẵng - Hội An là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển cả, gắn liền với
sự hình thành và phát triển của sông Thu Bồn. Những biến đổi về địa chất còn chịu
tác động mạnh mẽ do chiều hướng phát triển và những hoạt động kinh tế của nhân
dân nơi đây.
Các kết quả nghiên cứu địa chất đã chứng minh miền đất phân bố các đô thị
từ Đà Nẵng đến Hội An với diện tích hơn 500km
2
, chủ yếu cấu tạo bởi trầm tích

Kainozoi do hoạt động của các sông Cu Đê, sông Hàn, sông Thu Bồn và biển ven
bờ bồi tụ trên mặt bào mòn của các thành tạo đá Paleozoi - Mezozoi thuộc đới cấu
trúc kiến tạo Caledoni Quảng Nam - Đà Nẵng (QN - ĐN). Đới này kéo dài từ phía
Tây biên giới Việt - Lào, ôm lấy diềm Đông Bắc khối vỏ lục địa tiền Cambri Kon
Tum rồi chúc chìm dưới Biển Đông. [208]
Thời kỳ tạo vỏ lục địa Caledoni của đới QN - ĐN gắn liền với sự phá huỷ rìa
lục địa tiền Cambri KonTum.
20

Thời kỳ kiến tạo hồi sinh do tạo riftơ nội lục, hình thành trũng chồng Nông
Sơn chất đầy bởi trầm tích chứa than và lục nguyên tuổi Nori đến Jura giữa.
Thời kỳ Tân sinh đặc trưng bởi sự tái hoạt động của các đứt gãy Thành Mỹ -
Ngũ Hành Sơn, Đại Lộc - Hội An, Trà Kiệu, Hiệp Đức - Cửa Đại, sông Cu Đê - La
Vân hình thành địa hào Đại Lộc - Hội An, khởi đầu từ hệ tầng đá vụn thô hệ tầng Ái
Nghĩa tuổi Neogen đến trầm tích Pleistocen và Holocen có nguồn gốc sông, biển,
đầm lầy xen kẽ nhau theo hướng mở rộng và trải từ tây sang đông. Tại đây ghi nhận
sự ảnh hưởng của hoạt động Tân Sinh hình thành Biển Đông, mà đứt gẫy kinh
tuyến 110
0
cách bờ biển Đà Nẵng không xa.
Rõ ràng, vùng đô thị Đà Nẵng - Hội An là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển.
Sự hình thành và phát triển vùng của sông Thu Bồn lại chịu ảnh hưởng rất lớn các
điều kiện của biển lẫn lục địa. Những biến đổi về địa chất trong vùng còn chịu tác động
mạnh mẽ do chiều hướng phát triển và những hoạt động kinh tế của nhân dân.
1.1.2. Đặc điểm khí tƣợng thuỷ văn
1.1.2.1. Đặc điểm khí hậu
Chế độ gió: Vùng Hội An chịu tác động của hai mùa gió chủ yếu: Gió mùa
Đông (từ tháng 1 đến tháng 3 có gió mùa hướng đông bắc, bắc - tây bắc). Gió mùa
Hạ (tháng 4 đến tháng 10 hướng gió đông - đông nam), hay có bão và áp thấp nhiệt
đới (thường xảy ra vào cuối tháng 10).

Mùa mậu dịch hàng năm ở Hội An dựa trên sự biến đổi khí hậu và thời tiết.
Vào thời điểm gió mùa tây bắc thổi vào các tháng 9,10,11,12 và đông bắc vào các
tháng 1,2,3 có tốc độ 3 - 3,5m/s cũng xuất hiện trong thời kỳ mưa rét ở Hội An. Gió
mùa đông nam xuất hiện vào tháng 4,5,6 trùng vào các tháng mùa khô kéo dài từ
tháng 2 đến tháng 8 đã tạo nên cho Hội An 2 mùa rõ rệt: mùa mưa lũ, gió bão, rét từ
tháng 9 - 1; mùa khô, mát từ tháng 2 - 8 thuận lợi cho việc tổ chức những hoạt động
thương nghiệp ngoài trời. Mùa khô ráo biển lặng thuận lợi cho thuyền đi và cập bến
cũng là mùa của mậu dịch.
21

Điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm vùng Hội An cùng với những nhu cầu trao
đổi hàng hoá của các thương thuyền ngoại quốc tới, làm nảy sinh phương thức buôn
bán theo mùa vụ. Họ gọi đó là mùa mậu dịch, phiên chợ kéo dài hay Hội chợ. Mùa
mậu dịch phụ thuộc vào hai hướng “gió mậu dịch” trong năm: gió đông bắc (bấc)
và gió đông nam (nồm).
Có những trường hợp thương nhân Trung Quốc, đỗ tàu để buôn bán do
thương vụ kéo dài nên không quay về nước kịp kỳ gió mùa tháng 7, 8 vì gió mùa
không thuận, đành lưu trú qua năm chờ mùa gió thuận buồm. Nhằm mục đích hỗ trợ
các loại thương nhân phải lưu trú tạm thời ngày một đông, nên các hội quán dần
được thành lập (như Dương Thương, Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải
Nam) trở thành nơi tạm cư trong những tháng buôn bán hay chờ thời gian mậu
dịch.
Những điều kiện gió như trên là tác nhân làm cho cát di chuyển và tích tụ khi
gặp điều kiện thuận lợi, tạo thành những cồn cát cao tới 6 - 8m, thậm chí đến 13 -
14m như phía đông bắc Trung Phường Đây chính là tác động chủ yếu trong quá
trình hình thành, phát triển địa hình bờ biển.
Nhiệt độ không khí: mùa Đông nhiệt độ trung bình khoảng 23 - 24
0
C, nhiệt
độ thấp nhất vào tháng 12, tháng 1 khoảng 15 - 20

0
C, có năm xuống đến 11
0
C. Mùa
Hạ nhiệt độ trong các tháng tương đối đồng đều nhau; từ 28 - 30
0
C, cao nhất 39 -
40
0
C, thấp tuyệt đối khoảng 21 - 23
0
C.
Độ ẩm không khí mùa đông từ 82 - 84%, mùa Hạ giảm còn 75 - 78% và hiệu
ứng gió “phơn” làm nhiệt độ tăng, độ ẩm giảm, có khi tới 30%. Cristoforo Borri đầu
thế kỷ XVII nhận xét: Nếu trong mùa hè bao gồm các tháng 6, 7, 8 xứ này nóng vì
ở vùng nhiệt đới và mặt trời ở vào đỉnh điểm của nó, thì trái lại vào tháng 9, 10, 11
là mùa thu, cái nóng hết đi, không khí trở nên điều hoà hơn, nhờ những cơn mưa
liên tục từ trên miền núi cao, các dòng nước tuôn trào, tràn ngập vương quốc, chảy
ra đến tận biển. Trong 3 tháng này các trận lụt xảy ra cứ 15 ngày một, mỗi lần kéo
dài 3 ngày 3 tháng mùa đông phân biệt được với các mùa khác trong năm. Cuối

×