Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 94 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 3
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại 5
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng 5
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 8
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn 8
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn 10
1.1.3.3. Hoạt động khác 12
1.2. Hoạt động cho vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại 12
1.2.1. Khái niệm cho vay 12
1.2.4. Đặc điểm hoạt động cho vay trung và dài hạn 18
1.2.5. Vai trò của cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại 19
1.2.5.1. Vai trò đối với Ngân hàng 19
1.2.5.2. Vai trò đối với khách hàng 20
1.2.5.3. Vai trò đối với nền kinh tế 21
1.2.6. Quy trình cho vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại 22
1.3. Chất lượng cho vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại 24
1.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay trung và dài hạn 24
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay trung và dài hạn tại các Ngân
hàng thương mại 25
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay trung và dài hạn tại các
Ngân hàng thượng mại 29
1.3.3.1. Các nhân tố từ môi trường vĩ mô 29
1.3.3.2. Các nhân tố từ khách hàng 30
1.3.3.3. Các nhân tố từ phía ngân hàng 31
CHƯƠNG 2 35
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI


NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI
NHÁNH QUANG TRUNG 35
2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Quang Trung 35
1
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 35
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam 35
2.1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Quang Trung 37
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Quang Trung 37
2.1.2.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức 37
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ bộ máy tổ chức BIDV Quang Trung 38
2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban 41
2.1.3. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 43
2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn 43
2.1.4. Kết quả các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung giai đoạn 2009-2011 46
2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn 46
2.1.4.2. Họat động cho vay 48
2.1.4.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ 50
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 50
2.2.1. Những quy định về hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 50
2.2.2. Quy trình cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 52
2.3. Thực trạng chất lượng hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng

TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 55
2.3.2. Doanh số cho vay trung và dài hạn 57
2.3.4. Vòng quay vốn cho vay trung và dài hạn 59
2.3.5. Hệ số sử dụng vốn trung dài hạn 60
2.3.6. Chỉ tiêu nợ xấu trung và dài hạn 61
2.3.7. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay trung và dài hạn 63
2.4. Đánh giá chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 65
2.4.1. Những kết quả đạt được 65
2
2.4.2. Những hạn chế 66
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế 68
2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan 68
2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan 69
CHƯƠNG 3 71
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM -
CHI NHÁNH QUANG TRUNG 71
3.1. Định hướng hoạt động cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung trong thời
gian tới 71
3.1.1. Định hướng chung 71
3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay trung và dài hạn 72
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 73
3.2.1. Các giải pháp chung 73
3.2.1. Các giải pháp riêng 74
3.2.1.1. Các giải pháp về huy động vốn 74
3.2.2.4. Các biện pháp về công tác thẩm định dự án và quyết định cho vay. 78
3.2.2.6. Về chính sách tiếp thị 81

3.3. Kiến nghị 81
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 81
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 83
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam 84
KẾT LUẬN 85
15. Website Báo điện tử Vnexpress.net: />tuc/song-tai-chinh/2012/02/no-xau-he-thong-ngan-hang-2011-la-3-3-
5445/ Nợ xấu hệ thống ngân hàng 2011 là 3,3%, ra ngày 06/02/2012 87
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
3
BIDV Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
BIDV Quang Trung Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam – Chi nhánh Quang Trung
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
KHCN Khách hàng cá nhân
KHDN Khách hàng doanh nghiệp
CV TDH Cho vay trung và dài hạn
TCTD Tổ chức tín dụng
4
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1 3
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại 5
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng 5
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 8
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn 8

1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn 10
1.1.3.3. Hoạt động khác 12
1.2. Hoạt động cho vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại 12
1.2.1. Khái niệm cho vay 12
1.2.4. Đặc điểm hoạt động cho vay trung và dài hạn 18
1.2.5. Vai trò của cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại 19
1.2.5.1. Vai trò đối với Ngân hàng 19
1.2.5.2. Vai trò đối với khách hàng 20
1.2.5.3. Vai trò đối với nền kinh tế 21
1.2.6. Quy trình cho vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại 22
1.3. Chất lượng cho vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại 24
1.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay trung và dài hạn 24
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay trung và dài hạn tại các Ngân
hàng thương mại 25
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay trung và dài hạn tại các
Ngân hàng thượng mại 29
1.3.3.1. Các nhân tố từ môi trường vĩ mô 29
1.3.3.2. Các nhân tố từ khách hàng 30
1.3.3.3. Các nhân tố từ phía ngân hàng 31
CHƯƠNG 2 35
5
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI
NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI
NHÁNH QUANG TRUNG 35
2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Quang Trung 35
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 35
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam 35

2.1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Quang Trung 37
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi
nhánh Quang Trung 37
2.1.2.1. Sơ đồ bộ máy tổ chức 37
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ bộ máy tổ chức BIDV Quang Trung 38
2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban 41
2.1.3. Các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển
Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 43
2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn 43
2.1.4. Kết quả các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung giai đoạn 2009-2011 46
2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn 46
2.1.4.2. Họat động cho vay 48
2.1.4.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ 50
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 50
2.2.1. Những quy định về hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 50
2.2.2. Quy trình cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát
triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 52
2.3. Thực trạng chất lượng hoạt động cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 55
2.3.2. Doanh số cho vay trung và dài hạn 57
2.3.4. Vòng quay vốn cho vay trung và dài hạn 59
2.3.5. Hệ số sử dụng vốn trung dài hạn 60
6
2.3.6. Chỉ tiêu nợ xấu trung và dài hạn 61
2.3.7. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay trung và dài hạn 63
2.4. Đánh giá chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 65

2.4.1. Những kết quả đạt được 65
2.4.2. Những hạn chế 66
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế 68
2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan 68
2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan 69
CHƯƠNG 3 71
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM -
CHI NHÁNH QUANG TRUNG 71
3.1. Định hướng hoạt động cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung trong thời
gian tới 71
3.1.1. Định hướng chung 71
3.1.2. Định hướng hoạt động cho vay trung và dài hạn 72
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Quang Trung 73
3.2.1. Các giải pháp chung 73
3.2.1. Các giải pháp riêng 74
3.2.1.1. Các giải pháp về huy động vốn 74
3.2.2.4. Các biện pháp về công tác thẩm định dự án và quyết định cho vay. 78
3.2.2.6. Về chính sách tiếp thị 81
3.3. Kiến nghị 81
3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước 81
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 83
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam 84
KẾT LUẬN 85
15. Website Báo điện tử Vnexpress.net: />tuc/song-tai-chinh/2012/02/no-xau-he-thong-ngan-hang-2011-la-3-3-
5445/ Nợ xấu hệ thống ngân hàng 2011 là 3,3%, ra ngày 06/02/2012 87
7
LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, nền kinh tế nước ta đã dần chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên năng động và hiệu quả hơn, môi trường cũng
cạnh tranh gay gắt hơn, từ đó đòi hỏi mọi người phải sáng tạo hơn để thích nghi với
môi trường.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Hoạt động của Ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường cũng đòi hỏi sự mềm dẻo và thích ứng cao độ. Trong điều kiện hiện nay,
trước những diễn biến hết sức phức tạp của thị trường, rất hiều doanh nghiệp đã lâm
vào tình trạng khó khăn, thiếu vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh thì vai trò của các
Ngân hàng thương mại ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, việc cung ứng vốn
cho nền kinh tế của các Ngân hàng không phải là việc dễ dàng, bởi hiện nay phần
lớn các doanh nghiệp thiếu vốn trung và dài hạn để đầu tư theo chiều sâu trong khi
hoạt động này mang lại không ít rủi ro cho Ngân hàng.
Cũng giống như phần lớn các Ngân hàng khác, thời gian qua, hoạt động cho
vay trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi
nhánh Quang Trung vẫn còn rất nhiều khó khăn cần sớm phải khắc phục. Chính vì
vậy, làm thế nào để nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn có ý nghĩa rất lớn
đối với Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quang Trung
nói riêng và cả hệ thống Ngân hàng nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác cho vay trung và dài hạn, qua
tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh
Quang Trung, em quyết định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay trung và
dài hạn của Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để làm chuyên đề
tốt nghiệp của mình. Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận thì gồm
có 3 chương:
1
Chương 1: Lý luận chung về chất lượng cho vay trung và dài hạn tại
Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quang Trung.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quang Trung.
Do có nhiều hạn chế về mặt thời gian cũng như về mặt kinh nghiệm thực tế
nên chuyên đề của em không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo để bài chuyên đề của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình, tạo điều kiện của các thầy cô
trong Viện Ngân hàng – Tài chính, đặc biệt là thầy giáo ThS. Đặng Ngọc Biên đã
trực tiếp hướng dẫn em và các anh chị ở các phòng chức năng của Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Quang Trung đã giúp đỡ em rất
nhiều để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
Em xin cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng là một chủ thể có vai trò cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong mọi nền kinh tế. Hàng triệu hộ
gia đình, doanh nghiệp và cá nhân gửi tiền ở ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức cho
vay chủ yếu đối với các chủ thể trong nền kinh tế, từ cá nhân, doanh nghiệp cho tới
Chính phủ. Ngân hàng bao gồm nhiều loại và tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nới riêng mà ngân hàng thương mại thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về số lượng các ngân hàng, về quy mô tài sản cũng như về
thị phần. Với vai trò quan trọng như vậy nhưng quan niệm thế nào về một ngân

hàng thương mại và phân biệt nó với các tổ chức phi Ngân hàng không phải là điều
đơn giản. Chúng ta có thể định nghĩa ngân hàng thông qua chức năng, các dịch vụ
hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế, tuy nhiên vấn đề ở chỗ không chỉ
các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi mà đã có sự đan xen về chức năng hoạt
động giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Do đó, tùy theo
điều kiện của mỗi nước và sự phát triển của hệ thống tài chính của nước đó mà có
những định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại.
Theo luật Ngân hàng của Pháp thì Ngân hàng thương mại được định nghĩa
như sau: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp
thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hay hình
thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong nghiệp vụ chiết khấu, tín
dụng hay dịch vụ tài chính” [1].
Ở Mỹ thì họ quan niệm: “Ngân hàng thương mại là công ty chuyên kinh
doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công
nghiệp dịch vụ tài chính” [1].
Còn luật pháp Ấn Độ lại có cái nhìn về Ngân hàng thương mại như sau:
“Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ và
đầu tư” [1].
Trên đây là các quan niệm đứng trên giác độ luật pháp, còn đứng trên giác độ
kinh tế thì sao? Các nhà kinh tế học trên thế giới đã quan niệm Ngân hàng thương
3
mại là một doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
Ví dụ một định nghĩa được Giáo sư Peter Rose đưa ra như sau: “Ngân hàng là loại
hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất,
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [11].
Ở Việt Nam thì Ngân hàng thương mại được định nghĩa như sau: “Ngân
hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu
lợi nhuận” (Theo Điều 4, Khoản 3, Luật các tổ chức tín dụng 2010 Việt Nam).

Vậy hoạt động ngân hàng bao gồm những hoạt động nào?
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
(Theo Điều 4 Khoản 12, Luật các tổ chức tín dụng 2010 Việt Nam)
Cũng theo đó, tổ chức tín dụng phi ngân hàng được định nghĩa như sau: “Tổ
chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc
một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận
tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách
hàng. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê
tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác” (Theo Điều 4, Khoản 4, Luật
các tổ chức tín dụng 2010 Việt Nam).
Như vậy, từ những nhận định trên có thể đi đến kết luận là Ngân hàng
thương mại là một trong những định chế tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền
gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra ngân hàng thương mại
cũng cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch
vụ của xã hội. Đặc điểm để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính phi ngân
hàng đó là chỉ có ngân hàng mới được phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi của
cá nhân.
4
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tín dụng với hoạt động chính là chuyển
tiền tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và hai loại tổ
chức trong nền kinh tế, đó là các cá nhân và tổ chức tạm thời thiếu hụt chi tiêu và
các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu. Những người tạm thời thiếu hụt trong
chi tiêu là những người chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt qua thu nhập của họ
và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Những người thặng dư trong chi tiêu

là những người mà thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hoàng
hóa và dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại chủ thể trên
trong nền kinh tế là hoàn toàn độc lập với sự tồn tại của ngân hàng và nhu cầu
chuyển giao vốn giữa hai nhóm chủ thể trên là tất yếu sẽ xảy ra. Dòng tiền ra đi với
điều kiện quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định
sẽ làm cho thu nhập của các chủ thể tham gia tăng lên là động lực tạo ra mối quan
hệ tín dụng giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển mà không tạo ra giá trị thặng
dư thì đó không phải là quan hệ tín dụng mà chỉ là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn
[1].
Ví dụ về quan hệ tín dụng như sau, người có tiền tiết kiệm đòi 1% cho chi
phí giao dịch, 3% dự phòng rủi ro và 3% là thu nhập ròng từ số tiền mà anh ta tạm
thời từ bỏ quyền sử dụng để cho vay. Người vay phải chi 1% để chi phí giao dịch,
7% trả cho người cho vay, tổng cộng phí tổn tín dụng là 8%. Nếu việc sử dụng tiền
vay được tạo ra cho anh ta một tỷ suất lợi nhuận lớn hơn 8% thì quan hệ tín dụng sẽ
được thiết lập. Quan hệ tín dụng trên đây là quan hệ tín dụng trực tiếp, nó đã có từ
rất lâu và vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng trực tiếp có rất
nhiều hạn chế bởi vì người vay và người cho vay có nhiều sự cách biệt về không
gian, thời gian và khác biệt về quy mô của vốn. Điều này dẫn đến nhu cầu cần có
một chủ thể đứng ra làm trung gian cho hai chủ thể trên, chủ thể này sẽ khắc phục
được những nhược điểm của quan hệ tín dụng trực tiếp.
Bây giờ cũng với ví dụ trên nhưng trong điều kiện có trung gian tín dụng thì
có điều gì khác? Khi có thêm trung gian tín dụng thì vì được chuyên môn hóa nên
trung gian tín dụng có thể làm giảm chỉ phí giao dịch từ 2% ở trên xuống còn 1%,
giảm rủi ro từ 3% xuống còn 1,5%. Tổ chức trung gian có thể trả cho người có tiền
tiết kiệm 4% với cam kết không có rủi ro (cao hơn so với 3% mà người cho vay
nhận được trước đó), và đòi người vay vốn 7,5% (thấp hơn so với 8% mà người này
5
phải trả cho người cho vay trước đó). Như vậy chênh lệch 7,5% - 1% - 1,5% - 4% =
1% sẽ là thu nhập ròng của tổ chức trung gian. Như vậy với sự xuất hiện của trung
gian tín dụng đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó sẽ khuyến khích tiết

kiệm, đồng thời làm giảm chi phí của người đi vay, nghĩa là cũng làm tăng thu nhập
cho họ, từ đó mà khuyến khích đầu tư. Qua hoạt động này mà trung gian tín dụng
cũng nhận được thu nhập, bởi vì chính họ đã tập hợp được các người tiết kiệm và
đầu tư lại với nhau, từ đó tạo điều kiện để phá vỡ khoảng cách về quy mô, thời gian,
không gian giữa cung và cầu vốn. Không những thế, cơ chế hoạt động của trung
gian sẽ hiệu quả hơn, bởi vì bằng những nghiệp vụ kỹ thuật, nó sẽ hạn chế, phân tán
rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Về bản chất, khi tham gia vào quan hệ tín dụng, ngân hàng phải sẵn sàng
chấp nhận cho vay các khoản có nhiều rủi ro nhưng lại phát hành các chứng khoán
ít rủi ro cho người gửi tiền, đó chính là ngân hàng đã tham gia vào hoạt động kinh
doanh rủi ro. Bằng khả năng thẩm định thông tin của mình và sự phân bổ thông tin
không đồng đều hay gọi là “thông tin không cân xứng”, đã tạo ra khả năng sinh lợi
cho ngân hàng, nơi mà có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài
chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro và lợi nhuận hấp
dẫn nhất.
Một lý do nữa cho sự tồn tại của ngân hàng đó chính là sự không hoàn hảo
trong hệ thống tài chính. Chẳng hạn các khoản tín dụng và chứng khoán không thể
chia thành các khoản nhỏ mà mọi người đều có thể mua được. Ngân hàng cung cấp
một dịch vụ có giá trị trong việc chia chứng khoán đó thành các chứng khoán nhỏ
hơn dưới dạng tiền gửi tiết kiệm để phục vụ cho hàng triệu người. Trong ví dụ này,
vai trò của ngân hàng là trung gian phục vụ những người tiết kiệm trong hệ thống
tài chính còn kém hoàn hảo [1].
1.1.2.2. Chức năng tạo tiền
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân
hàng thương mại không tạo được tiền kim loại nhưng nó tạo được phương tiện
thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng
thương mại phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán
rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại mà họ
đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim

loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất giữ và nó trở thành tiền giấy. Sau
6
đó, bằng quyền lực của mình, Nhà nước đã tập trung việc in tiền vào một tổ chức,
hoặc là Bộ Tài chính hoặc là Ngân hàng Trung ương, từ đó chấm dứt việc các ngân
hàng thương mại tạo ra tiền giấy bạc của riêng mình [12].
Trong điều kiện thanh toán qua ngân hàng phát triển nhanh, các khách hàng
nhận thấy rằng nếu họ có số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch họ có thể sử dụng
để chi trả cho hàng hóa, dịch vụ mà họ mua không khác gì so với việc sử dụng tiền
mặt. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản của khách hàng tăng lên, khách
hàng có thể dùng để mua hàng và thanh toán. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng
tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận trong đó có cả số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch
của khách hàng tài các ngân hàng. Vì vậy, có thể nói, bằng việc cho vay hay tạo tín
dụng mà các ngân hàng thương mại đã tạo ra phương tiện thanh toán (tạo ra M1)
cho nền kinh tế [12].
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra được phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi ngân hàng được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên
cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả
thì sẽ làm tăng số dư tiền gửi của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ
đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng nào có thể cho
vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng
tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín
dụng). Đây chính là quá trình tạo ra số nhân tiền gửi của hệ thống ngân hàng thương
mại [1].
1.1.2.3. Trung gian thanh toán
Ở hầu hết các quốc gia hiện nay, ngân hàng đã trở thành trung gian thanh
toán lớn nhất cho toàn bộ nền kinh tế. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện
thanh toán các hóa đơn hàng hoá và dịch vụ mà khách hàng mua. Để việc thanh
toán diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí nhất, ngân hàng đưa ra cho
khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, bằng uỷ nhiệm chi,
nhờ thu, thanh toán bằng thẻ Ngân hàng cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử

trong nội bộ ngân hàng và cả liên ngân hàng, ngân hàng kết nối các quỹ và ngân
hàng cũng có thể cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng thực hiện
thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các
trung tâm thanh toán. Khi quy mô thanh toán ngày càng được mở rộng thì công
nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao. Vì vậy, công nghệ thanh toán
hiện đại qua ngân hàng được các nhà quản lý ngày nay tìm cách áp dụng rộng rãi.
7
Nhiều hình thức thanh toán qua ngân hàng đã được chuẩn hoá nhằm mục đích góp
phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một
quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn cầu. Nhờ có các trung tâm thanh toán
quốc tế được thiết lập mà hiệu quả thanh toán qua ngân hàng được tăng cao, biến
ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng nhất và phục vụ đắc lực cho
nền kinh tế thế giới [1].
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay, đó là hai mặt của hoạt
động cho vay. Trong xu thế hiện nay, các Ngân hàng thương mại hoạt động theo
loại hình đa năng thì hoạt động của nó đa dạng và phức tạp hơn nhưng vẫn tập trung
vào ba mảng hoạt động chính, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng
vốn và hoạt động trung gian thanh toán.
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
a. Nhận tiền gửi
Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Thông thường tiền gửi chiếm hơn
50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hằng năm của các ngân hàng. Ngân
hàng có thể huy động tiền gửi từ các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, tổ chức xã
hội và tiền gửi của các ngân hàng khác. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh
tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa
ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau như: tiền gửi thanh toán, tiền
gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn. Mỗi một hình thức huy

động tiền gửi đều có ưu điểm và nhược điểm riêng nhưng đều mang lại cho ngân
hàng một sự gia tăng nguồn vốn lớn. Tiền gửi có đặc điểm là khách hàng có thể đến
ngân hàng rút bất cứ lúc nào, nếu khách hàng đến rút trước kỳ hạn thì khách hàng sẽ
không được hưởng lãi suất hoặc được hưởng với lãi suất thấp. Vì tính linh động này
cho nên lãi suất của tiền gửi thường thấp hơn so với tiền vay, tuy nhiên nó lại gây
cho ngân hàng khó khăn trong vấn đề thanh khoản. Vì vậy trong một số trường hợp,
để đảm bảo có đủ vốn để hoạt động thì các ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ đi
vay [1].
b. Đi vay
8
Tiền vay có ưu điểm là Ngân hàng chỉ phải hoàn trả khi khoản vay đó đến
hạn, điều này khiến ngân hàng có thể chủ động hơn trong hoạt động của mình, vì
vậy khi cần thì Ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm. Trong trường hợp
thiếu hụt cấp bách trong chi trả hoặc trong dự trữ (dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh
toán), Ngân hàng thương mại thường vay tiền từ Ngân hàng Nhà nước. Hình thức
cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Song,
nguồn này thường bị hạn chế vì chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước về
khoản vay mượn này rất chặt chẽ. Ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều
kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định, thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái
chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng và kỳ hạn ngắn [1]. Một nguồn
khác ngân hàng có thể vay là nguồn từ các tổ chức tín dụng khác, đây là nguồn mà
các ngân hàng vay mượn lẫn nhau để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách để
bổ sung, thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước. Cũng giống như
các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng có thể vay mượn trên thị trường vốn
bằng cách phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu [1]. Do đặc
điểm nguồn tiền gửi trung và dài hạn thường chỉ chiếm tỷ lệ thấp nên các Ngân
hàng thương mại thường dựa vào hình thức vay trung và dài hạn để bổ sung cho các
nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, do thị trường
vốn ở Việt Nam chưa phát triển do vậy mà nguồn tiền có được từ nghiệp vụ này còn
rất ít ỏi. Hơn nữa, thông thường đây là khoản vay mượn không có bảo đảm nên chỉ

những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao mới vay được nhiều, còn các ngân
hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này mà họ phải thông qua các
ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của các ngân hàng lớn hơn. Vì vậy các nghiệp
vụ vay mượn là tương đối phức tạp, ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường để
quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và kỳ hạn vay thích hợp [1].
c. Huy động vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu đi vào hoạt động thì đầu tiên chủ ngân hàng cần phải có một
lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng sử dụng lâu dài, giúp hình thành
nên tài sản cố định cho ngân hàng và cũng có thể tham gia vào các hoạt động khác
của ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng
tuỳ theo tính chất sở hữu và năng lực tài chính của chủ ngân hàng. Nguồn hình
thành có thể là vốn góp ban đầu và nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động,
thông qua hoạt động tăng vốn điều lệ hoặc bổ sung từ lợi nhuận giữ lại. Để tăng vốn
điều lệ, ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phiếu đối với Ngân hàng thương mại
9
cổ phần hoặc cấp thêm vốn, tăng vốn đối với Ngân hàng thương mại Quốc doanh,
Ngân hàng TNHH một thành viên hoặc nhiều thành viên. Trong quá trình phát triển
của bản thân ngân hàng cũng như của hệ thống ngân hàng thì yêu cầu tăng vốn là
yêu cầu bắt buộc. Bởi vì nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn rất quan trọng đối với
ngân hàng, nó là cơ sở để các ngân hàng đưa ra chiến lược hoạt động; quy định quy
mô được phép hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra Vốn chủ sở hữu còn đảm bảo an
toàn cho hoạt động ngân hàng thông qua Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) = mà
theo Ủy ban Basel công bố là 8% (Nguồn: Hiệp định Basel III). Vốn chủ sở hữu lớn
cũng sẽ củng cố lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng cũng như nâng cao uy
tín của ngân hàng trên thị trường. Tuy nhiên nguồn vốn này có đặc điểm là khó huy
động và chi phí huy động cao nên nó thường chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng
nguồn vốn. Do vậy, để cho vay có hiệu quả, các ngân hàng chủ yếu huy động từ tiền
gửi của khách hàng.
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Để có được nguồn vốn tạo ra nên các tài sản cả ngân hàng, ngân hàng đã

phải bỏ ra chi phí huy động và những chi phí khác để quản lý nguồn vốn. Do vậy để
thu được lợi nhuận, ngân hàng phải thực hiện cho vay ngay hoặc đầu tư ngay số tài
sản ấy vào những hoạt động sinh lãi. Ngân hàng thường có các hoạt động sử dụng
vốn như sau:
a. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là một khái niệm đã tồn tại lâu trong đời sống xã hội loài người.
Theo tiếng La Tinh thì tín dụng có nghĩa là sự tin tưởng, điều này có nghĩa là trong
mối quan hệ tín dụng, người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn và
lãi đúng thời gian như hai bên đã thoả thuận. Như vậy, tín dụng hiểu theo cách
đơn giản nhất là một quan hệ vay mượn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc có hoàn
trả [1]. Theo định nghĩa này thì tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và
đi vay. Tuy nhiên khi gắn với chủ thể là ngân hàng hay các tổ chức trung gian tín
dụng khác thì tín dụng được hiểu theo nghĩa là ngân hàng cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt dộng kinh doanh quan trọng của các ngân hàng
thương mại. Đối với các ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển như Việt
Nam thì hoạt động tín dụng không chỉ là hoạt động sử dụng vốn nhiều nhất, mà còn
là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu trong tất cả các hoạt động sinh lợi. Theo thống kê
10
thì ở các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, thu nhập từ hoạt động cho vay
vẫn chiếm tỷ lệ khoảng 90% trong tổng thu nhập của các ngân hàng [1].
Việc cấp tín dụng hiện nay cũng có rất nhiều hình thức, ở Việt Nam thì
“Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và
các nghiệp vụ cấp tín dụng khác” (Theo Điều 4, khoản 14, Luật các tổ chức tín
dụng 2010).
Hoạt động tín dụng thường bao gồm các nghiệp vụ sau:
- Cho vay: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao
hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả

gốc và lãi” (Theo Điều 4, Khoản 16, Luật các tổ chức tín dụng 2010).
- Chiết khấu: “Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền
truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước
khi đến hạn thanh toán” (Theo Điều 4, Khoản 19, Luật các tổ chức tín dụng 2010).
- Cho thuê tài chính: “Cho thuê tài chính là nghiệp vụ mà ngân hàng bỏ tiền
ra để mua tài sản, thường là những tài sản cố định có giá trị lớn, để cho khách hàng
thuê theo những thỏa thuận nhất định. Hàng kỳ khách hàng sẽ phải trả tiền thuê cho
ngân hàng và khi hết thời hạn thuê thì ngân hàng có thể bán lại tài sản đó cho khách
hàng” [2].
- Bao thanh toán: “Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán
hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các
khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ” (Theo Điều 4,
Khoản 17, Luật các tổ chức tín dụng 2010).
- Bảo lãnh ngân hàng: “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo
đó tổ chức tín dụng cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực
hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả
cho tổ chức tín dụng theo thỏa thuận” (Theo Điều 4, Khoản 18, Luật các tổ chức tín
dụng 2010). Đây chính là việc ngân hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi mặc dù
11
ngân hàng không phải xuất tiền ra. Bảo lãnh ngân hàng được ghi vào tài sản ngoại
bảng giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay cho khách hàng của mình. Khi phát sinh
nghiệp vụ chi trả phần bảo lãnh mà ngân hàng phải thực hiện thì ngân hàng mới
được ghi nhận vào tài sản nội bảng.
Nhìn chung thì hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại lợi nhuận cao nhất
cho ngân hàng và cũng là hoạt động quyết định sự thành bại của các ngân hàng. Tuy
nhiên nó lại chứa đựng khá nhiều rủi ro. Vì vậy mà các ngân hàng ngày nay, ngoài
việc tập trung vào hoạt động truyền thống là tín dụng, họ còn mở rộng hoạt động
sang lĩnh vực đầu tư.

b. Hoạt động đầu tư
Tham gia vào hoạt động đầu tư sẽ góp phần làm tăng thêm thu nhập cho các
ngân hàng. Hoạt động này vốn rất đa dạng, nó có nhiều hình thức như góp vốn, mua
cổ phần của các công ty, thành lập các công ty liên doanh liên kết, mua bán các
chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu. Tất cả các hoạt động này đều nhằm đa dạng hoá
hoạt động ngân hàng, giảm thiểu rủi ro, đem lại nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng.
Ngoài ra hoạt động đầu tư giúp cho ngân hàng khai thác tối đa nguồn vốn đã huy
động đồng thời tạo tính lỏng mới cho tài sản của ngân hàng [1].
1.1.3.3. Hoạt động khác
Ngày nay kinh tế ngày một phát triển, nhu cầu con người ngày càng nâng
cao, và để hoà nhập với sự phát triển đó, các ngân hàng thương mại không chỉ bó
hẹp ở những hoạt động truyền thống mà họ đã và đang đa dạng hóa các nghiệp vụ,
mở rộng các loại hình dịch vụ như mua bán ngoại tệ, cung cấp dịch vụ uỷ thác, tư
vấn, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ
quản lý ngân quỹ, [1].
Các hoạt động của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ
trợ nhau tạo cho ngân hàng một sản phẩm toàn diện trong môi trường cạnh tranh.
1.2. Hoạt động cho vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm cho vay
Cho vay có ý nghĩa rất lớn đối với từng chủ thể kinh tế cũng như đối với nền
kinh tế đất nước và nó có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng xã hội
của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế. Cho vay là lý do tồn tại cơ bản đối với
ngân hàng thương mại, là nhu cầu thiết yếu của tất cả các chủ thể và thành phần
12
khác nhau trong nền kinh tế. Đối với các ngân hàng thương mại thì cho vay thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hoạt động của nó. Cho vay không chỉ là khoản sử
dụng vốn lớn nhất của ngân hàng, mà còn là nguồn tạo ra thu nhập lớn nhất trong
tất cả các tài sản có sinh lợi [1].
Theo Luật các tổ chức tín dụng 2010 thì cho vay được định nghĩa: “Cho vay
là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách

hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi” (Nguồn: Điều 4,
Khoản 16, Luật Các tổ chức tín dụng 2010).
Cho vay thường được định lượng qua 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ
và dư nợ cho vay cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng
đã cho vay ra trong kỳ, còn dư nợ cho vay cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện
đang còn cho vay tại thời điểm cuối kỳ. Dư nợ cho vay được thể hiện trên báo cáo
tài chính ở khoản mục “dư nợ”.
1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay và khái niệm cho vay trung và dài hạn
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế mà các hình thức cho vay của Ngân
hàng thương mại hiện nay rất đa dạng và phong phú. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu
mà có thể phân chia các loại hình cho vay theo các tiêu chí khác nhau. Trên thực tế
có ba cách chia phổ biến như sau:
1.2.2.1. Phân loại theo hình thức cho vay
Nếu phân loại theo hình thức thì cho vay có các loại sau:
a. Thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay mà qua đó ngân hàng cho phép người vay
được phép chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của khách hàng đó trong một giới
hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi [1]. Hình thức này áp dụng đối với khách hàng có tiền gửi thanh toán
tại ngân hàng mà thu chi của khách hàng đó không phù hợp về thời gian và quy mô.
Trong quá trình hoạt động, khạch hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi, thanh toán
vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (trong hạn mức). Phần chi vượt so với số tiền gửi
thanh toán của khách hàng sẽ được chuyển thành khoản vay ngân hàng của khách
hàng và khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản thì ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ
gốc và lãi. Thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản và
phần lớn là không có đảm bảo, có thể áp dụng cho cả khách hàng cá nhân và khách
13
hàng doanh nghiệp. Tùy theo khả năng tài chính của khách hàng, mối quan hệ
khách hàng - ngân hàng mà ngân hàng sẽ quyết định hạn mức thấu chi cho từng

khách hàng khác nhau. Nhìn chung, hình thức này chỉ áp dụng với các khách hàng
có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn [1].
b. Cho vay theo hạn mức
Là nghiệp vụ cho vay theo đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một
hạn mức tín dụng tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Hạn mức tín dụng cả kỳ nghĩa là dư
nợ trong kỳ của khách hàng luôn luôn phải thấp hơn hạn mức được duyệt trọng kỳ,
còn hạn mức tín dụng tính cho cuối kỳ thì chỉ yêu cầu dư nợ cuối kỳ của khách
hàng thấp hơn hạn mức được duyệt cuối kỳ [1]. Hạn mức tín dụng thích hợp với các
khách hàng có nhu cầu vốn phát sinh liên tục theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Việc
cho vay theo hạn mức sẽ giảm thiểu chi phí và thời gian vay vốn, đồng thời tránh
lãng phí vốn (so với vay một khoản lớn một lần). Tuy nhiên do các lần vay khó tách
biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát được hiệu quả sử dụng
của từng lần vay
c. Cho vay trực tiếp từng lần
Đây là hình thức cho vay phổ biến nhất của ngân hàng thương mại, áp dụng
cho các đối tượng là các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên,
những khách hàng không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi hoặc do
nhu cầu vay vốn lớn [1]. Thông thường những khách hàng này chỉ sử dụng vốn chủ
sở hữu và tín dụng thương mại để hoạt động sản xuất kinh doanh, chỉ khi có nhu
cầu đặc biệt như mở rộng sản xuất thì họ mới cần tới vốn vay từ ngân hàng. Nghiệp
vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay
tách biệt và mỗi khoản vay đều có tài sản bảo đảm.
d. Cho vay luân chuyển
Là hình thức ngân hàng cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Khi
nhập hàng hoá vào doanh nghiệp có thể gặp trường hợp thiếu tiền để thanh toán cho
nhà cung cấp, khi đó cho vay luân chuyển như một cách ứng trước tiền cho doanh
nghiệp. Ngân hàng sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Cho vay luân
chuyển được ngân hàng áp dụng đối với các doanh nghiệp có chu kỳ tiêu thụ đều
đặn, ngắn ngày, khách hàng có có quan hệ vay trả thường xuyên và có tín nhiệm với
ngân hàng. Thủ tục cho vay luân chuyển thuận tiện cho khách hàng vì chỉ cần thực

14
hiện một lần cho nhiều lần vay, tuy nhiên đối với ngân hàng thì sẽ gặp khó khăn
trong việc thu hồi nợ nếu như doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ [1].
e. Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Loại hình này áp
dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán (khách hàng
thường là nông dân, người buôn bán nhỏ ), khi đó cho vay qua trung gian giúp tiết
kiệm thời gian và chi phí, đồng thời giảm thiểu rủi ro của việc mất vốn [1]. Các tổ
chức trung gian mà ngân hàng có thể sử dụng đó là các tổ, đội, nhóm như nhóm sản
xuất, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ,… Cho vay qua trung gian có
nhiều lợi thế tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhiều khiếm khuyết như việc các trung gian
lợi dụng vị thế của mình để tăng lãi suất, chiếm dụng vốn, cho vay sai mục đích.
f. Cho vay trả góp
Đây là hình thức cho vay mà khách hàng được phép thanh toán gốc làm
nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận từ trước. Việc chia gốc làm nhiều
lần sẽ tăng khả năng trả nợ của khách hàng. Cho vay trả góp hiện nay được áp dụng
tương đối phổ biến đối với các khoản vay trung và dài hạn để tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền. Ngân hàng cũng áp dụng cho vay trả góp đối với người tiêu
dùng [1]. Đây là hình thức tín dụng nhằm mục đích khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.
Vì đặc điểm có kỳ hạn trả nợ nhiều lần nên lãi suất của cho vay trả góp thường là
cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
1.2.2.2. Phân loại theo đảm bảo khoản vay
Nếu theo tiêu chí này thì cho vay sẽ bao gồm hai loại:
a. Cho vay có tài sản đảm bảo
Với loại hình này, khách hàng khi vay vốn phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản.
Ngân hàng sẽ định giá tài sản, đánh giá tính thanh khoản của tài sản đó và yêu cầu
khách hàng ký vào các cam kết cần thiết như hợp đồng thế chấp, cầm cố [1]. Số tiền
khách hàng được vay sẽ không được vượt quá một tỷ lệ nào đó so với giá trị của tài
sản đảm bảo (ví dụ 70% giá trị tài sản đảm bảo). Trong trường hợp khách hàng đến
hạn mà không có khả năng trả nợ thì ngân hàng sẽ xem xét đến tài sản đảm bảo như

một nguồn thu nợ thứ hai. Tuy nhiên thủ tục thanh lý tài sản đảm bảo diễn ra tương
đối phức tạp, tốn nhiều thời gian và công sức nên ngân hàng chỉ xem nó là phương
án cuối cùng.
15
b. Cho vay không có tài sản đảm bảo (tín chấp)
Ngân hàng có thể cho vay mà không cần dựa trên bất kỳ tài sản đảm bảo nào
nếu khách hàng là khách hàng lớn, có uy tín trên thị trường, có khả năng tài chính
mạnh mẽ và có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Đối với những Ngân hàng thương
mại Nhà nước thì còn có thể áp dụng hình thức cho vay này đối với những những
khách hàng theo chỉ định của Chính phủ mà không cần có tài sản thế chấp [1].
1.2.2.3. Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo Điều 3, khoản 2 của Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với
khách hàng thì “Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách
hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã
được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng”.
Tuỳ theo độ dài của thời hạn cho vay mà có thể chia hoạt động cho vay thành
3 loại như sau:
a. Cho vay ngắn hạn
Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng (Theo
Điều 8, Khoản 1, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo
Quyết định số 1627/2011/QĐ-NHNN).
Cho vay ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng
vốn ngắn hạn của doanh nghiệp, cá nhân, hộ sản xuất và của cả Nhà nước. Nó có
thể bao gồm cho vay trực tiếp và gián tiếp, cho vay từng lần hoặc áp dụng hạn mức,
có thể có bảo đảm hoặc không cần bảo đảm, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi
hoặc cho vay luân chuyển [1].
- Đối với khách hàng Nhà nước: Ngân hàng thương mại sẽ tài trợ cho những
thiếu hụt tạm thời của ngân sách Nhà nước bằng việc mua tín phiếu kho bạc.
- Đối với các tổ chức tài chính khác: Ngân hàng thương mại cho các tổ chức
tài chính khác vay ngắn hạn để bù đắp thanh khoản.

- Đối với các doanh nghiệp: Ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp
vay ngắn hạn để doanh nghiệp đầu tư vào tài sản lưu động (dự trữ, phải thu) hoặc
phát triển sản xuất, cho vay xuất nhập khẩu và nhu cầu thanh toán.
- Đối với khách hàng cá nhân: Ngân hàng cho cá nhân vay để đáp ứng nhu
cầu thanh toán (thấu chi) của khách hàng.
16
b. Cho vay trung hạn
Cho vay trung hạn là khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng (theo Điều 8, Khoản 2, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban
hành theo Quyết định số 1627/2011/QĐ-NHNN).
Ngân hàng cung cấp loại hình cho vay này cho khách hàng là các tổ chức, cá
nhân để tài trợ cho những nhu cầu mua sắm lớn và mở rộng sản xuất. Các tài sản cố
định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang
thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1 năm đến 5 năm.
c. Cho vay dài hạn
Cho vay dài hạn là khoản vay có thời hạn cho vay lớn hơn 60 tháng (theo
Điều 8, Khoản 3, Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành theo
Quyết định số 1627/2011/QĐ-NHNN).
Đối tượng cho vay của loại hình này là Nhà nước, các tổ chức và doanh
nghiệp:
- Nhà nước sẽ vay vốn ngân hàng thông qua việc bán các trái phiếu Chính
phủ, trái phiếu công trình công cộng, các ngành và vùng kinh tế trọng điểm khuyến
khích phát triển.
- Các tổ chức, doanh nghiệp yêu cầu sử dụng tín dụng dài hạn để đầu tư vào
các công trình lớn, trang thiết bị, công nghệ hiện đại mang tính chiến lược trong kế
hoạch phát triển của mình.
- Người tiêu dùng cũng vay dài hạn Ngân hàng thương mại để mua sắm
những hàng hóa tiêu dùng có tính chất lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận tải.
Như vậy, từ định nghĩa cho vay trung hạn và cho vay dài hạn ở trên có thể
định nghĩa cho vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại như sau: “Cho vay

trung và dài hạn là các khoản cho vay của Ngân hàng thương mại mà có thời
hạn cho vay trên 12 tháng”.
Phân loại cho vay theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với Ngân hàng
thương mại. Nó phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như khả năng ảnh
hưởng trực tiếp đến tính an toàn và khả năng sinh lợi của Ngân hàng thương mại.
1.2.3. Phân loại cho vay trung và dài hạn
Cho vay trung và dài hạn thường có các hình thức như sau:
17
- Cho vay theo dự án đầu tư: Phần lớn các khoản cho vay trung và dài hạn
thường phục vụ cho các dự án đầu tư. Dự án đầu tư có thể hiểu là một tập hợp
những đề xuất về nhu cầu vốn, cách thức sử dụng vốn, kết quả tương ứng thu được
trong một khoảng thời gian xác định đối với hoạt động cụ thể để sản xuất kinh
doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển hoặc phục vụ đời sống (Theo Điều 3, khoản 6, QĐ
số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với khách hàng). Dự án đầu tư bao gồm dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay
phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực
hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết
định phần vốn cho vay và xác định khả năng hoàn trả của doanh nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho cá nhân vay để tiêu dùng những hàng
hóa lâu bền, có giá trị lớn như nhà đất, phương tiện vận chuyển hoặc cho vay để du
học. Ngân hàng có thể cho vay trực tiếp với người mua hoặc cũng có thể thông qua
tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ để các doanh nghiệp này bán hàng theo phương
thức trả góp [1].
- Cho vay hợp vốn: Hình thức cho vay hợp vốn là hình thức tín dụng trọng
đó bên cho vay không phải là một mà là hai hoặc nhiều tổ chức tín dụng đồng cam
kết tài trợ cho một dự án đầu tư hay một phương án sản xuất kinh doanh của một
khách hàng. Hình thức này thường áp dụng cho các dự án có quy mô lớn, rủi ro cao
hoặc là dự án liên quan đến nhiều bộ ngành, địa phương mà vượt quá khả năng và
giới hạn được phép của một ngân hàng [1].

1.2.4. Đặc điểm hoạt động cho vay trung và dài hạn
1.2.4.1. Cho vay trung và dài hạn ngân hàng cần phải lên kế hoạch từ trước
Để có thể cho vay trung và dài hạn thì ngân hàng phải chuẩn bị trước về vốn.
Quy mô của một khoản cho vay trung và dài hạn thường lớn hơn cho vay ngắn hạn
đồng thời thời gian thu hồi vốn cũng lâu hơn so với cho vay ngắn hạn nên để tài trợ
cho khoản vay trung dài hạn thì ngân hàng cần phải chuẩn bị trước về vốn. Vốn để
tài trợ cho cho vay trung và dài hạn thường bao gồm tiền gửi dài hạn, trung hạn,
ngắn hạn và tiền từ huy động trái phiếu, Do đó để đảm bảo được vốn cho hoạt
động cho vay trung dài hạn của mình thì ngân hàng phải lập kế hoạch về vốn trong
ngắn hạn và dài hạn.
1.2.4.2. Rủi ro của cho vay trung dài hạn thường cao hơn rủi ro cho vay ngắn hạn
18

×