Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Nâng cao hiệu quả xã hội của tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quảng Uyên – tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.46 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHCSXH : Ngân hàng chính sách xã hội
TK & VV : Tổ tiết kiệm và vay vốn
CT – XH : Tổ chức Chính trị - Xã hội
UBND : Ủy ban Nhân dân
ODA : Nguồn vốn viện trợ không hoàn lại
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo đói là một vấn đề của xã hội và nó mang tính toàn cầu. Những năm
gần đây, nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước nên nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, do đó mà đại bộ phận đời sống nhân dân đã được tăng lên một cách
rõ rệt. Song, một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là dân cư ở vùng núi, nông
thôn, vùng xâu vùng xa…vẫn phải chịu cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những
điều kiện tối thiểu của cuộc sống. Hiện nay, một vấn đề mà cả xã hội cần quan tâm
là sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra mạnh. Chính vì lý do đó chương trình xóa
đói giảm nghèo là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu của chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Có nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình trạng nghèo đói, trong đó có một
nguyên nhân quan trọng là: người dân thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Do đó,
Đảng và Nhà nước ta đã xác định tín dụng Ngân hàng là một cầu nối không thể
thiếu trong hệ thống các chính sách phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo
của Việt Nam.
Xuất phát từ những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, vào ngày 04/10/2002; Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 131/TTg về việc thành lập Ngân hàng
chính sách xã hội, trên cơ sở tổ chức lại của Ngân hàng phục vụ người nghèo trước
đây để thực hiện nhiệm vụ cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách
khác. Chính là sự cụ thể hóa chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ về xây
dựng một loại hình Ngân hàng chính sách thực sự là công cụ xóa đói giảm nghèo
hữu hiệu.
Đặc biệt là xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc


thiểu số hiện nay không chỉ là chính sách xã hội cơ bản được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm mà còn là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển
của đất nước.Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo vùng núi, vùng dân tộc thiểu
số, Nhà nước đã tiến hành nhiều biện pháp hỗ trợ bằng các chính sách, chương trình
dự án, hỗ trợ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, chương trình 135, chương trình
30a…
Hiệu quả vốn tín dụng còn thấp làm ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ
người nghèo là vấn đề còn tồn tại trong những năm vừa qua. Vậy, làm thế nào để
người nghèo nhận được vốn và sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả nhất, chất
lượng tín dụng được nâng cao để đảm bảo cho sự bền vững của nguồn vốn tín dụng
và giúp cho các hộ nghèo thoát khỏi ngưỡng nghèo đói là vấn đề cần được xã hội
quan tâm.
1
Trong quá trình thực tập tìm hiểu và xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn
của huyện Quảng Uyên – tỉnh Cao Bằng, em lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả
xã hội của tín dụng đối với hộ nghèo tại Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã
hội huyện Quảng Uyên – tỉnh Cao Bằng” làm chuyên đề tốt nghiệp, qua đó nhằm
nghiên cứu đưa ra những giải pháp, đề xuất đối với chất lượng tín dụng của hộ
nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quảng Uyên – tỉnh
Cao Bằng.
Nội dung của đề tài bao gồm ba phần sau:
Chương I: Tổng quan chung về tín dụng đối với hộ nghèo của Ngân
hàng chính sách xã hội.
Chương II: Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo tại phòng
giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quảng Uyên – chi nhánh tỉnh
Cao Bằng
Chương III: Giải pháp và kiến nghị cho hoạt động tín dụng đối với hộ
nghèo tại phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện Quảng Uyên –
tỉnh Cao Bằng.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài, do hạn chế về mặt kiến

thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên bài chuyên đề không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để
bài chuyên đề được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI.
1.1. Tổng quan về Ngân hàng chính sách xã hội.
1.1.1. Khái niệm
Ngân hàng chính sách là tổ chức tín dụng Nhà nước, hoạt động không vì lợi
nhuận, thực hiện cho vay với lãi suất và các điều kiện ưu đãi, vì mục tiêu chủ yếu là
xóa đói giảm nghèo.
1.1.2. Chức năng và vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội
 Ngân hàng chính sách xã hội có chức năng:
- Tổ chức huy động vốn trong và ngoài nước có trả lãi của mọi tổ chức và
tầng lớp dân cư bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; tổ chức huy động tiết
kiệm trong cộng đồng người nghèo.
- Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và các
giấy tờ có giá khác; vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; vay tiết
kiệm Bưu điện, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước.
- Được nhận các nguồn vốn đóng góp tự nguyện không có lãi hoặc không
hoàn trả gốc của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ
chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước.
- Mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho tất cả các khách hàng trong và ngoài
nước.
- Ngân hàng chính sách xã hội có hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ
thống liên Ngân hàng trong nước.
- Ngân hàng chính sách xã hội được thực hiện các dịch vụ Ngân hàng về
thanh toán và ngân quỹ:
+ Cung ứng các phương tiện thanh toán.

+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước.
+ Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ bằng tiền mặt và không bằng tiền mặt.
+ Các dịch vụ khác theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phục vụ cho sản xuất kinh doanh,
tạo việc làm, cải thiện đời sống; góp phần thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia
về xóa đói giảm nghèo và ổn định xã hội.
- Nhận làm dịch vụ ủy thác cho vay từ các tổ chức quốc tế, quốc gia, cá nhân
trong nước, ngoài nước theo hợp đồng ủy thác.
 Vai trò của Ngân hàng chính sách xã hội:
Ngân hàng chính sách xã hội được thành lập theo Nghị định số 78/2002/NĐ
– CP ngày 04/10/2002 và Quyết định số 131/2002/QĐ – TTg ngày 04/10/2002 của
Thủ tướng chính phủ trên cơ sở tổ chức lại của Ngân hàng phục vụ người nghèo
nhằm mục đích tách tín dụng ưu đãi ra khỏi thương mại tạo điều kiện cho các Ngân
hàng thương mại từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, tổ chức lại chính sách tín dụng
theo hướng chuyên sâu và tập trung hơn về các nguồn lực và các cơ chế chính sách
3
phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ của đất nước. Ngân
hàng chính sách xã hội được sử dụng các nguồn tài chính do Nhà nước huy động để
cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay ưu đãi để phục vụ sản xuất
kinh doanh, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, ổn định xã hội.
Ngân hàng chính sách xã hội ra đời đã góp phần ngăn chặn tệ cho vay nặng
lãi ở khu vực nông thôn, là một công cụ kinh tế thực hiện vai trò điều tiết của Đảng
và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đến với những đối tượng dễ bị tổn thương
và là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế kích thích người nghèo và các đối
tượng chính sách khác có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống, tự vươn
lên khẳng định vị thế của mình trong xã hội, góp phần xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Từ khi Ngân hàng chính sách xã hội ra đời đến nay đã là tổ chức có hiệu quả
trong việc chuyển tải nguồn vốn các chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước đến
các đối tượng thụ hưởng, Ngân hàng chính sách xã hội là tổ chức tài chính Nhà

nước, là công cụ để triển khai các chính sách, chế độ an sinh xã hội nên vốn của
Ngân hàng là vốn Nhà nước.
Từ khi thành lập, việc thi hành những chính sách tín dụng ưu đãi đã mang lại
hiệu quả thiết thực, góp phần quan trọng làm giảm tỷ lệ hộ nghèo, tạo thêm việc làm
mới, nâng cao tỷ lệ nông dân được sử dụng nước sạch, môi trường nông thôn được
cải thiện, tạo điều kiện cho sinh viên nghèo yên tâm học tập.
Ngân hàng chính sách xã hội đã giúp hộ nghèo thay đổi tư duy, tập dượt cho
hộ nghèo làm quen với việc sử dụng vốn tín dụng, vốn vay và trả nợ sòng phẳng.
Ngân hàng chính sách xã hội là chỗ dựa cho vay hỗ trợ hộ nghèo và các đối
tượng chính sách khác.
Ngân hàng chính sách xã hội có vai trò đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất và tiêu
dùng của hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác là những người không có khả
năng tiếp cận nguồn vốn vay của Ngân hàng thương mại. Việc cấp tín dụng ưu đãi
của Ngân hàng chính sách xã hội tạo được hiệu quả hơn so với phương thức cấp
phát vốn cho việc chuyển tải vốn theo phương thức cho vay có hoàn trả nên người
vay vốn tính toán hiệu quả khi sử dụng vốn vay, vốn được sử dụng quay vòng nhiều
lần, giúp nhiều người được hưởng lợi.
Ngân hàng chính sách xã hội đã góp phần thực hiện chủ trương tách tín dụng
chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, tạo động lực cho sự phát triển của hệ thống
Ngân hàng trong giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Vậy, Ngân hàng chính sách xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc là cầu nối
đưa chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến với hộ nghèo và các đối tượng
chính sách khác; tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận được các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước; hộ nghèo và các đối tượng chính sách có điều kiện gần
4
gũi với các cơ quan công quyền ở địa phương, giúp các cơ quan này gần dân và
hiểu dân hơn.
 Đối tượng phục vụ
- Hộ nghèo: gồm các hộ nghèo theo quy định của Chính phủ theo từng thời
kỳ đi vay vốn để sản xuất kinh doanh tiến tới thoát khỏi đói nghèo.

- Học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để mua sắm
phương tiện học tập và các chi phí khác phục vụ cho việc học tập.
- Các đối tượng được vay vốn để giải quyết việc làm như: cho vay cơ sở sản
xuất kinh doanh của thương binh, người tàn tật; cho vay thương binh, người tàn tật;
cho vay các đối tượng khác.
- Hộ gia đình vay vốn để sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn.
- Các hộ dân tộc thiểu số di dân định canh, định cư.
- Cho vay đối với các hộ dân đang sinh sống tại những khu không đảm bảo
an toàn khi có lũ ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
- Cho vay đối với các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước
ngoài: cho vay người lao động thuộc các hộ nghèo và người dân tộc thiểu số thuộc
62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ ngày 27/12/2008. Cho vay đối
với các đối tượng còn lại thuộc 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ
ngày 27/12/2008.
- Cho vay đối với các đối tượng khác theo quy định của Chính phủ như: cho
vay mua nhà trả chậm Đồng bằng sông Cửu Long; cho vay nước sạch và vệ sinh
môi trường nông thôn; cho vay phát triển lâm nghiệp; cho vay hộ gia đình sản suất
kinh doanh vùng khó khăn; cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa; cho vay hỗ trợ hộ
nghèo về nhà ở…
1.1.3. Những hoạt động chính của Ngân hàng chính sách xã hội.
Thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện chính sách tín dụng đối
với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng
Phục vụ người nghèo được thành lập theo Quyết định số 230/QĐ-NH5, ngày 01
tháng 9 năm 1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Thời hạn hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội là 99 năm và Ngân
hàng Chính sách xã hội hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, được Nhà nước bảo
đảm khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 0% (không phần trăm), không
phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách
nhà nước.
Ngân hàng Chính sách xã hội được huy động vốn của các tổ chức, cá nhân

trong nước và ngoài nước, tiếp nhận các nguồn vốn của Chính phủ và ủy ban nhân
dân các cấp để cho vay người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
1.1.4. Cơ chế tài chính của Ngân hàng chính sách xã hội
5
Ngân hàng chính sách xã hội là một tổ chức của Nhà nước hoạt động vì mục
tiêu xóa đói giảm nghèo không vì mục đích lợi nhuận; là đơn vị hạch toán tập trung
toàn hệ thống; tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật; thực hiện
bảo tồn vốn ban đầu, phát triển vốn và bảo đảm bù đắp các chi phí rủi ro hoạt động
tín dụng theo các điều khoản quy định.
Để có thể thực hiện cho vay đối với các đối tượng chính sách theo lãi suất ưu
đãi, Ngân hàng chính sách xã hội được áp dụng cơ chế tài chính riêng khác với các
Ngân hàng thương mại khác như: Ngân hàng chính sách xã hội không phải tham gia
bảo hiểm tiền gửi, có tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước bằng 0%; được
miễn thuế và các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước. Theo những quy định nêu
trên thì Ngân hàng chính sách xã hội được hưởng một chế độ ưu đãi, trên cơ sở đó
hạ lãi suất cho vay, nhưng thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và tự chịu trách nhiệm
về mặt tài chính.
Ngân hàng chính sách xã hội trả phí dịch vụ cho đơn vị nhận làm dịch vụ ủy
thác theo sự thỏa thuận của hai bên trên cơ sở định mức do Nhà nước quy định.
1.2. Tín dụng đối với hộ nghèo.
1.2.1. Khái niệm hộ nghèo
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn nghèo (Chuẩn
nghèo hiện hành theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30 tháng 01 năm 2011
của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2011-2015). Là diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với
các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo tiêu chuẩn nghèo và các nguyên nhân
dẫn đến đói nghèo thay đổi tùy theo thời gian và theo địa phương.
1.2.2. Căn cứ để phân chia hộ nghèo ở Việt Nam và Thế giới
a. Ở Việt Nam
Chính phủ Việt Nam đã 5 lần nâng mức chuẩn nghèo từ năm 1993 đến cuối

năm 2011.
Ngày 27/09/2001, theo quyết định số 143/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt “chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn
2001 – 2005” thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông
thôn miền núi và hải đảo từ 80.000đ/người/tháng (960.000đ/người/năm) trở xuống là
hộ nghèo. ở khu vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân
đầu người tù 100.000đ/người/tháng (1.200.000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Ở
khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000đ/người/tháng
(1.800.000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Ngày 08/07/2005, Chính phủ ban hành quyết định số 170/2005/QĐ – TTg
của Thủ tướng chính phủ về việc áp dụng chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006
6
– 2010.Những hộ ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân từ
200.000đ/người/tháng (2.400.000đ/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. ở khu vực
thành thị những hộ mà có thu nhập bình quân thấp hơn 260.000đ/người/tháng (dưới
3.120.000đ/người/năm) thì được xếp vào hộ nghèo.
Quyết định số 09/2011/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
30 tháng 01 năm 2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cần nghèo áp dụng cho
giai đoạn 2011 – 2015 như sau:
1. Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
2. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
3. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
4. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng
b. Ở Thế giới
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2001 trên toàn thế giới có
1,1 tỉ người (tương ứng với 21% dân số thế giới) có ít hơn 1 đôla Mỹ tính theo sức

mua địa phương thì được coi là rất nghèo.Trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ
năm 2000, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã nhất trí với mục tiêu cho đến năm
2015 là giảm một nửa số người có thu nhập ít hơn 1 đôla Mỹ.
Tuy nhiên, ở các quốc gia khac nhau thì cách xác định ranh giới nghèo có
khác nhau như: từ 2USD cho châu Mỹ La Tinh và Caribean, 4USD cho những nước
Đông Âu, cho đến 14,40USD là cho các nước công nghiệp (chương trình Phát triển
Liên Hiệp Quốc năm 1997).
1.2.3. Khái quát tình trạng nghèo đói ở Việt Nam.
Thành tựu từ khi đổi mới đã ảnh hưởng ngày càng sâu rộng tới mọi mặt của
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng và bước
vào một giai đoạn phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển tiến tới phát triển
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới.
Tỷ lệ hộ đói nghèo ở Việt Nam còn khá cao. Theo chuẩn nghèo của chương trình
xóa đói giảm nghèo quốc gia, đầu năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm
24,7% tổng số hộ trong cả nước, chủ yếu tập trung vào các vùng nông thôn.
Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập bấp bênh.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn
lực rất hạn chế ( đất đai, lao động, vốn ), thu nhập của những người nghèo rất bấp
7
bênh và rất dễ bị tổn thương trước những biến động của mỗi gia đình và cộng đồng.
Nhiều gia đình tuy thu nhập ở trên ngưỡng nghèo nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng
nghèo đói vì vậy khi có dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống
ngưỡng nghèo. Tính vụ mùa trong sản xuất nông nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho
người nghèo. Chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến hộ rơi
xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ hộ nghèo.
Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn.
Đa số người nghèo sống ở các vùng có tài nguyên nghèo nàn, điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt như vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, miền trung do sự
biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hãn) ảnh hưởng đến điều kiện sinh sống. Đặc

biệt, sự kém phát triển về cơ sở hạ tầng của các vùng nghèo đã làm cho các vùng
này càng tách biệt với các vùng khác. Do điều kiện tự nhiên, điều kiện sống không
thuận lợi, số người cần cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao vào khoảng 1 – 1,5 triệu
người. Hàng năm số hộ tái nghèo trong tổng số hộ vừa thoát nghèo vẫn còn rất lớn.
Nghèo đói tập trung trong khu vực nông thôn.
Nghèo đói là hiện tượng phổ biến ở nông thôn, nước ta với xuất phát điểm là
nước nông nghiệp, hầu như 90% người nghèo sống ở nông thôn. Năm 2004, tỷ lệ
nghèo đói về lương thực, tực phẩm ở khu vực thành thị là 3,5%, trong khi đó ở nông
thôn là 14,5%. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả
năng tiếp cận với các nguồn lực trong sản xuất.
Nghèo đói trong khu vực thành thị.
Ở khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và có mức sống trung bình
cao hơn mức chung của cả nước, nhưng mức độ cải thiện đời sống không đồng đều.
Đa số người nghèo ở khu vực thành thị đều làm việc trong các khu vực kinh tế phi
chính thức, công việc không ổn định và có thu nhập bấp bênh.
Tỷ lệ hộ nghèo còn cao ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao.
Ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xã, vùng đồng bào ít người sinh sống, có tỷ
lệ nghèo đói khá cao. Có tới 64% số người nghèo tập chung tại các vùng núi phía
Bắc, Băc Trung bộ, Tây Nguyên và Duyên Hải miền Trung. Đây là những vùng có
điều kiện khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và
dịch vụ còn nhiều hạn chế, cơ sở hạ tầng kém phát triển , điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt và thiên tai luôn xảy ra thường xuyên.
Tỷ lệ hộ nghèo cao ở nhóm dân tộc ít người.
Trong những năm vừa qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực đối với
đối tượng là dân tộc ít người, nhưng đời sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn
gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù nhóm dân tộc thiểu số ít người chỉ chiếm
14% trong tổng dân cư xong lại chiếm khoảng 29% trong tổng số nghèo.
8
Năm 2009, theo Quyết định số 170/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành chuẩn nghèo cho giai đoạn 2006 – 2010 thì cả nước Việt Nam

có khoảng 2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, con số này không
phản ánh thực chất vì số người nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng
do tác động của lạm phát (khoảng 40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo) và do suy
giảm kinh tế. Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam hiện nay gồm những hộ có mức
thu nhập bình quân từ 200.000 - 260.000đồng/người/tháng.
Đầu năm 2010, Nghị quyết 30a/2008/NQ – CP ban hành ngày 27/12/2008 của
Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện
nghèo đã được triển khai thực hiện thời gian qua, tất cả các ngành, các cấp đã vào cuộc
với tinh thần khẩn trương: Vừa tổ chức tuyên truyền, quán triệt các chính sách của Nhà
nước đến tận các làng xã và người dân được thụ hưởng, vừa tiến hành xây dựng các
chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho từng huyện, vừa tranh thủ ứng vốn thực hiện ngay
những việc có thể làm được mà không chờ đến khi phê duyệt xong chương trình. Một
trong những nhiệm vụ Chính phủ đặt ra trong năm 2009 phải hoàn thành đó là: Cùng
với việc thực hiện một số chính sách mới theo Nghị quyết 30a, các địa phương phải tập
trung hoàn thành mục tiêu hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định 167/QĐ –TTg
ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Với nguyên tắc: Người dân tự làm với sự
tham gia hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng; việc thanh, quyết toán phải đơn giản: cán
bộ xã, thôn xác nhận công trình đã hoàn thành và ký nhận phần vốn ngân sách cấp;
không phải đấu thầu xây dựng và kiểm tra hóa đơn chứng từ.
Những năm qua, việc tập trung thực hiện thành công Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và các chương trình giảm nghèo đã tạo điều kiện để người nghèo
tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; cơ sở hạ tầng của các huyện, xã nghèo
được tăng cường; đời sống người nghèo được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo cả
nước đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 9,45% năm 2010.
1.2.4. Nguyên nhân gây ra nghèo đói
Nghèo đói là hậu quả đan xen của nhiều các nhóm yếu tố, nhưng chung quy
lại thì có thể chia nguyên nhân nghèo đói của nước ta theo các nhóm sau:
a. Nhóm nguyên nhân từ bản thân người nghèo.
• Thiếu vốn sản xuất: theo các tài liệu điều tra cho thấy đây là nguyên nhân
chủ yếu nhất. Nông dân thiếu vốn thường rơi vào vòng luẩn quẩn, sản xuất kém,

làm không đủ ăn, để đảm bảo cuộc sống hàng ngày thì phải đi thuê hay đi vay. Có
thể nói: thiếu vốn sản xuất là một lực cản lớn nhất hạn chế sự phát triển của sản
xuất và nâng cao đời sống của các hộ gia đình nghèo. Theo kết quả điều tra xã hội
học về nguyên nhân nghèo đói của cac hộ nông dân ở nước ta năm 2001 cho thấy;
thiếu vốn chiếm khoảng 70% - 90% tổng số hộ được điều tra.
9
• Thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn: phương pháp canh tác cổ truyền
đã ăn sâu vào tiềm thức, sản xuất tụ cung tự cấp là chính, thường sống ở những nơi
hẻo lãnh, giao thông đi lại khó khăn, thiếu phương tiện,trẻ em thì thất học…Những
khó khăn đó làm cho hộ nghèo không thể nâng cao trình độ dân trí, không có điều
kiện áp tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác, thiếu kinh nghiệm và trình độ sản
xuất kinh doanh đẫn đến năng suất thấp, không hiệu quả. Thiếu vốn chiếm khoảng
70% - 90% số hộ được điều tra.
• Bệnh tật và sức khỏe kém cũng là nguyên nhân làm cho con người rơi vào
tình trạng đói nghèo.
• Đất đai canh tác ít, tình trạng không có đất canh tác đang có xu hướng
tăng lên
• Thiếu việc làm, không năng động tìm việc làm, lười biếng; mặt khác, do
hậu quả của chiến tranh đẫn đến nhiều người dân bị mất sức lao động, đãn tới thiếu
lao động, lao động trẻ, khỏe có thể đảm nhiệm những công việc nặng nhọc.
• Gặp những rủi ro trong cuộc sống. Người nghèo thường sống ở những nơi
hẻo lánh, xa trung tâm, thời tiết khắc nghiệt thường xuyên xảy ra thiên tai như: bão,
lụt, hạn hán, dịch bệnh…cũng chính vì lý do đó mà giao thông đi lại khó khăn nên
hàng hóa sản xuất ra bị bán rẻ (do bù đắp vào chi phí giao thông) hoặc không bán
được, chất lượng hàng hóa giảm sút do lưu thông không kịp thời.
b. Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên xã hội
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến sản xuất nông nghiệp. Ở
những vùng khí hậu khắc nghiệt: thiên tai, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh, đất đai cằn cỗi,
diện tích đất canh tác ít, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng
yếu kém hoặc không có là những vùng có nhiều hộ nghèo đói nhất.

1.2.5. Đặc tính của người nghèo ở Việt Nam.
Người nghèo thường có những đặc điểm tâm lý và nếp sống khác hẳn so với
các khách hàng khác như:
• Người nghèo đa số là tập trung nhiều ở nông thôn, vùng miền núi cao,
cuộc sống còn nhiều khó khăn và làm nộng nghiệp là chủ yếu. Do đó, hộ thường sử
dụng vốn vào sản xuất nông nghiệp hoặc các ngành nghề thủ công buốn bán nhỏ,
nên nhu cầu cầu vốn thường mang tính thời vụ.
• Người nghèo thường mang mặc cảm tự ti, họ ít giao tiếp và phạm vi giao
tiếp hẹp. Do đó mà bị hạn chế về khả năng nhận thức và kỹ năng sản xuất kinh
doanh. Chính vì vậy, họ thường tổ chức sản xuất theo thói quen, chưa biết mở mang
ngành nghề và chưa có điều kiện tiếp xúc với thị trường. Cho nên sản xuất mang
tính tự cung tự cấp, chưa tạo được sản phẩm hàng hóa và đối tượng sản xuất kinh
doanh thường thay đổi.
10
• Khoảng cách giữa nơi người nghèo sống và ngân hàng cũng gây ra trở
ngại lớn, nơi người nghèo sinh sống thường có điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém.
• Những truyền thống văn hóa, những phong tục tập quán cũng ít nhiều tác
động tới nhu cầu tín dụng của hộ nghèo.
1.2.6. Sự cần thiết phải hỗ trợ vốn cho hộ nghèo.
Nghèo đói là hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và nó tồn tại ở
mọi quốc gia; đối với nước ta quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường xuất phát
điểm là nước nông nghiệp lạc hậu thì tình trạng nghèo đói càng không tránh khỏi.
Như vậy, hỗ trợ hộ nghèo trước hết là mục tiêu của xã hội. Xóa đói giảm nghèo sẽ
hạn chế được các tệ nạn xã hội, tạo sự ổn định công bằng xã hội, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế. Hộ nghèo được hỗ trợ để tự vươn lên, tạo thu nhập, từ đó làm
tăng sức mua, khuyến khích sản xuất phát triển. Vì vậy, quan điểm của chiến lược
phát triển xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra là phát triển kinh tế, ổn định và
công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh.
Vậy, hỗ trợ hộ nghèo là một điều cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ nguyên

nhân đói nghèo có thể khẳng định một điều: mặc dù kinh tế đất nước có thể tăng
trưởng nhưng nếu không có chính sách và chương trình riêng về xóa đói giảm
nghèo thì các hộ gia đình nghèo không thể thoát khỏi nghèo đói được. Chính vì vậy,
Chính phủ đã đề ra những chính sách đặc biệt trợ giúp người nghèo, nhằm thu hẹp
khoảng cách giữa giàu và nghèo.
Hỗ trợ hộ nghèo một phần tạo nên mối quan hệ ổn định giữa các cấp chính
quyền, các tổ chức, đoàn thể và người nghèo. Tạo sự đoàn kết nhất trí, sự tin tưởng
trong quần chúng nhân dân.
1.3. Tín dụng và vai trò của tín dụng đối với hộ nghèo.
1.3.1. Khái niệm tín dụng và tín dụng đối với hộ nghèo.
 Khái niệm tín dụng: về bản chất là quan hệ vay mượn lẫn nhau và hoàn trả
cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định đã dược thỏa thuận giữa người đi
vay và người cho vay. Hay nói cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế, trong đó
mỗi cá nhân hay tổ chức nhượng quyền sử dụng một khối lượng giá trị hay hiện vật
cho một cá nhân hay tổ chức khác với thời hạn hoàn trả cùng với lãi suất, cách thức vay
mượn và thu hồi món vay…Tín dụng ra đời và tồn tại, phát triển cùng với nền sản xuất
hàng hóa. Trong điều kiện nền kinh tế còn tồn tại song song hàng hóa và quan hệ hàng
hóa tiền tệ thì sự tồn tại của tín dụng là một tất yếu khách quan.
 Khái niệm tín dụng đối với hộ nghèo.
Tín dụng đối với hộ nghèo là những khoản tín dụng chỉ dành riêng cho
những người nghèo, có sức lao động nhưng thiếu vốn để phát triển sản xuất trong
một thời gian nhất định phải hoàn trả cả số tiền gốc và lãi. Tùy theo từng nguồn có
11
thể hưởng theo lãi suất ưu đãi khác nhau nhằm giúp người nghèo mau chóng vượt
qua nghèo đói. Tín dụng đối với hộ nghèo hoạt động theo những mục tiêu, nguyên
tắc, điều kiện riêng khác với các loại hình tín dụng của các Ngân hàng Thương mại
mà nó chứa đựng những yếu tố cơ bản như:
• Mục tiêu: tín dụng đối với hộ nghèo nhằm giúp những hộ nghèo có vốn
phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao đời sống, hoạt động vì mục tiêu xóa đói
giảm nghèo, không vì mục đích lợi nhuận.

• Nguyên tắc cho vay: cho vay hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn
để hoạt động sản xuất kinh doanh. Hộ nghèo vay vốn phải là những hộ được xác
định theo chuẩn mực nghèo đói do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hoặc do
địa phương công bố trong từng thời kỳ. Thực hiện cho vay có hoàn trả cả gốc và lãi
theo kỳ hạn đã thỏa thuận.
• Điều kiện: tùy theo từng nguồn vốn, thời kỳ khác nhau, từng địa phương
khac nhau có thể quy định các điều kiện cho phù hợp với thực tế. Nhưng một điều
kiện cơ bản của tín dụng đối với hộ nghèo là: Khi được vay vốn không cần phải thế
chấp tài sản.
 Nguồn vốn tín dụng đối với hộ nghèo của Ngân hàng chính sách xã hội.
Nguồn vốn tín dụng ưu đãi là nguồn vốn được động viên từ trong và ngoài nước để
cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay ưu đãi phát triển sản xuất
kinh doanh dịch vụ, tạo việc làm, góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia về xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội.
Nguồn tín dụng ưu đãi gồm:
- Nguồn từ ngân sách Nhà nước.
+ Vốn điều lệ.
+ Vốn cho vay xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm và chính sách xã hội khác.
+ Ủy ban nhân dân các cấp được trích một phần từ nguồn tăng thu, tiết kiệm
chi ngân sách địa phương hàng năm để tăng nguồn vốn cho vay xóa đói giảm nghèo
trên địa bàn.
+ Vốn ODA được Chính phủ giao.
- Vốn huy động:
+ Tiền gửi tự nguyện không lấy lãi của các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước.
+ Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và các
giấy tờ có giá khác.
+ Huy động tiền gửi tiết kiệm trong các hộ nghèo.
- Vốn đi vay:
+ Vay của các tổ chức tài chính, trong nước và ngoài nước.
+ Vay Bảo hiểm xã hội Việt Nam, vay tiết kiệm Bưu điện.

+ Vay Ngân hàng Nhà nước.
12
- Góp vốn tự nguyện không hoàn trả của các tổ chức kinh tế, chính trị, tổ
chức tài chính, các tổ chức chính trị - xã hội, các Hiệp hội, các cá nhân trong và
ngoài nước.
- Các nguồn vốn khác.
 Lãi suất tín dụng
Tín dụng phục vụ cho hộ nghèo là loại hình tín dụng đặc thù vì các đối tượng
cho vay là các hộ nghèo đói và các hộ gia đình chính sách khác, do đó cần có sự ưu
đãi về thủ tục cho vay và lãi suất cho vay, các chính sách hỗ trợ để tạo điều kiện
làm ăn cho hộ nghèo.
Trên thực tế, các chương trình tín dụng cho hộ nghèo đã thành công ở các
nước trên thế giới, trong chính sách tín dụng đối với hộ nghèo, người ta thường
quan tâm đến thủ tục cho vay, các chính sách hỗ trợ, hạn chế hoặc thường không áp
dụng chính sách ưu đãi về lãi suất vì cho rằng ưu đãi về lãi suất sẽ dẫn đến bao cấp
làm suy yếu và làm giảm vai trò đòn bẩy tín dụng dẫn đến làm giảm hiệu quả sử
dụng vốn vay.
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay vẫn thực hiện việc ưu đãi về lãi suất cho các
hộ nghèo. Đối tượng nghèo ở Việt Nam có điều kiện và hoàn cảnh riêng so với đối
tượng nghèo ở các nước khác trên thế giới, nếu ngay từ bước đầu đã cho hộ nghèo
vay theo lãi suất thị trường thì các hộ nghèo khó có thể tiếp cận được với nguồn vốn
và gặp khó khăn trong việc hoàn trả đủ vốn và lãi cho Ngân hàng.
Lãi suất tín dụng ưu đãi được thống nhất một mức trong phạm vi toàn quốc,
do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ, chênh lệch giữa lãi suất huy
động và lãi suất cho vay sẽ được Bộ tài chính cấp bù.
 Điều kiện để hộ nghèo được vay vốn.
Để được vay nguồn vốn tín dụng ưu đãi, các đối tượng đi vay là các hộ
nghèo phải có địa chỉ cư trú hợp pháp và phải nằm trong danh sách hộ nghèo được
Uỷ ban Nhân dân xã quy định theo chuẩn nghèo do Bộ lao động – thương binh và
xã hội công bố, được tổ tiết kiệm và vay vốn của Ngân hàng bình xét, phải là hộ

nghèo có sức lao động, có điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn,
khi vay phải có khả năng trả được vốn và lãi.
Vốn vay từ Ngân hàng phải được sử dụng đúng mục đích, mau sắm vật tư
thiết bị, giống cây trồng và vật nuôi, thanh toán các dịch vụ phục vụ việc sản xuất
kinh doanh, làm các ngành nghề thủ công, chi phí cho việc nuôi trồng đánh bắt thủy
hải sản, góp phần thực hiện các dự án hợp tác sản xuất kinh doanh được các cấp
thẩm quyền phê duyệt, giải quyết một phần nhu cầu tất yếu về nhà ở, công trình
nước sạch, điện thắp sáng, phục vụ học tập.
Việc lập danh sách hộ nghèo trên thực tế còn mang tính tương đối và có sự
khác nhau về chuẩn mực hộ nghèo ở từng địa phương. Nguyên nhân là do cộng
13
đồng dân cư địa phương tự thực hiện việc lập danh sách và còn phụ thuộc vào điều
kiện cụ thể của từng địa phương.
 Loại cho vay, thời hạn cho vay và mức cho vay.
Loại cho vay: gồm có cho vay ngắn hạn và cho vay trung hạn. Cho vay ngắn
hạn là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng, áp dụng cho các khoản vay vào việc
chăn nuối gia súc và gia cầm, trồng hoa màu, cây lương thực ngắn ngày có thời hạn
sinh trưởng dưới 12 tháng, chi phí cho việc kinh doanh dịch vụ nhỏ. Vay trung hạn
là các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng, áp dụng cho những khoản
vay được sử dụng vào việc trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, mua thiết bị máy
móc phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh, phương tiện vận tải, nuôi trồng thủy hải
sản, chăn nuôi gia súc sinh sản, lấy lông, lấy sữa…
Thời hạn cho vay: bên cho vay là Ngân hàng chính sách xã hội và bên đi vay
là các hộ nghèo thỏa thuận về thời hạn cho vay căn cứ vào mục đích sử dụng vốn,
chu của việc sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ của hộ đi vay.
Mức cho vay: được xác định căn cứ vào nhu cầu vay vốn, nguồn vốn tự có
và khả năng trả nợ của hộ vay, mỗi hộ vay có thể vay nhiều lần nhưng tỏng dư nợ
không được vượt quá dư nợ cho vay tối đa với một hộ nghèo được quy định theo
từng thời kỳ.
 Phương thức cho vay:

• Cho vay trực tiếp
Là phương thức cho vay thực hiện trong thời kì đầu, khi chưa xây dựng được
mạng lưới trung gian chuyển tải vốn. Vốn vay được chuyển giao trực tiếp từ ngân
hàng tới hộ nghèo thông qua các tổ vay vốn. Tổ vay vốn ở đây bao gồm tất cả các
loại tổ nhóm đang tồn tại và hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau như Tổ tiết kiệm
và vay vốn, Tổ tương trợ, Tổ tín chấp…Tổ vay vốn là hình thức tập hợp các hộ gia
đình nghèo có như cầu vay vốn, được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các hộ gia
đình nghèo cư trú trên một địa bàn hành chính, có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh
doanh, tương trợ giúp đỡ lấn nhau trong sản xuất và đời sống, cũng như chịu trách
nhiệm liên đới trong việc vay vốn và trả nợ ngân hàng. Phương thức này gặp nhiều
khó khăn trong việc tổ chức cho vay và quản lý tín dụng, mặt khác hoạt động của
các tổ chức vay vốn nhiều nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao.

Quy trình cho vay
14
Tổ tiết kiệm và
vay vốn
Hộ nghèo
Ban xóa đói giảm
nghèo, Uỷ ban
Nhân dân xã
Ngân hàng
chính sách xã hội
(1)
(6)
(2)(5)
(4)
(3)
(7)
- Bước 1: Hộ nghèo viết giấy đề nghị vay vốn gửi tổ trưởng tổ tiết kiệm và

vay vốn.
- Bước 2: Tổ tiết kiệm và vay vốn bình xét hộ được vay và lập danh sách hộ
nghèo đề nghị vay vốn gửi lên Ban xóa đói giảm nghèo và Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Bước 3: Ban xóa đói giảm nghèo và Ủy ban nhân dân cấp xã duyệt và
chuyển danh sách lên ngân hàng.
- Bước 4: Ngân hàng xét duyệt và thông báo danh sách các hộ được vay,
lịch giải ngân, địa điểm giải ngân tới Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Bước 5: Ủy ban nhân dân cấp xã thông báo kết quả phê duyệt của ngân
hàng đến tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn.
- Bước 6: Tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn thông báo cho hộ vay biết kết quả
phê duyệt của ngân hàng, thời gian,địa điểm giải ngân vốn đến các hộ được vay vốn.
- Bước 7: Ngân hàng cùng tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn giải ngấn đến
từng hộ gia đình được vay vốn.
• Cho vay gián tiếp
Là phương thức cho vay hộ nghèo thông qua các tổ chức tín dụng, tổ chức
chính trị- xã hội. Với phương thức cho vay này, vốn vay không được chuyển trực
tiếp từ ngân hàng đến người nghèo mà chuyển từ ngân hàng đến các tổ chức tín
dụng, tổ chức chính trị nhận ủy thác,và các tổ chức này có trách nhiệm chuyển giao
vốn tới tay các hộ nghèo. Các tổ chức chính trị- xã hội làm nhiệm vụ ủy thác cho
Ngân hàng chính sách xã hội có nhiệm vụ là cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân,
thông qua tổ chức thành lập và chỉ đạo hoạt động của các Tổ tiết kiệm và vay vốn
tại cơ sở, có điều kiện trực tiếp làm dịch vụ ủy thác tín dụng đến khách hàng. Các tổ
chức chính trị- xã hội như: Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đã tận dụng được bộ máy của tổ chức này hàng
vạn người, tiết kiệm đáng kể chi phí quản lý, tạo điều kiện lồng ghép có hiệu quả
chương trình tín dụng với các chương trình văn hóa, xã hội. Phương thức cho vay
qua ủy thác mang lại hiệu quả cao, tiết kiệm là do:
Thứ nhất, các tổ chức tín dụng, tổ chức chính trị- xã hội có nhiều lợi thế hơn
so với Ngân hàng chính sách xã hội vì sẵn có mạng lưới hoạt động khắp các xã,
phường, thôn, bản….

Thứ hai, là tạo điều kiện cho hộ nghèo dễ dàng tiếp cận nguồn vốn này, hộ
nghèo phần lớn cư trú ở vùng sâu,vùng xa, phương tiện đi lại, thông tin liên lạc khó
15
khăn, tốn kém, số tiền vay không lớn, chưa quen thủ tục giấy tờ hành chính, trong
khi mạng lưới hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội còn chưa rộng khắp,
không thể trực tiếp giải ngân vốn đến người dân.
Thứ ba, là việc quản lý vốn được thực hiện hiệu quả và bảo đảm hơn. Về cơ
bản quy trình cho vay ủy thác qua các tổ chức hội cũng đầy đủ các bước như quy
trình cho trực tiếp, tuy nhiên có sự tham gia của đại diện các tổ chức hội ở mỗi bước
giúp ngân hàng trong việc thẩm định, giải ngân cũng như giám sát vốn vay được sử
dụng hiệu quả và đảm bảo không làm mất vốn cũng như sử dụng vốn không đúng
mục đích.
 Xử lý rủi ro:
Rủi ro tín dụng sẽ phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện đúng nghĩa
vụ tài chính hoặc nghĩa vụ theo hợp đồng đã thỏa thuận. Thường gặp nhất là tình
trạng khách hàng không thanh toán được nợ khi đến hạn, bao gồm cả gốc và lãi.
Do các hộ nghèo phần lớn thiếu kinh nghiệm sản xuất kinh doanh nên cho
vay đối với hộ nghèo là loại hình cho vay chứa đựng nhiều rủi ro nhất, khả năng
không thu hồi được khoản vay cao hơn nhiều so với các dối tượng khác, chính vì
vậy việc xử lý rủi ro được phân ra như sau:
Thứ nhất, rủi ro do khách quan như thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, các chính
sách của Nhà nước thay đổi, biến động giá cả của thị trường không có lợi cho hộ
vay, nếu xảy ra trên diện rộng thì việc xử lý sẽ được thực hiện theo quy định của
Thủ tướng Chính phủ. Nếu xảy ra đơn lẻ, cục bộ được cho gia hạn nợ, giãn nợ hoặc
xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro.
Thứ hai, rủi ro do nguyên nhân chủ quan của hộ vay, của tổ chức nhận ủy
thác hay của cán bộ tín dụng thì xử lý theo mức độ vi phạm.
1.3.2. Vai trò của tín dụng đối với hộ nghèo.
Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, có nguyên nhân chủ yếu và cơ
bản là thiếu vốn, thiếu kiến thức trong sản xuất kinh doanh. Vốn, kỹ thuật, kiến thức

sản xuất kinh doanh là chìa khóa để người nghèo vượt khỏi ngưỡng nghèo đói. Do
không đáp ứng đủ nhu cầu vốn, nhiều người rơi vào tình thế luẩn quẩn, làm không
đủ ăn, phải đi làm thuê, vay vốn với lãi suất cao, cầm cố ruộng đất mong đảm bảo
được cuộc sống tối thiểu hàng ngày, nhưng nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo đói
vẫn rất cao. Mặt khác, do thiếu kiến thức làm ăn nên các hộ nghèo chậm đổi mới
phương thức, không áp dụng kỹ thuật mới để tăng năng suất lao động làm cho sản
phẩm sản xuất ra kém hiệu quả. Thiếu kiến tức và kỹ thuật là một lực cản lớn nhất
hạn chế tăng thu nhập và cải thiện đời sống hộ gia đình nghèo. Khi giải quyết được
vốn cho người nghèo có tác dụng hiệu quả thiết thực.
16
1.3.2.1. Nguồn vốn tín dụng cho hộ nghèo tạo động lực để người nghèo vượt
qua khó khăn.
Bản chất của những người nông dân là cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm. nhưng do
thiếu vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, thiếu kiến thức. Do đó mà hệ lụy của
việc thiếu vốn là làm cho hộ nghèo có tâm lý chán nản không chăm chỉ sản xuất,
tăng gia làm cho cuộc sống trở nên khó khăn, nạn thất học gia tăng, trình độ dân trí
suy giảm.
Vì vậy, nguồn vốn đối với hộ nghèo là điều kiện tiên quyết, là động lực cổ
vũ hộ nghèo vượt qua khó khăn để họ thoát khỏi đói nghèo. Khi có vốn trong tay,
với bản chất cần cù chăm chỉ, với chính sức lao động của mình thì người nghèo sẽ
có điều kiện mua sắm vật tư, trang thiết bị, phân bón, giống cây trồng để phục vụ
sản xuất kinh doanh, thực hiện thâm canh tạo ra năng suất và sản phẩm của hàng
hóa cao hơn, qua đó làm tăng thu nhập và cải thiện được cuộc sống của hộ nghèo.
1.3.2.2. Giúp cho hộ nghèo không phải vay vốn với lãi suất cao, làm tăng
hiệu quả hoạt động kinh tế.
Điều kiện cuộc sống khó khăn, nếu hộ nghèo vay vốn để chi dùng cho sản
xuất hoặc duy trì cho cuộc sống của hộ với một lãi suất cao thì điều đó là quá sức
đối với các hộ nghèo. Chính vì vậy, nguồn vốn của Ngân hàng chính sách xã hội
cho các hộ nghèo vay với lãi suất thấp, nguồn vốn tín dụng đến tận tay người nghèo
làm cho họ yên tâm sản xuất, hàng tháng không phải lo lắng kiếm tiền để trả lãi. Do

đó mà nâng cao được chất lượng hoạt động sản xuất.
1.3.2.3. Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng tạo điều kiện cho hộ nghèo nâng cao
kiến thức, được tiếp cận và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Cung ứng vốn cho hộ nghèo thông qua chương trình tín dụng với mục tiêu
đầu tư cho việc sản suất kinh doanh để mang lại hiệu quả trong chương trình mục
tiêu của Đảng và Chính phủ là xóa đói giảm nghèo. Vì vậy mà trước khi quyết định
vay vốn của Ngân hàng, người dân phải tìm hiểu và tính toán xem làm như thế nào
thì mang lại hiệu quả tốt nhất. Để làm được điều đó đòi hỏi họ phải học hỏi kinh
nghiệm quản lý, kỹ thuật sản xuất, tạo tính năng động sáng tạo trong sản xuất kinh
doanh. Với nền kinh tế mở cửa như hiện nay, quá trình đầu tư vốn và kỹ thuật tiên
tiến vào nhiều loại giống vật nuôi, cây trồng trong các lĩnh vực Nông – lâm – ngư
nghiệp thủy hải sản đang được chú ý. Với những lợi thế đang có như vậy, tín dụng
giúp cho người nghèo có khả năng tiếp cận với những kiến thức bổ ích, mở rộng sản
xuất kinh doanh.
1.3.2.4. Góp phần to lớn vào công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn, thực hiện phân công lại cơ cấu lao động.
17
Vấn đề quan trọng hiện nay trong nông nghiệp là để đi lên một nền sản xuất
hàng hóa lớn đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật mới vào sản
xuất. Đó là việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đưa các loại giống cây
trồng mới có năng suất cao áp dụng vào thực tiễn. Để làm được điều đó đòi hỏi phải
có nột lượng vốn lớn, thực hiện công tác khuyến nông, khuyến lâm hộ nghèo phải
được đầu tư vốn họ mới thực hiện được. Như vậy, thông qua việc cung ứng vốn cho
người nghèo đã trực tiếp góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn, áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo ra các ngành
nghề dịch vụ mới trong nông nghiệp góp phần phân công lao động trong nông
nghiệp và lao động trong xã hội.
1.3.2.5. Cung ứng vốn cho hộ nghèo góp phần xây dựng nông thôn mới.
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân và của các cấp, các ngành. Tín dụng cho hộ nghèo thông

qua các quy định về nghiệp vụ cụ thể như việc bình xét công khai những người
được vay vốn, việc thực hiện các tổ tương trợ vay vốn, tạo sự phối hợp chặt chẽ
giữa các tổ chức chính trị xã hội, cấp ủy chính quyền đã có tác dụng:
• Tăng cường được hiệu lực của cấp ủy chính quyền trong ban lãnh đạo, chỉ
đạo kinh tế ở địa phương.
• Tạo ra được sự gắn bó giữa các hội viên, đoàn viên trong tổ chức hội,
đoàn thể của mình thông qua việc hưỡng dẫn giúp đỡ kỹ thuật sản xuất, kinh
nghiệm quản lý kinh tế, quyền lợi kinh tế của tổ chức hội thông qua việc vay vốn.
• Thông qua các tổ tương trợ tạo điều kiện để những người vay vốn có cùng
hoàn cảnh, nêu cao tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, tạo sự đoàn kết,
tạo niềm tin ở dân đơi với Đảng và Nhà nước.
• Kết quả phát triển kinh tế đã làm thay đổi đời sống kinh tế ở nông thôn,
an ninh, trật tự an toàn xã hội được thực hiện tốt, những mặt tiêu cực được hạn chế,
tạo ra bộ mặt mới trong đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn.
1.4. Hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo.
1.4.1. Khái niệm về hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo.
Hiệu quả tín dụng là một khái niệm tổng hợp bao hàm ý nghĩa toàn diện về kinh
tế, chính trị xã hội và ta có thể hiểu hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo là sự thỏa mãn
nhu cầu về sử dụng vốn giữa chủ thể là Ngân hàng và người vay vốn, những lợi ích
kinh tế mà xã hội thu được đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Về mặt kinh tế:
• Tín dụng hộ nghèo giúp cho người nghèo thoát khỏi nghèo đói sau một
quá trình thực hiện xóa đói giảm nghèo, cuộc sống đã khá lên và mức thu nhập ở
trên chuẩn nghèo. Góp phần giảm tỷ lệ nghèo đói, phục vụ cho sự phát triển và lưu
18
thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác các tiềm năng
trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết mối
quan hệ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
• Giúp cho người nghèo xác định rã trách nhiệm của mình trong quan hệ
vay mượn, khuyến khích người nghèo sử dụng vốn vào mục đích sản xuất kinh

doanh, tạo thu nhập để trả nợ Ngân hàng, tránh sự hiểu nhầm tín dụng của Ngân
hàng chính sách xã hội là cấp phát.
Về mặt xã hội:
 Tín dụng cho hộ nghèo góp phần xây dựng nông thôn mới, làm thay đổi
đời sống ở nông thôn, an ninh trật tự được thực hiện tốt, hạn chế những tiêu cực.
Tạo ra một diện mạo mới trong cuộc sống ở nông thôn.
• Tăng cường sự gắn bó giữa các hội viên, các tổ chức hội đoàn thể thông
qua việc hướng dẫn giúp đỡ kỹ thuật sản xuất, kinh nghiệm quản lý kinh tế…tăng
cường sự đoàn kết trong cộng đồng xã hội.
• Góp phần vào công cuộc đổi mới nông nghiệp nông thôn, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của người dân.
• Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ Ngân hàng, nâng cao sự hiểu biết của
người dân. Tạo nên sự phối hợp hài hòa trong hoạt động sản xuất xây dựng nền
kinh tế mới ở nông thôn và trong toàn xã hội.
1.4.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo.
Chất lượng tín dụng và hiệu quả tín dụng là hai chỉ tiêu quan trọng trong hoạt
động của Ngân hàng. Hai chỉ tiêu này có điểm giống nhau đều là chỉ tiêu phản ánh
lợi ích do vốn tín dụng mang lại cho khách hàng và Ngân hàng về mặt kinh tế.
Nhưng hiệu quả tín dụng mang tính cụ thể và tính toán được giữa lợi ích thu được
với chi phí bỏ ra trong quá trình đầu tư tín dụng thông qua các chỉ tiêu như:
a. Tổng số lượt hộ nghèo được vay vốn của Ngân hàng:
Chỉ tiêu này cho biết số hộ nghèo đã được sử dụng vốn tín dụng ưu đãi trên
tổng số hộ nghèo của toàn quốc, đây là chỉ tiêu đánh giá về số lượng. Chỉ tiêu này
được tính lũy kế từ hộ vay đầu tiên đến hết kỳ cần báo cáo kết quả.

Tổng số hộ Tổng số lượt hộ Tổng số lượt hộ
nghèo được = được vay đến + được vay trong
vay vốn cuối kỳ trước kỳ báo cáo
b. Tỷ lệ hộ nghèo được vay vốn:
Đây là chỉ tiêu đánh giá về mặt lượng đối với công tác tín dụng; bằng tổng số

hộ nghèo được vay vốn trên tổng số hộ nghèo đói theo chuẩn nghèo mà Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội công bố.
Tỷ lệ hộ Tổng số hộ nghèo được vay vốn
nghèo được = x 100
19
vay vốn Tổng số hộ nghèo đói trong danh sách
c. Số tiền vay bình quân một hộ:
Chỉ tiêu này đánh giá mức đầu tư cho một hộ ngày càng tăng lên hay giảm
xuống, điều đó chứng tỏ việc cho vay có đáp ứng được nhu cầu thực tế của các hộ
nghèo hay không.
Số tiền cho vay Dư nợ cho vay đến thời điểm báo cáo
bình quân =
một hộ Tổng số hộ còn dư nợ đến thời điểm báo cáo
d. Số hộ đã thoát khỏi ngưỡng nghèo đói:
Là chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá hiệu quả của công tác tín dụng đối với
hộ nghèo. Hộ đã thoát khỏi ngưỡng nghèo đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu
người trong hộ cao hơn chuẩn mực nghèo đói hiện hành, không còn nằm trong danh
sách hộ đói nghèo.
Tổng số hộ
nghèo đã thoát
khỏi ngưỡng
nghèo
=
Số hộ nghèo
trong danh
sách đầu kỳ
-
Số hộ
nghèo trong
danh sách

cuối kỳ
-
Số hộ nghèo
trong danh sách
đầu kỳ di cư đi
nơi khác
+
Số hộ nghèo
mới trong
kỳ báo cáo
1.4.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng đối với hộ nghèo.
 Hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo là hoạt động có tính rủi ro cao. Ngoài
những nguyên nhân khách quan như thiên tai, bão lụt, dịch bệnh đối với cây trồng vật
nuôi…thường xảy ra trên diện rộng, thiệt hại lớn còn có những nguyên nhân khác từ
bản thân hộ nghèo như: Thiếu kiến thức làm ăn, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được,
sức cạnh tranh kém gây ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả đầu tư.
 Do cơ sở hạ tầng kém phát triển ở vùng sâu, vùng xa có những xã chưa
có đường giao thông đến xã nên nhiều hộ nghèo chưa có điều kiện sử dụng vốn
Ngân hàng, hơn nữa trình độ dân trí chưa cao là những cản trở cho việc thực hiện
các chính sách tín dụng đối với hộ nghèo.
 Vốn tín dụng Ngân hàng chưa đồng bộ với các giải pháp khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, cung cấp vật tư kỹ thuật cho sản xuất và tổ chức thị
trường, lồng ghép các chương trình kinh tế xã hội đối với nông nghiệp, nông dân
còn nhiều vấn đề khó khăn nên điều kiện nâng cao hiệu quả còn nhiều tồn tại, vốn
và hiệu quả đầu tư thấp.
 Việc xác định đối tượng là hộ nghèo được vay vốn còn nhiều bất cập.
Theo cơ chế phải là hộ thiếu vốn sản xuất kinh doanh nhưng việc bình xét từ Uỷ
ban Nhân dân xã do Ban xóa đói giảm nghèo lập danh sách đơn thuần chỉ là danh
sách hộ nghèo, trong đó nhiều hộ không có điều kiện và không có năng lực tổ chức
sản xuất, hộ nghèo thuộc diện cứu trợ xã hội hoặc có những hộ không thuộc hộ

20
nghèo cũng trong danh sách được vay vốn, điều này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả
tín dụng đối với hộ nghèo.
 Phương thức đầu tư chưa phong phú dẫn đến việc sử dụng vốn vay sai mục
đích, nguồn vốn vay không phát huy hiệu quả, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư vốn.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
TẠI PHÒNG GIAO DỊCH NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
HUYỆN QUẢNG UYÊN- CHI NHÁNH TỈNH CAO BẰNG.
2.1. Tổng quan về phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện
Quảng Uyên – tỉnh Cao Bằng.
2.1.1. Một số đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội huyện Quảng Uyên – tỉnh
Cao Bằng.
21
Quảng Uyên là một huyện miền núi nằm ở phía Đông bắc của tỉnh Cao
Bằng, cách thị xã Cao Bằng 37km theo đường số 3. Phía Đông tiếp giáp với huyện
Hạ Lang và Trùng Khánh, phía nam giáp với huyện Phục Hòa có cửa khẩu quốc tế
Tà Lùng, phía Bắc giáp với huyện Trà Lĩnh, phía Tây giáp với huyện Thạch An. Do
Quảng Uyên là huyện miền núi nên điều kiện kinh tế khó khăn, giao thông chưa
được thuận tiện, cơ sở hạ tầng yếu kém, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi vừa
thiếu lại vừa xuống cấp nghiêm trọng, trong khi đó lại luôn bị ảnh hưởng bởi thiên,
dịch bệnh nên đến nay vẫn là huyện nghèo của tỉnh.
Toàn huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 250.1km
2
, với tổng dân số là
42.874 người trong đó hơn 80% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, đây cũng
chính là lực lượng đông đảo góp phần vào sự phát triển của địa phương.
Quảng Uyên với đặc trưng là đồi núi, tài nguyên đất phong phú,nguồn nước
tương đối dồi dào, khí hậu thuận lợi tạo điều kiện phát triển ngành nông nghiệp. Địa
hình đồi gò, núi cao, thung lũng xen kẽ, nên phù hợp trồng các loại cây công nghiệp
ngắn ngày, chất đất trong vùng thích hợp cho việc phát triển cây mía, cây lạc. Ngoài

ra chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng có nhiều thuận lợi.
Quảng Uyên có 16 xã và một thị trấn. Số hộ nghèo đến cuối năm 2008 chiếm
50,2% tổng số hộ. đến nay theo tiêu chuẩn mới giảm xuống còn 27,4%. Tuy vậy số
hộ nghèo vẫn còn ở mức cao, nguyên nhân chính là do thiếu vốn và thiếu kiến thức
về sản xuất.
Theo cơ cấu phát triển kinh tế của huyện với cơ cấu Nông – Lâm – Tiểu thủ
công nghiệp mà trọng tâm là đưa giống mới có năng suất và chất lượng cao vào
trồng trọt và chăn nuôi, phát triển nghề rừng và kinh tế trang trại. Để phục vụ cho
định hướng đó thì cần phải có một lượng vốn tương đối lớn, nhưng vốn tự có của
dân cư đầu tư vào sản xuất chủ yếu dựa vào vốn đi vay. Vì vậy, trong những năm
qua vốn của các Ngân hàng và của các tổ chức tài chính tín dụng ngày càng tăng đã
góp phần thúc đẩy kinh tế của huyện phát triển, ước tính đến năm 2010 tổng vốn
đầu tư của các nguồn vào khoảng 131 tỷ đồng. Đến nay, theo tiêu chuẩn mới số hộ
nghèo giảm xuống còn 27,4% trên tổng số hộ. Nguyên nhân chủ yếu của các hộ
nghèo là do thiếu vốn sản xuất kinh doanh vì không có đủ tài sản thế chấp Ngân
22
hàng thương mại và tổ chức tín dụng cho vay khác. Chính vì vậy nhu cầu vốn cho
hộ nghèo là rất lớn để giúp các hộ nghèo thoát khỏi ngưỡng nghèo đói.
Việc sản xuất nông nghiệp có chuyển biến rõ rệt, các giống vật nuôi cây
trồng mới có năng suất và chất lượng cao được đưa vào sản xuất, các biện pháp
khoa học kỹ thuật được chuyển giao cho nông dân áp dụng vào trong sản xuất.
Chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, đầu tư thâm canh cây trồng…Giá trị
sản xuất của ngành nông nghiệp đạt 115.095 tỷ đồng năm 2010, tăng 3,12% so với
năm 2009.
Trong đó:
• Ngành trồng trọt: sản lượng lương thực đạt 36,73 tấn, bình quân lương
thực đầu người đạt 610 kg/người năm 2010. Giá trị trồng trọt và dịch vụ nông
nghiệp 59,87% trong cơ cấu ngàng nông lâm nghiệp.
• Chăn nuôi: đã có bước phát triển hơn, đàn trâu có 13.528 con, đàn bò có
5.412 con, đàn lợn có 45.828 con và 511 con gia cầm, diện tích nuôi trồng thủy sản

đạt 440 ha với sản lượng 432 tấn.
• Lâm nghiệp: diện tích khoanh nuôi, bảo vệ rừng đã giao khoán đến từng
hộ gia đình chăm sóc bảo vệ, công tác phòng chống cháy rừng đã được triển khai
kịp thời.
Mặc dù kinh tế địa phương đã bớt khó khăn, nhưng số hộ nghèo vẫn còn ở
mức cao. Nhu cầu vốn cho các hộ nghèo vẫn còn rất lớn, bởi các hộ nghèo muốn
thoát nghèo thì động lực chủ yếu là vốn sản xuất kinh doanh. Đây là một yêu cầu
đòi hỏi và đồng thời là gánh nặng của Ngân hàng chính sách xã hội nói riêng và
toàn huyện nói chung, góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo của địa phương.
2.1.2. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng chính sách xã hội
Thực hiện Nghị định số 78/2002/NĐ – CP của Chính phủ và Quyết định số
131/2002/NĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng chính sách xã hội được
thành lập nhằm tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại trên cơ sở tổ
chức lại Ngân hàng phục vụ người nghèo. Đây là sự nỗ lực rất lớn của Chính phủ
Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Đến nay
Ngân hàng chính sách xã hội đã được tổ chức thành một hệ thống từ Trung ương
đến địa phương cấp xã. Toàn quốc hiện có 65 chi nhánh cấp tỉnh và sở giao dịch,
23

×