Đề tài: Hồn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội
(Chương 2+3+4)
Họ và tên học viên: Bùi Thị Hường
Lớp: Quản trị Kinh doanh Tổng hợp
Khóa: 18
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS. Trần Việt Lâm
1
CHƯƠNG 2:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Rủi ro của ngân hàng thương mại
2.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
2.1.1.1. Ngân hàng thương mại và các hoạt động cơ bản
Khái niệm về ngân hàng thương mại
Có rất nhiều quan niệm, khái niệm về NHTM, việc hiểu NHTM có thể được hiểu
qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Song xét
trên giác độ những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp, chúng ta có thể hiểu NHTM
được hiểu như sau: “NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, thuận tiện nhất về các hoạt động tài chính, như hoạt động tín dụng,
tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Những hoạt động cơ bản của NHTM
Hoạt động chủ yếu của NHTM là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Các cá nhân và tổ
chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập
và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn. Trái lại, các cá nhân và tổ chức thặng dư
trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hố,
dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Ngân hàng trở thành trung gian tài chính, huy
động nơi có vốn tạm thời nhàn rỗi để cho vay, đầu tư. Với xu thế phát triển của nền kinh
tế, các Ngân hàng từ chỗ chỉ cung cấp dịch vụ về nhận tiền gửi, tới nay các Ngân hàng đã
tăng cường cung cấp thêm nhiều mảng hoạt động có giá trị gia tăng như huy động vốn, tín
dụng, trung gian thanh toán và một số hoạt động khác, cụ thể như sau:
Hoạt động huy động vốn
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thựơng mại, thực chất là
tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng
phải có nghĩa vụ hồn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Nguồn vốn huy động
là nguồn tài nguyên to lớn nhất, bao gồm các hình thức sau:
2
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức
tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài.
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác họat động tại Việt Nam và của các tổ
chức tín dụng nước ngoài.
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước.
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.
Đối với tiền gửi của cá nhân và đơn vị, ngồi lãi suất thì nhu cầu giao dịch với
những tiện lợi, nhanh chóng và an toàn là yếu tố cơ bản để thu hút nguồn tiền này.
Đối với tiền gửi tiết kiệm, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu thì lãi suất là yếu tố
quyết định và người gửi tiết kiệm hay mua kỳ phiếu đều nhằm mục đích kiếm lời.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động chủ yếu và thường xuyên của các ngân hàng
thương mại, mà qua các hoạt động này mà các hoạt động khác của ngân hàng thương mại
mới có khả năng thực hiện được.
Hoạt động cho vay (cấp tín dụng)
Số nguồn vốn cịn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các ngân hàng thương mại
có thể dùng để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân bao gồm:
- Cho vay: Là tín dụng nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại. Trong đó ngân hàng
thương mại sẽ cho người đi vay vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu
dùng. Khi đến hạn, người đi vay phải hoàn trả vốn và tiền lãi. Ngân hàng kiểm soát được
người đi vay, kiểm soát được q trình sử dụng vốn. Người đi vay có ý thức trả nợ cho
nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng làm sao có hiệu quả để hồn trả nợ vay.
Trong cho cho vay thì mức độ rủi ro rất lớn, không thu hồi được vốn vay hoặc trả không
hết hoặc không đúng hạn…do chủ quan hoặc khách quan. Do đó khi cho vay, các ngân
hàng cần sử dụng các biện pháp bảo đảm vốn vay: thế chấp, cầm cố…
- Chiết khấu: Đây là nghiệp vụ cho vay (gián tiếp) mà ngân hàng sẽ cung ứng vốn
tín dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Các
đối tượng trong nghiệp vụ này gồm hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá
khác.
3
- Cho thuê tài chính: Là loại tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các cơng ty cho
th tài chính dùng vốn cùa mình hoặc vốn do phát hành trái phiếu để mua tài sản, thiết bị
theo yêu cầu của người đi thuê và tiến hành cho thuê trong một thời gian nhất định. Người
đi thuê phải trả tiền thuê cho cơng ty cho th tài chính theo định kỳ. Khi kết thúc hợp
đồng thuê, người đi thuê được quyền mua hoặc kéo dài thêm thời hạn thuê hoặc trả lại
thiết bị cho bên thuê.
- Bảo lãnh ngân hàng: Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của ngân
hàng với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng; khi
khách hàng khơng thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng đã nhận nợ và hoàn
trả cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
- Đầu tư: là việc ngân hàng dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác
để đầu tư dưới các hình thức như:
+ Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty, hùn vốn mua cổ phần chỉ được
phép thực hiện bằng vốn của ngân hàng.
+ Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty…
Tất cả các hoạt động đầu tư chứng khốn đều nhằm mục đích mang lại thu nhập,
mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán,
mặt khác đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp.
Các hoạt động kinh doanh dịch vụ của ngân hàng
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho
nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho
ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…có vị trí xứng đáng trong giai đoạn phát
triển hiện nay của ngân hàng thương mại. Các hoạt động ngày gồm:
- Các dịch vụ thanh toán thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ
cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh tốn…)
- Nhận bảo quản các tài sản quý giá, các giấy tờ chứng thư quan trọng của cơng chúng.
- Bảo quản, mua bán hộ chứng khốn theo ủy nhiệm của khách hàng
- Kinh doanh, mua bán ngoại tệ, vàng bạc đá quý
- Tư vấn tài chính, giúp đỡ các cơng ty, xí nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
2.1.2. Rủi ro đối với ngân hàng thương mại
2.1.2.1. Định nghĩa về rủi ro
4
Có rất nhiều quan niệm về rủi ro.
- Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến (từ điển Tiếng Việt xuất bản
năm 1995)
- Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy
hiểm, khó khăn hoặc điều khơng chắc chắn có thể xảy ra cho con người
- Một quan niệm khác: rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro vừa mang tính
tích cực vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang tới những tổn thất, mất mát, nguy
hiểm…cho con người nhưng cũng có thể mang đến những cơ hội
Đối với một ngân hàng, có thể hiểu Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy
ra dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến
hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hồn thành được một nghiệp vụ tài
chính nhất định.
2.1.2.2. Các loại rủi ro trong ngân hàng thương mại
Kinh doanh ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc thù, do đó những rủi ro đối với hoạt
động ngân hàng cũng mang tính đặc thù. Những rủi ro mà một ngân hàng hiện đại phải
đối mặt bao gồm các loại rủi ro sau:
Rủi ro lãi suất
Rủi ro về lãi suất là rủi ro do sự biến động của lãi suất gây nên. Nếu ngân hàng có tài sản
Nợ nhạy cảm với lãi suất lớn hơn tài sản Có nhạy cảm với lãi suất, thì khi lãi suất tăng lợi
nhuận của ngân hàng sẽ giảm. Ngược lại, lãi suất giảm sẽ làm tăng lợi nhuận của ngân hàng.
Nguyên nhân chính gây ra rủi ro lãi suất là do sự không cân xứng giữa các kỳ hạn của
tài sản Nợ và tài sản Có. Nếu ngân hàng dùng tài sản Nợ ngắn hạn để đầu tư vào tài sản
Có dài hạn thì khi lãi suất ngắn hạn tăng lên, trong khi lãi suất đầu tư vẫn giữ nguyên,
ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu ngân hàng dùng tài sản Nợ dài hạn để đầu tư vào
tài sản Có ngắn hạn thì khi lãi suất đầu tư giảm ngân hàng cũng có nguy cơ bị rủi ro.
Ngồi ra, rủi ro lãi suất cịn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như: Do bất lợi
trong cạnh tranh, buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay để thu
hút khách hàng, do đó đã làm tăng chi phí và giảm thu nhập của ngân hàng; Do cung tiền
tệ nhỏ hơn cầu tiền tệ, nên ngân hàng phải tăng lãi suất để huy động vốn; Do chính sách
ưu đãi trong cho vay của nhà nước nên ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay.
Rủi ro tín dụng
5
Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và
lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi khơng đúng kỳ hạn. Rủi ro tín dụng
phát sinh từ việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sở hợp đồng tín dụng, theo
đó, người vay tiền cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng.
Chính vì vậy, tại thời điểm ký kết hợp đồng và cấp tín dụng, ngân hàng phải chắc chắn
được khả năng thanh toán đầy đủ và đúng hạn của khách hàng với một xác suất cao.
Rủi ro tín dụng khơng chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt
động mang tính chất tín dụng khác của NHTM như: Hoạt động bảo lãnh, tài trợ thương
mại, cho thuê tài chính.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro cơ bản nhất của ngân hàng. Nguyên nhân gây nên rủi ro
tín dụng thường do:
- Người vay vốn lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính nên khơng có đủ khả năng
thanh tốn nợ cho ngân hàng
- Do thiếu thơng tin về khách hàng nên ngân hàng đã cho những khách hàng kinh
doanh kém hiệu quả vay vốn, nên việc thu nợ gặp khó khăn, đến hạn khách hàng khơng
trả được nợ cho ngân hàng.
- Cán bộ ngân hàng bất cập về trình độ hoặc vi phạm đạo đức trong kinh doanh dẫn
đến cho vay khống, cho vay không đúng mục đích, thẩm định dự án đầu tư, phương án
kinh doanh khơng chính xác
- Giá trị tài sản đảm bảo tiền vay không đáp ứng được yêu cầu thu nợ của ngân hàng.
- Quá chú trọng về lợi tức, đặt kỳ vọng về lợi tức cao hơn khoản cho vay lành mạnh
- Các nguyên nhân khác như: Người vay cố ý không trả nợ, hoặc các lý do bất khả
kháng như người vay chết hoặc mất tích.
Rủi ro tín dụng cũng có quan hệ với các rủi ro khác trong kinh doanh của ngân hàng
thương mại
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn nhiều loại rủi ro, trong đó rủi ro tín
dụng là rủi ro lớn nhất. Xét về quan hệ của rủi ro tín dụng với các rủi ro khác trong hoạt
động Ngân hàng, thì bản thân rủi ro tín dụng lại khơng hồn tồn độc lập mà nó tác động
qua lại với các rủi ro khác như rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản... có thể rủi
ro này là tiền đề của rủi ro khác, nguyên nhân của nguyên nhân.
6
Bên cạnh việc phân loại rủi ro hoạt động Ngân hàng tuỳ thuộc vào mục đích
nghiên cứu, thì các loại rủi ro cũng phát triển theo thời gian, do có rủi ro mới phát sinh và
nó gắn với những sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trong những năm gần đây, người ta
đề cập nhiều đến rủi ro tỷ giá, rủi ro danh tiếng/pháp lý, rủi ro công nghệ, rủi ro đa dạng
hoá ...Mối quan hệ giữa các loại rủi ro được thể hiện theo sơ đồ dưới đây.
Sơ đồ 1-1. Rủi ro tín dụng trong mối quan hệ với các loại rủi ro khác
Qua sơ đồ có thể thấy các loại rủi ro có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi rủi ro
tín dụng xảy ra, khách hàng khơng trả được nợ rất có thể kéo theo rủi ro thanh khoản do
Ngân hàng bị thiếu hụt tiền mặt để trang trải nghĩa vụ tài chính đến hạn…
Rủi ro tín dụng cũng được thể hiện trên nhiều phương diện, tuy nhiên chủ yếu
được phân loại như sau:
- Theo đối tượng sử dụng vốn vay:
+ Rủi ro khách hàng cá thể: Thông thường số lượng khách hàng sẽ rất nhiều, tuy nhiên
mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ sẽ thấp, mức độ ảnh hưởng của việc mất khả năng
thanh toán của từng khoản vay là nhỏ; loại hình giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý.
+ Rủi ro khách hàng công ty, tổ chức kinh tế: Tùy theo qui mô của công ty, tổ chức
kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hưởng của rủi ro các khoản vay vào đối tượng này
sẽ được đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động của nó đến khả năng thanh tốn khoản nợ
là vừa hay cao.
+ Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: Những Ngân hàng hoạt động phạm vi tồn
cầu có sự phân chia theo lãnh thổ quốc gia, nếu trong phạm vi một quốc gia phân chia
RRTD tập trung theo khu vực địa lý, ví dụ như mức độ rủi ro khu vực.
- Theo phạm vi ảnh hưởng:
7
+ Rủi ro giao dịch đơn lẻ: Được hiểu là rủi ro gắn với một giao dịch đơn lẻ nào đó,
cụ thể như rủi ro của một khoản vay đối với một khách hàng. Loại rủi ro này gắn liền và
xuất phát chủ yếu do đặc điểm cá biệt của khoản vay hoặc khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro hệ thống: Được hiểu là RRTD gắn liền với nhóm khách hàng, một ngành
hàng, thậm chí với cả một nền kinh tế. Rủi ro hệ thống mang tính chất vĩ mơ và liên quan
nhiều đến việc quản lý danh mục cho vay.
- Phân theo giai đoạn phát sinh:
+ Rủi ro trong thẩm định: Là rủi ro mà TCTD đánh giá sai khách hàng
+ Rủi ro khi cho vay: Là rủi ro mà khi vốn vay sử dụng sai mục đích, làm cho
khoản vay không phát huy hiệu quả.
+ Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ: Là rủi ro phát sinh do q trình giám sát thu hồi
nợ khơng theo dõi được dòng tiền của khách hàng để khách hàng sử dụng vốn quay vịng
vào việc khác khơng thu được nợ đúng kỳ hạn, hoặc không thu được nợ.
- Phân theo sản phẩm tín dụng:
+ Rủi ro sản phẩm tín dụng nội bảng: Là RRTD phát sinh từ những khoản cho
vay, chiết khấu, thấu chi được hạch toán trong nội bảng.
+ Rủi ro các sản phẩm phái sinh: Là RRTD phát sinh từ những sản phẩm ngoại
bảng trong tài trợ thương mại, như mở L/C, bảo lãnh.
Rủi ro ngoại hối
Rủi ro ngoại hối là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do sự biến
động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Nếu tỷ giá hối đoái bán ra lớn hơn tỷ giá mua vào thì
nhà kinh doanh có lãi, ngược lại thì bị lỗ.
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động, với biến đổi của tỷ giá hối đoái,
bất kỳ một khoản nợ nào cho dù dài hay ngắn đối với một đồng tiền nhất định, đều có thể
tạo cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái. Những rủi ro này có thể phát
sinh trong tất cả các nghiệp vụ có liên quan đến ngoại tệ của ngân hàng như: Cho vay, huy
động vốn bằng ngoại tệ; Mua bán ngoại tệ; Đầu tư chứng khoán bằng ngoại tệ…
Trong các giao dịch ngoại hối và trong cân đối tài sản bằng ngoại tệ của ngân hàng,
bất cứ một trạng thái ngoại hối “trường” hay “ đoản” đều có thể gặp rủi ro ngoại hối khi tỷ
giá ngoại tệ thay đổi. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ trường thì khi ngoại tệ tăng giá
ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ bị lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. Nếu ngân
8
hàng ở trạng thái đoản về một loại ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ lên giá ngân hàng sẽ bị lỗ
và ngược lại.
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính
một cách tức thời hoặc phải huy động vốn bổ sung với chi phí cao hoặc phải bán tài sản
với giá thấp. Rủi ro thanh khoản xảy ra khiến cho ngân hàng phải đình trệ hoạt động, gây
thua lỗ, mất uy tín và nếu nghiêm trọng có thể dẫn đến phá sản. Trong những trường hợp
như vậy, ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh tốn hoặc phải bán tài sản có
của mình để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính, đặc biệt là nhu cầu rút tiền của người gửi
tiền.
Trong một số trường hợp đặc biệt, ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh
khoản, ví dụ như trong tình huống dân chúng mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng, hoặc
nhu cầu rút tiền có tính thời vụ khơng dự tính trước, địi hỏi ngân hàng phải chi trả tức
thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường.
Trong trường hợp rủi ro thanh khoản càng ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những
người gửi tiền đồng loạt yêu cầu ngân hàng chi trả tồn bộ tiền gửi của họ thì dẫn đến
ngân hàng chỉ đang từ chỗ phải đối phó với rủi ro thanh khoản đến chỗ phải đối mặt với
rủi ro phá sản.
Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Hoạt động ngoại bảng là các cam kết không nằm trong bảng cân đối tài sản (nội bảng),
bởi vì các cam kết này không liên quan đến: giấy nhận nợ hay chứng khốn sơ cấp (do
cơng ty phát hành) bên tài sản có; hoặc chứng chỉ tiền gửi hay trái phiếu thứ cấp (do ngân
hàng phát hành) bên tài sản nợ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Tuy nhiên, các
hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội
bảng, bởi vì các cam kết ngoại bảng đến hạn có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ
bổ sung, làm thay đổi bảng cân đối nội bảng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong
khi khơng phải sử dụng đến vốn kinh doanh, nên đã khuyến khích các hoạt động ngoại
bảng này ngày càng phát triển. Tuy nhiên những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Chẳng hạn như trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải
đứng ra thanh tốn tồn bộ gốc và lãi chứng khốn cho cơng ty phát hành. Điều này dẫn
9
đến hệ quả là bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài sản nội bảng,
nghĩa là ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để trang trải những gì đã cam
kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong hoạt
động ngoại bảng có thể trở thành nguyên nhân khiến cho ngân hàng có thể đi đến phá sản.
Rủi ro công nghệ và hoạt động
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không
tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mơ hoạt động.
Rủi ro về cơng nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm
xuống đáng kể và nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Ngược
lại, lợi ích từ việc đầu tư cơng nghệ là tạo cho ngân hàng một sức bật quan trọng trong
cuộc cạnh tranh dữ dội trên thương trường và đồng thời cho phép ngân hàng phát triển các
sản phẩm mới, tiên tiến, hiện đại giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển bền vững.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro cơng nghệ và có thể phát sinh bất
cứ khi nào nệu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong
ngừng hoạt động. Hệ thống hỗ trợ bên trong bao gồm các chuyên viên cộng với công
nghệ thực hiện khâu thanh toán, xử lý các sự vụ và cung cấp các dịch vụ khác làm hậu
thuẫn cho các giao dịch thuộc nội bảng và ngoại bảng.
Rủi ro quốc gia và rủi ro khác
Rủi ro quốc gia: Khi tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ khơng cân xứng về số
lượng và kỳ hạn thì ngân hàng có thể chịu rủi ro về ngoại hối và rủi ro lãi suất ngoại tệ.
Ngoài các rủi ro này thì ngay cả trong trường hợp ngân hàng đầu tư bằng bản tệ cho các
cơng ty nước ngồi có trụ sở ở nước ngồi cũng có thể chịu rủi ro đầu tư nước ngồi, đó là
rủi ro quốc gia. Đơi khi rủi ro quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp rủi ro tín
dụng mà ngân hàng gặp phải khi đầu tư cho các cơng ty nội địa. Ví dụ, khi một cơng ty
nội địa khơng có khả năng hoặc khơng sẵn lịng hồn trả vốn vay ngân hàng, ngân hàng
như là người chủ nợ có quyền tham dự vào q trình phân chia tài sản khi nó phá sản, và
như vậy chi phí ít thì ngân hàng cũng thu hịi được một phần hay tồn bộ vốn cho vay.
Trong trường hợp ngân hàng đầu tư cho công ty nước ngồi thì ngay cả trong trường hợp
cơng ty có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vồn vay, nhưng cũng có thể khơng thực hiện
được, bởi vì, chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước ngồi do dự
trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lý do chính trị. Trong trường hợp này, ngân hàng như là chủ
10
nợ có rất ít hoặc khơng có cơ hội khiếu nại lên tòa án địa phương hay tòa án quốc tế. Một
đảm bảo cho việc thu hồi được vốn gốc và lãi đầu tư ở nước ngoài là việc phải kiểm sốt
và dự tính được trạng thái cung cầu vốn và tín dụng trong tương lai của quốc gia mà ngân
hàng có ý định đầu tư.
2.2. Quản trị rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại
2.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Có thể hiểu quản trị rủi ro tín dụng theo nhiều quan điểm khác nhau, nhưng theo
quan điểm hiện đại thì quản trị rủi ro tín dụng là q trình xây dựng và thực thi các chiến
lược, chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm tối đa hoá lợi nhuận trong phạm vi
mức rủi ro có thể chấp nhận. Kiểm sốt rủi ro tín dụng ở mức có thể chấp nhận là việc
NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu
trong kinh doanh tín dụng, nhằm tăng doanh thu tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro,
nhằm đạt được hiệu quả trong kinh doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Như vậy, theo tác giả có thể tiếp cận khái niệm quản trị rủi ro tín dụng ở các góc độ
khác nhau, nhưng bản chất của nó gồm: Các quá trình mà Ngân hàng tiến hành hoạch
định chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng, tổ chức triển khai thực hiện và
giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hố lợi nhuận của
Ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận.
2.2.2. Vai trị của quản trị rủi ro tín dụng đối với ngân hàng thương mại
-Do q trình tự do hố, nới lỏng qui định trong hoạt động Ngân hàng trên phạm vi
toàn thế giới. Khi gia tăng cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng.
Trong lĩnh vực Ngân hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày càng giảm
xuống. Tác động này làm cho các Ngân hàng ngày càng có xu hướng mở rộng qui mô
kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó mở rộng qui mơ tín dụng đồng
nghĩa với việc RRTD cũng có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, qui luật đào thải của cạnh
tranh sẽ làm tăng mức độ phá sản của các khách hàng của Ngân hàng kéo theo sự thiệt hại
cho Ngân hàng, nên nếu quản trị được rủi ro tín dụng sẽ làm cho tín dụng ít bị đổ vỡ, làm
tăng tính cạnh tranh của ngân hàng và làm tăng lợi nhuận của ngân hàng.
- Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa năng phức
tạp, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập cạnh tranh gay gắt
vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới. Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm
11
tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các
sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở của sự phát triển cơng nghệ như thẻ tín dụng, cho vay cá
thể…ln chứa dựng rủi ro mới. Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và đa
dạng hố sản phẩm cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng trở nên cấp thiết hơn, mang
ý nghĩa sống còn với các Ngân hàng. Khi quản trị được rủi ro tín dụng, sẽ làm giảm tính
phức tạp của sản phẩm tín dụng làm cho cho các ngân hàng quản lý càng tốt hơn.
- Đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển
đổi như Việt Nam, thì mơi trường kinh tế chưa ổn định, hệ thống pháp luật đang xây
dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động Ngân hàng càng trở nên rủi ro
hơn. Vì vậy, cơng tác quản trị RRTD sẽ làm cho các ngân hàng có cách phịng chống từ
xa và hiệu quả hơn.
- Quản trị rủi ro tốt là một lợi thế cạnh tranh và là công cụ tạo ra giá trị của
NHTM.
2.2.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
2.2.3.1. Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng
Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn
chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của ngân
hàng. Thơng qua kết cấu danh mục tín dụng của một ngân hàng, ta có thể biết được chính
sách tín dụng của ngân hàng này là như thế nào. Nếu một chính sách tín dụng là khơng
hiệu quả thì phải tiến hành kiểm tra hoặc phải được tăng cường quản lý bởi ban lãnh đạo
ngân hàng. Sau đây là những nội dung quan trọng nhất thường cấu thành trong chính sách
tín dụng của một ngân hàng.
- Mục đích của một danh mục tín dụng ngân hàng, bao gồm các đặc điểm của một danh
mục tín dụng xét theo các tiêu chí như: các loại tín dụng, những kỳ hạn tín dụng, các độ lớn
tín dụng, chất lượng tín dụng, đối tượng khách hàng nịng cốt, khách hàng mục tiêu…
- Phân cấp thẩm quyền cho vay đối với từng cán bộ tín dụng và từng hội đồng tín dụng
( Quy định mức cho vay tối đa, các loại tín dụng được phép, và chữ ký của người có trách
nhiệm)
- Phân cấp chịu trách nhiệm hàng ngày trong công việc và báo cáo thông tin trong nội
bộ phịng tín dụng
12
- Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin vay của
khách hàng
- Hồ sơ bắt buộc đối với từng đơn xin vay, và những gì phải được lưu giữ tại ngân
hàng ( Ví dụ như báo cáo tài chính, hợp đồng đảm bảo tín dụng…)
- Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng, cụ thể ai là người chịu trách
nhiệm duy trì và kiểm tra hồ sơ tín dụng
- Chỉ dẫn nhận, định giá và hoàn tất hồ so đảm bảo tín dụng
- Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín dụng, mức phí và các điều
kiện hoàn trả nợ vay
- Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung cho tất cả các loại tín dụng
- Quy định giới hạn tín dụng tối đa cho một khách hàng
- Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó hướng tín dụng vào lĩnh
vực này
- Các phương án ưu tiên trong việc phát hiện, phân tích và xử lý tín dụng có vấn đề.
Chính sách tín dụng ngân hàng mang lại nhiều ưu điểm trong quá trình thực hiện cho
vay. Trước hết, đối với cán bộ tín dụng, họ biết được cần phải làm các bước như thế nào
khi tiến hành một khoản cho vay và biết được trách nhiệm của mình đến đâu; đối với ngân
hàng, thơng qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể đạt được một danh mục tín dụng
đa mụch đích, như làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được tiềm ẩn rủi ro và đáp ứng
được các địi hỏi từ phía nhà quản lý. Bất kỳ một sự ngoại lệ nào trong chính sách tín
dụng cũng phải được quy định đầy đủ, các lý do tại sao lại có sự ngoại lệ cũng phải liệt
kê.
Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu
vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho vay, giải ngân và thanh lý
hợp đồng tín dụng. Một quy trình tín dụng được xây dựng luôn nhắm tới 3 mục tiêu, đó là:
- Lợi nhuận của ngân hàng (lợi tức)
- An tồn ít rủi ro
- Sự lành mạnh của các khoản tín dụng
13
Một quy trình tín dụng hiệu quả ln giúp các nhân viên ngân hàng trả lời các câu hỏi:
Quy mô của các khoản cho vay là bao nhiêu? Thời hạn cho vay bao nhiêu là thích hợp?
Sử dụng các hình thức cho vay nào?
Về mặt thời gian, quy trình tín dụng được chia ra làm 3 giai đoạn: trước khi cấp tín
dụng, trong khi cấp tín dụng và sau khi cấp tín dụng. Tuy nhiên, về mặt tác nghiệp, quy
trình tín dụng được chia ra thành các bước cụ thể như sau:
(1) Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng;
(2) Phân tích tín dụng
(3) Quyết định tín dụng
(4) Giải ngân
(5) Giám sát và thanh lý tín dụng
Việc xây dựng quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động
quản trị nhằm giảm thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi. Quy trình tín dụng được xây dựng
hợp lý sẽ có tác dụng:
Thứ nhất, quy trình tín dụng sẽ làm cơ sở xây dựng mơ hình tổ chức cơng việc hợp lý
trong ngân hàng theo đó nhiệm vụ các cá nhân, phịng ban liên quan đến hoạt động tín
dụng sẽ được quy định cụ thể.
Thứ hai, quy trình tín dụng giúp ngân hàng thiết lập thủ tục hành chính tối ưu hóa
trong q trình thực hiện cho vay đối với từng nhóm khách hàng. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong việc tiết kiệm thời gian và hạ thấp chi phí giao dịch cho cả hai bên trong
khi vẫn đảm bảo tuân thủ những quy định của pháp luật cũng như đảm bảo các mục tiêu
về an toàn trong kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba, quy trình tín dụng tạo cơ sở cho việc kiểm sốt q trình thực hiện cho vay
đối với khách hàng. Thơng qua đó các nhà quản trị trong ngân hàng nhanh chóng xác
định được những khâu cịn yếu kém cần điều chỉnh cho hợp lý. Hơn thế nữa, việc kiểm
soát còn giúp ngân hàng phát hiện và giải quyết triệt để những rủi ro ngay từ khi mới phát
sinh.
2.2.3.2. Giám sát và kiểm tra việc sử dụng vốn vay
Giám sát tín dụng
Giám sát là khâu quan trọng nhằm mục tiêu bảo đảm cho tiền vay được sử dụng đúng
mục đích đã cam kết, kiểm sốt rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai
14
phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Các phương pháp giám sát có
thể áp dụng bao gồm:
-
Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng
-
Phân tích báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ
-
Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ
-
Thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi cư ngụ của
khách hàng đứng tên vay vốn
-
Kiểm tra các hình thức bảo đảm tiền vay
-
Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác
-
Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác
Kiểm tra tín dụng
Ngày nay các ngân hàng sử dụng rất nhiều các quy trình khác nhau để kiểm tra tín
dụng, tuy nhiên, những nguyên lý chung đang được áp dụng tại hầu hết các ngân hàng bao
gồm:
Nguyên lý 1: Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định, ví
dụ đối với khoản tín dụng nhỏ và vừa thì định kỳ kiểm tra có thể là 30, 60 hay 90 ngày;
đối với những khoản tín dụng lớn thì phải kiểm tra thường xuyên hơn.
Nguyên lý 2: Xây dựng kế hoạch, chương trình nội dung quá trình kiểm tra một cách
thận trọng và chi tiết, đảm bảo rằng những khía cạnh quan trọng nhất của mỗi khoản tín
dụng phải được kiểm tra bao gồm:
-
Kế hoạch trả nợ của khách hàng, nhằm dảm bảo rằng khách hàng khơng chậm trễ
trong việc thanh tốn nợ theo kế hoạch.
-
Chất lượng và điều kiện của tài sản đảm bảo tín dụng
-
Tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, đảm bảo rằng ngân hàng có đầy đủ
thẩm quyền hợp pháp để sở hữu các tài sản đảm bảo tín dụng đối với người vay
trước tịa án nếu cần thiết.
-
Đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay xem đã thay đổi, trên
cơ sở đó xem xét lại nhu cầu tín dụng của người vay thay đổi như thế nào.
-
Đánh giá xem khoản tín dụng có cịn tn thủ chính sách cho vay của ngân hàng
và các tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra.
15
Nguyên lý 3: Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn, bởi vì nếu các “đại gia”
bị vỡ nợ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính của ngân hàng.
Nguyên lý 4: Quản lý chặt chẽ và thường xun các khoản tín dụng có vấn đề, tăng
cường kiểm tra giám sát khi phát hiện những điều kiện khơng lành mạnh liên quan đến
khoản tín dụng ngân hàng.
Ngun lý 5: Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi
xuống, hoặc những nghành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có biểu hiện
những vấn đề nghiêm trọng trong phát triển( ví dụ như xuất hiện các đối thủ cạnh tranh
mới, hay có sự áp dụng cơng nghệ mới địi hỏi phải có sản phẩm mới và các phương pháp
phân phối mới)
Kiểm tra tín dụng khơng phải là cơng việc thừa, lãng phí, và rất cần thiết để hình thành
chính sách cho vay của ngân hàng một cách lành mạnh. Nó khơng những giúp cho nhà
quản lý nhận ra vấn đề một cách nhanh chóng, mà cịn tác dụng kiểm tra thường xun
xem cán bộ tín dụng có chấp hành đúng chính sách cho vay của ngân hàng.
2.2.3.3. Xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề
Hoạt động tín dụng ln chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của NHTM và đem lại
phần lớn thu nhập cho các NHTM. Do vậy một trong những phương hướng hoạt động cơ
bản của ngành ngân hàng trong giai đoạn hiện nay là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm
tỷ nợ quá hạn xuống thấp. Trong quan hệ tín dụng việc phát sinh nợ quá hạn là điều không
thể tránh khỏi. Nhưng nợ quá hạn phát sinh vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến tình trạng
mất khả năng thanh tốn của NHTM.
Khi hết hạn trả nợ hoặc hết hạn cho vay, nếu khách hàng khơng có khả năng trả nợ thì
số nợ hiện tại phải chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn
đối với số tiền trả chậm.
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)= Tổng số tiền quá hạn/tổng dư nợ x 100
Công thức này phản ánh, nếu tỷ lệ Nợ quá hạn của ngân hàng ở mức cao thì chứng tỏ
hoạt động của ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, chất lượng tín dụng chưa tốt và ngược lại.
Việc phân loại nợ quá hạn sẽ giúp ngân hàng đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng
theo những tiêu thức khác nhau.
Phân loại nợ quá hạn
16
Nợ quá hạn được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau để làm căn cứ xây dựng
kế hoạch thu hồi vốn trong từng trường hợp cụ thể.
- Căn cứ vào thời gian quá hạn:
+ Nợ quá hạn dưới 180 ngày
+ Nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày
+ Nợ quá hạn trên 360 ngày
- Căn cứ theo thành phần kinh tế
+ Nợ quá hạn của các doanh nghiệp nhà nước
+ Nợ quá hạn của các doanh nghiệp tư nhân
+ Nợ quá hạn của các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Nợ quá hạn của các hộ sản xuất cá thể
- Căn cứ theo khả năng thu hồi
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi 100%
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi một phần
+ Nợ q hạn khơng có khả năng thu hồi
-
Căn cứ theo loại nguyên tệ
+ Nợ quá hạn bằng VNĐ
+ Nợ quá hạn bằng ngoại tệ
-
Căn cứ theo thời hạn của khoản vay
+Nợ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn
+ Nợ quá hạn của các khoản vay trung và dài hạn
-
Căn cứ theo nguyên nhân phát sinh
+ Nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan
+ Nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan
Các khoản nợ quá hạn trong hệ thống NHTM Việt Nam được phân loại thành 5 nhóm
theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005:
Nếu khách hàng khơng thực hiện những cam kết theo thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng và theo cam kết trên các giấy nhận nợ, có thể xử lý như sau:
- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ:
Cơ cấu lại thời hạn trả nợ là việc tổ chức tín dụng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ
vay đối với các khoản nợ vay của khách hàng. Các tổ chức tín dụng tự quyết định việc
17
cơ cấu lại thời hạn trả nợ, trên cơ sở khả năng tài chính của mình và kết quả đanh giá
khả năng trả nợ của khách hàng vay
- Miễn, giảm lãi tiền vay:
Khách hàng bị tổn thất về tài sản có liên quan đến vốn vay do nguyên nhân khách
quan, dẫn đến khó khăn tài chính có thể làm đơn đề nghị ngân hàng xem xét miễn,
giảm lãi tiền vay
- Chuyển nợ quá hạn
Nếu đến hạn trả nợ, khách hàng không trả được nợ và không được chấp thuận cho
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ, ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ số nợ gốc chưa
trả của doanh nghiệp sang nợ quá hạn. Tuy nhiên lãi suất nợ quá hạn chỉ áp dụng cho
các khoản nợ đến hạn trong thời gian chậm trả
- Trả nợ bằng xử lý tài sản đảm bảo (nếu có bảo đảm bằng tài sản)
Ngân hàng sẽ xử lý tài sản đảm bảo đển thu hồi nợ khi khách hàng vay (hoặc bên bảo
lãnh) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ
- Khởi kiện trước pháp luật
Ngân hàng cho vay có thể khởi kiện khi khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo đảm tiền vay đã bị nhắc nhở nhưng không khắc phục; nợ quá hạn phát sinh do
ngun nhân chủ quan nhưng khơng có biện pháp khả thi để trả nợ ngân hàng; có khả
năng tài chính để trả nợ nhưng cố tình trốn tránh trả nợ; hành vi lừa đảo, gian lận…
- Nguồn dự phòng RRTD
Theo Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN, “Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền
được trích lập để dự phịng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức
tín dụng khơng thực hiện theo nghĩa vụ đã cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ
gốc và hạch tốn vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng”. Dự phịng rủi ro bao gồm:
dự phòng chung và dự phòng cụ thể.
“Dự phịng chung” là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phịng cụ thể và trong
trường hợp khó khăn về tài chính của TCTD khi chất lượng khoản vay suy giảm.
“Dự phòng cụ thể” là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các
khoản nợ quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 của QĐ 493 để dự phòng cho những tổn thất có
thể xảy ra.
18
Theo QĐ 493/2005/QĐ – NHNN
Chỉ sử dụng dự phòng các khoản phải thu khó địi để xóa nợ sau khi đã sử dụng
các nguồn bù đắp bằng nguồn xử lý tài sản thế chấp, cầm cố, khoản bồi thường của các tổ
chức, cá nhân có liên quan (nếu có).
Số tiền xử lý rủi ro chỉ trong phạm vi số dự phịng hiện có.
Tổ chức tín dụng sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng đối với các khoản
nợ trong các trường hợp sau:
-
Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể phá sản theo quy định của
pháp luật, cá nhân bị chết hoặc mất tích.
-
Các khoản nợ thuộc nhóm 05, riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý,
tổ chức tín dụng được sử dụng dự phịng (nếu có) để xử lý rủi ro.
Nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể là xử lý rủi ro tín dụng một quý 1 lần theo
nguyên tắc:
-
Phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, khẩn trương theo thỏa thuận với khách
hàng và theo quy định pháp luật để thu hồi nợ.
-
Sử dụng dự phòng cụ thể theo quy định.
-
Trường hợp phát mại khơng bù đắp đủ cho rủi ro tín dụng của khoản nợ thì sử
dụng dự phịng chung để xử lý.
Việc tổ chức tín dụng sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng khơng phải là
xóa nợ cho khách hàng. Tổ chức tín dụng và cá nhân có liên quan khơng được phép thơng
báo dưới mọi hình thức cho khách hàng biết về việc xử lý rủi ro tín dụng.
Sau khi đã sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng phải
chuyển các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng từ hạch tốn nội bảng sang hạch tốn
ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp thu hồi nợ triệt để.
Trường hợp số tiền dự phịng khơng đủ để xử lý tồn bộ rủi ro tín dụng của các
khoản nợ phải xử lý, tổ chức tín dụng hạch tốn trực tiếp phần chênh lệch thiếu của số tiền
dự phịng vào chi phí hoạt động.
Trường hợp số tiền dự phịng đã trích cịn lại lớn hơn số tiền dự phịng phải
trích, tổ chức tín dụng phải hồn nhập phần chênh lệch thừa theo quy định của pháp luật
về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng.
19
Tổ chức tín dụng phải thành lập Hội đồng xử lý rủi ro do Chủ tịch Hội đồng quản
trị làm Chủ tịch và các thành viên gồm Trưởng ban kiểm soát, phụ trách bộ phận kế toán,
phụ trách bộ phận tín dụng, quản lý tín dụng và các thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng
quản trị quyết định.
2.2.4. Chỉ tiêu đánh giá kết quả công tác quản trị RRTD
Mục đích cuối cùng của quản trị rủi ro tín dụng là tối đa hóa lợi nhuận đã điều
chỉnh rủi ro bằng cách duy trì rủi ro tín dụng trong phạm vi các tham số có thể chấp nhận
được. Do đó, để đánh giá kết quả quản trị rủi ro tín dụng, các Ngân hàng thường đánh giá
qua nhiều chỉ số. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn, tác giả đề cập đến các chỉ tiêu
chính sau:
(+) Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ
Tỷ lệ này càng cao, vượt quá mức kỳ vọng của Ngân hàng sẽ thể hiện kết quả cơng
tác quản trị rủi ro cịn hạn chế
(+) Tỷ lệ dự phịng tổn thất tín dụng trên tổng dư nợ cho vay
Tỷ lệ này cao một mặt phản ánh chất lượng danh mục tín dụng có rủi ro cao. Tuy
nhiên, mặt khác thể hiện kết quả của việc đo lường tổn thất để tính tốn trích lập dự phịng
đảm bảo bù đắp rủi ro.
(+) Tỷ lệ xử lý rủi ro thực tế so với quỹ trích lập dự phịng rủi ro
Tỷ lệ này phản ánh khả năng xử lý tổn thất của ngân hàng khi có rủi ro tín dụng.
Nếu số dư xử lý rủi ro thực tế thấp hơn quỹ trích lập dự phịng chứng tỏ Ngân hàng hồn
tồn có khả năng bù đắp rủi ro bằng nguồn dự phịng và tăng lợi nhuận do hồn nhập dự
phịng. Nếu nguồn dự phịng khơng bù đắp đủ, Ngân hàng sẽ phải hạch toán giảm vốn chủ
sở hữu tương ứng.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
2.3.1. Nhân tố chủ quan
2.3.1.1. Mơi trường quản lý rủi ro tín dụng
Mơi trường được hiểu là quan điểm, văn hoá, chiến luợc cũng như nguyên tắc ứng
xử về rủi ro tín dụng mà một ngân hàng xây dựng và áp dụng trong toàn hệ thống của
mình. Các yếu tố này tạo một mơi trường để mọi bộ phận, cán bộ ngân hàng triển khai
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng một cách cụ thể. Mơi trường chính là kim chỉ nan đối
20