Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỸ HÀO - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.93 KB, 87 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 1
GIÁM ĐỐC 33
PHÓ GIÁM ĐỐC 33
2.2.2 Hiệu quả công tác huy động vốn 53
2.2.2.1 Lãi suất huy động vốn mà NHNo&PTNT Mỹ Hào hiện đang áp
dụng 53
2.2.2.2 Các chi phí liên quan đến hoạt động huy động vốn của chi nhánh
55
Chi phí huy động vốn là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá
hiệu quả hoạt động huy động vốn, nó bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí
khác. Trong đó chi phí trả lãi là bộ phận chính chiếm tỷ trọng cao nhất bao
gồm chi phí trả lãi tiền gửi, trả lãi tiền vay, trả lãi phát hành giấy tờ có giá.
Được thể hiện cụ thể trong bảng sau: 55
3.2.1 Có định hướng, kế hoạch về phát triển nguồn vốn phù hợp 71
3.2.2. Phát triển và đa dạng hóa các dịch vụ 72
3.2.2 Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn 73
3.2.3. Đơn giản hoá các thủ tục nhận tiền gửi cho tới các thủ tục cho vay.
75
3.2.4. Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt: 75
3.2.5. Gắn liền việc tăng cường huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu
quả 76
3.2.6. Thực hiện tốt chính sách khách hàng và chiến lược quảng cáo
hiệu quả 78
LỜI NÓI ĐẦU
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính


Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định
chính trị và xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ
một nền kinh tế kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ
tầng thấp kém về mọi mặt. Do vậy, để phát triển chúng ta cần phải có vốn,
Đảng và nhà nước ta đã xác định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có
trọng tâm trong đầu tư. Do đó chủ trương “vốn trong nước là quyết định,
vốn nước ngoài là quan trọng” luôn được quán triệt trong quản lý kinh tế,
quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi thị
trường vốn ở nước ta chưa phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt
kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay
chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có hệ thống này mà vốn được lưu chuyển
từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho việc lưu chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn
cho các công cuộc đầu tư góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm
qua ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng Nông nghiệp&phát triển nông
thôn (NHNo&PTNT) nói riêng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho
phù hợp với tình hình mới, tăng cường công tác huy động mọi nguồn vốn cho
đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho vay đối với các thành phần kinh tế, hiện đại
hoá công nghệ ngân hàng Chính vì vậy đã góp phần quan trọng vào công
cuộc đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, kiềm chế lạm
phát và ổn định đời sống nhân dân. Song bên những thành công và kết quả đạt
được thì hệ thống ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT riêng đang còn tồn
tại nhiều yếu kém đó là nguồn vốn huy động có thời gian dài còn thiếu, công
tác huy động còn nhiều bất cập, hệ thống ngân hàng chưa đáp ứng được nhu
cầu huy động vốn cho nền kinh tế…
Như ta đã biết, Ngân hàng thương mại (NHTM) với vai trò trung gian tài
chính trong việc huy động vốn để tái cấp vốn cho nền kinh tế là quan trọng
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
2
Chuyên đề tốt nghiệp

Học Viện Tài Chính
nhất. Tuy nhiên ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt chủ yếu kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ cho nên bắt buộc phải hoạt động có hiệu quả để vừa
đảm bảo mục tiêu an toàn trong hoạt động vừa có thể đứng vững trong nền
kinh tế thị trường và qua đó thực hiện có hiệu quả vai trò dẫn vốn của mình.
Chi nhánh NHNo&PTNT Mỹ Hào là một chi nhánh thành viên của
NHNo&PTNT Việt Nam. Với hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn, cũng giống như các NHTM khác, chi nhánh rất quan tâm tới
nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh.
Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại
NHNo&PTNT Mỹ Hào, được sự giúp đỡ tận tình của ban lãnh đạo, cán bộ
nhân viên phòng kế toán cũng như sự hướng dẫn của thầy giáo Lã Thị Lâm và
được tiếp cận với các hoạt động của ngân hàng, em đã chọn đề tài nghiên cứu
với nội dung: "HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN MỸ HÀO - THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP"
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bố cục của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về tình hình huy động vốn của
NHTM.
Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác huy
động vốn tại NHNo&PTNT Mỹ Hào.
Vấn đề trên là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp, đan xen nhiều yếu tố vĩ
mô và vi mô, mang tính khách quan và chủ quan. Bản thân em trong quá trình
nghiên cứu và tìm hiểu cả về lý luận, thực tiễn còn có những hạn chế nhất
định, không tránh khỏi thiếu sót.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Lã Thị Lâm và đơn vị
thực tập đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
3

Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Những lý luận chung về nhtm và hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng Thương mại
1.1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển
lâu dài. Ngay nửa đầu thế kỷ XVI, ở Châu Âu đã ra đời một số ngân
hàng đầu tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời
điểm này, ngân hàng phát triển ở trình độ thấp, hoạt động của ngân hàng
chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ tiền và cho vay. Cùng với sự phát triển
không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM cũng được từng
bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng.
Theo một số chuyên gia về ngân hàng trên thế giới thì ngân hàng trong
nền kinh tế trên thị trường được quan niệm là “Ngân hàng là một doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo
pháp luật theo đuổi mục tiêu lợi nhuận”. Theo luật các tổ chức tín dụng
của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam khóa X, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 “Ngân hàng là
loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Và hoạt động ngân hàng
là hoạt động kinh doanh tiền tệ, các dịch vụ ngân hàng với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
4
Chuyên đề tốt nghiệp

Học Viện Tài Chính
Theo các nhà Kinh tế học thế giới thì “Ngân hàng Thương mại là một
loại hình doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín
dụng”. Theo cách tiếp cận trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp thì “NHTM là một loại hình tổ chức tài chính, cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tiết kiệm, dịch vụ
thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất định so với bất kỳ
một tổ chức nào trong nền kinh tế”.
Theo tính chất và hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
Qua đây chúng ta có thể thấy rằng trên mỗi phương diện khác nhau tại mỗi
quốc gia khác nhau lại có những quan niệm, nhìn nhận khác nhau, tuy nhiên tất cả
điều đó đều cho chúng ta những cách hiểu sâu hơn về khái niệm ngân hàng nói
chung và Ngân hàng Thương Mại nói riêng đồng thời qua đó giúp chúng ta có thể
hiểu rõ hơn về các hoạt động và các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn khái niệm về NHTM chúng ta cần xem
xét đặc điểm của ngân hàng thương mại:
Trước hết, hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời,
theo đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình
thức hoạt động là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Trong đó,
hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn
dưới các hình thức khác nhau, để cấp tín dụng cho khách hàng có yêu
cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Ngân hàng thương mại là
người “đi vay để cho vay” nhằm mục đích kiếm lời. Các hoạt động dịch
vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ,
thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để cam kết thực hiện công việc
nhất định cho khách hàng trong một thời gian nhất định nhằm mục đích
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
5

Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng.
Hai là, hoạt động ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo quy định
của pháp luật, nghĩa là chỉ khi NHTM thoả mãn đầy đủ các điều kiện
khắt khe do pháp luật qui định như điều kiện về vốn, phương án kinh
doanh thì mới được phép hoạt động trên thị trường.
Ba là, hoạt động Ngân hàng thương mại là hình thức kinh doanh có
độ rủi ro cao hơn nhiều so với các hình thức kinh doanh khác và thường
có ảnh hưởng sâu sắc tới các ngành khác và cả nền kinh tế.
1.1.1.2 Chức năng của NHTM
Tầm quan trọng của Ngân hàng thương mại được thể hiện qua các chức
năng của nó. Các nhà kinh tế học đã ví ngân hàng thương mại là trái tim của
nền kinh tế. Ngân hàng hút tiền về, bơm tiền đi vì thế các nguồn vốn nhàn
rỗi được khơi thông đưa tiền từ nơi thừa đến nơi thiếu, giúp cho quá trình
lưu chuyển tiền tệ một cách hiệu quả. Các chức năng của NHTM có thể
được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng bao gồm ba chức năng
chủ yếu: chức năng trung gian tín dụng, chức năng trung gian thanh toán và
chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
 Ngân hàng Thương mại - trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng thương
mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng là “cầu
nối” giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế, khơi nguồn vốn từ những
người có vốn nhàn rỗi sang những người có nhu cầu về vốn.
Trong nền kinh tế, do các đơn vị kinh tế có nhu cầu về tiền, vốn vào
thời điểm khác nhau là khác nhau, gây ra hiện tượng thừa, thiếu tạm
thời. Ngân hàng Thương mại là người trung gian có vai trò chuyển đổi
kỳ hạn nợ, thay đổi thời kỳ đáo hạn của các khoản, món nợ.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03

6
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Ngân hàng Thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ
tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn
vốn cho vay. Mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng
cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, của các
chủ thể kinh tế góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy
kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, Ngân hàng
Thương mại vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
 Ngân hàng Thương mại - trung gian thanh toán
Việc làm trung gian thanh toán của Ngân hàng ngày nay đã phát
triển đến tầm mức rất đa dạng, không chỉ là trung gian truyền thống như
trước, mà còn quản lý các phương tiện thanh toán bằng cách trích số dư
tiền gửi trên tài khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người
bán theo lệnh của chủ tài khoản. Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất
quan trọng, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
Với phương pháp công nghệ hiện đại hơn, các NHTM từng bước trang bị
đầy đủ các máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật khác tạo điều kiện,
thanh toán bù trừ được nhanh chóng giảm bớt chi phí và có độ chính xác
cao. Như vậy Ngân hàng đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông,
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.
 Chức năng tạo ra tiền Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng hai cấp
Vào thế kỷ 19, hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành,
các Ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ mà đã tạo nên một hệ
thống, trong đó Ngân hàng Trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ
tín dụng, là Ngân hàng của các Ngân hàng, còn các Ngân hàng
Thương mại chuyên kinh doanh tiền tệ.
Nhờ hoạt động trong hệ thống mà các Ngân hàng Thương mại đã tạo
ra bút tệ. Việc tạo ra bút tệ là sáng kiến quan trọng trong lịch sử hoạt

Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
động Ngân hàng. Chức năng tạo ra bút tệ được thực hiện thông qua hoạt
động tín dụng và đầu tư của NHTM trong mối quan hệ tuỳ thuộc vào
Ngân hàng trung ương (NHTW). Nhờ nhận tiền ký thác của khách hàng,
Ngân hàng Thương mại có khả năng đầu tư. Nhưng khi đầu tư, Ngân
hàng tạo ra tiền ký thác mới, còn gọi là tiền bút tệ, tiền chuyển khoản, từ
đó Ngân hàng Thương mại trở thành người cung ứng tiền bút tệ quan
trọng trong nền kinh tế.
Từ những chức năng cơ bản trên ta cũng có thể thấy được vai trò to
lớn của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. Hoạt động của Ngân
hàng Thương mại đẩy nhanh quá trình thanh toán, giảm chi phí giao dịch
và tạo môi trường thuận lợi cho quá trình lưu chuyển vốn của nền kinh
tế, nâng cao chất lượng của quá trình tập trung và phân phối nguồn vốn.
NHTM còn là bộ máy tạo tiền, nó có vai trò quan trọng trong việc thực
thi chính sách tiền tệ và góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô dưới sự
tác động của Ngân hàng Trung ương và các chính sách của Nhà nước.
1.1.1.3 Vai trò của NHTM
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác nhau, từ khi ra
đời và phát triển Ngân hàng thương mại đã đóng góp vai trò rất quan
trọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế thế giới. Ở tất cả các
nước, hệ thống NHTM đã không ngừng phát triển, đóng vai trò tập trung
những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cung ứng vốn cho các
nhà đầu tư cần vốn. Đó là quá trình huy động vốn và sử dụng vốn của
các NHTM. Bằng hoạt động của mình NHTM đã đóng góp một lượng
vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ Ngân hàng khác cho nền kinh tế.
Một là: NHTM là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, là cầu nối
giữa tiết kiệm và đầu tư.

Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
khối lượng lớn tiền tạm thời nhàn rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn
và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó
tiến hành cấp phát tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và
cá nhân cần vốn để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức là Ngân
hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có tiền
nhàn rỗi có thể cho vay và một bên là những người cần vay vốn. Thực
hiện chức năng này tức là Ngân hàng đã trở thành người khơi thông và
kích hoạt các nguồn vốn, làm cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh
lãi. Những hoạt động đó của NHTM đã thực sự tác động điều hòa
cung cầu tiền tệ, biến những đồng tiền nhàn rỗi thành những đồng
tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào việc tài trợ cho các ngành
kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động và bằng
những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động có thêm
điều kiện ổn định và cải thiện đời sống.
Hai là: Ngân hàng giúp cho các kinh doanh trong việc nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn.
Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân
thủ các điều kiện do Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà
Doanh nghiệp nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng
phải hoàn trả gốc. Vì vậy để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp thì trước khi cho
vay, Ngân hàng cần phải thẩm định phương án sử dụng vốn vay của
Doanh nghiệp, thẩm định tính khả thi của dự án, thẩm định các yếu tố
liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình độ nhân viên, tài sản đảm
bảo…) một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó cán bộ tín dụng giúp

Doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Sau
khi cho Doanh nghiệp vay vốn, Ngân hàng vẫn tiếp tục tiến hành
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
giám sát quá trình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp và thông qua
hoạt động thanh toán hộ thì Ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp
quản lý tốt hơn về vốn và sử dụng vốn.
Ba là: Ngân hàng khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế.
Bất kỳ đối tượng nào trong nền kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng đều
được hưởng lãi, điểu đó có nghĩa là khi nào thu nhập của người gửi tiền
sẽ tăng lên. Người gửi tiền có thể gửi theo bất kỳ phương thức nào, bất
kỳ thời hạn nào. Các cá nhân có số tiền nhàn rỗi chưa sử dụng đến thì có
thể gửi vào Ngân hàng khi cần thì có thể rút ra bất cứ lúc nào. Thông qua
chính sách lãi suất Ngân hàng đã khuyến khích khách hàng tiết kiệm tiêu
dùng hiện tại để có tăng tiêu dùng trong tương lai.
Bốn là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển
của vốn đầu tư dẫn đến bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển vùng.
Trong hoạt động tài trợ của mình, Ngân hàng có thể tài trợ đối với
tất cả các đơn vị cá nhân trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau.
Với hệ thống các Ngân hàng chuyên doanh cùng với mạng lưới chân rết
của mình, NHTM có mặt ở hầu hết các địa bàn trong phạm vi cả nước.
Thông qua đó Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay đối với những ai cần vốn
mà đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ tiến
hành cho vay. Ngoài ra khi có sự ưu tiên của nhà nước về phát triển
ngành nghề hoặc vùng kinh tế nào đó thì Chính phủ đưa ra những chính
sách riêng cho từng vùng và thông qua hệ thống NHTM sẽ tiến hành
cung ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt động tín dụng Ngân hàng ngày

càng phát triển đã làm cho việc di chuyển vốn diễn ra một cách dễ dàng,
tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các ngành. Đồng thời với
sự tác động của Ngân hàng vốn được dịch chuyển từ vùng thừa vốn sang
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa các ngành, xóa
dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định.
Năm là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các
hoạt động chủ yếu là huy động vốn, cho vay và thực hiện chức năng
trung gian thanh toán. Lượng tiền lưu thông được Ngân hàng kiểm soát.
Thông qua các khoản mục của NHTM, NHTW sẽ xác định được lượng
tiền mặt đang lưu thông trong nền kinh tế, từ đó có thể có các biện pháp
kiểm soát nhằm đề phòng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy
ra. Trường hợp nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình,
NHTW sẽ tiến hành điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất
chiết khấu hoặc tái chiết khấu, tham gia vào thị trường mở để tác động
tới NHTM để qua nó làm thay đổi lượng tiền trong lưu thông.
Sáu là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu, thúc
đẩy phát triển thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tê ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực
hóa và toàn cầu hóa thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc
gia đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia.
Cùng hòa chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trò rất quan
trọng trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập
khẩu, thực hiện các hình thức thanh toán, bảo lãnh…đã góp phần thúc

đẩy việc chu chuyển hàng hóa dịch vụ giữa các quốc gia với nhau
một cách thuận lợi và nhanh chóng.
1.2 Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.2.1 Khái niệm về huy động vốn
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
Ngân hàng thương mại hoạt động và phát triển được chủ yếu nhờ vào
lượng tiền mà nó huy động được từ nền kinh tế. Trong bối cảnh cạnh tranh
quyết liệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ như hiện nay, để có được nguồn vốn
lớn đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có biện pháp huy động vốn hợp lý,
từ đó thu hút được lượng vốn cần thiết trong nền kinh tế, để phục vụ cho hoạt
động của ngân hàng thương mại.
Công tác huy động vốn của ngân hàng có thể hiểu là những công cụ, cách
thức, phương pháp và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá nhân,
các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng trên cơ sở hai bên đều có lợi. Như vậy
có thể dễ dàng nhận thấy công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại cũng là
một phần trong chính sách marketing mà ngân hàng đang sử dụng, tuy nhiên nó
luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo ngân hàng.
1.2.2 Vai trò của nguồn vốn huy động
 Đối với nền kinh tế:
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế vững mạnh vận
động theo cơ chế thị trường, việc này đồng thời với vấn đề phải phát triển một
thị trường tài chính xứng tầm. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự tác
động của thị trường, của các quy luật kinh tế: quy luật cạnh tranh, quy luật
cung cầu, quy luật giá trị…Chính vì vậy, các doanh nghiệp để tồn tại được
trên thương trường phải không ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm…Vấn đề này thực hiện được khi và

chỉ khi doanh nghiệp huy động được đủ lượng vốn cần thiết và sử dụng có
hiệu quả chúng vào đúng mục đích. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp
thường không đáp ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiêp, do đó doanh
nghiệp phải đi vay vốn nhằm bù đắp cho nhu cầu đầu tư của mình. Với sự
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
xuất hiện của thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng thương mại thì việc
vay vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các cá nhân trở nên dễ dàng
hơn. Doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm vốn từ nhiều nguồn khác nhau
với chi phí tiết kiệm và thủ tục đơn giản hơn rất nhiều.
Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng cần phải huy động lượng vốn
nhất định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Ngân sách nhà nước là nguồn
cung cấp chủ yếu cho kế hoạch chi tiêu của Chính phủ, song không phải lúc
nào nó cũng ở trong trạng thái lành mạnh, đủ khả năng đáp ứng. Giải pháp đặt
ra là có thể in thêm tiền hoặc tăng thuế, vay nợ nước ngoài nhưng việc này sẽ
gây ảnh hưởng tiêu cực lên toàn bộ nền kinh tế, qua đó nảy sinh các vấn đề xã
hội. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách vĩ mô không muốn xảy ra.
Vì vậy, Nhà nước có thể sử dụng biện pháp tích cực hơn đó là tìm kiếm
nguồn vốn huy động trong và ngoài nước thông qua việc phát hành các công
cụ nợ như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc…
Qua những dẫn chứng trên có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn
vốn huy động đối với nền kinh tế, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa
tích lũy và tiêu dùng. Để khai thông nguồn vốn đầu tư phát triển cho nền kinh
tế chúng ta phải tận dụng tốt lượng vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế
thông qua kênh huy động của NHTM, các tổ chức tín dụng, và có thể từ ngân
sách nhà nước cho đẩu tư phát triển. Trong đó công tác huy động vốn trong
NHTM đóng vai trò quyết định và được chú trọng hơn cả.
Công tác huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực

tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Vì
nguồn vốn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế như vậy, nên chúng ta cần phải
khơi thông các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, thông qua các kênh:
vốn từ ngân sách nhà nước, vốn huy động của các tổ chức tín dụng… Trong
các kênh trên, vốn từ ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
nghiệp nhà nước. Nhưng hiện nay số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm
do việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, việc huy động vốn từ
kênh này thường không cao. Bên cạnh đó, việc huy động vốn còn được thực
hiện thông qua kênh tín dụng. Các doanh nghiệp có thể huy động vốn qua
kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng ở nước ta phần lớn các doanh nghiệp là
doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa đủ điều kiện để huy động vốn trực tiếp
trên thị trường chứng khoán. Do đó, việc huy động vốn gián tiếp qua kênh
ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng.
Vậy, việc chú trọng đến các nguồn vốn của nền kinh tế là điều kiện cần
thiết của các ngân hàng khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế
mà ngân hàng là một trong những thành viên chính góp phần tạo nên sự phát
triển đó. Việc đẩy mạnh công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển đang giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng.
 Đối với NHTM:
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của NHTM ngày càng quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. NHTM cũng là doanh nghiệp
nhưng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín
dụng, nên trong quá trình chuyền mình cùng nền kinh tế, các NHTM đã
chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động của mình chứ không bao cấp như trước nữa. Do đó, tinh năng động sáng
tạo được khơi dậy, các NHTM có xu hướng phát triển đa năng. Vì đóng vai

trò là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, là thủ quỹ của nền kinh tế
nên NHTM là tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Các nguồn vốn huy động được sẽ quyết đinh quy mô cũng như định hướng
hoạt động của ngân hàng. Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong
quá trình kinh doanh của một NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là yếu
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
tố đầu vào thường xuyên, chủ yếu nhất của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện
các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này.
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh
doanh của NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào
với chi phí thấp nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi
nhuận cao. Ngược lại, với quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể
gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí hoạt động vốn
của ngân hàng liên quan chặt chẽ với lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi
tiết kiệm các loại và lãi suất các công cụ nợ do ngân hàng phát hành.
Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng bù đắp được
thiếu hụt trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua
huy động vốn, ngân hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có
quan hệ tín dụng với ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định
mức vốn đầu tư cho vay đối với những khách hàng đó hoặc có thể phát hiện
kịp thời tệ tham ô, trốn thuế, lừa đảo của các doanh nghiệp làm ăn không
chính đáng. Từ đó có biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Cơ cấu nguồn vốn cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu cho vay của
NHTM. Vốn tự có của ngân hàng chỉ phát sinh khi nhu cầu thanh toán tín
dụng cấp bách còn ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn huy động được. Nếu
một ngân hàng huy động được vốn trung và dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp
vụ tín dụng đầu tư dài hạn. Nhưng hiện nay việc huy động vốn trung và dài

hạn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế nên một ngân hàng
có thể dùng vốn hoạt động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn nhưng không
vượt quá một tỷ lệ nhất định vì điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ mất khả năng
thanh toán của ngân hàng.
Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
huy động được là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy
động vốn càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Do vậy, công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM và
nó quyết định rất lớn đến thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng.
1.2.3 Các phương thức huy động vốn
1.2.3.1 Phân loại theo thời gian huy động
Phân loại theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì nó liên quan mật thiết đến tính an toàn và khả năng sinh lợi
của nguồn vốn huy động cũng như thời gian phải hoàn trả khách
hàng. Theo thời gian, hình thức huy động được chia thành:
 Huy động ngắn hạn:
Đây là hình thức huy động chủ yếu trong các ngân hàng thương mại
thông qua việc phát hành các công cụ nợ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ và
các nghiệp vụ nhận tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi thanh toán… Phần lớn số này
được dùng để cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) hoặc được chuyển hoán kỳ hạn
để thực hiện cho vay trung hạn. Do thời gian ngắn nên lãi suất huy động ngắn
hạn thường thấp, tuy nhiên tính ổn định lại kém.
 Huy động trung hạn:
Đây là nguồn vốn ngân hàng qua phát hành các công cụ nợ trung hạn
trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ 1 đến 5 năm). Vốn huy
động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và thuận tiện. Tuy nhiên lãi

suất huy động nguồn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn. Nguồn huy động
trung hạn rất quan trọng và cần thiết để ngân hàng thực hiện các hoạt động
đầu tư, thay đổi công nghệ và cho vay trung, dài hạn với lãi suất cao.
 Huy động dài hạn:
Đây là hoạt động vốn dài hạn của ngân hàng trên thị trường vốn, với
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng dễ dàng, có tính ổn định cao
(từ 5 năm trở lên). Do vậy lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng rất cao.
1.2.3.2. Phân loại theo đối tượng huy động
 Huy động từ dân cư:
Đây là một khu vực huy động đầy tiềm năng cho các ngân hàng. Ngân
hàng huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển
đến cho những người cần vốn để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy
động từ dân cư thường khá ổn định.
 Huy dộng vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội:
Đây là nguồn vốn huy động được đánh giá là rất lớn, chiếm tỷ trọng cao
trong tổng nguồn vốn. Để tiết kiệm thời gian và chi phí trong thanh toán, các
doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết đểu có tài khoản trong ngân hàng. Các
doanh nghiệp khi bán được hàng hóa đều gửi tiền vào ngân hàng và rút ta khi
cần. Chu kỳ rút tiền gửi của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội không giống
nhau. Vì vậy ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn mà mình có thể sử
dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên độ lớn của khoản tiền này phụ
thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi khách hàng
sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ các doanh nghiệp
và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến các dịch vụ ngân hàng.
 Huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Trong quá trìn hoạt động các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi ở

lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán…Ngoài ra việc vay lẫn
nhau giữa các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy
không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của mỗi
ngân hàng thương mại. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ khả năng thanh
toán bị đe dọa… các ngân hàng thương mại có thể vay lẫn nhau. Quá trình
vay này là một thỏa thuận tín dụng giữa hai bên. Quá trình tăng vốn huy động
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
này có thể được thực hiện ở trên thị trường nội tệ hay thị trường ngoại tệ.
Trong số những người cho ngân hàng vay có một người đặc biệt. Đó là ngân
hàng trung ương. NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng để cứu cho
các ngân hàng thương mại khỏi các trục trặc xảy ra. Huy động vốn từ các
ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác tuy cũng khá dễ dàng nhưng số lượng
thường không nhiều và chi phí huy động thường cao hơn. Do vậy, hình thức
các ngân hàng sử dụng không nhiều.
1.2.3.3 Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn
Hình thức phân loại này là hình thức chủ yếu được các ngân hàng thương mại
sử dụng hiện nay. Phân loại theo nghiệp vụ huy động vốn rõ ràng tạo sự thuận tiện
cho ngân hàng khi tiến hành huy động. Các hình thức huy động bao gồm:
 Huy động vốn qua nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Huy động tiền gửi không kỳ hạn
Đây là phần tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển
có tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi
này không phải là lấy lãi mà chủ yếu dùng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền
phần lớn là những tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá nhân làm ăn buôn
bán phải thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ liên tục. Người gửi tiền có thể rút
tiền ra bất cứ lúc nào hoặc để chi trả cho người thứ ba. Hình thức rút có thể là
tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toán bằng Séc. Đặc biệt người gửi tiền

có thể không cần trực tiếp đến ngân hàng lấy mà có thể rút qua các máy rút
tiền tự động (máy ATM). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi này trên
hai tài khoản: tài khoản thanh toán và tài khoản vãng lai. Trong đó:
• Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có
toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền
gửi. Loại tài khoản này luôn luôn có số dư có.
• Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được
sử dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
còn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay.
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là đế sử dụng các dịch vụ ngân hàng
nên mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí
không phải trả lãi. Tuy nhiên ở nhiều nước có tỷ lệ thanh toán không dùng
tiền mặt thấp (trong đó có Việt Nam) và để tăng mức động viên tiền gửi, ngân
hàng vẫn trả lãi cho tiền gửi này (có những thời điểm được trả ngang bằng với
lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn). Tỷ lệ huy động từ nguồn này sẽ là khá
cao nếu ngân hàng có các dịch vụ đa dạng, sản phẩm ngân hàng chất lượng cao, hệ
thống mạng lưới rộng rãi đáp ứng tốt các nhu cầu của người gửi tiền.
 Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Là các tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng và rút
ra sau một thời hạn nhất định. Khoản này thường gắn liền với các tổ chức
kinh tế có chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền ổn
định, ít có sự biến động. Phần tiền gửi này ngân hàng sử dụng dễ dàng nên
mức lãi suất mà ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục
đích sử dụng các dịch vụ ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi
suất sẽ có tác động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Ở Việt Nam, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi

(mà chúng ta vẫn gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) với các thời hạn 3
tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm… ngày càng phổ biến, đã và đang phát huy vai
trò hay việc tạo vốn cho các ngân hàng.
Huy động tiền gửi tiết kiệm
Đây là hình thức phổ biến nhất, lâu đời nhất của các ngân hàng thương
mại. Bao gồm các loại sau:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Hình thức này gần giống như huy
động tiền gửi không kỳ hạn. Tuy nhiên so với tiền gửi không kỳ hạn thì số
dư của phần này ổn định hơn, ít biến động hơn nên ngân hàng phải trả lãi
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
suất cao hơn.
Tiền gửi tiêt kiệm có kỳ hạn: Đây là loại hình tiết kiệm phổ biến nhất,
quen thuộc nhất ở nước ta. Người gửi tiền gửi vào ngân hàng và rút ra sau
những thời hạn xác định: 1tuần, 2 tuần, 3 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 4
tháng, 5 tháng, 6 tháng, 7 tháng,…36 tháng. Người gửi không được rút trước,
nếu rút trước hạn thì sẽ bị phạt. Đây là những khoản tiền có tính ổn định rất
cao nên ngân hàng phải trả khách hàng với lãi suất cao nhất. Tuy nhiên, ở
nước ta hiện nay, để tăng sức cạnh tranh, thu hút được vốn các ngân hàng đã
rất linh hoạt trong việc khách hàng rút ra trước thời hạn. Có ngân hàng thì
tính lãi cho khách hàng với lãi suất không kỳ hạn, có ngân hàng vẫn tính với
lãi suất đó với số ngày gửi thực tế…
 Huy động vốn qua nghiệp vụ đi vay
Hình thức này ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong môi trường kinh
doanh đầy biến động như hiện nay. Các ngân hàng thương mại có thể vay từ
nhiều nguồn:
 Vay từ các tổ chức tín dụng:
Đó là các khoản vay thông thường mà các ngân hàng vay lẫn nhau trên

thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các ngân hàng xây dựng mối
quan hệ tốt để khi thiếu hụt vốn có thể vay lẫn nhau chứ không vay ngân hàng
trung ương.
 Vay từ ngân hàng trung ương:
Khi ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng thiếu hụt dự trữ bắt buộc hay mất
khả năng thanh toán thì người cuối cùng mà các ngân hàng có thể cầu cứu là ngân
hàng trung ương. Ngân hàng trung ương cho vay dưới hình thức tái chiết khấu
thương phiếu. Các ngân hàng thương mại có thể mang các thương phiếu lên ngân
hàng trung ương để vay. Tuy nhiên việc vay này cũng có một số khó khăn do ngân
hàng trung ương chỉ cho ngân hàng thương mại một hạn mức tái chiết khấu và việc
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
cho vay này lại nằm trong định hướng của chính sách tài chính quốc gia. Dẫu sao
đây cũng là một hình thức bổ sung vốn cho ngân hàng thương mại cực kỳ quan
trọng trong những thời điểm nhất định.
 Huy động qua phát hành các công cụ nợ:
Đây là hình thức huy động vốn có hiệu quả khá cao của các ngân hàng
thương mại. Trong quá trình hoạt động, ở những thời điểm nhất định, ngân
hàng thấy cần phải huy động thêm vốn trước những cơ hội kinh doanh đầy
hấp dẫn. Điều đó có nghĩa là ngân hàng huy động vốn ở thế chủ động, có
nghĩa là có đầu ra mới tính đầu vào. Ngân hàng xác định rõ quy mô vốn huy
động, loại tiền huy động và đưa ra các mức chi phí hợp lý làm cho việc tạo
vốn của ngân hàng thành công nhanh chóng. Để vay trên thị trường, ngân
hàng có thể phát hành kỳ phiếu và trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của khách
hàng đối với người chủ ngân hàng với những cam kết như thanh toán một số
tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho
trước. Trái phiếu được phát hành trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, chủ yếu

là để huy động vốn trung và dài hạn.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy tờ nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát
hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch
kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế…
 Huy động vốn qua các hình thức khác:
Để tăng cường huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại còn sử dụng các hình thức khác về
dịch vụ xã hội: làm dịch vụ bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán, trung
gian thanh toán, đầu mối trong hợp đồng tài trợ… Nền kinh tế càng phát triển,
các dịch vụ trên càng mang lại cho ngân hàng những nguồn huy động lớn
giúp cho ngân hàng có thể kinh doanh một cách an toàn và hiệu quả.
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
21
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới tình hình huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là một trong những nội dung hoạt động quan trọng của
ngân hàng thương mại. Tuy nhiên thì hoạt động này không phải là hoạt động
độc lập mà có mối quan hệ biện chứng với các hoạt động khác của ngân hàng
thương mại. Hơn nữa với chức năng là một trung gian tài chính, vừa là nơi tập
trung vốn, vừa là nơi phân phối lại tín dụng, do đó mà hoạt động huy động
vốn của ngân hàng thương mại chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác
nhau, cả nhân tố chủ quan lẫn nhân tố khách quan, các nhân tố này trực tiếp
hoặc gián tiệp tác động tới hoạt động của ngân hàng thương mại
1.2.4.1 Các nhân tố khách quan
Đây là nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của ngân hàng
thương mại, song nó lại tác động lớn tới hoạt động và kết quả kinh
doanh của ngân hàng thương mại nói chung cũng như công tác huy
động vốn nói riêng. Và như vậy, sẽ ảnh hưởng tới chính sách huy
động vốn mà ngân hàng đang thực hiện.

+ Tình hình kinh tế xã hội
Nền kinh tế ổn định, phát triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người
có cao, trình độ học vấn của dân cư có cao, xã hội ổn định thì sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động và phát triển của ngân hàng thương mại. Bởi khi đó
tiết kiệm trong xã hội sẽ cao, khả năng tin tưởng vào hoạt động của ngành
ngân hàng sẽ ngày càng được nâng lên. Một hệ quả tất yếu là làm cho các
thành phần kinh tế sẽ gửi tiền vào ngân hàng theo từng mục tiêu cụ thể. Và
ngược lại nếu trong vùng kinh tế có tình hình xã hội bất ổn định, tốc độ phát
triển của kinh tế còn hạn chế… Điều này làm cho tiết kiệm trong xã hội đạt
mức thấp, thêm vào đó là tâm lý ưa dùng tiền mặt, chưa có thái độ quan tâm
thực sự tới các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, và do đó việc thực
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
22
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
hiện chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn.
Ngoài ra, chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại còn chịu
những tác động của các nhân tố như tỷ lệ lạm phát của đồng tiền. Sự suy thoái
của nền kinh tế, thậm chí là cả sự phát triển “bong bóng” quá nóng của nền
kinh tế. Các nhân tố này ít nhiều đều có ảnh hưởng tới hoạt động của ngân
hàng thương mại, có nhân tố ảnh hưởng rất mạnh, ảnh hưởng tới sự tồn tại và
phát triển của ngân hàng.
+ Hành lang Pháp lý và chính sách vĩ mô của Nhà nước
Tại mỗi một quốc gia trên thế giới, mọi hoạt động của ngân hàng thương
mại trong đó có hoạt động huy động đều phải chịu sự điều tiết của các chế tài
của luật pháp, và sự điều hành giám sát và quản lý từ phía Ngân hàng Nhà
nước, để phục vụ những mục đích mà Chính phủ ban hành hay Ngân hàng
Nhà nước đề ra. Các ngân hàng thương mại trong trường hợp cần thiết phải
tiến hành mua trái phiếu Chính phủ do Chính phủ phát hành, theo những quy
định cụ thể của ngân hàng Nhà nước. Với mục tiêu an toàn và an ninh tiền tệ

của mỗi quốc gia mà Ngân hàng nhà nước có quy định mức vốn tối đa được
phép huy động theo một tỷ lệ nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của
ngân hàng thương mại. Ngoài ra hoạt động của hệ thống ngân hàng thương
mại còn chịu sự tác động nhiều cơ quan, nhiều chế tài pháp luật khác, tùy theo
mức độ của mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh.
1.2.4.2 Các nhân tố chủ quan:
Là nhân tố nội tại bên trong ngân hàng, thuộc khả năng kiểm soát của
ngân hàng, so với các nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới tất
cả mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong các hoạt động đó có hoạt
động huy động vốn và chính sách huy động vốn của ngân hàng. Mặt khác, các
nhân tố này mang tính phù hợp với tình hình thực tế hoạt động của ngân hàng, nhất là
chính sách huy động vốn hơn nhân tố khách quan các yếu tố cấu thành bao gồm:
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
+ Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Mỗi ngân hàng phải tự hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh
riêng biệt, phù hợp với các điều kiện bên trong và bên ngoài Ngân hàng.
Chiến lược kinh doanh có tính quyết định tới hiệu quả hoạt động của ngân
hàng. Ngân hàng cần phải xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống,
thấy được điểm mạnh, điểm yếu, thấy được những cơ hội và thách thức. Trên
cơ sở đó dự đoán sự thay đổi của môi trường để xây dựng được chiến lược
kinh doanh phù hợp mà trong đó chiến lược phát triển quy mô và chất lượng
nguồn vốn là một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể của ngân
hàng. Trong từng thời kỳ, dựa trên chỉ tiêu được giao về hoạt động huy động
vốn, sử dụng vốn và các hoạt động khác của NHTW cùng với tình hình thực
tế của từng ngân hàng, ngân hàng phải lập kế hoạch và lên cân đối giữa huy
động vốn với khối lượng lớn, thời hạn dài thì ngân hàng sẽ có kế hoạch huy
động vốn với lãi suất hấp dẫn, kỳ hạn đa dạng. Còn nếu nhận thấy trong năm tới

ngân hàng cần phải thu hẹp khối lượng tín dụng thì ngân hàng sẽ có kế hoạch huy
động vốn một lượng vốn vừa đủ để tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn.
Mặt khác, trong chiến lược kinh doanh của mình ngân hàng cần đặc biệt
chú trọng vào chi phí vốn mà ngân hàng phải chịu trong khâu huy động. Phải
tìm kiếm nguồn vốn rẻ, thời hạn dài thông qua việc lựa chọn các hình thức
huy động khác nhau, có như vậy ngân hàng mới chủ động trong việc tìm kiếm
và sử dụng vốn.
+ Các hình thức huy động vốn, chất lượng các dịch vụ do ngân hàng
cung ứng, hệ thống các mạng lưới và đổi mới công nghệ Ngân hàng
Một yếu tố ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động là
hình thức, kỳ hạn, các dịch vụ cung cấp, cùng với hệ thống mạng lưới rộng
khắp, sự đổi mới công nghệ tiên tiến… Do nhu cầu của khách hàng khi đến
ngân hàng là khác nhau nên việc thỏa mãn được những nhu cầu đa dạng của
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Học Viện Tài Chính
khách hàng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn. Trong
nền kinh tế thị trường thì hiện tượng cạnh tranh là tất yếu, việc đáp ứng nhu
cầu khách hàng là điều kiện tiên quyết để đạt được thắng lợi trong kinh
doanh. Một ngân hàng có các hình thức huy động và kỳ hạn huy động vốn
phong phú, linh hoạt, thuận tiện hơn sẽ có sức thu hút khách hàng mới và duy
trì những khách hàng hiện có hơn những ngân hàng khác. Các ngân hàng hiện
nay không chỉ huy động tiền gửi tiết kiệm mà còn khuyến khích người dân
gửi tiền dưới nhiều hình thức khác nhau như mở tài khoản tiền gửi, huy động
qua kỳ phiếu, trái phiếu phong phú cả về mệnh giá, kỳ hạn và chủng loại…
Khi hình thức huy động vốn đa dạng và hấp dẫn thì sẽ làm cho số lượng
người gửi tiền tăng lên và khi đó chi phí huy động sẽ giảm xuống. Hơn nữa,
hình thức huy động vốn phong phú cũng là điều kiện để thu hút những khoản
vốn đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau với những tính chất khác nhau về số

lượng, chất lượng và kỳ hạn… Từ đó sẽ giúp ngân hàng sử dụng vốn linh
hoạt, an toàn và hiệu quả hơn.
Một ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các ngân
hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường các ngân hàng phải phấn đấu
nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng và tăng thu nhập của ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi
suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn. Do vậy, đây chính
là điểm mạnh để các ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh.
Đổi mới công nghệ ngân hàng nhất là khâu thanh toán. Cùng với việc
đổi mới hoạt động ngân hàng, các ngân hàng thương mại ngày càng chú trọng
tới việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng, đặc
biệt là khâu thanh toán. Nhờ đó làm cho vốn luân chuyển nhanh, thuận tiện,
đảm bảo an toàn cho khách hàng trong việc gửi tiền, rút tiền và vay vốn. Nếu
thực hiện tốt khâu này thì sẽ hạn chế được việc lưu thông bằng tiền mặt vừa
Lê Thị Ngọc Mai- CQ47/15.03
25

×