Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.8 KB, 89 trang )

Chuyờn thc tp tt nghip
trờng đại học kinh tế quốc dân
KHOA NGÂN HàNG TàI CHíNH

ơ
chuyên đề thực tập tốt
nghiệp
Đề tài:
NNG CAO HIU QU HOT NG QUN Lí
RI RO TN DNG TI NGN HNG THNG MI
C PHN QUN I
Sinh viên thực hiện : NGUYễN THUỳ LINH
Mã sinh viên : BH191358
Lớp : NGÂN HàNG 19.20
Hệ : VB II
Giáo viên hớng dẫn : TS. LÊ THị HƯƠNG LAN
Nguyn Thựy Linh Lp: Ngõn hng 19.20
Hà Nội - 2011
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG 3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.2.2. Nguyên tắc quản lý RRTD 12
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI 37
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2007 – 2010 37
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Ơ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG 3


CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.2.2. Nguyên tắc quản lý RRTD 12
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI 37
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI 2007 – 2010 37
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế tại bất kỳ quốc gia nào, kinh
doanh và rủi ro là hai phạm trù đi song hành cùng nhau. Điều này đặc biệt rõ nét
trong lĩnh vực kinh doanh tài chính, ngân hàng và bảo hiểm, là các lĩnh vực vốn
được coi là kinh doanh rủi ro. Rủi ro tuy là yếu tố không mong muốn dẫn đến thiệt
hại cho đơn vị kinh doanh, song lại là hiện tượng đồng hành với các hoạt động kinh
doanh trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện ở những
điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong phát triển kinh tế. Rủi ro được coi vừa là
nguyên nhân vừa là hệ quả của những hoạt động kinh tế không có hiệu quả. Nó tạo
tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn
chỉnh, sự thích nghi của các doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có
hiệu quả cho nền kinh tế.
Trong các sản phẩm, dịch vụ kinh doanh của Ngân hàng, hầu như không có loại
nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không ẩn chứa rủi ro. Bởi
lẽ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại (NHTM) trong nền kinh tế thị
trường là một hoạt động rất nhạy cảm, mọi thay đổi trong nền kinh tế đều nhanh
chóng tác động đến hoạt động ngân hàng.
Đối với các Ngân hàng thương mại tại Việt nam, khi lợi nhuận chủ yếu (trên 70%)
vẫn được tạo ra từ hoạt động tín dụng, thì rủi ro trong hoạt động tín dụng được quan
tâm chú trọng đầu tiên trong hoạt động của các Ngân hàng. Thực tế cho thấy rằng quá
trình cho vay của Ngân hàng để đạt được thành công không chỉ là dựa trên việc đưa
ra các khoản cho vay, mà còn phải dựa trên việc tối thiểu hoá rủi ro trong việc thu
hồi, sự sống còn và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng phụ thuộc hầu hết vào khả

năng của họ trong việc quản lý rủi ro tín dụng (RRTD) để sinh lời một cách ổn định.
Việc làm thế nào để vừa mở rộng hoạt động tín dụng của các NHTM, vừa đảm bảo
cho hoạt động đó an toàn, có hiệu quả, đáp ứng tốt nhất nhu cầu phát triển kinh tế-xã
hội, góp phần xứng đáng trong công cuộc đổi mới của đất nước đang là vấn đề thu
hút sự quan tâm không chỉ đối với các cấp lãnh đạo, các giới chuyên môn, các nhà
quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội, nó có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Với đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Quân đội” tôi mong muốn đưa ra những giải pháp có
căn cứ khoa học và thực tiễn góp phần quản lý tốt hơn rủi ro tín dụng. Qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại đơn vị thực tập - Ngân
hàng TMCP Quân đội.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý RRTD trong các Ngân
hàng thương mại, tìm hiểu kinh nghiệm quản lý RRTD ở một số nước trên thế
giới.
- Đánh giá thực trạng quản lý RRTD tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
- Trên cơ sở phân tích thực tiễn và lý luận, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả quản lý RRTD tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu hoạt động quản lý RRTD trong kinh doanh của
ngân hàng thương mại. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề là phân tích tình hình RRTD
được quản lý tại Ngân hàng TMCP Quân đội giai đoạn từ năm 2007 đến hết năm 2010.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được bố cục thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý RRTD của Ngân hàng
Thương mại.

Chương 2: Thực trạng quản lý RRTD tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý RRTD tại
Ngân hàng TMCP Quân đội.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RRTD và sự cần thiết phải quản lý RRTD
1.1.1 Khái niệm tín dụng
Thuật ngữ “Tín dụng” xuất phát từ chữ La tinh có nghĩa là tin tưởng, tín
nhiệm (credo), thực tế có thể hiểu theo các nghĩa nghĩa khác nhau, tùy theo lĩnh vực
và từng cấp độ nghiên cứu. Xét trong hoạt động Ngân hàng, tín dụng là một giao
dịch về tài sản là tiền tệ giữa bên cho vay (ngân hàng thương mại) và bên đi vay (cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó ngân hàng thương mại chuyển
giao tiền cho bên vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên
vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay đến khi hết
hạn thanh toán
1
.
Các ngân hàng tập trung các nguồn vốn từ những người thặng dư vốn (thông
qua hoạt động nhận tiền gửi, huy động vốn khác) và làm trung gian phân bổ cho
những người có nhu cầu sử dụng vốn. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất
chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong khi đi
vay và cho vay giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá
nhân, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có phát
sinh lãi.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại dựa trên những nguyên tắc nhất
định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lớn:

- Thứ nhất, khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi trong khoảng
thời gian xác định được thoả thuận trước.
- Thứ hai, khách hàng phải sử dụng tín dụng theo mục đích đã thỏa thuận
với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác
có liên quan.
- Thứ ba, ngân hàng thương mại tài trợ dựa trên cơ sở đánh giá khách hàng có
đủ khả năng trả nợ (Thông qua việc đánh giá phương án, dự án có hiệu quả; hoặc
thông qua đánh giá dòng tiền của khách hàng…). Các khoản tài trợ của ngân hàng
phải gắn liền với việc hình thành tài sản của bên vay.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước
1
Học viện ngân hàng (2001), Giáo trình Tín dụng ngân hàng, NXB thống kê, tr. 20.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16
tháng 6 năm 2010: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng
một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc
có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh
toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. Tuy nhiên, trong
phạm vi đề tài, tôi xin nghiên cứu trong phạm vi hoạt động cho vay (sau đây gọi
là tín dụng/cấp tín dụng).
1.1.2 Các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại
Tín dụng trong các ngân hàng thương mại thường tiến hành phân loại tín dụng
theo các tiêu thức sau:
Phân loại theo thời hạn tín dụng
Thời hạn tín dụng được xác định cụ thể đối với từng phương án cấp tín dụng
của Ngân hàng thương mại đối với Khách hàng. Việc phân chia tín dụng theo thời
hạn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động ngân hàng vì tương ứng mỗi các thời
hạn khác nhau thì có mức độ rủi ro và khả năng sinh lợi khác nhau; Đồng thời việc

phân loại theo thời hạn tín dụng giúp ngân hàng có cơ sở để cân đối nguồn vốn,
phân bổ phù hợp, đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng. Các ngân hàng
thương mại thường chia làm 3 loại nếu căn cứ vào thời hạn tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn: thời hạn tín dụng dưới một năm.
- Tín dụng trung hạn: Tùy thuộc vào quy định của từng nước mà thời hạn để
phân loại tín dụng trung hạn khác nhau, theo quy định của NHNN Việt Nam, tín
dụng trung hạn có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm.Tín dụng trung hạn chủ yếu
được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời
gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Theo quy định của NHNN Việt Nam hiện nay, tín dụng
dài hạn có thời gian trên 5 năm. Loại tín dụng này nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu
vốn để thực hiện các phương án đầu tư dài hạn như xây dựng nhà ở, đầu tư xây
dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất có
quy mô lớn (có thể kéo dài đến 15, 20 năm tùy thuộc vào từng sản phẩm và quy
định của từng ngân hàng).
Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Mỗi nghiệp vụ tín dụng có những đặc điểm và quy định riêng biệt, do đó các
Ngân hàng Trung ương của các nước và các ngân hàng thương mại phải thực hiện
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phân loại cụ thể để đưa ra những cơ chế quản lý, điều chỉnh hoạt động phù hợp:
+ Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ qua đó ngân hàng cho phép người vay chi trội
trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và khoảng thời gian
nhất định. Hình thức này chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập
đều đặn và kỳ thu nhập ngắn, phần lớn không có đảm bảo.
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến đối với khách hàng
không có nhu cầu thường xuyên, vốn vay ngân hàng chỉ tham gia một giai đoạn
nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải

làm thủ tục vay vốn cần thiết. Ngân hàng sẽ xác định quy mô cho vay, thời hạn trả
nợ, thời hạn giải ngân, lãi suất và yêu cầu các điều kiện khác nếu cần. Mỗi món vay
được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát tách biệt từng hồ
sơ đó.
+ Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho
khách hàng một hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời hạn nhất
định. Trong kỳ, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần đưa ra phương án sử dụng tiền vay,
cung cấp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ phù hợp với yêu cầu
vay. Ngân hàng sẽ dựa trên tính chất hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu này để phát
tiền cho khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện đối với những khách hàng
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động trong quản
lý ngân quỹ của khách hàng.
+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của
hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho vay để mua
hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm, hoặc đầu quý doanh nghiệp
làm đơn xin vay luân chuyển và thỏa thuận với ngân hàng về hình thức, hạn mức tín
dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Ngân hàng và doanh
nghiệp phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán ngân quỹ trong
thời gian tới. Đối tượng ngân hàng cho vay là giá trị hàng hóa mua vào và nguồn
chi trả là thu nhập bán hàng. Khi vay, doanh nghiệp gửi đến ngân hàng các chứng
từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định
tùy theo khối lượng và chất lượng quan hệ của doanh nghiệp. Các khoản hàng hóa
trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay. Hình thức này, thường áp dụng đối
với các doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn
ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
+ Chiết khấu: là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn
thanh toán
2
. Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết
khấu ngắn, ngân hàng có thể tái chiết khấu tại ngân hàng trung ương để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. Nghiệp vụ này có rủi ro khi ngân hàng nhận
phải những thương phiếu giả mạo, hoặc người chịu trách nhiệm thanh toán thương
phiếu mất khả năng thanh toán trước khi thương phiếu đến hạn.
+ Cho thuê tài chính: Hoạt động cho vay là hoạt động tài trợ chủ yếu của
ngân hàng cho khách hàng, nhưng trong một số trường hợp khách hàng không đủ
điều kiện vay vốn. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ mua tài sản
theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê lại. Đây là phương thức vay tài sản thông
qua hợp đồng cho thuê, kèm theo lời hứa đơn phương bán cho người thuê một giá
nhất định có tính đến những số tiền thuê đã trả. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng
phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng và sau một thời gian nhất định phải thu
đủ gốc và lãi, tài sản cho thuê thường là các tài sản cố định. Hoạt động tài trợ này
chứa đựng nhiều rủi ro, khách hàng có thể kinh doanh không hiệu quả, tài sản cho
thuê mang tính đặc chủng, khó bán hay cho thuê lại…
Ngoài việc phân loại theo các tiêu thức nêu trên, các ngân hàng có thể thực
hiện phân loại theo: Đối tượng khách hàng vay vốn (khách hàng cá nhân và khách
hàng doanh nghiệp); Mục đích sử dụng vốn vay (bổ sung vốn lưu động, đầu tư tài
sản để ở, du học và tiêu dùng); Tài sản bảo đảm (tín dụng có tài sản bảo đảm và tín
dụng không có tài sản bảo đảm).
1.1.3 Rủi ro trong kinh doanh tín dụng của NHTM
• Khái niệm RRTD
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh NHTM là những biến cố không mong đợi
khi xảy ra, dẫn đến tổn thất về tài sản của Ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so
với dự kiến. RRTD trong hoạt động NHTM của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra
tổn thất trong hoạt động tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.

• Các loại RRTD
Tùy theo mục đích nghiên cứu và quản lý, các NHTM đưa ra phân loại RRTD
phù hợp.
2
Quốc hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, Điều 4.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Phân loại theo tính khách quan, chủ quan của rủi ro:
- Rủi ro khách quan do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch
họa, người vay chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất
thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc các chế độ, chính sách.
- Rủi ro chủ quan do nguyên nhân chủ quan của người vay và người cho vay
vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác.
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro:
- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là
do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá KH. Rủi
ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm bảo và rủi ro nghiệp vụ
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến đánh giá và phân tích tín dụng khi
NH lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro đảm bảo phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình
thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý
các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục có nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản
lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành rủi ro nội tại và rủi ro
tập trung.
+ Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, đặc điểm riêng bên trong của mỗi chủ

thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc
đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp NHTM tập trung cho vay quá nhiều đối với
một nhóm khách hàng, cho vay quá nhiều khách hàng hoạt động trong cùng một
ngành, lĩnh vực kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định…
Ngoài ra, còn có nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo
nguồn gốc hình thành, đối tượng sử dụng vốn vay…
• Đặc điểm của RRTD
Để chủ động phòng ngừa RRTD, thì nhận biết đặc điểm của RRTD là điều cần
thiết. RRTD có các đặc điểm sau:
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Rủi ro mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, NH chuyển giao
quyền sử dụng vốn cho KH. RRTD xảy ra khi KH gặp những tổn thất và thất bại
trong quá trình sử dụng vốn. Do đó, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của KH là
nguyên nhân chủ yếu gây nên RRTD cho NH.
- Rủi ro có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự
đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức và hậu quả của RRTD. Do đó, khi
phòng ngừa và xử lý RRTD phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ
nguyên nhân bản chất và hậu quả do RRTD đem lại để có biện pháp phòng ngừa
phù hợp.
- RRTD có tính tất yếu luôn tồn tại gắn liền với hoạt động tín dụng
của NHTM: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho NH không thể nắm bắt
được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất kỳ
khoản vay nào cũng tiềm ẩn những rủi ro. Kinh doanh NH là kinh doanh rủi ro ở
mức độ phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng.
• Ảnh hưởng của RRTD
Đối với nền kinh tế
Ngân hàng hoạt là một trung gian tài chính kết nối người gửi tiền và người

vay. Hoạt động ngân hàng khuyến khích tiết kiệm từ dân chúng bằng các hình thức
thu hút và huy động vốn thông qua các dạng tài khoản khác nhau trên một mạng
lưới chi nhánh rộng khắp, đồng thời đưa số vốn này vào sử dụng có hiệu quả mà
chủ yếu là cho các doanh nghiệp, cá nhân vay để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng. Hoạt động cho vay của NHTM đã khuyến khích sản xuất, tạo thêm việc làm,
tăng sản lượng và giảm nhập khẩu hàng hoá.
Mặt khác, khi ngân hàng cho khách hàng cá nhân vay sẽ khuyến khích tăng
nhu cầu về hàng hoá và điều này sẽ giúp cho việc tăng cường sản xuất.
Ngân hàng có thể tạo tiền qua việc cấp cho khách hàng những khoản vay để
mua hàng hoá, vì việc chi trả cho các hàng hoá này thực sự tạo ra một khoản tiền
mới khi tiền được chuyển vào tài khoản của người bán. Vì thế bằng việc cấp một
khoản vay ứng trước, một khoản tiền gửi ngân hàng đã được tạo ra, quá trình này
được gọi là tạo tiền qua tín dụng
Mọi người dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền,
một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay
vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Như vậy kinh doanh tín dụng có vai trò vô cùng to lớn trong nền kinh tế, điều
này cho thấy nếu kinh doanh tín dụng gặp rủi ro thì sẽ có ảnh hưởng rất xấu đối với
nền kinh tế.
Đối với Ngân hàng thương mại
RRTD làm suy giảm uy tín của ngân hàng: Một NHTM có RRTD lớn là một
NHTM quản lý rủi ro không tốt, tình hình đó bị báo chí nêu làm cho dân chúng
thiếu lòng tin và như vậy khó lòng có thể huy động được nguồn vốn dồi dào. Các
ngân hàng nước ngoài cũng vì thế mà xa lánh, không cấp các hạn mức tín dụng,
không mở quan hệ đại lý với NHTM này.
RRTD làm giảm sút khả năng thanh khoản của NHTM: Các khoản tín dụng có
rủi ro khiến cho việc hoàn trả gặp khó khăn, trong lúc đó các khoản tiền gửi, tiền

tiết kiệm của dân cư vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn, thậm chí nhiều khoản tiền
gửi rút trước hạn, đặc biệt trong giai đoạn cạnh tranh lãi suất huy động như giai
đoạn hiện nay. Trong lúc không huy động được nguồn vốn dồi dào do mất uy tín,
cũng vì thế người rút tiền lại càng tăng lên, kết quả là ngân hàng gặp khó khăn trong
thanh khoản. Và NHTM sẽ phải đi vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản,
điều này làm giảm sút hiệu quả hoạt động của Ngân hàng, và về dài hạn có thể dẫn
tới mất khả năng thanh khoản.
RRTD làm cho lợi nhuận suy giảm: Hoạt động tín dụng tạo ra trên khoảng
70% tổng thu nhập của một NHTM, đó là hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho
ngân hàng thương mại. Do vậy, nếu có rủi ro thì tài sản có của ngân hàng giảmvà
lợi nhuận của ngân hàng giảm, và ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông. Điều
này sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến khả năng tăng vốn của NHTM do cổ đông không đầu
tư vào các đơn vị hiệu quả hoạt động thấp, và cũng ảnh hưởng đến việc thu hút
nguồn tiền gửi của các NHTM này.
RRTD có thể dẫn đến phá sản: Nếu những tác động của RRTD trên 3 phương
diện nêu trên không được khắc phục và cứ ngày càng gia tăng thì đến một độ nào đó
sẽ đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản do mất hoàn toàn khả năng thanh khoản, các
khoản cho vay mất vốn lớn hơn vốn chủ sở hữu của NHTM.
1.1.4. Sự cần thiết phải quản lý RRTD
Quản lý rủi ro nói chung được xác định là một loạt các chính sách được ban hành
nhằm theo dõi các giao dịch và các hoạt động có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực
đến hoạt động của ngân hàng, và đề ra các biện pháp hữu hiệu để xác định, kiểm soát
và giảm thiểu được những rủi ro này.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các rủi ro nói chung trong hoạt động Ngân hàng được chia thành 4 loại chính:
• RRTD
• Rủi ro thị trường
• Rủi ro hoạt động

• Các rủi ro khác (như rủi ro uy tín, chính sách…).
Như vậy, quản lý rủi ro và đặc biệt là quản lý RRTD, nghiệp vụ tạo nên hơn 70%
thu nhập của NHTM, giúp bảo vệ ngân hàng, các cổ đông và người gửi tiền. Các ngân
hàng cần phải đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi nhuận
nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận
theo nguyên tắc “chấp nhận rủi ro cao thì lợi nhuận kỳ vọng của NHTM càng cao”.
Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm
soát được nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng
của ngân hàng. Điều này sẽ giúp NHTM có được sự phát triển bền vững.
Tại Việt Nam hiện nay, ngành kinh doanh ngân hàng đang phát triển hết sức
nhanh chóng, sự phát triển này đồng nghĩa với việc các NHTM ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong việc làm trung gian giữa người tiết kiệm tiền và người đi vay
tiền. Các NHTM cạnh tranh ngày càng gay gắt với nhau thông qua việc cung cấp
các dịch vụ, tiện ích cho khách hàng. Để đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng,
tạo ra những thuận lợi để cạnh tranh với các NHTM khác, các NHTM phải chấp
nhận rủi ro. Tuy nhiên, chấp nhận ở mức độ nào lại tuỳ thuộc vào mục tiêu của đơn
vị đó từng thời kỳ.
Xu hướng của các ngân hàng hiện đại là chuyên môn hoá, giao dịch một cửa,
tức là có người chuyên bán hàng, nhiệm vụ của họ là bán được càng nhiều càng tốt,
cho vay càng nhiều càng tốt. Như vậy, họ có thể bỏ qua những yếu tố, chi tiết cần
thiết khi quyết định một khoản cho vay, dẫn đến rủi ro. Một tâm lý thường thấy là
giữa cán bộ tín dụng và khách hàng thường có mối quan hệ thân thiết do quá trình
quan hệ lâu dài. Mối quan hệ này là đương nhiên vì có như vậy họ mới hiểu khách
hàng và cho vay. Tuy nhiên, chính sự thân thiết này đôi khi họ bỏ qua những chi tiết
cho là không cần thiết nhưng lại có thể gây RRTD, ví dụ như có thể thiếu một vài
giấy tờ Do vậy, cần phải có bộ phận kiểm soát những người bán hàng này, đây là
một phần của quản lý RRTD.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Các sản phẩm cho vay của các NHTM Việt Nam hiện nay hầu hết là cho vay
ứng trước (nghiệp vụ bao thanh toán, chiết khấu chưa phát triển mạnh như các nước
phát triển) loại sản phẩm này chịu ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường kinh doanh,
chu kỳ, ngành kinh tế. Do vậy, cần phải có sự nghiên cứu đánh giá để hạn chế
RRTD. Thực tiễn trong hoạt động ngân hàng cho thấy, dù có có các biện pháp hữu
hiệu để giảm thiểu RRTD thì rủi ro vẫn có thể xảy ra. Do vậy cần phải có dự phòng
đủ vốn cho những rủi ro này để tránh sự sụp đổ của ngân hàng, đây cũng là một
trong những nội dung quan trọng của quản RRTD. Ta thấy rất rõ là quản lý RRTD
thực sự cần thiết đối với các NHTM hiện nay.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi to tín dụng
Qua các nội dung trên đây cho thấy RRTD là tất yếu trong kinh doanh tín
dụng của các NHTM và việc chấp nhận rủi ro có sự tính toán trước là cần thiết và
bắt buộc đối với các nhà kinh doanh ngân hàng
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, trong quá trình nghiên cứu của mình các
học giả đã nghiên cứu về quản lý RRTD, và cho rằng: Quản lý RRTD là toàn bộ
quá trình thẩm định đánh giá trước khi khoản vay được phê duyệt cùng với toàn bộ
quá trình giám sát và báo cáo việc tuân thủ những cam kết tín dụng.
Quản lý RRTD là việc sử dụng đồng thời các công cụ, kỹ thuật và quy trình cần
thiết để thực hiện chiến lược kinh doanh tín dụng. Cụ thể hơn, Quản lý RRTD đó là
quá trình xác định, đo lường rủi ro; Đưa ra các biện pháp quản lý rủi ro; Thực hiện
quá trình kiểm soát và báo cáo rủi ro; Trên cơ sở báo cáo rủi ro lại xác định rủi ro
và cứ thế tiếp diễn theo quy trình vòng tròn khép kín
Toàn bộ quá trình quản lý RRTD có thể được diễn tả theo mô hình sau
đây:1.1.
Hình 21.1: Quy trình quản lý RRTD
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
Xác
định
rủi ro

Phân
tích,đo
lường RR
Biện pháp
quản lý RR
Gián sát
rủi ro
Báo cáo
rủi ro
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.2. Nguyên tắc quản lý RRTD
Nguyên tắc lợi nhuận đi kèm với rủi ro:
Đây chính là việc chấp nhận rủi ro một cách có lựa chọn và có sự đo lường về
khả năng phát sinh rủi ro. Hoạt động kinh doanh tín dụng không thể nói là không có
rủi ro, nhưng nếu e ngại rủi ro thì Ngân hàng sẽ không có lợi nhuận, thậm chí còn lỗ
do mất chi phí vốn lớn và không có thu nhập.
Chấp nhận rủi ro một cách có ý thức đó chính là việc tính toán xác định rủi ro
và mức độ của nó, để từ đó đưa ra các biện pháp hạn chế và đưa ra mức giá (lãi
suất) phù hợp, sao cho bù đắp được các chi phí (đặc biệt là chi phí dự phòng rủi ro)
và có lãi. Kinh tế học có nhắc đến nguyên lý “rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng
càng lớn”, do đó các Ngân hàng có định nghĩa rõ ràng về khẩu vị rủi ro và quản lý
theo danh mục tốt thì đạt mức tăng trưởng tốt về quy mô và lợi nhuận.
Nguyên tắc phân tách bộ phận kinh doanh và bộ phận kiểm soát rủi ro

Tức là các đơn vị kinh doanh tín dụng, nơi phát sinh rủi ro cần phải được tách
riêng khỏi các đơn vị mà nhiệm vụ của họ là giám sát và hạn chế rủi ro. Hai bộ phận
này có chức năng nhiệm vụ khác hẳn nhau, một bộ phận luôn tìm cách tăng trưởng tín
dụng để kỳ vọng mức lợi nhuận lớn, một bộ phận luôn tìm ra các hạn chế trong quá
trình cho vay để phòng ngừa rủi ro, hạn chế tối đa việc mất vốn.

Nếu hai bộ phận này được thực hiện bởi cùng một người thì mục đích kiểm soát
rủi ro không còn nữa hoặc việc kinh doanh sẽ trì trệ, không hiệu quả.
Nguyên tắc công khai
Việc công khai hóa rủi ro thay vì cố tình che dấu nó là một vấn đề quan trọng.
Hiện nay, các NHTM đều e ngại nguyên tắc này. Điều đó sẽ là nguy cơ để rủi ro
phát sinh nhiều hơn, do thực tế phải thấy được và công khai các rủi ro thì mới có ý
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thức và áp lực làm hạn chế nó.
Tuy nhiên, việc công khai rủi ro phải có trình tự, tránh tình trạng gây tâm lý
đám đông ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM, hoặc công khai khi chưa có giải
pháp phòng ngừa thì lại gây thêm rủi ro.
Nguyên tắc tuyệt đối tuân thủ
Việc có một quy trình chính sách quản lý rủi ro hoàn hảo chưa phải là đảm
bảo cho việc giảm thiểu rủi ro của ngân hàng. Điều quan trọng là tất cả cán bộ ngân
hàng phải tuyệt đối tuân thủ quy trình và chính sách của ngân hàng. Vấn đề này
hiện được nâng lên như một yêu cầu phải xây dựng văn hóa quản trị rủi ro. Việc
quản trị rủi ro không phải là việc của các đơn vị chuyên trách về rủi ro như
Khối/Phòng/Ban Quản trị rủi ro, Kiểm soát/Kiểm toán nội bộ mà là nhiệm vụ chung
của tất cả cán bộ nhân viên của Ngân hàng.
Một nhà phân tích đã nói làm Ngân hàng là phải trên cơ sở nguyên tắc, không
khuyến khích nhân viên sáng tạo tự phát. Việc sáng tạo phải được thể hiện ở việc
thay đổi quy trình và cần có sự kiểm tra chặt chẽ trước khi ban hành rộng rãi.
1.2.3. Quy trình quản lý RRTD
Với việc nhận định về RRTD, vấn đề quản lý RRTD là yêu cầu tiên quyết của
các Ngân hàng khi tham gia cung cấp tín dụng dưới mọi hình thức. Và đây cũng là
nội dung được các Ngân hàng thiết lập đầu tiên, trước khi thiết lập khung về quản trị
rủi ro thanh khoản chuẩn hay quản trị rủi ro hoạt động.
Ủy ban Basel về giám sát Ngân hàng là một Ủy ban bao gồm các chuyên gia giám

sát hoạt động Ngân hàng được thành lập năm 1975 bởi các Thống đốc Ngân hàng
Trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Hà Lan, Thụy Điển,
Anh và Mỹ). Ủy ban tổ chức các cuộc họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh
toán quốc tế (BIS) tại Washington (Mỹ) hoặc tại Thành phố Basel (Thụy Sỹ) để đưa
ra các nội dung, các tỷ lệ giới hạn về quản trị rủi ro.
Theo đó, Ủy ban Basel đưa ra nội dung quản trị rủi ro được các NHTM đồng
thuận bao gồm các nội dung sau: Phân tích xác định rủi ro; Đánh giá đo lường rủi
ro; Các biện pháp quản lý rủi ro, Giám sát rủi ro và Báo cáo rủi ro.
1.2.3.1. Phân tích xác định rủi ro
Người quản lý RRTD phải phân tích và xác định được loại rủi ro dẫn đến việc
trả nợ vay không đúng hạn của khách hàng, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp quản
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lý RRTD phù hợp. Thông thường RRTD được xác định có các loại trong sơ đồ sau:
Việc xác định rủi ro bao gồm các bước: theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi
trường hoạt động và quy trình cho vay để thống kê các dạng RRTD phát sinh, hoặc
tiềm ẩn có thể phát sinh. Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt
kê tất cả các dạng rủi ro đã, đang và sẽ có thể xuất hiện bằng các phương
pháp: lập bảng câu hỏi nghiên cứu, tiến hành điều tra, phân tích các hồ sơ tín
dụng, đặc biệt quan tâm điều tra các hồ sơ đã có vấn đề. Kết quả phân tích cho ra
những dấu hiệu, biểu hiện, nguyên nhân RRTD, từ đó nhằm tìm ra biện pháp hữu
hiệu nhất để phòng chống rủi
ro.
1.2.3.2. Đánh giá và đo lường rủi ro
Sau khi nhận định rủi ro, đưa ra danh sách các nguyên nhân gây RRTD cho
hoạt động của Ngân hàng, điều quan trọng NHTM phải đo lường được rủi ro. Nếu
không đo lường được thì khó có thể nói đến việc xây dựng chính sách tín dụng, và
quyết định giới hạn chấp nhận RRTD đến mức độ nào.
Trong công tác quản trị rủi ro, cần thiết phải có một hệ thống đo lường RRTD

nhằm phân loại các mức độ ảnh hưởng của rủi ro trong hoạt động kinh doanh NH, từ
đó có biện pháp cụ thể để quản trị tốt những rủi ro ở các mức độ khác nhau. Có thể sử
dụng nhiều mô hình khác nhau để đánh giá RRTD. Các mô hình này rất đa dạng bao
gồm cả định lượng và định tính
• Mô hình định tính: Là phương pháp truyền thống, dựa vào đánh giá chủ quan
của người cho vay căn cứ vào việc trả lời một số câu hỏi để phân loại khách hàng.
Mô hình định tính - Mô hình 6C
Trọng tâm của mô hình này là xem xét liệu người vay có thiện chí và khả năng
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
RỦI RO TÍN DỤNG
Rủi ro danh mụcRủi ro giao dịch
Rủi ro
Bảo đảm
Rủi ro
Nghiệp vụ
Rủi ro
Lựa chọn
Rủi ro
Tập trung
Rủi ro
Nội tại
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thanh toán các khoản vay khi đến hạn hay không. Cụ thể bao gồm 6 yếu tố sau:
- Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích
xin vay của KH, mục đích vay của KH có phù hợp với chính sách tín dụng hiện
hành của NH hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với
KH cũ; còn KH mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như Trung tâm
phòng ngừa rủi ro, từ NH khác, hoặc các cơ quan thông tin đại chúng …
- Năng lực của người vay (Capacity): Tùy thuộc vào qui định luật pháp của

quốc gia. Người vay phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
- Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ
của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán
thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán … Sau đó cần phân tích tình
hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để NH cấp tín dụng và là
nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho NH.
- Các điều kiện (Conditions): NH quy định các điều kiện tùy theo chính
sách tín dụng theo từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của
luật pháp, quy chế hoạt động đến khả năng KH đáp ứng các tiêu chuẩn của NH.
Mô hình 6C tương đối đơn giản, tuy nhiên lại phụ thuộc quá nhiều vào mức độ
chính xác của nguồn thông tin thu thập được, khả năng dự báo cũng như trình độ
phân tích, đánh giá chủ quan của cán bộ tín dụng. Sau đó từ việc áp dụng mô hình
định tính sẽ cho kết quả phân loại khách hàng:
* Khách hàng loại tốt (theo kết quả xếp hạng tùy từng NHTM có thể ký hiệu
xếp hạng là A, hoặc AAA hoặc loại 1 ):
 Về chất lượng quản lý: Đây khách hàng có uy tín rộng khắp, đội ngũ cán bộ
quản lý có kinh nghiệm, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu quả và thực sự có năng lực.
Điều này được thể hiện qua sự tăng trưởng về quy mô và hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp/cá nhân/tổ chức vay vốn.
 Về tình hình tài chính: Khách hàng có chất lượng thông tin tài chính tốt,
lành mạnh, các tài khoản được kiểm toán tuyệt đối do các kiểm toán viên quốc tế
đảm nhiệm và thường xuyên có số dư tiền gửi lớn tại ngân hàng. Tỷ lệ nợ trên vốn
chủ sở hữu ở mức trên trung bình của ngành, các tài sản cố định có giá trị thực. Khả
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
năng thanh toán nợ tốt, không có việc dùng vốn ngắn hạn để thực hiện đầu tư trung
dài hạn. Hoạt động kinh doanh của khách hàng chiếm thị phần lớn trong nội bộ

ngành và uy tín, nhất là với quốc tế. Phạm vi hoạt động kinh doanh cực kỳ tốt, sản
phẩm đa dạng, ảnh hưởng của chu kỳ là rất nhỏ. Doanh nghiệp luôn có sự gối đầu
các sản phẩm/dịch vụ, không phụ thuộc toàn bộ vào một sản phẩm/đối tác nào.
* Khách hàng loại khá
 Về chất lượng quản lý: là khách hàng có uy tín, có kinh nghiệm trong
những ngành cụ thể.
 Về tình hình tài chính: là khách hàng có các tài khoản được kiểm toán tuyệt
đối do các kiểm toán viên đảm nhiệm. Khách hàng có doanh thu lớn với tốc độ tăng
trưởng khá, viễn cảnh tăng trưởng cao, tỷ lệ nợ và vốn chủ sở hữu trên mức trung
bình, khả năng thanh toán nợ tốt. Khách hàng có xu hướng đạt doanh thu và lưu
chuyển tiền tệ tích cực nhưng không đều, khả năng kiểm soát thông tin còn hạn chế,
có một số khoản lỗ nhưng có thể kiểm soát được.
 Khách hàng thuộc loại này có môi trường kinh doanh khá ổn định nhưng
khả năng cạnh tranh của Khách hàng chưa cao. Xu hướng phát triển khá tốt cùng
với sự phát triển của nền kinh tế và có thị phần khá trong nội bộ ngành, sản phẩm,
hoạt động đa dạng nhưng có thể chịu ảnh hưởng của chu kỳ.
* Khách hàng loại trung bình
 Về chất lượng quản lý: Kinh nghiệm quản lý chỉ có mức độ vừa phải, còn
hạn chế, nội bộ công ty còn có các vấn đề cần điều chỉnh, các quyền lợi và nghĩa vụ
chưa được thống nhất, chuẩn hóa. Doanh thu không ổn định, biến động khá mạnh
theo tình hình của thị trường.
 Về tình hình tài chính: Các số liệu tài chính được kiểm toán theo quy định
hoặc không được kiểm toán. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu ở mức trung bình hoặc
dưới trung bình nhưng có thể kiểm soát được. Doanh thu và lưu chuyển tiền tệ ở
mức trung bình hoặc dưới trung bình nhưng có xu hướng không tăng.
• Mô hình định lượng
Hơn 20 năm trở về trước hầu hết các NHTM chỉ dựa duy nhất vào phương
pháp truyền thống (định tính) để đánh giá RRTD người vay. Các mô hình định tính
được sử dụng nhiều: 5C, CAMELS.
Phương pháp định tính có đặc điểm là dễ làm. Tuy nhiên, phần lớn được thực

Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hiện thủ công, mất nhiều thời gian, công sức, đặc biệt lại mang tính chủ quan của
từng đơn vị/cán bộ thực hiện. Do đó với tốc độ phát triển và mở rộng kinh doanh,
các NHTM buộc phải tư duy đến việc cải tiến phương pháp đánh giá khách hàng để
ra các quyết định cho vay hợp lý, quản lý danh mục thống nhất.
Đến sau năm 1990 một số NHTM đã bắt đầu sử dụng mô hình cho điểm để
lượng hoá RRTD người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so với phương
pháp truyền thống ở chỗ là, nó cho phép xử lý nhanh chóng một khối lượng lớn các
đơn xin vay, đảm bảo được sự khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm
soát RRTD Ngân hàng. Tuy được xây dựng mang tính định lượng, nhưng bản chất
vẫn gồm lượng hóa tối đa các chỉ tiêu định tính.
Các mô hình cho điểm tín dụng sử dụng số liệu phản ánh những đặc điểm của
người vay để lượng hoá xác suất vỡ nợ cũng như phân loại người vay thành các
nhóm có mức độ rủi ro khác nhau.
Để sử dụng các mô hình này, các nhà quản lý phải xác định được các tiêu chí
về kinh tế và tài chính liên quan đến RRTD đối với từng nhóm Khách hàng/ngành
nghề cụ thể.
Ví dụ: Đối với tín dụng cá nhân, các tiêu chí đó có thể là thu nhập tích lũy, tài
sản, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và nơi ở của khách hàng để từ đó chấm điểm,
xếp hạng khách hàng, hỗ trợ việc đưa ra quyết định cho vay. Đối với tín dụng doanh
nghiệp, tùy theo từng ngành nghề, quy mô của doanh nghiệp thì các tiêu chí tài
chính thường là các chỉ tiêu chủ yếu, lịch sử quan hệ của khách hàng với các đối
tác, NHTM chiếm tỷ trọng điểm nhiều hơn.
Sau khi các tiêu chí đã được xác định, kỹ thuật thống kê sẽ được sử dụng để
lượng hoá (cho điểm) xác suất RRTD hoặc để phân hạng RRTD
Một số mô hình lượng hoá RRTD cơ bản thường được sử dụng nhất:
+ Mô hình cho điểm số Z:
Mô hình này do E.I.Altman hình thành để cho điểm tín dụng đối với các Công

ty sản xuất của Mỹ. Trong mô hình, Z là thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối
với người vay và phụ thuộc vào:
• Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (X
J
)
• Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z = 1,2X
1

+ 1,4X
2
+ 3.3X
3
+ 0,6X
4
+ 1,0X
5
Trong đó:
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
X
1
= tỷ số "vốn lưu động /Tổng tài sản"
X
2
= Tỷ số "Lợi nhuận giữ lại/Tổng tài sản
X

3
= Tỷ số "Lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/Tổng tài sản"
X
4
= Tỷ số "Thị giá cổ phiếu/Giá trị ghi sổ của nợ dài hạn"
X
5
= Tỷ số "Doanh thu/Tổng tài sản"
Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi
trị số Z thấp hoặc là âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ
nợ cao, NHTM cần có sự theo dõi và kiểm soát đặc biệt, tần suất lớn hơn các
khách hàng khác.
Theo mô hình cho điểm số Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số Z
thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao.
+ Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Hiện nay, nhiều NHTM và các tổ chức thẻ tín dụng sử dụng phương pháp cho
điểm để xử lý các đơn xin vay/cấp thẻ tín dụng của người tiêu dùng. Nhiều khách
hàng ưa thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu tín dụng của họ được
xử lý bằng hệ thống cho điểm tự động. Người vay có thể nhập các thông số liên
quan đến thông tin về nghề nghiệp, thu nhập cá nhân, tuổi tác… để nhận được kết
quả về khả năng được cấp tín dụng, cũng như giới hạn tín dụng là bao nhiêu một
cách nhanh chóng.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho
điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số
người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số loại tài sản cá nhân,
thời gian công tác với công việc hiện tại.
Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục,
mỗi hạng mục được cho điểm từ 1 đến 10. Sau đây là một số hạng mục và điểm của
chúng được sử dụng ở các ngân hàng Mỹ thời kỳ đầu sử dụng mô hình điểm số tín
dụng tiêu dùng.

Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 hạng mục này là 43 điểm,
thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết rằng, mức 28 điểm là ranh giới giữa khách
hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu; trên cơ sở đó ngân hàng hình
thành một khung chính sách tín dụng tiêu dùng theo mô hình điểm số phù hợp.
Bảng 1.1: Điểm tín dụng áp dụng cho các Khách hàng cá nhân
STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm số
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1
Nghề nghiệp của người vay
- Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh
- Công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)
- Nhân viên văn phòng
- Sinh viên
- Công nhân không có kinh nghiệm
- Công nhân bán thất nghiệp
10
8
7
5
4
2
2
Trạng thái nhà ở
- Nhà riêng
- Nhà thuê hay căn hộ
- Sống cùng bạn hay người thân
6
4

2
3
Kinh nghiệm nghề nghiệp
- Nhiều hơn một năm
- Từ một năm trở xuống
5
2
4
Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
- Nhiều hơn một năm
- Từ một năm trở xuống
2
1
5
Số người sống cùng (phụ thuộc)
- Không
- Một
- Hai
- Ba
- Nhiều hơn ba
3
3
4
4
2
6
Các tài khoản tại NH
- Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành séc
- Chỉ tài khoản tiết kiệm
- Chỉ tài khoản phát hành séc

- Không có
4
3
2
0
Mô hình cho điểm đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho
vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng Tuy nhiên mô
hình này cũng có một số nhược điểm là không thể điều chỉnh được một cách nhanh
chóng để thích ứng với những thay đổi trong nền kinh tế và những thay đổi trong
cuộc sống gia đình.
Một mô hình điểm số không linh hoạt có thể đe dọa đến chương trình tín dụng
tiêu dùng của ngân hàng, bỏ sót những khách hàng lành mạnh, làm giảm lòng tin
của cộng đồng vào dịch vụ ngân hàng.
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảng 1.2: Điểm tín dụng áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Số năm hoạt động SXKD
- Trên 31 năm
- 21-30 năm
- 13-20 năm
- 9-12 năm
- 6-8 năm
- 3-5 năm
- 0-2 năm
Điểm số
30
28
24
20

15
10
0
2. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý
SXKD của chủ sở hữu
- Trên 31 năm
- 20-30 năm
- 12-19 năm
- 8-11 năm
- 5-7 năm
- 3-4 năm
- 0-2 năm
Điểm số
24
30
24
17
10
5
0
3. Uy tín khách hàng
- Giao dịch tốt trong 2 năm qua
- Đôi khi trễ hạn trả nợ
- Giao dịch tốt trên 6 tháng nhưng
chưa tới 2 năm
- Khách hàng mới dưới 6 tháng
- Thường trả nợ trễ hạn
20
12
10

5
0
4. Lãnh đạo ổn định
- Rất ổn định
- Có một vài thay đổi trong 5
năm qua (hoặc 5 năm tới)
- Có thay đổi lãnh đạo liên tục
trong 2 năm qua (Hoặc 2 năm
tới mà người kế tục không rõ)
14
7
0
5. Quan hệ giao dịch giữa cá
nhân chủ doanh nghiệp và
ngân hàng
- Có vay thế chấp, gửi tiền, mua
kỳ phiếu ngân hàng
- Có giao dịch không đáng kể
- Không có giao dịch
14
7
0
6. Tiềm năng lâu dài của doanh
nghiệp
- Tuyệt vời
- Thuận lợi
- Ổn định
- Hơi bất ổn
- Không an tâm
20

15
10
5
0
7. Thanh khoản
(Lãi gộp + Tiền mặt + Tiền gửi
NH)/ Nợ ngắn hạn
- Trên 2
- Từ 1.4-2
- Từ 0.85-1.4
- Từ 0.5-0.85
- Từ 0.25-0.5
- Từ 0-0.25
- Dưới 0
12
10
8
6
4
2
0
8. Quy mô tài sản có
- Trên 60 tỷ VND
- 30-60 tỷ
- 20-30 tỷ
- 10-20 tỷ
- 7-10 tỷ
- 4-7 tỷ
- Dưới 4 tỷ
12

10
8
6
4
2
0
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảng 1.3 Kết quả chấm điểm đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Số điểm Xếp loại
Tỷ lệ % dự báo nợ quá hạn trong
vòng 1 năm
Trên 120 điểm
Từ 91-120 điểm
Từ 75-90 điểm
Dưới 75 điểm
1
2
3
4
1.5%-2.25%
2.25%-3.5%
3.5%-5%
Trên 5%
Các mô hìnhCác bảng trên đây cho thấy một phương pháp luận mới trong
phân tích, đo lường RRTD. Tuy nhiên, để đưa vào ứng dụng trong thực tế nhà quản
lý phải dựa vào cơ sở dữ liệu thống kê đê xây dựng các mô hình cho từng nhóm
khách hàng cụ thể. Mặt khác các mô hình chấm điểm cũng phải thay đổi theo thời
gian khi môi trường kinh tế xã hội thay đổi. Các ngân hàng lớn ở các nước phát

triển đã thiết lập nhiều mô hình chấm điểm khác nhau cho từng loại khách hàng và
từng loại vay. Đối với các ngân hàng nhỏ mô hình chấm điểm chủ yếu áp dụng cho
một vài nhóm khách hàng.
Qua các nội dụng trên đây cho thấy các mô hình định tính và định lượng trên
đây được áp dụng song song không loại trừ nhau và phụ thuộc vào năng lực của cán
bộ tín dụng.
1.2.3.3. Tính toán các mức độ rủi ro và mức độ chịu đựng tổn thất khi xảy ra
rủi ro
Theo Basel 2, các NHTM sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu nội bộ để đánh giá RRTD
từ đó xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu, khả năng tổn thất tín dụng:
Với mỗi kỳ hạn xác định, tổn thất có thể được tính dựa trên công thức sau:
EL = PD x EAD x LGD (1.4)
EL (Expected Loss): Tổn thất tín dụng ước tính
PD (Probability of Default): Xác xuất không trả được nợ
EAD (Exposure at Default): Tổng dư nợ của KH tại thời điểm không
trả được nợ
LGD (Loss Given Default): Tỷ trọng tổn thất ước tính
* PD: Để tính toán nợ trong vòng 1 năm của khách hàng, ngân hàng phải
căn cứ trên số liệu dư nợ của khách trong vòng ít nhất là 5 năm, bao gồm các
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được, dữ
liệu được phân thành 3 nhóm sau:
- Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách hàng
cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng
- Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả năng
nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng trưởng của
ngành, …
- Nhóm dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả

năng không trả được nợ cho ngân hàng như số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi … Từ
những dữ liệu trên, ngân hàng nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính xác xuất
không trả được nợ của khách hàng
* EAD: Đối với các khoản vay có kỳ hạn, việc xác định EAD là dễ dàng. Tuy
nhiên, đối với khoản vay theo hạn mức tín dụng thì lại khá phức tạp. Theo thống
kê của Basel thì tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng thường có xu hướng
rút vốn vay xấp xỉ hạn mức được cấp
EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân
LEQ (Loan Equivalent Exposure): Tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng
LEQ*Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân: phần khách hàng rút thêm
tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân.
Việc xác định LEQ có ý nghĩa quyết định đối với độ chính xác của ước lượng
về dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ. Cơ sở xác định LEQ
là các số liệu quá khứ. Điều này gây khó khăn trong tính toán. Chẳng hạn như,
khách hàng uy tín, trả nợ đầy đủ thường ít khi rơi vào trường hợp này, nên không
thể tính chính xác LEQ. Ngoài ra, loại hình kinh doanh của khách hàng, khả
năng khách hàng tiếp cận với thị trường tài chính, quy mô hạn mức tín dụng, tỷ
lệ dư nợ đang sử dụng so với hạn mức… làm cho việc xác định LEQ trở nên phức
tạp hơn.
* LGD gồm tổn thất về khoản vay và các tổn thất khác phát sinh khi khách
hàng không được trả nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được thanh toán và
các chi phí hành chính có thể phát sinh như chi phí xử lý tài sản thế chấp. chi phí
cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan
Nguyễn Thùy Linh Lớp: Ngân hàng 19.20
22

×