Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Hoàn thiện công tác quản lý thực hiện dự án đầu tư tại công ty Xây dựng công trình giao thông 4 – CIENCO 4 Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.57 KB, 86 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan bản chuyên đề thực tập này là do em học tập và tìm tòi từ
nguồn tài liệu của đơn vị thực tập cũng từ mạng internet, báo chí, và thư viện
trường kinh tế quốc dân cùng với sự giúp đỡ của Thầy giáo Tiến sĩ Bùi Đức Tuân
đã hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành bản chuyên đề này. Chuyên đề này là nghiên
cứu độc lập của cá nhân em, mọi số liệu đều chính xác và được phép công bố.
Có gì sai sót em xin chịu trách nhiệm trước hội đồng thầy cô giáo khoa kế
hoạch- phát triển và trường kinh tế quốc dân
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
MỤC LỤC
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU :
SƠ ĐỒ:
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
LỜI MỞ ĐẦU
Để phục vụ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, từ đó đảm bảo các mục tiêu
xã hội, nước ta hiện nay đang đứng trước nhu cầu rất lớn về đổi mới, kiện toàn cơ
sở hạ tầng. Nguồn vốn ngân sách chi cho đầu tư phát triển và vốn viện trợ từ nước
ngoài trong nhiều năm gần đây tập trung phần lớn vào các công trình xây dựng các
hệ thống cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn rất nhiều vấn đề còn tồn tại
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản ở nước ta. Vốn bỏ ra rất lớn, tuy nhiên chất lượng
công trình yếu kém, tiến độ bị đình trệ, gây thất thoát và lãng phí vốn cũng như
nguồn lực. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này chính là do khâu quản lý, mà cụ
thể ở đây là quản lý các dự án đầu tư nói chung và quản lý dự án đầu tư xây dựng
cơ bản nói riêng.
Sự cần thiết phải đổi mới công tác quản lý dự án nói chung và quản lý dự án
đầu tư xây dựng nói riêng không còn là vấn đề mới, để thực sự thay đổi tình trạng


này đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của toàn xã hội.
Là sinh viên của khoa Kế hoạch- phát triển, được thực tập tại Tổng công ty
CIENCO 4 – Chi nhánh Hà Nội, em rất mong muốn tìm hiểu về hoạt động quản
lý đầu tư của công ty để thu thập thêm kiến thức cho mình trước khi ra trường.
Sau thời gian thực tập với sự hướng dẫn tận tình của cán bộ tại công ty và Tiến
sĩ Bùi Đức Tuân em đã hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. Trong phạm vi
chuyên đề, em xin trình bày về đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý thực hiện
dự án đầu tư tại công ty Xây dựng công trình giao thông 4 – CIENCO 4 Chi
nhánh Hà Nội”
Đề tài gồm những nội dung cơ bản sau:
Chương I : Lí luận chung về dự án đầu tư và quản lý dự án đầu tư
Chương II : Thực trạng quản lý dự án đầu tư tại Tổng công ty xây dựng công
trình giao thông 4 ( CIENCO 4 ) chi nhánh Hà Nội
Chương III : Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý dự án tại Công ty
CIENCO 4 – Chi nhánh Hà Nội
Em xin cám ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo, cũng như sự giúp đỡ
của các anh chị trong phòng Kế hoạch - Kinh doanh của Tổng công ty CIENCO 4
Chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ DỰ ÁN
ĐẦU TƯ
I. Dự án đầu tư :
Đầu tư phát triển là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được một mục
tiêu nhất định trong một thời gian xác định. Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển
nói riêng là chìa khóa cho tăng trưởng và phát triển. Trong nhiều năm qua đầu tư
theo dự án trở thành xu thế phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Cách tiếp cận đầu
tư bằng dự án đã đứng vững như một phương pháp đã tôi luyện để quản lý các

nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quan trọng.
1.1 Khái niệm :
Ngày nay, thuật ngữ “ dự án “ hay “ dự án đầu tư “ được sử dụng rộng rãi
trong đời sống cũng như trong các văn bản quy phạm. Tuy nhiên, khái niệm “ dự án
“ chưa được diễn đạt một cách thống nhất.
Theo Đại từ điển bách khoa toàn thư, từ “ project- dự án “ được hiểu là “ điều
có ý định làm “ hay “ đặt kế hoạch cho một ý đồ, một quá trình hành động “. Như
vậy, dự án có khái niệm vừa là ý tưởng, ý đồ, nhu cầu vừa có ý năng động, chuyển
động, hành động.
Tùy theo mục tiêu tiếp cận khác nhau, khái niệm “ dự án “ lại được hiểu
theo nhiều cách khác nhau.
• Theo Viện Quản trị dự án, Dự án là những nỗ lực có thời hạn nhằm tạo ra
sản phẩm hay dịch vụ duy nhất. Như vậy, mỗi dự án đều có điểm bắt đầu và điểm
kết thúc xác định, dự án kết thúc khi mục tiêu của dự án đã đạt được hoặc dự án bị
loại bỏ. Sản phẩm duy nhất của dự án là sản phẩm khác biệt với sản phẩm đã có
hoặc dự án khác.
• Xét về mặt hình thức, dự án là một tập hồ sơ, được trình bày theo một trật tự
logic nhất định, được chứng minh một cách đầy đủ và chính xác, mọi hoạt động để
thực hiện một mục tiêu nhất định.
• Trong hệ thống Kế hoạch hóa, dự án là khâu thấp nhất nhằm tổ chức các
hoạt động và sử dụng nguồn lực để biến các ý đồ của mục tiêu kế hoạch thành các
đầu ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cụ thể.
• Theo Ngân hàng thế giới (WB), dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động,
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
chính sách và chi phí liên quan được hoạch định nhằm đạt được những mục tiêu cụ
thể trong thời gian nhất định.
• Theo Nghị định 42/CP (16.07.1996), dự án là tập hợp những đề xuất về việc
bỏ vốn nhằm tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo một đối tượng nhất định với mục đích

đạt được sự gia tăng về số lượng hoặc sự cải tiến, nâng cao chất lượng của một sản
phẩm dịch vụ nào đó trong một thời gian nhất định.
• Theo Luật đấu thầu (29.11.2005), dự án là tập hợp các đề xuất để thực hiện
một phần hoặc toàn bộ công việc nhằm đạt được một mục tiêu nào đó trong thời
hạn nhất định và nguồn lực xác định.
• Theo Luật đấu thầu (29.11.2005 ), dự án là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung
và dài hạn nhằm thực hiện một hoạt động đầu tư trong một khoảng thời gian nhât
định trên một địa bàn xác định.
Dù tiếp cận theo quan điểm nào, dự án đầu tư cũng là một khái niệm gắn bó
chặt chẽ với khái niệm “ đầu tư “ - tức là việc chi dùng vốn trong hiện tại, tiến hành
các hoạt động nhằm đạt được kết quả lớn hơn trong tương lai. Đầu tư phát triển là
nguồn gốc ra đời của các dự án, ngược lại việc xây dựng và thực hiện dự án sẽ kiểm
nghiệm tính đúng đắn và hiệu quả của hoạt động đầu tư.
Dự án đầu tư xét trên góc độ nào cũng bao gồm các thành phần chính như
sau :
- Mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án. Cụ thể là khi thực hiện dự án sẽ
mang lại lợi ích gì cho xã hội cũng như bản thân chủ đầu tư. Các mục tiêu này có
thể được biểu hiện thành các kết quả cụ thể như: tăng thu ngân sách, nâng cao phúc
lợi xã hội hay tạo thêm lợi nhuận cho chủ đầu tư.
- Các hoạt động của dự án : Dự án phải nêu rõ các hoạt động của dự án, địa
điểm diễn ra hoạt động, thời hạn hoàn thành các hoạt động và các bộ phận có trách
nhiệm thực hiện các hoạt động đó.
- Các nguồn lực của dự án: Dự án phải nêu rõ được các nguồn lực tài trợ cho
các hoạt động của dự án. Bất kỳ dự án nào cũng hoạt động trong điều kiện giới hạn
nguồn lực.
Trong điều kiện nguồn lực là hữu hạn, dự án là công cụ thích hợp để hiện
thực hóa các ý đồ đầu tư, giúp cho hoạt động đầu tư được thực hiện hiệu quả, đạt
được mục tiêu và sử dụng tối ưu các nguồn lực. Dự án đầu tư còn thể hiện bản chất
là một hoạt động quản lý, ở đó có quy trình lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch và
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B

6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
theo dõi, đánh giá. Dự án đầu tư còn là công cụ để quản lý, kiểm soát các hoạt động
đầu tư, như quản lý nguồn lực, hoạt động hay tiến độ đầu tư.
Tóm lại, dù xét theo góc độ nào, “ dự án đầu tư “ cũng thể hiện bản chất là
một kế hoạch tiến hành các công việc cụ thể nhằm đạt được mục tiêu dự kiến trong
một giới hạn nhất định về thời gian và nguồn lực.
1.2 Đặc trưng của dự án đầu tư :
Dự án đầu tư có một số đặc trưng cơ bản, phân biệt với chương trình hay các
hoạt động mang tính thường quy.
• Dự án có mục đích, kết quả xác định: Tất cả các dự án đều phải có kết quả
được xác định cụ thể. Mỗi dự án bao gồm tập hợp nhiều nhiệm vụ độc lập, mỗi
nhiệm vụ lại có một kết quả riêng. Tập hợp những kết quả cụ thể của các nhiệm vụ
làm nên kết quả chung của dự án. Nói cách khác, dự án là một hệ thống bao gồm
nhiều bộ phận đảm nhiệm các vai trò, chức năng khác nhau nhưng đều phải thống
nhất đảm bảo mục tiêu chung về thời gian, chi phí và chất lượng công việc.
• Dự án có chu kỳ phát triển và thời gian tồn tại hữu hạn: Dự án trải qua các
giai đoạn hình thành, phát triển, có thời điểm bắt đầu và kết thúc cụ thể. Sự tồn tại
cảu dựu án chỉ mang tính thời điểm, khi dự án kết thúc, kết quả của dự án được giao
cho bộ phận quản lý vận hành, ban quản trị dự án giải tán.
• Sản phẩm của dự án mang tính độc đáo, mới lạ: Khác với hoạt động mang
tính thường quy, dự án mang tính đột phá, sản phẩm của dự án có tính khác biệt
cao, độc đáo, riêng có khác biệt với các dự án khác hoặc các sản phẩm đã xuất hiện.
Dự án thường gắn liền với những thay đổi mang tính đột phá, mới lạ.
• Dự án liên quan đến nhiều bên và có sự tương tác phức tạp giữa các bộ
phận quản lý chức năng và quản lý dự án: Dự án nào cũng có sự tham gia của
nhiều bên hữu quan như chủ đầu tư, người hưởng thụ dự án, nhà tư vấn, nhà thầu,
các cơ quan quản lý nhà nước. Tùy theo tính chất của mỗi dự án và ý định của chủ
đầu tư mà mức độ tham gia của các bên hữu quan này là khác nhau. Trong quá
trình thực hiện dự án, bộ phận quản lý chức năng và quản lý dự án có mối quan hệ

chặt chẽ với nhau, tuy nhiên mực độ đóng góp của hai bộ phận này trong từng dự
án là khác nhau.
• Môi trường hoạt động “va chạm”: Quan hệ giữa các dự án là quan hệ cạnh
tranh, phân chia với nhau nguồn lực hữu hạn của tổ chức. Do đó, môi trường hoạt
động của dự án phức tạp nhưng năng động.
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
• Tính bất định và độ rủi ro cao: Các dự án huy động quy mô tiền vốn, vật tư
và lao động lớn trong khoảng thời gian nhất định. Thời gian đầu tư và vận hành các
kết quả đầu tư kéo dài, do đó các dự án thường có tính rủi ro cao.
1.3 Vai trò của dự án đầu tư :
Dự án đầu tư là sản phẩm đem lại cho công cuộc đầu tư một hiệu quả như
mong muốn. Ngày nay, khi nhu cầu ngày một gia tăng trong khi nguồn lực khan
hiếm, dự án đầu tư càng thể hiện rõ nét vai trò quan trọng của mình trong việc đảm
bảo đem ý tưởng đầu tư trở thành hiện thực và đạt được hiệu quả tối ưu.
1.3.1 Vai trò của dự án đối với việc hoạch định chiến lược của nền kinh tế
- Dự án là công cụ triển khai thực hiện các mục tiêu của chiến lược, quy hoạch
và kế hoạch 5 năm, hay chương trình phát triển một cách có hiệu quả nhất.
- Dự án là phương tiện gắn kết kế hoạch và thị trường, nâng cao tính khả thi
của kế hoạch, bên cạnh đó đảm bảo khả năng điều tiết thị trường theo định hướng
đã xác định của kế hoạch.
- Dự án góp phần giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn phát triển kinh tế xã
hội cũng như giải quyết mối quan hệ cung cầu về sản phẩm, dịch vụ trên thị trường.
- Dự án góp phần cải thiện đời sống dân cư và bộ mặt kinh tế xã hội của từng
vùng và của cả nước.
Do các vai trò trên, dự án phát triển trở thành công cụ kế hoạch phổ biến trong
hệ thống kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay.
1.3.2 Vai trò của dự án đối với các bên liên quan
•Đối với chủ đầu tư: Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn

đầu tư.
Dự án đầu tư được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trong đó nghiên
cứu kĩ lưỡng các khía cạnh như kinh tế, thị trường, công nghệ, tổ chức quản lý Do
đó, đây là căn cứ khoa học và đáng tin cậy để chu đầu tư quyết định có bỏ vốn đầu
tư hay không.
Bên cạnh đó, để san sẻ bớt rủi ro và đáp ứng đủ vốn để thực hiện ý định đầu
tư, chủ đầu tư cần huy động thêm vốn từ bên ngoài. Dự án đầu tư là công cụ,
phương tiện để chủ đầu tư tìm kiếm, kêu gọi các đối tác trong và ngoài nước nhằm
bỏ vốn cho dự án, cũng như thuyết phục các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước
tài trợ hoặc cho vay vốn.
Dự án đầu tư còn là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư, theo dõi,
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
giám sát và đánh giá quá trình thực hiện dự án, từ đó có điều chỉnh kịp thời những
tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình.
•Đối với các nhà tài trợ ( các ngân hàng thương mại ): Dự án đầu tư là căn cứ
quan trọng để các cơ quan này xem xét tính khả thi của dự án, từ đó đưa ra quyết
định có nên tài trợ cho dự án hay không và nếu tài trợ thì tài trợ với mức độ nào để
đảm bảo rủi ro ít nhất cho nhà tài trợ.
Khi đã chấp thuận cho vay hoặc tài trợ, dự án là căn cứ quan trọng để các
ngân hàng lập kế hoạch cho vay hoặc cấp vốn theo tiến độ thực hiện đầu tư, đồng
thời lập kế hoạch thu hồi vốn vay.
•Đối với các cơ quan quản lý nhà nước: Dự án đầu tư là tài liệu quan trọng để
các cấp có thẩm quyền xét duyệt, cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách của nhà
nước sử dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch thông qua các dự án xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng. Dự án sẽ được cấp phép, phê duyệt khi mục tiêu của dự
án phù hợp với các đường lối, chính sách phát triển kinh tế đất nước. Dự án đầu tư
là căn cứ pháp lý để toà án xem xét, giải quyết khi có sự tranh chấp giữa các bên
tham gia đầu tư trong quá trình thực hiện dự án sau này.

1.4 Chu kỳ của dự án đầu tư :
1.4.1 Khái niệm và nguyên tắc phân chia chu kỳ đầu tư :
Chu kỳ dự án là một quy trình hoạt động của dự án bao gồm những bước
then chốt kế tiếp nhau mà bất kỳ một dự án nào cũng phải trải qua từ khâu đầu tiên
đến khâu cuối cùng nhằm đảm bảo các mục tiêu được thực hiện một cách tối ưu.
Phân chia chu kỳ dự án dù dựa trên nguyên tắc nào cũng phải đảm bảo một
số nguyên tắc nhất định.
Chu kỳ dự án phải tách biệt được các hoạt động trước khi ra hoạt động cấp
vốn và các hoạt động sau khi dự án đã được thông qua. Do hoạt động cấp vốn là
hoạt động có tính chất quyết định, sau hoạt động này, mọi tính toán, ý đồ đầu tư sẽ
được thực hiện trên thực tế, lợi ích hay chí phí của dự án lúc này là có thực, chứ
không còn là những tính toán trên giấy. Tức là chu kỳ dự án phải phân định rõ ràng
3 giai đoạn : tiền đầu tư, đầu tư và hậu đầu tư.
Việc phân chia chu kỳ dự án chỉ có tính chất tương đối. Thực tế các bước
thực hiện có thể đan xen với nhau hoặc thực hiện bước sau có thể quay lại điều
chỉnh bước trước cho phù hợp.
Mỗi bước của chu kỳ dự án đều phải đảm bảo 3 khâu : lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện và đánh giá. Do hoạt động của dự án có tính chất quản lý nên các bước
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
của nó đều mang tính chất của một quy trình quản lý.
1.4.2 Chu kỳ dự án :
Chu kỳ dự án phổ biến bao gồm các bước : xác định dự án, xây dựng dự án,
thẩm định dự án, thực hiện dự án và đánh giá dự án.
a. Xác định dự án :
Khâu xác định dự án bao gồm nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư và
nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ dự án.
Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư là việc nghiên cứu các điều kiện cụ
thể để chủ đầu tư đưa ra một quyết định sơ bộ về đầu tư. Nghiên cứu phát hiện các

cơ hội đầu tư xem xét một số các khía cạnh như: chủ trương chính sách của Nhà
nước liên quan đến các giai đoạn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác,
khả năng về vốn của quốc gia, khả năng mở rộng dây chuyền sản xuất hiện có
Qúa trình này diễn ra theo hai bước: nghiên cứu cơ hội đầu tư chung và nghiên cứu
cơ hội đầu tư cho dự án cụ thể. Trên cơ sở nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư
chủ đầu tư có thể lựa chọn cơ hội đầu tư thuận lợi nhất, tức là cơ hội đầu tư phát
huy được các mặt mạnh, hạn chế điểm yếu của doanh nghiệp, đồng thời tận dụng
được cơ hội cũng như hạn chế được các thách thức từ môi trường bên ngoài.
Sau khi lựa chọn được cơ hội đầu tư phù hợp, cơ hội đầu tư sẽ được tiến hành
nghiên cứu tiền khả thi, tức là bước đệm cho giai đoạn nghiên cứu khả thi. Bước
này sẽ xác định xem liệu cơ hội đầu tư có thực sự khả thi không, có nên tiếp tục giai
đoạn nghiên cứu khả thi không. Đây là các nghiên cứu sơ bộ sử dụng các số liệu
thô, tính toán và phân tích các chỉ tiêu sơ bộ nhằm dự đoán sự thành công của dự
án, đồng thời tiên liệu trước được những khó khăn thuận lợi khi tiến hành nghiên
cứu khả thi, từ đó có kế hoạch chuẩn bị phù hợp.
b. Xây dựng dự án:
Nhiệm vụ của bước này là xây dựng luận chứng kinh tế – kĩ thuật thể hiện
tính toán mọi mặt của dự án đầu tư trong tương lai. Nó phải đảm bảo độ chính xác,
tin cậy và toàn diện. Do đó, kết quả của bước này là cơ sở để các nhà đầu tư đưa ra
quyết định đầu tư, là cơ sở để các cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án, là cơ sở để
lập kế hoạch đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư tring tương lai, là cơ sở để các
đối tác ra quyết định tham gia vào dự án.
c. Thẩm định dự án
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, khoa
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng đến khả năng thực hiện và hiệu
quả của dự án để ra quyết định đầu tư. Đây là bước do các cơ quan chức năng thực
hiện, cung cấp cái nhìn khách quan đối với dự án. Công tác thẩm định đầu tư phải

đứng trên lợi ích của nền kinh tế, xác định lại lợi ích chính đáng của chủ đầu tư,
nhằm đảm bảo lợi ích đó không mâu thuẫn với lợi ích xã hội.
Thẩm định dự án là một khâu quan trọng trong quản lý đầu tư và xây dựng.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp và các nhà đầu tư thẩm định dự án là một căn cứ
tin cậy để quản lý dự án và ra quyết định đầu tư. Đứng trên giác độ của các định
chế tài chính cấp vốn cho dự án thì thẩm định dự án là căn cứ để ra quyết định
cung cấp vốn và số lượng vốn có thể cho vay cũng như các hình thức trả nợ. Đối
với cơ quan quản lý nhà nước thì thẩm định dự án đầu tư là căn cứ để cấp phép
đầu tư cho dự án.
d. Thực hiện dự án:
Đây là giai đoạn bỏ vốn và huy động các nguồn lực thực hiện dự án, gồm
các công việc như : đàm phán và ký kết các hợp đồng, thiết kế và lập dự toán thi
công xây lắp các công trình, thi công xây lắp, chạy thử và nghiệm thu sử dụng.
e. Đánh giá dự án:
Đây là bước xem xét, đánh giá sau khi dự án đầu tư kết thúc. Nội dung của
bước này là xem xét lợi ích thực mà dự án mang lại, so sánh các chỉ tiêu thực tế so
với các chỉ tiêu dự kiến. Kết quả của bước này sẽ là bài học kinh nghiệm cho các dự
án đầu tư sau.
Trong các giai đoạn của chu kỳ dự án, giai đoạn tiền đầu tư là giai đoạn tạo
tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở hai giai đoạn sau, đặc biệt đối với
giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư.
II. Quản lý dự án :
2.1 Khái niệm quản lý dự án :
Quản lý nghĩa chung là sự tác động có mục đích của chủ thể vào các đối
tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra. Quản lý là một quy
trình bao gồm các khâu lập kế hoạch, theo dõi đôn đốc thực hiện kế hoạch và
đánh giá.
Dự án đầu tư cũng là một đối tượng của công tác quản lý. Nếu xét trên góc
độ quản lý, Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, lao động
để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế – xã hội trong một thời gian dài. Quản lý dự

án có thể hiểu là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý vào công việc, các
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
hoạt động của dự án trong suốt quá trình lập và thực hiện dự án.
Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch, điều phối thời gian, nguồn lực và
giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng
thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và đảm bảo các yêu cầu đã định về kĩ
thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ bằng những phương pháp và điều kiện tốt
nhất cho phép.
Những hoạt động trong một dự án luôn có mối quan hệ và ảnh hưởng lẫn
nhau theo những logic nhất định. Nếu một công việc thực hiện không đúng tiến độ
và chất lượng các công việc khác và toàn bộ công việc của dự án sẽ bị ảnh hưởng
một cách tiêu cực, điều này dẫn đến đến việc đạt được các mục tiêu của dự án khó
có thể thực hiện được. Như vậy dự án là một hệ thống, nó không phải là một hệ
thống kĩ thuật thông thường mà còn là một hệ thống xã hội – một hệ thống đặc
trưng bởi các hoạt động của con người. Một hệ thống muốn tồn tại và phát triển cần
phải phù hợp với môi trường, phải có cơ chế điều khiển thích hợp. Do đó, quản lý
dự án thể hiện vai trò không thể thiếu trong việc đảm bảo sự thành công của dự án.
Quản lý dự án gồm 3 giai đoạn : lập kế hoạch, điều phối thực hiện và giám
sát mà nội dung chủ yếu là quản lý tiến độ thời gian, chi phí và thực hiện giám sát
các công việc của dự án nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Lập kế hoạch là giai đoạn xác lập mục tiêu, xác định công việc, dự tính
nguồn lực cần thiết để thực hiện dự án và là quá trình thiết lập một kế hoạch hành
động thống nhất, theo trình tự logic, có thể biểu diễn dưới dạng các sơ đồ hệ thống
hoặc theo các phương pháp lập kế hoạch truyền thống.
Điều phối thực hiện dự án là quá trình phân phối nguồn lực bao gồm tiền
vốn, lao động, thiết bị và đặc biệt quan trọng là điều phối tiến độ thời gian. Giai
đoạn này chi tiết hóa thời gian, lên lịch trình cho từng công việc và toàn bộ dự án,
trên cơ sở đó bố trí vốn, lao động, thiết bị cho phù hợp.

Giám sát là quá trình theo dõi, kiểm tra tiến trình dự án, phân tích tình hình
thực hiện, báo cáo hiện trạng và đề xuất biện pháp giải quyết những vướng mắc
trong quá trình thực hiện. Hoạt động giám sát là căn cứ cho công tác đánh giá dự án
nhằm tổng kết và đúc rút kinh nghiệm cho các pha sau của dự án.
Các giai đoạn của quá trình quản lý dự án làm thành một chu trình năng động
từ lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, giám sát đánh giá sau đó phản hồi lại cho quá
trình tái lập kế hoạch cho dự án hay giúp cho kế hoạch của dự án có những điều
chỉnh cần thiết.
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
2.2 Tác dụng của quản lý dự án.
Phương pháp quản lý dự án có những tác dụng chủ yếu sau đây:
- Liên kết các hoạt động, công việc cụ thể của dự án.
- Đưa đến điều kiện thuận lợi cho việc liên hệ và trao đổi thường xuyên giữa
nhóm quản lý dự án với khách hàng và nhà cung cấp đầu vào cho dự án.
- Tăng cường sự hợp tác giữa các thành viên và chỉ rõ trách nhiệm của các bên
liên quan tham gia dự án.
- Tạo điều kiện phát hiện sớm những vướng mắc và điều chỉnh kịp thời trước
những thay đổi hoặc điều kiện không dự đoán được, làm cho việc đàm phán trực
tiếp giữa các bên liên quan nhằm giải quyết những bất đồng trở nên dễ dàng hơn.
- Tạo ra sản phẩm có chất lượng cao hơn.
2.3 Nội dung quản lý dự án:
Quản lý dự án được xem xét trên hai giác độ là quản lý vĩ mô và quản lý vi mô.
Quản lý vĩ mô hay quản lý Nhà nước đối với dự án bao gồm tổng thể các
biện pháp vĩ mô tác động đến các yếu tố trong vòng đời của dự án. Trong quá trình
triển khai dự án, Nhà nước mà đại diện là các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế
luôn giám sát chặt chẽ, định hướng và chi phối hoạt động của dự án nhằm đảm bảo
sự đóng góp tích cực của dự án vào việc phát triển kinh tế xã hội. Công cụ quản lý
vĩ mô đối với dự án bao gồm: các chính sách, kế hoạch, quy hoạch phát triển, hệ

thống luật pháp và quy định đối với từng lĩnh vực cụ thể.
Quản lý vi mô đối với dự án là quản lý các hoạt động cụ thể của dự án. Nó
bao gồm nhiều khâu như lập kế hoạch, điều phối, kiểm soát các hoạt động dự án.
Quản lý dự án bao gồm các vấn đề như: quản lý thời gian, chi phí, nguồn vốn, rủi
ro Quá trình quản lý dự án được thực hiện xuyên suốt công cuộc đầu tư từ chuẩn
bị đầu tư đến vận hành các các kết quả của dự án. Trong từng giai đoạn, dù đối
tượng quản lý có thể khác nhau nhưng các dự án đều phải gắn với ba mục tiêu cơ
bản của hoạt động quản lý dự án là: thời gian, chi phí và kết quả hoàn thành.
Theo đối tượng quản lý, quản lý dự án bao gồm các nội dung như:
•Lập kế hoạch tổng quan:
Lập kế hoạch tổng quan cho dự án là quá trình tổ chức dự án theo một trình
tự logic, là việc cụ thể hóa các mục tiêu của dự án thành các công việc cụ thể và xây
dựng một chương trình thực hiện các công việc đó nhằm đảm bảo các yếu tố của
quản lý dự án đã được kết hợp một cách chính xác và đầy đủ.
•Quản lý phạm vi:
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
Quản lý phạm vi dự án là việc giám sát thực hiện mục đích, mục tiêu của dự
án, xác định công việc nào thuộc về dự án và cần phải tiến hành, công việc nào nằm
ngoài phạm vị dự án.
•Quản lý thời gian:
Quản lý thời gian là việc lập kế hoạch, triển khai và giám sát tiến độ thời
gian nhằm đảm bảo dự án hoàn thành đúng tiến độ. Nó chỉ rõ mỗi công việc phải
kéo dài bao lâu, thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc và khi nào toàn bộ dự án sẽ
hoàn thành.
•Quản lý chi phí:
Quản lý chi phí của dự án là quá trình dự toán kinh phí, giám sát thực hiện
chi phí theo tiến độ cho từng bước công việc và toàn bộ dự án, là việc thu thập,
phân tích số liệu và báo cáo những thông tin về chi phí.

•Quản lý chất lượng:
Quản lý chất lượng là quá trình tiến hành giám sát các tiếu chuẩn chất lượng
cho việc thực hiện dự án, đảm bảo chất lượng sản phẩm dự án phải đáp ứng mong
muốn của chủ đầu tư.
•Quản lý nhân lực:
Quản lý nhân lực là việc phối hợp những nỗ lực của mọi thành viên tham gia
dự án vào việc hoàn thành mục tiêu dự án. Nó cho thấymức độ hiệu quả của việc sử
dụng lực lượng lao động của dự án.
•Quản lý thông tin:
Quản lý thông tin là quá trình đảm bảo các dòng thông tin được truyền đạt
một cách nhanh nhất và chính xác giữa các thành viên dự án và giữa các cấp quản lý
dự án với nhau.
•Quản lý rủi ro:
Quản lý rủi ro là việc nhận diện các nhân tố rủi ro của dự án, lượng hóa mức
độ rủi ro và chuẩn bị kế hoạch đối phó cũng như quản lý từng loại rủi ro.
•Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán:
Quản lý hợp đồng và hoạt động mua bán là quá trình lựa chọn nhà cung cấp
hàng hóa dịch vụ, thương lượng, quản lý các hợp đồng và điều hành việc mua bán
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị cần thiết cho dự án. Quá trình quản lý này giải
quyết vấn đề bằng cách nào dự án nhận được hàng hóa và dịch vụ cần thiết của các
tổ chức bên ngoài, tiến độ và chất lượng ứng cung ra sao.
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
2.4 Quản lý thực hiện dự án
2.4.1 Khái niệm
Quản lý dự án là nghệ thuật kết hợp và sử dụng các nguồn lực của dự án để
đạt mục tiêu của dự án trong một thời hạn nhất định. Các nguồn lực chủ yếu của
một dự án là nhân lực, tiền vốn và thời gian của dự án. Nếu dựa trên góc độ tổ chức
của dự án người ta có thể xác định ba bước chung nhất để hoàn thành một dự án là:

- Tổ chức các hoạt động và huy động nguồn lực cho dự án
- Giám sát theo dõi và điều hành các hoạt động của dự án
- Giải tán, bàn giao kết quả dự án.
Quá trình quản lý dự án diễn ra xuyên suốt vòng đời của dự án được từ khi ý
tưởng dự án được hình thành đến khi dự án kết thúc. Một trong những phần quan
trọng và cần huy động nhiều nguồn lực trong quá trình quản lý dự án đó là quản lý
quá trình thực hiện dự án.
Quản lý quá trình thực hiện dự án là quá trình bắt đầu từ khi dự án đã được
phê duỵệt đến khi dự án được hoàn thành và bàn giao lại dự án. Thực hiện dự án chỉ
là một trong năm khâu của chu kỳ dự án, tuy nhiên đây lại là khâu có vai trò đặc
biệt quan trọng. Quản lý thực hiện dự án đòi hỏi phải được thực hiện một cách có
hiệu quả.
2.4.2 Nôi dung quản lý thực hiện dự án
Quản lý thực hiện dự án bao gồm: quản lý thời gian và tiến độ thực hiện của
dự án, quản lý chi phí dự án, quản lý chất lượng.
Mục đích có tính chất bao trùm trong quản lý dự án là phải xác định được các
công cụ và phương tiện để sử dụng tác động vào các hoạt động của dự án nhằm đạt
được các mục tiêu đã đề ra.
Quản lý dự án là đòi hỏi khách quan của các cơ quan quản lý nhà nước và
các cơ quan của chủ đầu tư. Xuất phát từ tính hệ thống của dự án, khi thực hiện
quản lý thực hiện dự án yêu cầu đặt ra là cần phải xem xét đảm bảo về các phương
diện thời gian, chi phí và chất lượng. Mục tiêu cơ bản của một dự án là hoàn thành
các công việc dự án theo đúng yêu cầu kĩ thuật và chất lượng, trong phạm vi ngân
sách được duyệt và theo tiến độ thời gian cho phép.

Về phương diện thời gian, cần xem xét dự án theo các giai đoạn kế tiếp và chi
phối lẫn nhau trong một chu trình. Mỗi giai đoạn luôn có những công việc hoạt
động cụ thể khác nhau, diễn ra trong một khoảng thời gian xác định. Sự chậm trễ
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
15

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
của công việc này sẽ kéo theo sự chậm trễ của các công việc khác và dẫn đến dự án
không đảm bảo về mặt tiến độ, thời gian.
Về phương diện chi phí, các hoạt động của dự án luôn đòi hỏi một lượng chi
phí hay nguồn lực nhất định. Các nguồn lực cần thiết cho dự án bao giờ cũng có
giới hạn và ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của dự án. Yếu tố chi phí cần được xem xét
ở cả 3 giai đoạn của chu trình đầu tư. Giai đoạn tiền đầu tư, chi phí bỏ ra là thấp hơn
so với hai giai đoạn kia, tuy nhiên đây là giai đoạn có tính chất quyết định, do đó
không nên quá hạn chế chi phí làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động. Đối với
giai đoạn đầu tư, chi phí bỏ ra là lớn nhất và thường phát sinh tình trạng lãng phí do
tính chất phức tạp của quá trình xây dựng và lắp đặt, do đó cần phải quản lý chặt
chẽ. Chi phí của giai đoạn hậu đầu tư là chi phí khai thác dự án, do đó cần tính toán
để đảm bảo vốn cho dự án hoạt động tránh ứ đọng, lãng phí vốn.
Về phương diện chất lượng, đây là yếu tố được tính đến ở tất cả các giai
đoạn của dự án. Ở giai đoạn tiền đầu tư, chất lượng được thể hiện ở tập hồ sơ phản
ánh kết quả nghiên cứu các vấn đề về thị trường, kinh tế, kĩ thuật, tài chính có ảnh
hưởng đến sự vận hành và tính sinh lời của công cuộc đầu tư. Chất lượng của giai
đoạn đầu tư thể hiện chủ yếu ở chất lượng xây dựng và lắp đặt các hạng mục công
trình nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm của dự án. Chất lượng của giai đoạn hậu
đầu tư được thể hiện ở kết quả khai thác dự án thông qua sản xuất, kinh doanh các
sản phẩm dịch vụ của dự án.
Các yếu tố tiến độ, chi phí và chất lượng được xem là ba chân kiềng của
quản lý dự án, đảm bảo hợp lý các yếu tố này tức là đã quản trị dự án thành công.
Giữa ba khía cạnh chi phí, tiến độ và chất lượng trong quản lý dự án có mối quan hệ
hữu cơ với nhau, bất kỳ sự thay đổi của một yếu tố sẽ kéo theo sự thay đổi các yếu
tố còn lại. Chẳng hạn, nếu muốn đẩy nhanh tiến độ, chi phí giành cho hoạt động đó
sẽ phải tăng lên. Tầm quan trọng của từng mục tiêu trong ba mục tiêu này có thể
khác nhau giữa các dự án, giữa các thời kỳ của một dự án. Do đó cần phải cân nhắc
kỹ lưỡng để có được sự kết hợp tối ưu giữa ba mục tiêu trên.
2.5. Quản lý thực hiện dự án tại doanh nghiệp xây dựng cơ bản

2.5.1. Đặc điểm của doanh nghiệp xây dựng cơ bản
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất độc lập có chức năng tái sản
xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Nó tạo nên cơ
sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế quốc phòng của đất nước, góp
phần quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho công cuộc công
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. .
Song song với các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc
điểm kinh tế kỹ thuật riêng, được thể hiện rất rõ ở sản xuất xây lắp và quá trình tạo
ra sản phẩm của ngành. Sản phẩm xây lắp là các công trình có đủ điều kiện đưa vào
sử dụng và phát huy tác dụng . Sản phẩm xây lắp mang đặc điểm là quy mô lớn, kết
cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian xây dựng lắp đặt dài. Đặc điểm này
làm cho việc tổ chức quản lý và hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp phải có
các dự toán.
Sản phẩm xây lắp tại nơi sản xuất do đó các điều kiện sản xuất : vật liệu, lao
động xe máy thi công phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm công trình. Do
vậy công tác quản lý, sử dụng, hạch toán vật tư, tài sản cũng trở nên phức tạp.
Quá trình từ khi khởi công công trình cho đến khi công trình hoàn thành bàn giao
đưa vào sử dụng thường là dài, nó phụ thuộc vào quy mô, tính chất phức tạp về kỹ
thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia làm nhiều giai đoạn, mỗi
giai đoạn lại bao gồm nhiều công việc khác nhau. Các công việc chủ yếu thực hiện
ở ngoài trời nên nó chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện thiên nhiên, thời tiết làm ảnh
hưởng lớn dến tiến độ thi công công trình vì vậy phát sinh nhiều chi phí ngoài dự
toán, chi phí không ổn định và phụ thuộc nhiều vào từng giai đoạn thi công.
Sản phẩm xây lắp rất đa dạng nhưng lại mang tính chất đơn chiếc. Mỗi công
trình được tiến hành thi công theo đơn đặt hàng cụ thể, phụ thuộc vào yêu cầu của
khách hàng và theo thiết kế kỹ thuật của công trình đó. Khi thực hiện các đơn vị xây
lắp phải bàn giao đúng tiến độ, đúng thiết kế kỹ thuật, đảm bảo chất lượng công

trình.
Sản phẩm xây lắp được được tiêu thụ theo giá trị dự toán hoặc giá thoả thuận với
chủ đầu tư từ khi ký kết hợp đồng, do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm xây lắp
thể hiện không rõ. Nếu quản lý chi phí tốt thì doanh nghiệp có thể giảm bớt chi phí
và tăng lợi nhuận .
Chính những đặc trưng riêng của ngành xây dựng cơ bản đã có tác động lớn
đến việc tổ chức quản lý doanh nghiệp nói chung và quản lý dự án nói riêng.
2.5.2 Công tác quản lý thực hiện dự án tại doanh nghiệp xây dựng cơ bản
2.5.2.1. Sự cần thiết phải quản lý thực hiện dự án tại doanh nghiệp xây dựng
cơ bản
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
Sản phẩm dịch vụ của các doanh nghiệp xây dựng cơ bản là các công trình
xây dựng nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội. Các công trình xây dựng này xuất
phát từ nhu cầu thực tế về sự gia tăng tài sản, cơ sở vật chất hay xuất phát từ một ý
đồ đầu tư, tức là chi dùng vốn nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật
chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu
phát triển. Hoạt động chính của các doanh nghiệp xây dựng cơ bản là thi công xây
lắp thực chất là một khâu trong quá trình tiến hành đầu tư.
Thực tiễn đã chứng minh rằng muốn tối đa hóa hoạt động đầu tư thì nhất
thiết phải có dự án đầu tư. Nói cách khác, đầu tư phải được tiến hành trên cơ sở các
dự án đã được soạn thảo và xem xét một cách kĩ càng. Đầu tư theo dự án trở thành
xu thế phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trong nhiều năm qua, cách tiếp cận
đầu tư bằng dự án đã đứng vững được như một phương pháp quản lý việc sử dụng
nguồn lực nhằm đạt được những mục tiêu phát triển quan trọng.
Là những đơn vị trực tiếp tham gia thực hiện các hoạt động đầu tư, các
doanh nghiệp xây dựng cơ bản hoạt động không thể tách rời với các dự án. Công tác
quản lý dự án đầu tư vì thế cũng trở thành nhiệm vụ và là hoạt động xuyên suốt.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng cơ bản dựa

trên kết quả của các dự án xây dựng mà doanh nghiệp tham gia. Việc đạt được hiệu
quả tích cực phụ thuộc rất lớn vào phương pháp quản lý dự án xây dựng của doanh
nghiệp. Một phương pháp quản lý dự án khoa học, hợp lý trong nội dung cũng như
trình tự sẽ đảm bảo cho nguồn lực của doanh nghiệp nói riêng và xã hội nói chung
được huy động hợp lý, từ đó đảm bảo được hiệu quả đầu tư.
Doanh nghiệp xây dựng là đơn vị tham gia chủ yếu vào giai đoạn tiến hành
đầu tư tức là các công việc: thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình, thi
công xây lắp công trình, chạy thử và nghiệm thu sử dụng. Do đó, quản lý dự án tại
các doanh nghiệp này chủ yếu là quản lý thực hiện dự án. Hoạt động quản lý này kế
thừa kết quả từ giai đoạn tiền đầu tư ( xây dựng và xác định các dự án ). Từ giai
đoạn này, các nguồn lực đã thực sự được huy động, lợi ích hay chi phí của dự án sẽ
là có thực chứ không phải chỉ là những tính toán trên giấy. Tại thời điểm này, vốn
đầu tư của dự án đã được giải ngân, nhân lực đã được huy động, các hợp đồng mua
sắm đã được kí kết. Do đó, mọi sơ suất trong quá trình quản lý thực hiện dự án đều
có thể dẫn đến những thất thoát, lãng phí nguồn lực làm dự án không đạt được hiệu
quả và hiệu lực đã đề ra.
Có thể nói, quản lý thực hiện dự án chỉ là một trong năm bước trong quản lý
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
dự án nhưng đây là bước cực kỳ quan trọng.
Thực tế cho thấy, quản lý thực hiện dự án cũng là khâu bộc lộ nhiều yếu kém
trong hoạt động đầu tư nói chung cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp xây dựng cơ bản nói riêng. Đây là hệ quả của sự hạn chế trong công
tác quản lý nói chung. Doanh nghiệp xây dựng nhà nước quen với cơ chế bao cấp
dẫn đến quản lý và sử dụng nguồn lực không hiệu quả, gây thất thoát lãng phí. Các
doanh nghiệp tư nhân gặp phải trở ngại do phương pháp quản lý trong nước còn
nhiều hạn chế. Thực trạng này dẫn đến yêu cầu phải đổi mới công tác quản lý nói
chung và quản lý dự án nói riêng trong các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh
nghiệp xây dựng cơ bản.

2.5.2.2. Quản lý thực hiện dự án tại doanh nghiệp xây dựng cơ bản
Quản lý dự án tại doanh nghiệp xây dựng cơ bản chủ yếu là quản lý thực hiện
dự án, với ba khía cạnh chính là quản lý thời gian tiến độ, quản lý chi phí và quản lý
chất lượng.
a. Quản lý tiến độ :
Mục tiêu của quản lý tiến độ là đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời hạn,
trong khuôn khổ phạm vi ngân sách đã được duyệt, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo chất
lượng. Quản lý tiến độ là cơ sở, căn cứ cho quản lý chi phí. Đối với doanh nghiệp
xây dựng, thời gian thi công của công trình thường kéo dài, đòi hỏi sự huy động
nguồn lực lớn. Sự chậm trễ trong tiến độ thực hiện sẽ kéo theo chi phí phát sinh,
làm cho việc đầu tư không đạt được đầy đủ hiệu quả đề ra.
Quản lý thời gian và tiến độ là quá trình quản lý bao gồm thiết lập mạng công
việc, xây dựng lịch trình thực hiện cho từng công việc, cũng như toàn bộ dự án.
Để quản lý thời gian và tiến độ, hiện nay người ta thường dùng một trong hai
phương pháp là biểu đồ Gantt hoặc kỹ thuật tổng quan đánh giá dự án ( PERT ) và
phương pháp đường găng ( CPM )
- Biểu đồ Gantt là cách biểu diễn bằng đồ thị các bước công việc của dự án,
trong đó cho biết thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc, khoảng thời gian kéo dài của
từng công việc và trình tự bắt buộc phải có giữa chúng.
Biểu đồ Gantt có ưu điểm là nó cho biết điều kiện ràng buộc về trình tự giữa
các bước công việc, từ đó người quản lý sẽ nắm được việc điều chỉnh tiến độ của
bước nào sẽ ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án. Biểu đồ Gantt còn cho biết
thời gian thực hiện của toàn bộ dự án cũng như từng bước công việc, cung cấp
thông tin cho nhà quản lý biết phải tập trung vào bước công việc nào để đảm bảo
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
tiến độ cho toàn dự án. Một ưu điểm nữa khiến cho biểu đồ Gantt tương đối phổ
biến là nó đơn giản, dễ lập và theo dõi, đồng thời đòi hỏi lượng thông tin với mức
độ chi tiết vừa phải.

Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là mối quan hệ giữa các bước
công việc còn chưa được thực hiện chặt chẽ, chưa thể hiện được tầm quan trọng
tương đối giữa công việc này với công việc khác. Khả năng kết hợp quản lý tiến độ
và quản lý chi phí còn hạn chế.
- Sơ đồ PERT/CPM là một cách trình bày bằng đồ họa trình tự các hoạt
động của dự án và mối quan hệ logic giữa chúng. Đây là phương pháp theo dõi chi
tiết nhất vè tiến độ của dự án, cung cấp những thông tin mà các công cụ khác không
thực hiện được. Phương pháp này phù hợp với những dự án đã xác định tương đối
chính xác thời gian cần thiết để hoàn thành công việc.
Tuy nhiên, phương pháp này phức tạp, đòi hỏi nhiều thông tin nên không phù
hợp với những dự án mà không thể xác định chính xác ngay từ đầu tiến độ hoàn
thành công việc. Do đó, phương pháp này không được ứng dụng rộng rãi.
Trước khi áp dụng một trong hai phương pháp trên, cán bộ quản lý dự án
thường phải phân tách các công việc của dự án theo cấu trúc phân việc (WBS –
work break down structure). Đây là cơ sở để phân công công việc cụ thể theo từng
cấp quản lý, nêu rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng nhóm công tác, đồng thời
làm căn cứ dự kiến thời gian và hoàn thành công việc. Đây là bước phân chia theo
cấp bậc một dự án thành các nhóm nhiệm vụ và công việc cụ thể. Kết quả của bước
này là sơ đồ cấu trúc phân việc, bao gồm nhiều cấp bậc. Cấp bậc cao nhất là mục
tiêu của dự án, cấp bậc thấp nhất là các công việc cụ thể. Phương pháp này chi tiết
hóa ý đồ của dự án thành các công việc cụ thể, là căn cứ quan trọng của quản lý.
Đối với một doanh nghiệp xây dựng cơ bản, khối lượng công việc của một dự án là
rất lớn, thời gian thi công kéo dài , việc phân tách công việc một cách hợp lý sẽ tiết
kiệm được các chi phí sản xuất chung, đồng thời chi tiết hóa được quy trình quản lý,
công tác quản lý vì thế cũng trở nên sát sao hơn.
b. Quản lý chất lượng :
Chất lượng đối với một dự án đầu tư nói chung và dự án xây dựng nói riêng là
yếu tố hàng đầu quyết định đến sự thành công của dự án. Một dự án xây dựng
không đảm bảo chất lượng không những gây lãng phí nguồn lực mà còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ về thiệt hại trong tương lai. Đặc điểm của các công trình xây dựng là

nhiều khi chất lượng công trình chỉ được thể hiện rõ khi đã đi vào vận hành một
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
thời gian. Việc điều chỉnh đối với các dự án không đạt yêu cầu trở nên tốn kém,
lãng phí đồng thời hiệu quả không cao. Do đó, công tác quản lý chất lượng nên
được đặc biệt chú trọng trong khâu thi công xây lắp công trình.
Chất lượng là mức độ hoàn thiện của sản phẩm (dự án) so với các tiêu thức
chuẩn thiết kế được duyệt. Do đó, trong khu vực sản xuất, một dung sai của các chỉ
tiêu được định rõ để đánh giá mức độ hoàn thành chất lượng.
Quản lý chất lượng dự án là tập hợp các hoạt động của chức năng quản lý, là
một quá trình nhằm đảm bảo cho dự án thoả mãn tốt nhất các yêu cầu mà mục tiêu
đặt ra. Quản lý chất lượng dự án bao gồm việc xác định chính sách chất lượng, mục
tiêu, và tiến hành thực hiện chúng thông qua các hoạt động: lập kế hoạch chất
lượng, kiểm soát và bảo đảm chất lượng trong hệ thống .
Lập kế hoạch chất lượng dự án là việc xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho
dự án và xác định cách thức để đạt các tiêu chuẩn đó. Lập kế hoạch chất lượng dự
án là một bộ phận quan trọng của quá trình lập kế hoạch, sẽ được thực hiện thường
xuyên và song hành với nhiều loại kế hoạch khác. Lập kế hoạch chất lượng cho
phép định hướng phát triển chất lượng chung trong doanh nghiệp đồng thời khai
thác sử dụng hiệu quả các nguồn lực, giảm chi phí liên quan Tuy nhiên, trong một
số trường hợp, quản lí chất lượng chặt chẽ có thể dẫn đến phát sinh chi phí hoặc
phải điều chỉnh lại kế hoạch tiến độ thời gian.
Đảm bảo chất lượng dự án là tất cả các hoạt động có kế hoạch và hệ thống
được thực hiện trong phạm vi dự án nhằm đảm bảo các dự án sẽ thoả mãn các tiêu
chuẩn chất lượng tương ứng. Đảm bảo chất lượng là việc theo dõi và đánh giá
thường xuyên tình hình hoàn thiện, đòi hỏi dự án phải được xây dựng theo những
hướng dẫn quy định, tiến hành theo các quy trình đã được duyệt, trên cơ sở những
tính toán khoa học, theo lịch trình và tiến độ kế hoạch.
Kiểm soát chất lượng dự án là việc giám sát các kết quả cụ thể của dự án đối

chiếu với các tiêu chuẩn chất lượng và tìm biện pháp để loại bỏ những nguyên nhân
không hoàn thiện. Xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng rất cần thiết vì nó tạo ra
một hệ thống chính thức trong cơ cấu dự án để đảm bảo đáp ứng liên tục yêu cầu
của khách hàng. Đối với nhà thầu, việc xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng sẽ
giúp tránh được những rủi ro kiện tụng, khiếu lại về sơ suất chuyên môn, trên cơ sở
đó có thể khẳng định với khách hàng về khả năng đảm bảo tiến độ, thực hiện các
biện pháp quản lý chất lượng theo yêu cầu. Đối với một số dự án đòi hỏi kĩ thuật
phức tạp như vũ trụ, quốc phòng, mua sắm công, hệ thống kiểm soát chất lượng là
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
một yêu cầu tiên quyết để có thể hoạt động trong lĩnh vực này.
c. Quản lý chi phí :
Với điều kiện ngân sách của một dự án là có hạn, hoạt động của dự án phải
đảm bảo được yếu tố chi phí giành cho các hoạt động phải hợp lý và tránh tình trạng
thất thoát, lãng phí. Đối với các dự án xây dựng, nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu là
vốn ngân sách với cơ chế quản lý còn khá lỏng lẻo, vấn đề quản lý chi phí càng phải
được quan tâm. Thực tế ở nước ta cho thấy, công tác quản lý chi phí cho các công
trình xây dựng bộc lộ rất nhiều vấn đề làm giảm hiệu quả đầu tư, đồng thời làm
giảm lòng tin của nhân dân đối với bộ máy quản lý.
c.1 Đối tượng của quản lý chi phí
Trong những doanh nghiệp xây dựng, quản lý tài chính dự án xây dựng( hay
còn gọi là chi phí xây dựng) bao gồm hai nội dung: quản lý tài chính trực tiếp, và
quản lý tài chính chung.
Quản lý tài chính trực tiếp: là việc xác định, giám sát việc sử dụng các loại chi
phí phục vụ trực tiếp cho quá trình thi công xây dựng các công trình, chi phí trực
tiếp của các công trình bao gồm: chi phí vật liệu, chi phí nhân công và chi phí máy
thi công.
Yếu tố thường được xem xét nhiều nhất trong quản lý chi phí sản xuất là chi
phí vật liệu.

Chi phí vật liệu là giá trị vật liệu chính, vật liệu phụ, cấu kiện, vật liệu luân
chuyển, các vật liệu khác, phụ tùng, bán thành phẩm cần thiết để hoàn thành
khối lượng công tác xây lắp hoặc kết cấu xây dựng. Đối với dụ án xây dựng, khoản
mục chi phí vật liệu chiếm tỉ trọng lớn hơn cả, nên việc tiết kiệm hay lãng phí vật
liệu có ảnh hưởng rất lớn đối với mục tiêu hạ giá thành sản phẩm xây dựng. Chi phí
vật liệu chịu ảnh hưởng chủ yếu của hai nhân tố: mức tiêu hao nguyên vật liệu và
đơn giá vật liệu.
Quản lý chi phí chung: Là việc xác định, giám sát sử dụng các chi phí gián
tiếp tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm. Chi phí chung là một khoản mục chi
phí xây dựng phục vụ cho việc tổ chức thi công xây dựng công trình và duy trì bộ
máy quản lí của doanh nghiệp xây dựng. Nội dung của khoản mục chi phí chung
trong chi phí xây dựng bao gồm: chi phí quản lí hành chính; chi phí phục vụ nhân
công; chi phí phục vụ thi công; chi phí khác.
Khoản chi phí sản xuất cũng cần phải được chú ý trong quản lý tài chính xây
dựng. Các chi phí này tuy không được lập trong kế hoạch, nhưng trong thực tế vẫn
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
phát sinh. Đó là những thiệt hại đối với những khối lượng công tác không đảm bảo
kĩ thuật phải phá đi làm lại và những thiệt hại về việc ngừng sản xuất. Cần kết hợp
với quá trình quản lí chất lượng công trình để tìm hiểu nguyên nhân và các biện
pháp loại trừ những thiệt hại trong quá trình sản xuất kinh doanh.
c.2 Nội dung của quản lý chi phí:
Quản lý tài chính dự án là quá trình dự toán ngân sách, kiểm soát việc thực
hiện chi phí theo tiến độ cho từng công việc và toàn bộ dự án, là việc thu thập, phân
tích số liệu và báo cáo những thông tin về tài chính. Quá trình quản lý chi phí dự án
dược thể hiện trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 1 : Quá trình quản lý tài chính dự án



( Nguồn : Giáo trình Quản lý dự án – NXB ĐH KTQD 2008)
Dự toán ngân sách cho thi công xây dựng công trình là kế hoạch phân phối
nguồn quỹ của dự án cho các hoạt động thi công xây dựng nhằm đảm bảo tốt các
mục tiêu chi phí, chất lượng và tiến độ dự án. Dự toán ngân sách dự án phức tạp
hơn việc dự toán ngân sách cho các công việc thực hiện thường xuyên của doanh
nghiệp vì có nhiều nhân tố mới tác động và các công việc ít lặp lại.
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
Dự toán
ngân sách
lập ngân sách
công việc
xác định
tổng dự toán
kiểm soát
việc thực hiện
chi phí
Giám sát
Đánh giá
Thông tin
Điều chỉnh
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân
Kiểm soát việc thực hiện chi phí xây lắp công trình theo tiến độ cho từng công
việc và toàn bộ dự án diễn ra xuyên suốt từ khi công trình bắt đầu được thi công đến
khi doanh nghiệp bàn giao lại cho chủ đầu tư. Kiểm soát chi phí là việc giám sát,
theo dõi tiến độ chi phí, xác định những thay đổi so với kế hoạch, từ đó đề xuất
những giải pháp để đạt được hiệu quả trong công tác quản lý tài chính dự án.
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Bùi Đức Tuân

CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
TẠI TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO
THÔNG 4 ( CIENCO 4 ) CHI NHÁNH HÀ NỘI
I. Giới thiệu chung về Tổng công ty CIENCO 4 và Chi nhánh Hà Nội
1.1 Giới thiệu về T ổng công ty CIENCO 4
1.1.1 Thông tin chung và lịch sử hình thành
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên - Tổng công ty xây dựng công
trình giao thông 4
Tên tiếng Anh: Civil Engineering Construction Corporation 4
Tên viết tắt: CIENCO 4
Trụ sở chính: Số 29 - Quang Trung - TP. Vinh - Tỉnh Nghệ An
Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 4 (CIENCO 4) là đơn vị kế
thừa truyền thống Cục Công trình - Bộ Giao thông vận tải được thành lập ngày
27/12/1962 để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo giao thông trong chiến tranh chống Mỹ
cứu nước. Trải qua gần 50 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Tổng công ty
đã nhiều lần được tổ chức lại với những tên gọi sau:
- Ngày 27/12/1962, Bộ Giao thông vận tải ra Quyết định số 1477-QĐ/TL
thành lập Cục Công trình trực thuộc Bộ Giao thông vận tải.
- Năm 1966, Cục Công trình đổi tên thành Cục Công trình I.
- Năm 1976, Cục Công trình I chuyển sang làm nhiệm vụ khôi phục, xây dựng
kinh tế và được đổi tên thành Xí nghiệp liên hợp công trình I.
- Cuối năm 1982, đổi tên thành Liên hiệp các Xí nghiệp Xây dựng công trình
giao thông 4.
- Năm 1991, Bộ Giao thông vận tải quyết định tách lực lượng xây dựng cơ bản
trong Liên hiệp và thành lập Tổng công ty Xây dựng công trình Miền Trung.
- Tháng 12/1995, Bộ giao thông vận tải ra Quyết định số 4985/QĐ-BGTVT
đổi tên Tổng công ty Xây dựng công trình Miền Trung thành Tổng công ty Xây
dựng công trình giao thông 4.
- Ngày 22/8/2007, Bộ Giao thông vận tải ra Quyết định số 2601/QĐ-BGTVT
thành lập Công ty mẹ - Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 4. Tổng công

ty chính thức hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con.
SV: Trần Thị Thuỳ Trang Lớp: Kế hoạch 50B
25

×