Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Năng lực nhận tái bảo hiểm tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Quân đội – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.48 KB, 75 trang )

Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
NỘI DUNG
LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1: Lí thuyết về tái bảo hiểm và nhận tái bảo hiểm
1.1 Khái quát về tái bảo hiểm
1.1.1 Sự cần thiết của tái bảo hiểm
1.1.2 Bản chất và chức năng của hoạt động tái bảo hiểm
1.1.3 Các hình thức tái bảo hiểm
i) Hình thức nhận tái bảo hiểm tạm thời
ii) Hình thức nhận tái bảo hiểm cố định
iii) Hình thức nhận tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc
1.1.4 Các phương thức tái bảo hiểm
i) Hình thức nhận tái bảo hiểm tạm thời
ii) Hình thức nhận tái bảo hiểm cố định
iii) Hình thức nhận tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc
1.2 Năng lực nhận tái bảo hiểm
1.2.1 Các yếu tố đánh giá năng lực nhận tái bảo hiểm
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực nhận tái bảo hiểm
Chương 2: Tình hình hoạt động nhận tái bảo hiểm tại Tổng công ty cổ
phần Bảo hiểm Quân đội
2.1 Khái quát chung về Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
2.1.2 Kết quả kinh doanh giai đoạn 2008-2012
2.2 Thực trạng hoạt động nhận tái bảo hiểm tại Tổng công ty cổ phần bảo
hiểm Quân đội
2.2.1 Quy trình hoạt động nhận tái bảo hiểm tại Tổng công ty cổ phần bảo
hiểm Quân đội
2.2.2 Đánh giá năng lực nhận tái bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm
Quân đội
2.2.3 Kết quả kinh doanh hoạt động nhận tái bảo hiểm của Tổng công ty cổ
phẩn bảo hiểm Quân đội giai đoạn 2008-2012


2.2.4 Những mặt hạn chế trong hoạt động nhận tái bảo hiểm của Tổng công ty
cổ phần bảo hiểm Quân đội
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao khả năng nhận
tái bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội
3.1 Những kiến nghị
3.2 Những giải pháp nhằm nâng cao khả năng nhận tái bảo hiểm tại Tổng công
ty cổ phẩn Bảo hiểm Quân đội
KẾT LUẬN
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
MỤC LỤC
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
LỜI NÓI ĐẦU
Có một thực tế không thể phủ nhận rằng, trong những năm gần đây, nền kinh
tế Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong hội nhập và phát triển. Và thị
trường bảo hiểm cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Mặc dù ra đời khá muộn so với các loại hình kinh tế khác tại Việt Nam
nhưng có thể nhận thấy, hiện tại ngành bảo hiểm đang đóng vai trò không thể thiếu
trong hoạt động của nền kinh tế và ngày càng nâng cao vai trò và vị trí của mình.
Thành lập năm 2007, Công ty bảo hiểm Quân đội (MIC) đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, đã và đang dần khẳng định vị trí của mình trên thị trường bảo
hiểm trong nước và quốc tế. Doanh thu hàng năm của MIC liên tục tăng từ 2008
mới chỉ đạt hơn 258 tỷ đồng thì đến năm 2012 Công ty kỷ niệm 5 năm thành lập với
doanh thu 500 tỷ đồng, đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách nhà nước.
Sự ra đời của MIC cũng như rất nhiều Công ty bảo hiểm khác trong những năm gần
đây sẽ đẩy nhanh tiến trình hoàn thiện của thị trường bảo hiểm Việt Nam, tạo điều

kiện hòa nhập vào thị trường bảo hiểm thế giới. Tuy nhiên, ngay chính bản thân
Công ty bảo hiểm cũng có thể gặp rủi ro đòi hỏi được bảo vệ và Công ty bảo hiểm
cũng đi tìm kiếm người bảo vệ cho mình. Kinh doanh bảo hiểm không thể phát huy
hết vai trò của mình nếu tách rời tái bảo hiểm. Đối với các Công ty bảo hiểm ở Việt
Nam thì tái bảo hiểm đang giữ một vai trò rất quan trọng trong tiến trình hội nhập
kinh tế đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của tái bảo hiểm đối với các Công ty bảo
hiểm nói chung và Bảo hiểm Quân đội nói riêng, trong thời gian thực tập tại MIC,
được sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo, Thạc sĩ Tô Thiên Hương và các cán bộ
Khối Tái bảo hiểm, Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Quân đội, em đã chọn đề tài:
“Năng lực nhận tái bảo hiểm tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Quân đội –
Thực trạng và giải pháp” cho Chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Mục đích
nghiên cứu của đề tài nhằm nêu bật những nét cơ bản của Tái bảo hiểm nói chung,
thực tiễn nhận tái bảo hiểm tại MIC: những kết quả đạt được cũng như tồn tại, trên
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng nhận tái tại MIC trong
thời gian tới.
Kết cấu của đề tài gồm 3 Chương :
Chương 1:Lý thuyết về tái bảo hiểm
Chương 2: Tình hình nhận tái bảo hiểm tại tổng công ty cổ phần bảo
hiểm Quân đội giai đoạn 2008 - 2012
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao khả năng nhận
tái bảo hiểm của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Quân đội
Em xin chân thành cảm ơn Cô giáo, Thạc sĩ Tô Thiên Hương đã trực tiếp
hướng dẫn em trong quá trình viết Chuyên đề và các anh chị Khối Tái bảo hiểm của
Tổng Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội đã giúp đỡ em hoàn thành Chuyên đề
này.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÁI BẢO HIỂM
VÀ NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM
I. KHÁI QUÁT VỀ TÁI BẢO HIỂM
1.1 Sự cần thiết của tái bảo hiểm
Như chúng ta đã biết, bảo hiểm cũng là một loại hình kinh doanh, và
giống như các hoạt động kinh doanh khác, bên cạnh yếu tố lợi nhuận, các công
ty bảo hiểm luôn phải chú trọng đến việc đảm bảo an toàn cho hoạt động của
doanh nghiệp mình. Để đạt được mục tiêu đó thì một trong những nguyên tắc
quan trọng luôn phải được tuân thủ trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là
nguyên tắc phân tán rủi ro. Bởi sau khi nhận các rủi ro được chuyển giao từ
người được bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những
tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù hoạt động kinh doanh bảo hiểm
hoạt động trên quy tắc số đông bù số ít để đảm bảo khả năng thanh toán của các
công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào công ty bảo hiểm
cũng luôn đảm bảo được việc chi trả bồi thường. Điều này xuất phát từ chính
đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Thứ nhất, bảo hiểm có chu kỳ kinh doanh đảo ngược, phí bảo hiểm thu trước
trong khi việc chi trả bồi thường lại phát sinh sau. Hơn nữa xác suất rủi ro lại khó
có thể dự báo một cách chính xác tuyệt đối khi tính phí bảo hiểm. Nên với trường
hợp xác suất rủi ro thực tế lớn hơn xác suất rủi ro dự báo hay có những tổn thất xảy
ra liên tục trong một thời gian dài và thậm chí có thể là những tổn thất mang tính
thảm hoạ thì chính các nhà bảo hiểm sẽ phải gánh chịu toàn bộ những rủi ro này.
Thứ hai, mặc dù kinh doanh bảo hiểm không chỉ là hoạt động nhằm đem lại
lợi nhuận cho các nhà bảo hiểm mà còn phục vụ mục đích san sẻ rủi ro giữa những
người tham gia bảo hiểm với nhau. Tuy nhiên việc quản lý những đối tượng bảo
hiểm tại nhiều địa bàn khác nhau làm hạn chế khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro,
dẫn đến dễ xảy ra tình trạng trục lợi bảo hiểm hoặc khi sự kiện bảo hiểm xảy ra dễ
để lại tổn thất lớn.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương

Thứ ba, kinh doanh bảo hiểm còn phải đáp ứng các yêu cầu pháp luật về vốn
và biên khả năng thanh toán…nhằm đảm bảo khả năng chi trả bồi thường cho người
tham gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm. Những yêu cầu đó một mặt bảo vệ lợi
ích cho người tham gia bảo hiểm, mặt khác đã hạn chế hoạt động kinh doanh của
bảo hiểm nếu một công ty khong thế đáp ứng yêu cầu về vốn khi nhận các dịch vụ
bảo hiểm có giá trị lớn.
Chính vì vậy, để bảo vệ cho chính mình trước nguy cơ phá sản, mất các khách
hàng lớn và bất ổn trong hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm sẽ phải phân
tán rủi hay chuyển giao rủi ro cho các nhà bảo hiểm khác thông qua hai hình thức:
đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm.
i, Đồng bảo hiểm: là phương thức bảo hiểm mà nhiều công ty bảo hiểm
cùng lúc nhận đảm bảo cho cùng một rủi ro.
Ưu điểm: rủi ro được phân tán nhanh do khi xảy ra tổn thất, người được bảo
hiểm có thể thu bồi thường từ các nhà tái bảo hiểm. Mặt khác, việc phân tán rủi ro
qua hình thức đồng bảo hiểm cũng đơn giản, dễ hiểu và dễ tính toán.
Nhược điểm: Việc ký kết hợp đồng gặp nhiều khó khăn và thời gian kéo dài
do người được bảo hiểm phải cùng lúc đàm phán và ký kết hợp đồng với nhiều công
ty bảo hiểm, việc này có thể ảnh hưởng đến các yếu tố về thời cơ trong kinh doanh.
Mặt khác, khi tổn thất xảy ra việc giải quyết bồi thường thường không xảy ra đồng
bộ, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người được bảo hiểm.
ii, Tái bảo hiểm: là phương thức bảo hiểm trong đó, một nhà bảo hiểm nhận
bảo hiểm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc
nhiều nhà bảo hiểm khác.
Ưu điểm: Rủi ro được phân tán nhanh do sau khi bồi thường cho người
được bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc có thể tiến hành thu bồi thường nhượng tái
bảo hiểm từ các công ty nhận tái (theo nguyên tắc thế quyền), do đó mà tránh phá
sản cho các công ty bảo hiểm gốc đặc biệt trong những trường hợp rủi ro mang tính
thảm hoạ hoặc sự kiện bảo hiểm xảy ra dồn dập, giúp ổn định hoạt động kinh doanh
của công ty.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B

Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
Nâng cao năng lực cho các công ty bảo hiểm gốc để chấp nhận các dịch vụ,
giữ được khách hàng, từ đó nâng cao uy tín cho công ty bảo hiểm gốc.
Công ty bảo hiểm gốc còn được hưởng một tỷ lệ hoa hồng nhất định từ các
nhà nhận tái bảo hiểm (chỉ áp dụng trong tái bảo hiểm theo tỷ lệ).
Ký kết hợp đồng được dễ dàng hơn, thời gian ngắn hơn.
Góp phần tăng thu ngân sách cho Nhà nước thông qua thuế do các công ty bảo
hiểm đóng góp, tăng thu ngoại tệ từ việc nhận tái bảo hiểm từ nước ngoài.
Nhà tái bảo hiểm có thể là công ty trong nước hoặc nước ngoài. Khi đó hoạt
động tái bảo hiểm sẽ diễn ra giữa nhiều tổ chức tái bảo hiểm của nhiều quốc gia.
Rủi ro được phân tán trên phạm vi rộng, việc gánh chịu tổn thất trở nên dễ dàng
hơn.
1.2 Bản chất và chức năng của tái bảo hiểm.
Bản chất của tái bảo hiểm có thể được xem như là một cơ chế phân tán rủi ro
giữa các nhà bảo hiểm với nhau trên cơ sở các hợp đồng bảo hiểm. Từ góc độ kỹ
thuật, hoạt động tái bảo hiểm cho phép các công ty bảo hiểm phân tán bớt rủi ro cho
các công ty bảo hiểm khác sau khi đã giữ lại phần rủi ro có thể đảm nhận. Mặt khác,
nhìn từ góc độ tài chính, khả năng giữ lại của một công ty bảo hiểm phụ thuộc rất
nhiều vào sức mạnh tài chính của nó. Phần vượt quá khả năng giữ lại đó cần phải
được bù đắp, hỗ trợ của các công ty nhận tái bảo hiểm.
Xuất phát từ bản chất trên mà khi xem xét chức năng của tái bảo hiểm cần
phải được nhìn nhận dưới hai góc độ.
Dưới góc độ các công ty bảo hiểm: Chức năng đối với các công ty nhượng tái
bảo hiểm là san sẻ được những rủi ro lớn do công ty mình chịu trách nhiệm, phân
tán được giữa những tổn thất lớn và những tổn thất nhỏ theo một biên độ đã dự kiến
trước. Từ đó chủ động xác định mức giữ lại và tái đi một cách hợp lý. Còn đối với
các công ty tái bảo hiểm, tái bảo hiểm có chức năng là mở rộng kinh doanh để tăng
doanh thu và ngoại tệ từ các dịch vụ nhận tái. Việc giúp ổn định kinh doanh cho
công ty bảo hiểm gốc cũng chính là giúp hoạt động kinh doanh của mình được ổn
định.

SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
Dưới góc độ Nhà nước: Bên cạnh việc tạo sự ổn định cho các công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm cũng gián tiếp giúp các doanh nghiệp, các cá nhân, các chủ thể
nền kinh tế tham gia bảo hiểm ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó đảm
bảo ổn định và sự phát triển vững chắc cho nền kinh tế trong nước. Ngoài ra, tái bảo
hiểm cũng giữ Nhà nước đảm bảo chức năng đối ngoại trong các nền kinh tế mở từ
đó đảm bảo ổn định thu ngân sách và ngoại tệ.
1.3. Các hình thức tái bảo hiểm
1.3.1 Hình thức tái bảo hiểm tạm thời
Tái bảo hiểm tạm thời là hình thức tái bảo hiểm đơn giản và cổ điển nhất.
Theo hình thức này công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải thực
hiện tái bảo hiểm và ngược lại nhà tái bảo hiểm có quyền chấp nhận hay từ chối rủi
ro đó. Thông thường mỗi loại rủi ro đem tái đi hoặc chấp nhận có thể hình thành
một hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt.
i,Thủ tục tiến hành :
Trước hết công ty nhượng thông báo cho nhà tái bảo hiểm một dịch vụ bảo
hiểm nào đó với các rủi ro có liên quan dưới hình thức là một bản chào tái bảo hiểm
với đầy đủ thông tin về đối tượng bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, số tiền bảo hiểm,
phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty nhượng, thủ tục phí tái bảo hiểm…
Khi nhận được bản chào này, nhà tái bảo hiểm nghiên cứu, xem xét và có
toàn quyền lựa chọn nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó trên cơ sở rủi ro được
đề nghị. Nếu chấp nhận, nhà tái bảo hiểm sẽ xác nhận phần tham gia của mình bằng
cách xác nhận phần tham gia và gửi lại cho công ty nhượng. Tuy nhiên trước khi
chính thức chấp nhận hay từ chối, nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu biết thêm chi tiết
khác để đánh giá rủi ro mà mình sẽ nhận như bản sao hợp đồng bảo hiểm gốc, hoặc
những chi tiết về định giá phí bảo hiểm…Và chỉ khi nào nhận được thông báo chấp
nhận của nhà tái bảo hiểm thì dịch vụ tái bảo hiểm theo hình thức tuỳ ý lựa chọn
mới coi như hoàn thành, trừ trường hợp có sự thoả thuận khác giữa hai bên. Dịch vụ
tái bảo hiểm này cũng sẽ tự động chấm dứt hiệu lực nếu đến ngày kết thúc hiêu lực

hợp đồng bảo hiểm gốc mà không có sự tái tục hợp đồng; tuy nhiên dù hợp đồng
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
bảo hiểm gốc có tái lập thì cũng không có nghĩa là nhà tái bảo hiểm buộc phải tiếp
tục nhận hợp đồng tái bảo hiểm cho thời hạn kế tiếp, mà họ có quyền lựa chọn nhận
hoặc từ chối không tham gia tiếp nữa, trừ trường hợp có những giao kết nào khác.
ii. Ưu điểm của tái bảo hiểm tạm thời:
- Giúp công ty nhượng, đặc biệt là những công ty mới thành lập còn non trẻ
và ít kinh nghiệm có thể yên tâm trong việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro
có giá trị lớn, vượt quá khả năng tài chính của họ
- Giúp công ty nhượng cân đối được khả năng tài chính của mình bởi vì công
ty nhượng tái bảo hiểm có thể chủ động tái đi những đơn vị rủi ro cần thiết, chủ
động xác định mức giữ lại hợp lý.
- Tái bảo hiểm tạm thời giúp cho công ty nhượng nhận những loại rủi ro mà có
thể không được chấp nhận trong các hợp đồng tái bảo hiểm bắt buộc truyền thống
của mình chẳng hạn như rủi ro về động đất, đình công, bạo loạn…
- Tạo điều kiện xây dựng mối quan hệ thân thiết, hợp tác cùng có lợi giữa các
công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm trên thị trường.
iii. Nhược điểm:
- Hình thức tái bảo hiểm tạm thời yêu cầu việc tiết lộ thông tin giữa các
công ty với nhau. Việc này không đảm bảo sự bí mật những thông tin có lợi cho sự
cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm gốc do công ty nhượng tái bảo hiểm phải
thường xuyên thông báo đầy đủ, chi tiết về nghiệp vụ bảo hiểm gốc
- Khi tham gia một dịch vụ bảo hiểm, công ty bảo hiểm hiểm gốc không
thể chắc chắn việc có tham gia hay không của các công ty tái bảo hiểm. Vì vậy,
công ty bảo hiểm có thể để tuột mất cơ hội bảo hiểm vào tay các công ty khác
khi không đủ điều kiện về vốn điều lệ để tham gia các dịch vụ bảo hiểm, đặc biệt
là với các rủi ro lớn.
- Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được thực hiện với
mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc buộc phải giảm bớt thủ tục phí tái bảo hiểm.

Ngoài ra khi thị trường tái bảo hiểm thế giới cung cầu đã bão hoà hay khả năng tiếp
nhận rủi ro của thị trường đã gần đạt tới mức tối đa, dày đặc…thì tái bảo hiểm theo
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
hình thức này sẽ rất bị hạn chế.
Do những ưu và nhược điểm trên, hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn
thường được áp dụng trong những trường hợp sau:
o Phát sinh các dịch vụ lớn, vượt quá giới hạn khống chế bởi hợp đồng nhận
tái bảo hiểm cố định do đó cần thiết phải thu xếp tái bảo hiểm cho phần vượt quá
này.
o Khi công ty bảo hiểm gốc muốn nhận những dịch vụ nằm ngoài phạm vi
khai thác thông thường theo yêu cầu đặc biệt của khách hàng.
o Trong trường hợp công ty bảo hiểm gốc chưa hiểu rõ về một loại rủi ro
nào đó và phải yêu cầu người nhận tái giúp đỡ. Khi đó người nhận tái sẽ là người
xác định mức phí, các điều khoản…
1.3.2 Hình thức tái bảo hiểm cố định
Tái bảo hiểm cố định là hình thức tái bảo hiểm xuất hiện sau và có kỹ thuật
khá phức tạp. Theo hình thức này công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm bắt buộc
phải thoả thuận với nhau từ trước về những rủi ro buộc phải tái đi cho nhà tái bảo
hiểm theo một hạn mức nhất định về số tiền bảo hiểm hoặc số tiền bồi thường.
Ngược lại, nhà tái bảo hiểm cũng bắt buộc phải chấp nhận toàn bộ những đơn vị rủi
ro đó.
i. Thủ tục tiến hành:
Để áp dụng được loại hình tái bảo hiểm này, trước tiên, công ty nhượng tái
bảo hiểm và các nhà nhận tái bảo hiểm phải đàm phán, thỏa thuận về các rủi ro có
thể tái đi và yêu cầu về việc tính phí, chuyển phí tái bảo hiểm, thông báo và giải
quyết tổn thất trong năm hợp đồng nhất định.
Bước tiếp theo là cam kết, điều đó có nghĩa là sau khi đã thoả thuận, hai bên
buộc mình phải cam kết với nhau theo tất cả nội dung thoả thuận
Bước cuối cùng là thực hiện cam kết. .

Về nguyên tắc mọi điều khoản trong hợp đồng đều phải bắt buộc hai bên thực
hiện. Nếu có thay đổi thì thông thường đến năm nghiệp vụ sau đó hoặc đến một kỳ
tái tục bảo hiểm thì mới có thể thay đổi.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
ii. Ưu điểm:
- Giúp công ty nhượng chủ động chấp nhận, định phí bảo hiểm cho rủi ro bảo
hiểm gốc mà không phải mất thời gian tham khảo ý kiến của nhà tái bảo hiểm, do
đó hợp đồng bảo hiểm sẽ nhanh chóng được ký kết.
- Việc nhận tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định cho phép công ty tái bảo
hiểm nhận được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời đơn lẻ.
Nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu được số phí lớn, phù hợp với quy tắc số đông,
giúp họ đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận rủi ro
mới.
- Thủ tục kí kết hợp đồng trong hình thức tái bảo hiểm này được tiến hành
nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
các công ty bảo hiểm.
iii, Nhược điểm:
- Đối với công ty nhượng còn non trẻ, mới thành lập, khả năng tài chính còn
yếu kém, thường gặp nhiều bất lợi khi thoả thuận. Mặt khác khi tái bảo hiểm theo
hình thức này, công ty nhượng phải tái đi mọi đơn vị rủi ro ngay cả đối với những
đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ nằm trong khả năng tài chính cho phép.
- Chính từ những ưu nhược điểm trên mà trong thực tế, hình thức tái bảo hiểm
cố định được áp dụng rất phổ biến trong nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau
như trong bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng không.
1.3.1 Hình thức tái bảo hiểm lựa chọn – bắt buộc
Theo hình thức này, công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả dịch
vụ mình có, ngược lại các nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà
công ty nhượng tái cho.
i, Thủ tục tiến hành:

Trước hết, công ty nhượng tính toán, rút kinh nghiệm từ những năm trước để
chọn ra những dịch vụ bảo hiểm bất lợi cho mình đem tái đi.
Sau đó, thông báo cho các nhà tái bảo hiểm và đương nhiên họ phải chấp nhận
và hợp đồng phải được kí kết.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
Nhà tái bảo hiểm có thể trao đổi lại với công ty nhượng một số vấn đề mang
tính chất kỹ thuật như quản lý rủi ro, định phí…
ii.Ưu điểm:
- Rất phù hợp với các công ty nhượng mới thành lập, khả năng tài chính còn
yếu kém, quan hệ hạn hẹp.
- Giúp công ty nhượng có thể lựa chọn những rủi ro vượt quá khả năng tự
giữ lại của mình để đem tái cho một nhà tái bảo hiểm duy nhất hay một số ít các nhà
tái bảo hiểm mà họ lựa chọn thay vì phải tái đi tất cả mọi đơn vị rủi ro như trong
hình thức tái bảo hiểm bắt buộc.
- Nhà tái bảo hiểm buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà công ty nhượng tái
cho nên công ty nhượng luôn có sự đảm bảo chắc chắn trong thu xếp tái bảo hiểm
với chi phí ít tốn kém.
- Mặt khác, nhà tái bảo hiểm cũng có điều kiện tăng thu nhập từ nguồn phí
nhận tái bảo hiểm lớn.
iii. Nhược điểm:
- Nhà tái bảo hiểm bị bất lợi do không có quyền từ chối những rủi ro mà
công ty nhượng đã lựa chọn tái.
- Hình thức này đôi khi gây ra trường hợp công ty nhượng cố tình đưa vào
hợp đồng những rủi ro không hợp lý, phí thấp… hoặc có tư tưởng ỷ lại, không chú
trọng trong khâu đánh giá rủi ro, từ đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới kết quả
kinh doanh của các công ty nhận.
- Nếu công ty nhượng gặp phải nhà tái bảo hiểm mà hoạt động kinh doanh
của họ đang trong giai đoạn khó khăn hoặc thị trường tái bảo hiểm cung vượt quá
cầu thì mức phí cũng như hoa hồng tái bảo hiểm phải thoả thuận lại, do đó phần nào

cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty nhượng.
1.4. Các phương thức tái bảo hiểm
1.4.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ
Tái bảo hiểm theo tỷ lệ là phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó trách nhiệm
của công ty nhượng và các nhà tái bảo hiểm đối với các đơn vị rủi ro được bảo hiểm
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
sẽ phân bổ theo theo tỷ lệ giữa các bên tham gia so với số tiền bảo hiểm.
Đặc điểm của phương pháp tái này là đơn giản, dễ hiểu, dễ tính toán vì quĩ bảo
hiểm và số tiền bồi thường đều được chia sẻ theo tỷ lệ mà các bên đã cam kết trên
cơ sở số tiền bảo hiểm. Ngoài ra tái bảo hiểm theo tỷ lệ rất phù hợp với các công ty
bảo hiểm còn non trẻ, mới thành lập. Tuy nhiên thủ tục phí hay hoa hồng đôi khi rất
khó thống nhất giữa các bên tham gia hợp đồng. Có hai phương pháp cơ bản là: tái
bảo hiểm số thành (quota share) và tái bảo hiểm mức dôi (surplus).
i, Tái bảo hiểm số thành:
Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ nhất định
so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại đem tái đi. Chính vì vậy, phí bảo hiểm và số
tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa các bên theo tỷ lệ tương ứng.
 Đặc điểm:
- Tất cả các đơn vị rủi ro trong bảo hiểm gốc đều phải đem tái đi theo tỷ lệ
tương ứng mà các bên đã thoả thuận.
- Nếu đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm lớn, công ty nhượng có thể tìm kiếm
nhiều nhà tái bảo hiểm khác nhau để đảm bảo phân tán rủi ro nhanh hơn, giúp công
ty ổn định kinh doanh.
- Trong tái bảo hiểm số thành các bên tham gia hợp đồng sẽ đưa ra một giới
hạn nhất định. Vượt quá giới hạn này, công ty nhượng tái bảo hiểm sẽ phải tìm
kiếm những phương án khác để tái đi phần vượt quá mức giới hạn.
 Ưu điểm:
- Là phương pháp tái bảo hiểm đơn giản, dễ tính toán, có thể áp dụng cho
những công ty bảo hiểm mới thành lập, vốn nhỏ, chưa có kinh nghiệm trên thị

trường.
- Đối với các nhà tái bảo hiểm, phương pháp này có tính cân đối và dễ chấp
nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm khác vì rủi ro phân tán dễ hơn so với các phương
pháp khác. Đặc biệt nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham gia vào mọi đơn vị rủi ro.
Đồng thời công ty nhượng hoàn toàn yên tâm khi khách hàng tham gia bảo hiểm
gốc chuyển giao rủi ro cho mình.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
- Phương pháp này có đem lại doanh thu từ hoa hồng nhượng tái bảo hiểm cho
công ty nhượng tái bảo hiểm cao nhất.
 Nhược điểm:
- Vì tất cả các đơn vị rủi ro đều đem tái đi nên công ty nhượng không giữ lại
cho mình những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm mà khả năng tài chính của mình
hoàn toàn cho phép. Do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận và doanh thu của công ty
nhượng.
- Các nhà nhận tái bảo hiểm thường không ưa thích phương pháp tái bảo
hiểm số thành do hoa hồng phải trả cho nhà nhượng luôn cao nhất trong số các
phương pháp tái bảo hiểm. Hơn nữa, việc phân chia theo tỷ lệ tối với tất cả các đơn
vị rủi ro có nghĩa là công ty nhận tái bảo hiểm phải chi trả tất cả mọi bồi thường xảy
ra trong năm hợp đồng.
- Về dài hạn, việc sử dụng hợp đồng số thành thường không đem lại hiệu quả
cao cho cả công ty nhượng lẫn công ty nhận tái bảo hiểm
ii, Tái bảo hiểm mức dôi
Theo phương pháp này, công ty nhượng giữ lại cho mình một số tiền bảo hiểm
nhất định, phần còn lại đem tái đi cho công ty khác theo các lớp của hợp đồng. Bởi
vậy phí bảo hiểm và số tiền bồi thường (nếu có) cũng được phân bổ theo tỷ lệ mỗi
bên đảm nhiệm.
 Đặc điểm:
- Với hợp đồng loại này, không phải đơn vị rủi ro nào cũng phải đem tái đi,
mà chỉ tái đi những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm vượt quá mức giữ lại. Mức giữ

lại được xác định dựa trên khả năng tài chính của công ty nhượng, xác suất rủi ro
đối với nghiệp vụ này trong những năm trước đó, mức lãi suất thu được của công ty
nhượng và tình hình kiểm soát rủi ro về nghiệp vụ đó.
- Mức giữ lại tối đa trên mỗi đơn vị rủi ro thường là bằng nhau nên công ty
nhượng luôn luôn khống chế được hạn mức trách nhiệm của mình một cách chắc
chắn.
- Tuy nhiên trong điều kiện ngày nay, đối tượng tham gia bảo hiểm thường
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
có số tiền rất lớn và rất khác nhau trên mỗi đơn vị rủi ro. Bởi vậy nếu áp dụng
phương pháp mức dôi thì số tiền còn vượt quá hạn mức hợp đồng trên mỗi đơn vị
rủi ro là không thể tránh khỏi. Để xử lý vấn đề này nhìn chung các công ty nhượng
trên thế giới thường có 3 cách: Thứ nhất có thể tiến hành đàm phán lại, nếu các nhà
tái bảo hiểm chấp nhận chúng ta lại phân bổ tiếp lần hai, lần ba…cho đến hết.
Trường hợp các nhà tái bảo hiểm không đồng ý, số tiền bảo hiểm dư thừa sẽ quay
về công ty nhượng chịu trách nhiệm toàn bộ. Ngoài ra để an toàn hơn, công ty
nhượng có thể mở một hợp đồng tạm thời.
 Ưu điểm:
- Là một trong những phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ nên phương pháp
này thuận lợi trong việc tính phí, phân chia trách nhiệm và chi trả số tiền bồi thường
trong trường hợp xảy ra tổn thất.
- Công ty nhượng thường phát huy tối đa khả năng tài chính của mình do có
thể giữ lại cho mình những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nằm trong khả năng tài
chính cho phép.
- Mặc dù là một trong những phương pháp tái bảo hiểm cổ điển nhưng lại rất
phù hợp với tất cả loại hình công ty bảo hiểm từ những công ty còn non trẻ đến
những công ty đã kinh doanh được nhiều năm.
 Nhược điểm:
- Phương pháp tái bảo hiểm mức dôi có chi phí quản lý khá tốn kém do bên
nhượng tái bảo hiểm sẽ phải thông báo mọi dịch vụ mà công ty mình khai thác được

đưa vào hợp đồng tái bảo hiểm. Bên cạnh đó, kỹ thuật sử dụng trong phương pháp
tái bảo hiểm mức dôi phức tạp hơn nhiều so với tái bảo hiểm số thành.
- Hoa hồng nhượng tái bảo hiểm khá cao, gây ảnh hưởng đến lợi nhuận cho
công ty nhận tái.
- Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mà sự biến thiên về số tiền bảo hiểm, số
tiền bồi thường quá lớn thì áp dụng phương pháp mức dôi sẽ có nhiều hạn chế rơi
vào công ty nhượng.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
iii, Tái bảo hiểm kết hợp số thành - mức dôi
Thực chất đây không phải là phương pháp tái bảo hiểm thuần tuý mà là sự kết
hợp giữa hai phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ với mục đích là nhằm phân tán rủi
ro nhanh hơn, giúp công ty nhượng dễ dàng kí kết hợp đồng hơn, phù hợp với nhu
cầu thực tiễn của ngành bảo hiểm.
Xét về mặt kỹ thuật, người ta thường áp dụng hợp đồng số thành để bảo vệ
cho phần giữ lại trong hợp đồng mức dôi. Nếu số tiền bảo hiểm vượt quá giới hạn
của hợp đồng, nhìn chung đều thuộc trách nhiệm, trừ trường hợp công ty nhượng
tìm được nhà nhận tái bảo hiểm chấp nhận ký kết hợp đồng tạm thời cho phần dôi
ra.
 Ưu điểm: Giúp công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách
nhiệm bảo hiểm cho khách hàng một cách tự do mà không ảnh hưởng đến mức giữ
lại của bản thân mình. Bên cạnh đó cũng giúp công ty nhượng kinh doanh ổn định
hơn.
 Nhược điểm: Cũng như các phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ, phương
pháp này đòi hỏi chi phí hành chính tốn kém, phức tạp hơn so với những hợp đồng
thuần tuý. Hơn nữa, hoa hồng công ty nhượng thu được từ hợp đồng mức dôi
thường thấp hơn so với hợp đồng số thành trong dạng kết hợp này và so với hợp
đồng mức dôi thuần tuý.
 Trong thực tế phương pháp kết hợp này thường được áp dụng trong các
nghiệp vụ bảo hiểm như hoả hoạn, xây dựng lắp đặt, thân tàu, hàng hóa, bảo hiểm

tai nạn và sức khoẻ.
1.4.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ là phương pháp tái bảo hiểm mà trong đó công ty
nhượng ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu
cho những tổn thất của những rủi ro được bảo hiểm, phần tổn thất vượt quá giới hạn
đó được chuyển cho các nhà tái bảo hiểm gánh chịu.
 Đặc điểm:
- Trách nhiệm của các bên đối với mỗi tổn thất không phân chia theo số tiền
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
bảo hiểm mà theo số tiền bồi thường. Tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm
giữa các bên là số tiền bồi thường.
- Công ty nhượng phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất bằng
hoặc dưới mức giữ lại và số tiền bồi thường được gọi là “mức tự bồi thường”.
- Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch, phần này
được tính từ mức tự bồi thường trở lên. Tuy nhiên nếu trong một hợp đồng có nhiều
nhà tái bảo hiểm thì các nhà tái bảo hiểm cũng tự giới hạn trách nhiệm của mình
trước khi kí kết hợp đồng.
- Tái bảo hiểm phi tỷ lệ cũng có hai phương pháp cơ bản là tái bảo hiểm vượt
mức bồi thường và tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường.
i, Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường
Theo phương pháp này, công ty nhượng tái bảo hiểm áp dụng một mức giữ lại
là giới hạn bồi thường đối với tất cả các nghiệp vụ. Mối quan hệ giữa các công ty ở
đây liên quan trực tiếp tới mức tự bồi thường của công ty nhượng và các mức giới
hạn trách nhiệm của các nhà tái bảo hiểm.
 Trình tự thu xếp tái bảo hiểm vượt mức bồi thường: Công ty nhượng sau
khi ký kết hợp đồng bảo hiểm gốc với người được bảo hiểm sẽ tìm kiếm nhà nhận
tái bảo hiểm cho phần trách nhiệm bồi thường vượt quá mức giữ lại của mình. Nếu
như có nhiều bên nhận tái tham dự hợp đồng, trách nhiệm của những nhà nhận tái
có thể được xếp thành các lớp. Các lớp chính là mức nhận của mỗi nhà tái bảo

hiểm, tương tự như trong tái bảo hiểm mức dôi, trách nhiệm bồi thường của các nhà
nhận tái bảo cũng được xếp theo thứ tự lần lượt. Các nhà nhận tái của lớp sau chỉ
bồi thường nếu thiệt hại phải bồi thường vẫn tồn tại khi người nhận lớp trước đã
hoàn thành trách nhiệm của mình. Hoặc các nhà nhận tái có thể nhận theo một tỷ lệ
nhất định tại tất cả các lớp của hợp đồng, như vậy khi phát sinh trách nhiệm bồi
thường, phần trách nhiệm của từng nhà nhận tái bảo hiểm sẽ được phân chia theo
các lớp trách nhiệm của hợp đồng, sau đó sẽ tính theo tỷ lệ tham gia cho các lớp của
từng công ty nhận tái bảo hiểm.
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
 Đặc điểm:
- Thứ nhất, quan hệ giữa các bên phải theo một trật nhất định không được
thay đổi và mức bồi thường cao nhất của mỗi bên là cố định.
- Thứ hai, mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm gốc và các nhà nhận tái
bảo hiểm theo phương pháp này chỉ thông qua số tiền bồi thường, không qua số
tiền bảo hiểm.
- Thứ ba, phí tái bảo hiểm được tính toán trên cơ sở hạn mức trách nhiệm mà
mỗi bên đảm nhận, xác suất rủi ro liên quan đến từng bên, thời điểm kí kết hợp
đồng và thời hạn của hợp đồng liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm.
- Thứ tư, công ty tái bảo hiểm thuộc lớp nào thì khi tổn thất xảy ra sẽ bồi
thường theo lớp đó. Vì vậy các khoản phí tạm giữ, các khoản bồi thường tạm giữ,
trả ngay… hoàn toàn do sự thoả thuận giữa công ty nhượng với các lớp. Trong
phương pháp tái bảo hiểm này, công ty nhượng ngay từ đầu năm nghiệp vụ phải đặt
cọc cho các nhà tái bảo hiểm một số tiền nhất định gọi là phí đặt cọc. Về cơ bản phí
đặt cọc được tính toán dựa vào những cơ sở nói trên. Nếu năm đó tổn thất không
xảy ra công ty nhượng cũng không có quyền đòi lại số phí đặt cọc này. Ngược lại,
nếu tổn thất xảy ra quá lớn, có thể hai bên phải tính toán thêm một mức phí điều
chỉnh để đảm bảo hài hoà lợi ích giữa các bên.
- Thứ năm, công ty nhượng khi đàm phán kí kết hợp đồng với các nhà tái bảo
hiểm cần phải xét đến thế mạnh của mỗi nhà tái bảo hiểm theo từng nghiệp vụ. Vì

thế mạnh của họ giúp công ty nhượng học hỏi kinh nghiệm về đánh giá và tính toán
số tiền đặt cọc, quản lý rủi ro và mối quan hệ trên thị trường bảo hiểm nói chung.
- Thứ sáu, phí tái bảo hiểm vượt mức bồi thường thường được chia làm hai
phần: phí đặt cọc và phí điều chỉnh (ngoài ra còn có phí tối thiểu, là phí bảo hiểm
tối thiểu mà nhà nhận tái bảo hiểm sẽ nhận đươc khi kí kết hợp đồng tái bảo hiểm –
thường trùng với phí đặt cọc).
 Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường gồm:
a. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường cho mỗi đơn vị rủi ro (Risk)
Là một dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ với mức tự bồi thường được áp dụng trên
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
cơ sở từng đơn vị rủi ro và cũng chia làm hai hình thức:
b. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường cho thảm hoạ (Event)
Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ để bảo vệ cho công ty nhượng tránh được
những trường hợp tổn thất đối với những sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát bảo
hiểm thông thường. Mục đích trước hết của loại đảm bảo này là bảo vệ đối với sự
tích tụ hay kết gộp nhiều tổn thất xảy ra từ cùng một sự cố hay sự việc có tính chất
thật thảm họa.
Hạn mức bồi thường mà xuất phát từ đó các nhà tái bảo hiểm chịu trách nhiệm
có thể thay đổi tuỳ thuộc một phần vào khả năng tài chính về mức tự bồi thường của
công ty nhượng, nhưng thông thường loại tái bảo hiểm này dùng để bảo vệ trong
trường hợp sự cố xảy ra có liên quan từ hai đơn vị rủi ro được bảo hiểm trở lên.
Trên thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm thế giới, dạng tái bảo hiểm này được sử
dụng rất rộng rãi trong tất cả các loại nghiệp vụ bảo hiểm.
Các tổn thất mang tính thảm hoạ có thể là rủi ro thiên tai như động đất, sóng
thần, lũ lụt .Trong một số trường hợp đó là những tổn thất của một sự cố có liên
quan đến nhiều loại nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau do cùng một công ty bảo hiểm
đảm nhận.
ii, Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường
Phương pháp này cũng áp dụng một giới hạn bồi thường đối với các công ty

nhận tái nhưng thay vì chọn giới hạn là một giá trị cụ thể, hợp đồng này ấn định
giới hạn bồi thường là một tỷ lệ bồi thường của hợp đồng, tính trên tỷ lệ giữa tổng
số tiền bồi thường và tổng số phí gốc thực thu (tính cho cả năm nghiệp vụ). Theo
đó, nếu việc bồi thường của công ty nhượng vượt quá tỷ lệ bồi thường được quy
định trước này, thì các nhà nhận tái bảo hiểm sẽ có trách nhiệm chi trả bồi thường
cho phần vượt quá. Tỷ lệ bồi thường thường do hai bên tự thoả thuận trước, và được
xác định trên cơ sở doanh thu phí hàng năm của công ty bảo hiểm gốc, tình hình tổn
thất của loại hình nghiệp vụ được bảo vệ, hoa hồng và các chi phí khác.
Mục đích của dạng tái bảo hiểm này là bảo vệ công ty nhượng trước những sự
cố hoặc thảm hoạ xảy ra trong một thời gian ngắn nào đó.Sử dụng hình thức tái bảo
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
hiểm vượt tỷ lệ bồi thường, những nhà bảo hiểm gốc có thể giữ cho kết quả tài
chính của năm nghiệp vụ được ổn định ở mức độ cần thiết. Tuy nhiên, hạn chế của
tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường là ở chỗ khi áp dụng hình thức này người nhận
tái có thể phải gánh chịu toàn bộ sai sót của người bảo hiểm gốc khi đánh giá, chấp
nhận, quản lý rủi ro và định phí bảo hiểm gốc.
1.4.3 Tái bảo hiểm kết hợp:
Có thể thấy, thị trường bảo hiểm đang có những bước tiến nhanh và mạnh
trong vài năm gần đây. Các công ty nhượng cũng như những công ty nhận tái bảo
hiểm không chỉ dừng lại ở một phương pháp tái bảo hiểm thuần tuý là số thành hay
vượt mức bồi thường…Để đảm bảo kinh doanh an toàn trong điều kiện tổn thất diễn
biến ngày một thất thường và đối tượng tham gia bảo hiểm có giá trị ngày càng
cao…các công ty bảo hiểm có thể sử dụng các phương thức tái bảo hiểm kết hợp
nhằm đem lại hiệu quả cao hơn và an toàn hơn. Các hợp đồng dạng kết hợp có thể
là hợp đồng kết hợp số thành – vượt mức bồi thường, hợp đồng kết hợp mức dôi –
vượt mức bồi thường… nhằm đem lại hiệu quả cho cả công ty nhượng và công ty
nhận tái bảo hiểm.
II. NĂNG LỰC NHẬN TÁI BẢO HIỂM CỦA DOANH NGHIỆP BẢO
HIỂM

2.1. Năng lực nhận tái bảo hiểm
Khái niệm: Năng lực nhận tái là khả năng của một doanh nghiệp bảo hiểm
có thể chấp nhận các đơn vị rủi ro từ phía công ty nhượng, tối ưu hoá mức giữ
lại trên cơ sở đánh giá rủi ro và tiềm lực của công ty trên thị trường.
Trước khi chào tái bảo hiểm cho các công ty khác, các công ty nhượng tái bảo
hiểm đều phải tiến hành một quá trình tìm hiểu kỹ lưỡng về năng lực nhận tái của
từng công ty tái trên thị trường, xem các công ty này có khả năng thanh toán bồi
thường khi hợp đồng bảo hiểm hay hợp đồng nhận tái bảo hiểm gặp rủi ro gây tổn
thất. Đây là điều đương nhiên cần thiết đối với bên nhượng tái bảo hiểm, đặc biệt
khi họ là công ty bảo hiểm gốc. Vì trong trường hợp các công ty nhận tái bảo hiểm
không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với công ty bảo hiểm gốc vì một lý do nào
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
đó, công ty bảo hiểm gốc vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với người được
bảo hiểm, nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Theo các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới đánh giá thì các công ty nhận
tái bảo hiểm hàng đầu đã được phân loại như sau:
TT Tên công ty Xếp hạng của
S&P
Xếp hạng của
AM best
1 Munich Re (Đức) AAA A++
2 Swiss Re (Thuỵ Sĩ) AA- A+
3 Hannover Re (Mỹ) AA- A+
4 Lloyd’s (Anh) A+ A
5 Korean Re (Hàn Quốc) A- A
Vậy đâu là những tiêu chí chính để đánh giá năng lực nhận tái của một doanh
nghiệp bảo hiểm được các công ty nhượng lựa chọn?
2.2 Các yếu tố đánh giá năng lực nhận tái bảo hiểm
2.2.1 Khả năng tài chính

Khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và doanh nghiệp tái
bảo hiểm nói riêng được nhìn nhận qua chỉ tiêu về vốn và khả năng thanh toán. Tuy
nhiên khác với các loại hình doanh nghiệp thông thường hoạt động chủ yếu bằng
hai nguồn vốn: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay thì đối với doanh nghiệp
bảo hiểm nguồn vốn đó bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả (như phải
trả về chi bồi thường, chi hoa hồng, chi đánh giá rủi ro đối tượng bảo hiểm…).
Doanh nghiệp bảo hiểm thường không thể tìm cách chiếm dụng các khoản nợ phải
trả để tăng vốn kinh doanh của mình do phải có trách nhiệm giải quyết bồi thường
nhanh chóng, đầy đủ cho khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, nhằm mục
đích giúp tăng tính hữu hình cho sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp trên thị
trường. Theo đó, khi đánh giá về khả năng tài chính, người ta thường xét đến nguồn
vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bảo hiểm đó mà thôi.
i, Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ được góp khi thành lập doanh
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
nghiệp, các quỹ và các khoản lãi tích luỹ.
Vốn điều lệ là vốn ghi trong điều lệ doanh nghiệp được góp khi thành lập
doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm
luôn duy trì mức vốn điều lệ đã góp không được thấp hơn mức vốn pháp định.
Trong quá hoạt động, khi cần tăng vốn, tuỳ theo loại hình doanh nghiệp mà có các
phương thức tăng vốn khác nhau, đối với doanh nghiệp Nhà nước thì là nguồn cấp
bổ sung của Nhà nước, với công ty cổ phần thì có thể phát hành cổ phiếu để huy
động vốn…
Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, yêu cầu về vốn pháp
định quy định tại Điều 4 Nghị định 46/2007/NĐ-CP như sau: “Mức vốn pháp định
của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là 300 tỷ đồng Việt Nam, kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ là 600 tỷ đồng Việt Nam.”
Tuy nhiên để có khả năng tài chính mạnh, từ đó mở rộng kinh doanh, các
doanh nghiệp bảo hiểm thường có vốn lớn hơn rất nhiều so với vốn pháp định.

ii. Khả năng thanh toán
Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự an toàn của DNBH là khả năng thanh
toán của doanh nghiệp đó. Một DNBH có năng lực nhận tái tốt là khi luôn tiến hành
bồi thường đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời đối với dịch vụ bảo hiểm gốc cũng như
đối với các hợp đồng nhận tái bảo hiểm mỗi khi có sự cố. Để làm được điều đó,
DNBH phải luôn duy trì khả năng thanh toán, là một chỉ tiêu bắt buộc phải báo cáo
định kỳ với các cơ quan quản lý nhà nước. DNBH được coi là đủ khả năng thanh
toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và có biên khả năng
thanh toán không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu và phải luôn duy trì
khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch
giữa giá trị tài sản có và các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm.
Biên khả năng thanh toán tối thiểu được quy định tuỳ thuộc vào điều kiện của
từng nước cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, theo quy định tại điều 16 Nghị định
46/2007/NĐ-CP, biên khả năng thanh toán tối thiểu của DNBH phi nhân thọ phải
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
lớn hơn một trong 2 chỉ tiêu sau: 25% tổng phí bảo hiểm thực giữ lại hoặc 12,5%
của tổng phí bảo hiểm gốc và phí nhận tái bảo hiểm tại thời điểm tính biên khả năng
thanh toán.
Ngoài ra còn có hai chỉ tiêu khác về khả năng thanh toán để phán ánh khả
năng thanh toán tiền bồi thường cho khách hàng là:
Tổng tài sản lưu động
Tỷ số thanh toán hiện tại =
Tổng nợ ngắn hạn

Với tài sản lưu động gồm có tiền (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng); các khoản đầu
tư tài chính ngắn hạn (mua cổ phiếu, trái phiếu), các khoản phải thu khách hàng (thu
phí nhận tái bảo hiểm, thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm, thu hoa hồng nhượng
tái bảo hiểm…) và các tài sản lưu động khác. Nợ ngắn hạn bao gồm các khoản phải

trả cho người bán như chi hoa hồng nhận tái bảo hiểm, chi bồi thường nhận tái bảo
hiểm…, các khoản về dự phòng nghiệp vụ và các khoản phải trả khác.
Tỷ số này cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi để
đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Nói cách khác, đây là chỉ tiêu
đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong kinh doanh nhất là đảm bảo khả năng
thanh toán, DNBH cần phải có cơ cấu vốn đầu tư hợp lý để đáp ứng yêu cầu về tiền
mặt trong quá trình bồi thường hoặc chi trả. Các DNBH bị quản lý và giám sát chặt
chẽ khả năng thanh toán để đáp ứng các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm đối với
bên mua bảo hiểm.
2.2.2 Quan hệ hợp tác kinh doanh trên thị trường
Khác với kinh doanh bảo hiểm gốc, đòi hỏi sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà
bảo hiểm với nhau. Trong thị trường tái bảo hiểm, các doanh nghiệp cần có mối
quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhau. Khi một doanh nghiệp kinh doanh tái bảo hiểm
có mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp khác trên thị trường đặc biệt là các công ty
bảo hiểm hàng đầu trong việc trao đổi dịch vụ nhận và nhượng tái bảo hiểm chứng
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
tỏ đây là một doanh nghiệp có uy tín cao, và có thể đặt niềm tin vào họ khi chuyển
nhượng tái bảo hiểm. Bởi vì, khi chuyển nhượng tái bảo hiểm cho công ty nhận tái
bảo hiểm, công ty nhượng luôn tin rằng luôn có những nhà tái bảo hiểm có năng lực
tài chính cao trên thị trường đứng sau những công ty này, nên việc bồi thường khi
tổn thất xảy ra là hoàn toàn không đáng lo ngại.
Mặt khác, việc nhận và nhượng tái bảo hiểm thực chất cũng là một hình thức
trao đổi dịch vụ giữa các công ty bảo hiểm. Bởi vậy, khi công ty nhượng tiến hành
chuyển tái bảo hiểm cho công ty nhận và có mối quan hệ làm ăn tốt thì khả năng
công ty đã nhận tái lúc trước sẽ lại trở thành công ty nhượng, và nhượng lại cho họ
những dịch vụ tốt mà họ khai thác được từ năng lực bản thân cũng như từ các mối
quan hệ kinh doanh. Như vậy có thể thấy rằng việc tạo lập các mối quan hệ kinh
doanh tốt cũng như không ngừng mở rộng hợp tác với các đối tác chiến lược trên thị

trường trong và ngoài nước là hết sức quan trọng trong việc thu hút dịch vụ từ các
nhà nhượng tái bảo hiểm.
2.2.3 Trình độ chuyên môn của cán bộ tái bảo hiểm.
So với mảng kinh doanh bảo hiểm gốc, các cán bộ làm việc trong về tái bảo
hiểm có yêu cầu cao hơn về kiến thức và nghiệp vụ. Bởi ngoài những kiến thức
cũng như kinh nghiệm về tái bảo hiểm trong việc lựa chọn hình thức, phương thức
tái bảo hiểm, cấu trúc mức giữ lại của hợp đồng, tỷ lệ hoa hồng nhận và nhượng
tái…thì cán bộ làm tái bảo hiểm cũng cần nắm vững nghiệp vụ bảo hiểm gốc và
công tác đánh giá rủi ro, quản trị rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất…để từ đó có
những đóng góp với công ty nhượng về kiểm soát rủi ro. Mặt khác, tái bảo hiểm là
nghiệp vụ mang tính chất quốc tế, nên với những am hiểu về thị trường bảo hiểm và
tái bảo hiểm trong nước thôi là chưa đủ, họ còn luôn phải cập nhật những diễn biến
về doanh thu cũng như tình hình tổn thất trên thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm
quốc tế.
Chính vì vậy, một DNBH có một đội ngũ cán bộ tái bảo hiêm dày dặn kinh
nghiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao sẽ luôn được ưu tiên trong danh sách
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B
Chuyên đề thực tâp tốt nghiệp GVHD: ThS. Tô Thiên Hương
các công ty nhận tái dịch vụ bảo hiểm của các công ty nhượng.
2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực nhận tái của MIC
Thị trường bảo hiểm Việt Nam thật sự hoạt động theo cơ chế thị trường mới
chỉ hơn 15 năm nên tiềm năng khai thác là còn vô cùng lớn. Nhu cầu bảo hiểm của
xã hội ngày một tăng lên, giá trị bảo hiểm của các đối tượng ngày càng là những
thuận lợi lớn cho thị trường bảo hiểm. Tuy nhiên, trước tốc độ tăng trưởng doanh
thu phí nhận tái cũng như mức giữ lại của MIC còn chưa tương xứng với tiềm năng
phát triển của thị trường bảo hiểm, tái bảo hiểm. Để khai thác hiệu quả nguồn doanh
thu từ hoạt động nhận tái, việc nâng cao năng lực nhận tái trong giai đoạn sắp tới là
một yêu cầu hết sức cấp thiết với MIC.
Các công ty bảo hiểm trên thị trường đều đang có xu hướng gia tăng nguồn
vốn trong doanh nghiệp nên các DNBH gốc đều tăng mức giữ lại do đó lượng dịch

vụ chuyển sang MIC tăng không đáng kể so với tốc độ tăng trưởng chung của thị
trường. Do vậy MIC cần mở rộng quan hệ với các công ty nhượng tái cả trong và
ngoài nước để gia tăng nguồn thu phí nhận tái bảo hiểm, giúp hoạt động của công ty
đi vào ổn định.
Mặt khác do tình trạng cạnh tranh giảm phí diễn ra một cách chóng mặt, nhiều
nghiệp vụ tỷ lệ phí đã giảm xuống chỉ còn 0,03% – 0,04% gây ảnh hưởng lớn đến
doanh thu phí bảo hiểm gốc, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu phí nhận tái bảo hiểm
của MIC. Bởi với những trường hợp các dịch vụ có tỷ lệ phí thấp hoặc điều kiện
bảo hiểm mở rộng không hợp lý MIC đã kiên quyết từ chối nhận tái bảo hiểm. Và
một thực tế đáng lo ngại là hầu hết các dịch vụ xấu này đang được thu xếp trong thị
trường nội địa giữa các công ty bảo hiểm trong nước với nhau do không thể chào tái
ra nước ngoài. Nếu tổn thất đồng loạt xảy ra thì khả năng tài chính của toàn thị
trường sẽ có nguy cơ sụp đổ. Tuy nhiên biện pháp mà MIC lựa chọn là từ chối chấp
nhận tái bảo hiểm về lâu dài không phải là giải pháp tối ưu. Chính vì vậy MIC cần
nỗ lực nhiều hơn để nâng cao năng lực nhận tái cũng như việc tư vấn, hỗ trợ các
DNBH gốc trong quy trình khai thác dịch vụ.
Một lý do quan trọng khác phải nâng cao năng lực nhận tái của MIC nữa là bắt
SV: Mai Thị Yến Lớp: Kinh tế Bảo hiểm 51B

×