Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: - Ban giám hiệu trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
• Ban chủ nhiệm khoa Kế Hoạch & Phát Triển
Tên tôi là : Nguyễn Thế Anh
Mã SV : CQ500046
Sinh viên lớp : Kinh Tế Phát Triển A
Chuyên ngành : Kinh Tế Phát Triển
Khoa : Kế Hoạch & Phát Triển
Khóa : 50
Sau một thời gian thực tập ở Ban phát triển nhân lực và xã hội, Viện chiến
lược phát triển (thuộc Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư) được sự hướng dẫn của Ths. Phí
Thị Hồng Linh và sự giúp đỡ của các cán bộ Ban phát triển nhân lực và xã hội tôi
đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng
cuộc sống cho lao động nông thôn di cư vào TP. Hà Nội giai đoạn 2012-2017”.
Tôi viết lời cam đoan này để khẳng định những nội dung sau:
Thứ nhất, đây là đề tài do tôi lựa chọn sau một khoảng thời gian thực tập dựa
trên sự nghiên cứu tài liệu và phát hiện vấn đề của bản thân, cùng với sự hướng dẫn
của giáo viên và sự giúp đỡ của các cán bộ tại Ban.
Thứ hai, các số liệu sử dụng trong chuyên đề thực tập được cung cấp bởi cơ
quan thực tập, các số liệu đó là hoàn toàn đúng sự thật, tuyệt đối không sao chép từ
bất kỳ tài liệu, luận văn nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước nhà Trường và ban chủ nhiệm Khoa về lời cam
đoan này.
Ngày 14 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thế Anh
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực tập, thực hiện và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp, nhận
được sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn Ths. Phí Thị Hồng Linh, các cán
bộ Ban phát triển nhân lực và xã hội, Viện chiến lược phát triển đã có những ý kiến
góp ý bổ ích để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp: “ Giải pháp nâng cao chất
lượng cuộc sống cho lao động nông thôn di cư vào TP. Hà Nội giai đoạn 2012-
2017”.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến giáo viên hướng dẫn Ths. Phí Thị
Hồng Linh, toàn thể cán bộ Ban phát triển nhân lực và xã hội, Viện chiến lược phát
triển.
Đề tài được thực hiện với nhiều sự cố gắng của bản thân, song do kiến thức
có hạn, kinh nghiêm thực tế còn thiếu nên khi phân tích không tránh khỏi sai sót.
Kính mong nhận được sự ủng hộ, góp ý của các thầy, cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
MỤC LỤC
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Hiện tượng di cư hiện nay không còn là hiện tượng mới mẻ, ngày càng nhiều
các dòng người di cư trong nước từ những vùng nông thôn lên thành thị, từ vùng
này sang vùng khác, hay di cư quốc tế từ nước này sang nước khác . Ở Việt Nam
Chính sách Đổi năm mới 1986 đã làm thay đổi mạnh mẽ tiến trình phát triển kinh
tế - xã hội, đưa đất nước từ một nền kinh tế mang tính chất tự cung, tự cấp; tập
trung bao cấp sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần với nhiều hình
thức sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự xuất
hiện ngày càng nhiều của các khu công nghiệp, khu chế xuất ở các thành phố lớn
đòi hỏi nguồn lực lao động dồi dào để đáp ứng quá trình sản xuất diễn ra liên tục và
đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, sự khác biệt về điều kiện sống giữa các vùng miền là
động lực khiến càng ngày càng nhiều người dân di cư, nhất là lao đọng di cư nông
thôn thành thị. Trong vòng 20 năm trở lại đây, Việt Nam đã trải qua giai đoạn phát
triển kinh tế xã hội một cách nhanh chóng các đô thị lớn ngày càng nhiều và mở ra
nhiều cơ hội cho người lao động. Quan trọng hơn hết là ở các đô thị lớn, người dân
có nhiều cơ hội tìm kiếm những công việc phù hợp để cải thiện kinh tế gia đình.
Thu nhập của mỗi gia đình ở nông thôn được nâng cao sẽ từng bước rút ngắn lại
khoảng cách giàu ghèo, góp phần thực hiện tốt công bằng và an sinh xã hội. Vì thế
mà các chuyên gia nhận định rằng di cư vừa là động lực thúc đẩy lại vừa là kết quả
của quá trình phát triển trên mọi lĩnh vực của một quốc gia.
Thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị của cả nước ngày càng
thu hút dòng người di cư đổ về. Họ là những người đóng góp không nhỏ và sự tăng
trưởng của thành phố, tạo ra diện mạo mới cho Thủ đô nói riêng và cho Việt Nam
nói chung.
Vai trò của người dân lao động là không thể phủ nhận song chất lượng cuộc
sống lại chưa được đảm bảo đúng mực thậm chí còn thấp hơn so với mặt bằng
chung của xã hội. Nhiều trường hợp người lao động bị đối xử bất công bằng, thậm
chí bị từ chối trả lương và không nhận được sự giúp đỡ từ những cơ quan có thầm
quyền. Đời sống vật chất và tinh thần của họ khá vất vả, bấp bênh. Đó là chưa kể
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
đến đa phần trong số họ không được quan tâm đến việc nâng cao sức khỏe trong khi
phải làm việc trong môi trường khắc nghiệt, nhiều rủi ro và tiềm ẩn nhiều nguy cơ
bệnh tật. Đa số họ không có hợp đồng lao động và theo thống kê chính thức thì có
tới 90% người lao động không được đóng BHXH.
Nhận thấy những gì mà người lao động được hưởng chưa xứng tầm với
những đóng góp của họ cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bài
khóa luận này muốn tìm hiều, đánh giá và đề ra:
“ Giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống cho lao động nông thôn di cư
vào TP. Hà Nội giai đoạn 2012-2017”
Mục tiêu của đề tài: Mục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu chất lượng cuộc
sống của lao động nông thôn di cư vào TP Hà Nội nhằm nghiên cứu và phân tích
những nguyên nhân dẫn đến chất lượng cuộc sống của lao động di cư chưa được
cao, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị để nâng cao đời sống của người di cư.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu lao động nông
thôn di cư vào TP Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: TP Hà Nội
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2000 đến 2012
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, dự báo, thu thập xử lý thông tin, duy
vật biện chứng,thống kế mô tả, so sánh, tổng hợp.
Kết cấu đề tài: Đề tài nghiên cứu bao gồm 3 chương
Chương I: Cơ sở lý thuyết chung về nâng cao chất lượng cuộc sống cho
lao động nông thôn di cư.
Chương II: Thực trạng chất lượng cuộc sống lao động nông thôn di cư
vào TP Hà Nội đến năm 2011.
Chương III: Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao chât lượng cuộc
sống cho lao động nông thôn di cư vào TP Hà Nội giai đoạn 2012- 2017.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG LAO ĐỘNG NÔNG THÔN DI CƯ.
1. Lý thuyết chung:
1.1 Khái niêm :
1.1.1 Khái niệm về mức sống:
Mức sống là một khái niệm rất phức tạp và phong phú. Hiện nay có nhiều
định nghĩa khác nhau về mức sống.
Theo đại từ điển Tiếng Việt năm 1994 cho rằng: Mức sống là khái niêm chỉ
mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Mức sống được thể hiện ở khối
lượng các dịch vụ, vật phẩm kể từ laoij thiết yếu nhất về ăn, ở mặc, đi lại, bảo về
sức khỏe, cho tới những nhu cầu cao nhất liên quan đến thỏa mã các đòi hỏi tinh
thần, đạo đức, thẩm mỹ.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 1999 cho rằng: mứa sống là mức đath được
trong chi dùng, hướng thụ các điều kiện vật chất, tinh thần.
Theo từ điển từ và ngữ Việt Nam, năm 2006: mức sống là điều kiện cao thấp
của sự sinh hoạt hằng ngày.
Theo Các Mác: “ Mức sống không chỉ là sự thỏa mã những nhu cầu của đời
sóng vật chất mà cả cá nhu cầu nhất định được sản sinh ra bơi chính những điều
kiện mà trong đó con người đang sống và trưởng thành”
Tổng hợp những khái niệm trên, chúng ta có thể quan niệm về mức sống là
sự thỏa mẫn những nhu cầu về mặt vật chất, tinh thần của con người, mức sống
càng cao thì còn người có khả năng lựa chọn việc phát triển cá nhân và hương thụ
các giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội tạo ra.
1.1.2 Khái niệm về chất lượng cuộc sống:
Chất lượng cuộc sống (Quality of life) là một khái niệm rộng, đã từng được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và được đo bằng nhiều tiêu chí khác nhau. Chất
lượng cuộc sống thường được lưu ý phân biệt với mức sống. Mức sống là thước đo
về phúc lợi vật chất còn chất lượng cuộc sống là thước đo cả về phúc lợi vật chất và
giá trị tinh thần.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
Trong các tác phẩm của C.Mác hay của các nhà kinh tế chính trị cổ điển khác
như A.Smith, D.Ricardo, R.Malthus, J.S.Mill đã có tư tưởng mở rộng và đề cao
các giá trị về chất lượng cuộc sống của con người. Chất lượng cuộc sống như là
mục đích trong việc tạo điều kiện thuận lợi giúp con người có một cuộc sống vật
chất và tinh thần phong phú.
Theo R.C.Sharma thì chất lượng cuộc sống là một khái niệm phức tạp, nó
đòi hỏi sự thỏa mãn cộng đồng chung xã hội, cũng như những khả năng đáp ứng
được nhu cầu cơ bản của chính bản thân xã hội. Trong tác phẩm nổi tiếng “Dân số,
tài nguyên, môi trường và chất lượng cuộc sống”, ông đã định nghĩa: “Chất lượng
cuộc sống là sự cảm giác được hài lòng (hạnh phúc hoặc thỏa mãn) với những nhân
tố của cuộc sống, mà những nhân tố đó được coi là quan trọng nhất đối với bản thân
một con người. Thêm vào đó, chất lượng là sự cảm giác được hài lòng với những gì
mà con người có được. Nó như là cảm giác của sự đầy đủ hay là sự trọn vẹn của
cuộc sống” . Theo R.C.Sharma thì mức sống của mỗi cá nhân, gia đình và cộng
đồng xã hội được coi là yếu tố quan trọng để tạo ra chất lượng cuộc sống.
Trong xã hội hiện đại, khái niệm chất lượng cuộc sống thường được đồng
nhất với khái niệm thoải mái tối ưu. Trong đó, mối quan tâm chính của việc nâng
cao chất lượng cuộc sống là tạo ra một trạng thái thoải mái về vật chất và tinh thần,
là tăng cường thời gian nghỉ ngơi. Sự tối ưu hóa mức độ thoải mái được thể hiện
trong sự đa dạng hóa các sản phẩm tiêu dùng mà mỗi cộng đồng xã hội, mỗi gia
đình hay mỗi cá nhân có được.
Nội dung khái niệm chất lượng cuộc sống đã được Wiliam Bell mở rộng toàn
diện hơn. Theo ông, chất lượng cuộc sống thể hiện ở 12 đặc trưng:
(1) An toàn thể chất cá nhân
(2) Sung túc về kinh tế
(3) Công bằng trong khuôn khổ pháp luật
(4) An ninh quốc gia được đảm bảo
(5) Bảo hiểm lúc già yếu và ốm đau
(6) Hạnh phúc về mặt tinh thần
(7) Sự tham gia của mỗi cá nhân vào đời sống xã hội
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
(8) Bình đẳng về giáo dục, y tế
(9) Chất lượng đời sống văn hóa
(10) Quyền tự do công dân
(11) Chất lượng môi trường kỹ thuật
(12) Chất lượng môi trường sống và khả năng chống ô nhiễm
Trong đó, ông nhấn mạnh nội dung “An toàn” và đã khẳng định chất lượng
cuộc sống được đặc trưng bằng sự an toàn trong một môi trường tự nhiên trong lành
và môi trường xã hội lành mạnh.
Để định lượng khái niệm chất lượng cuộc sống, ở Thái Lan đã xây dựng 37
chỉ tiêu phản ánh các nội dung cốt lõi của chất lượng cuộc sống là ăn, mặc, nhà ở và
môi trường, sức khỏe, giáo dục và thông tin, an toàn, việc làm. Từ đó, đưa ra tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng cuộc sống theo 3 mức: yếu kém (1 sao), trung bình (2
sao) và khá (3 sao).
Như vậy, có thể hiểu chất lượng cuộc sống là sự phản ánh, sự đáp ứng những
nhu cầu của xã hội, trước hết là nhu cầu về vật chất cơ bản tối thiểu của con người.
Mức đáp ứng đó càng cao thì chất lượng cuộc sống càng cao. Bên cạnh đó, chất
lượng cuộc sống còn được gắn liền với môi trường và sự an toàn của môi trường.
Một cuộc sống sung túc là một cuộc sống được đảm bảo bởi những nguồn lực cần
thiết như cơ sở hạ tầng hiện đại, các điều kiện vật chất và tinh thần đầy đủ. Đồng
thời, con người phải được sống trong một môi trường tự nhiên trong lành, bền vững,
không bị ô nhiễm; một môi trường xã hội lành mạnh và bình đẳng, không bị ảnh
hưởng bởi các vấn nạn xã hội.
Từ những phân tích trên, chúng tôi có thể quan niệm về chất lượng cuộc
sống như sau: chất lượng cuộc sống là một chỉ số tổng hợp thể hiện về trí tuệ, tinh
thần và vật chất của con người, là mục tiêu phấn đấu nhằm đáp ứng sự phát triển
bền vững của mọi quốc gia. Chất lượng cuộc sống càng cao thì con người càng có
nhiều khả năng lựa chọn trong việc phát triển cá nhân và trong hưởng thụ các giá trị
vật chất và tinh thần mà xã hội đã tạo ra.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
1.2 Các tiêu chí đánh giá chất lượng cuộc sống:
1.2.1. Các tiêu chí về kinh tế:
1.2.1.1 Thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình
Thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình là toàn bộ tiền và hiện vật
mà hộ và thành viên của hộ nhận được trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là một năm), bao gồm:
+ Thu từ tiền công, tiền lương.
+ Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
+ Thu từ sản xuất ngành nghề.
+ Thu khác.
1.2.1.2 Chỉ số nghèo đói:
- Khái niệm nghèo đói:
Nghèo khổ tuyệt đối: tình trạng mức thu nhập tối thiểu không đảm bảo được
những nhu cầu vật chất cơ bản như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có
thể tiếp tục tồn tại
Nghèo khổ tổng hợp ( nghèo khổ đa chiều): là sự thiệt thòi ( khốn cùng) theo
3 khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người: tuổi thọ thấp, thiệt thòi về tri
thức, thiệt thòi về đảm bảo kinh tế.
- Công thức xác định:
Chỉ số nghèo đói tổng hợp HPI (Human Poverty Index). Chỉ số HPI được
phân thành hai loại: HPI-2 dùng cho các nước công nghiệp hóa và HPI-1 dùng cho
các nước đang phát triển. Chỉ số HPI-1 được tính dựa vào ba thước đo cơ bản là:
+ Tính dễ tổn thương dẫn đến cái chết ở độ tuổi tương đối trẻ được đo bằng
xác suất không thọ quá 40 tuổi (P
1
).
+ Sự bị loại trừ ra khỏi thế giới của những người biết chữ và có khả năng
giao tiếp, được đo bằng tỉ lệ người lớn mù chữ (P
2
).
+ Sự thiếu khả năng tiếp cận với những thành quả kinh tế chung (P
3
) được đo
lường bằng ba biến số: tỉ lệ người dân không có khả năng tiếp cận với nguồn nước
sạch (P
31
), tỉ số người dân không có khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế (P
32
) và tỉ
lệ trẻ em dưới 5 tuổi thiếu cân và suy dinh dưỡng (P
33
). Giá trị biến P
3
được tính là:
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
3
333231
3
PPP
P
++
=
Chỉ số nghèo đói HPI-1 được tính theo công thức:
( )
++
=−
3
1
3
1
3
3
3
2
3
1
PPP
HPI
- Ý nghĩa: thông qua chỉ sống đói nghèo để có cơ sở đánh giá so sánh phân tích
thực trạng chất lượng cuộc sống của lao động di cư nông thôn cũng như biết được
nguyên nhân để có biện pháp cái thiện chất lượng cuộc sống cho họ.
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh về giáo dục:
-Tỷ lệ người lớn biết chữ:
Tỷ lệ người lớn biết chữ là tỷ lệ những người từ 15 tuổi trở lên biết đọc,
biết viết thông thạo một đoạn văn đơn giản bằng tiếng quốc ngữ.
Tỷ lệ người lớn biết chữ có liên quan nhiều đến các chỉ số thu nhập và mức
sống của từng cộng đồng và từng quốc gia.
- Số năm đến trường:
Số năm đến trường là số năm bình quân đã được học ở trường của những
người từ 15 tuổi trở lên.
Tiêu chí số năm đến trường có liên quan nhiều đến chỉ số thu nhập ở mỗi
quốc gia. Các nước có thu nhập thấp thường có số năm đi học thấp (trung bình 3-4
năm, thậm chí ở Châu Phi có một số nước chỉ có số năm đi học trung bình là 1,6
năm). Các nước có thu nhập trung bình có số năm đi học trung bình thường là 5,3
năm. Các nước có thu nhập cao chỉ số này rất cao, thường là 10,6 năm (Bắc Mỹ:
12,4 năm, Châu Âu: 11,1 năm ). Nhìn chung, ở hầu hết các nước đều có số năm đi
học của nam giới thường cao hơn nữ giới. Chỉ số số năm đến trường là một trong
các chỉ số phản ánh trung thực CLCS của từng nước.
1.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh về y tế và chăm sóc sức khỏe
- Chỉ số tuổi thọ: ( tính cho những người di cư lâu năm)
Sức khỏe là vốn quý và là một yếu tố quan trọng đảm bảo hạnh phúc cho mỗi
con người. Sức khỏe toàn dân là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu phát
triển của mỗi quốc gia, là tương lai của dân tộc. Sức khỏe là yếu tố cơ bản của chất
lượng cuộc sống dân cư. Sức khỏe vừa là mục đích, vừa là điều kiện của sự phát
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
triển. Việc chăm sóc tốt sức khỏe sẽ làm tăng nguồn nhân lực về mặt số lượng nhờ
kéo dài tuổi thọ. Các quốc gia trên toàn thế giới không chỉ quan tâm về mặt số
lượng mà còn chú ý đến chất lượng dân số, chất lượng nòi giống, trong đó có mục
tiêu nâng cao thể lực cho con người.
Để đánh giá trạng thái sức khỏe và mức độ bảo đảm y tế cho dân cư của một
quốc gia, người ta thường sử dụng các tiêu chí như tỉ lệ người chết, tuổi thọ bình quân,
tình trạng dinh dưỡng, tỉ lệ người có bệnh, số bác sĩ, y tá - y sĩ trên 1 vạn dân, số
giường bệnh trên 1 vạn dân, ngân sách đầu tư cho y tế (% GDP và bình quân đầu
người)
Tuổi thọ bình quân là số năm trung bình của một người có khả năng sống
được. Chỉ số tuổi thọ bình quân có liên quan chặt chẽ với tỉ lệ tử vong, đặc biệt là tử
vong ở trẻ em. Các phương pháp tính tuổi thọ trung bình:
- Phương pháp lập bảng sống và tính tuổi thọ trung bình dựa trên số liệu về
người chết và dân số chia theo độ tuổi (tỉ suất chết đặc trưng theo độ tuổi).
- Phương pháp hệ số sống giữa hai cuộc điều tra (sử dụng dân số chia theo độ
tuổi của hai cuộc Tổng điều tra dân số).
- Phương pháp ước lượng qua số liệu về tỉ suất chết của trẻ sơ sinh và
bảng sống mẫu. Mức độ chính xác của tuổi thọ tính theo phương pháp này phụ
thuộc vào mức độ chính xác của tỉ suất chết của trẻ sơ sinh và phải chọn được bảng
sống mẫu phù hợp. Tuy nhiên, do số trẻ chết dưới 1 tuổi và số trẻ sinh trong năm
thường dễ thu thập nên tỉ suất chết của trẻ sơ sinh có thể xác định tương đối chính
xác. Vì vậy, phương pháp này được các nước đang phát triển có trình độ thống kê
yếu sử dụng một cách phổ biến.
Nhìn chung, khi thu nhập bình quân theo đầu người càng cao thì tuổi thọ
trung bình càng tăng. Trong những năm gần đây tuổi thọ đã tăng cao ở một số nước,
nhưng đặc biệt lại giảm mạnh ở một số nước mà nguyên nhân không chỉ do mức thu
nhập thấp mà còn do ảnh hưởng nặng nề bởi các bệnh tật gây tử vong, trong đó nơi
ảnh hưởng nặng nề nhất vẫn là các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia
ở châu Phi.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
- Tỉ lệ người có bảo hiểm y tế: bảo hiểm y tế là cứu cánh cho người lao động
khi gặp ốm đau, góp phần giảm bớt chi phí, hỗ trợ phần giúp chăm lo hơn cho sức
khỏe của người lao động di cư nông, Chỉ tiê này sẽ đánh giá xem tỉ lệ có bảo hiểm y
tế của người lao động di cư vào thành phố Hà Nội là cao hay thấp để có hứng khắc
phục giúp họ ổn định và được chăm lo hơn về sức khỏe.
- Các dịch vụ y tế: Các dịch vụ y tế có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con
người và CLCS. Các dịch vụ y tế làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả trong
hiện tại lẫn tương lai. Các tiêu chí phản ánh mức độ được đáp ứng về dịch vụ y tế
như: số bệnh viện, trạm xá, số giường bệnh, số cán bộ y tế/10.000 dân
- Số lần khám chữa bệnh khi bị ốm đau trong 1 năm: Do điều kiện sinh hoạt
lao động mà đôi khi ng lao động không dành thời gian, hoặc không có chi phí để đi
khám chữa bệnh ở các trung y tế, cá phòng khám mà chỉ tự điều trị ở ngoài bằng
cách tự mua thuốc uống, chỉ tiêu này để đánh giá mức độ chăm sóc sức khỏe
thường xuyên của lao động di cư nông thôn.
1.2.4 Các chỉ tiêu liên quan đến môi trường:
- Điều kiện sử dụng điện sinh hoạt: vấn đề sử dụng điện trong sinh hoạt cũng
là yếu tố quan trọng phản ánh CLCS của dân cư. Điều kiện sử dụng điện được phản
ánh qua các tiêu chí: tỉ lệ số hộ dùng điện, số KWh tiêu thụ tính bình quân đầu
người/tháng.
- Sử dụng nước sạch: sử dụng nước sạch luôn là nhu cầu cơ bản và cấp thiết
của con người. Đây là yếu tố quan trọng để xem xét CLCS của dân cư.
Tiêu chuẩn để xem xét điều kiện sử dụng nước sạch của dân cư là tỉ lệ
người dân được sử dụng nguồn nước sạch (nước máy, nước ngầm, nước khai thác
từ nguồn lộ thiên đã qua xử lí )
- Điều kiện nhà ở: có hai tiêu chí để đánh giá điều kiện nhà ở là diện tích nhà ở
và chất lượng nhà ở. Diện tích nhà ở thường được diễn đạt bằng chỉ số m
2
/người. Chất
lượng nhà ở thường chia làm ba loại: nhà kiên cố, nhà bán kiên cố, nhà tạm
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
1.3 Các yếu tố tác động đến chất lượng cuộc sống của lao động nông thôn
di cư:
1.3.1. Vị trí địa lý nơi họ di cư đến:
- Vị trí địa lí tự nhiên nơi người lao động di cư nông thôn đến nếu thuận
thuận lợi có thể tạo điều kiện cho họ phát triển kinh tế, cũng như làm cho nơi so
phát triển kinh tế, đặc biệt là các ngành công nghiệp thế mạnh qua đó góp phần
tăng thu nhập cho người dân và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người di cơ
nông thôn .
- Vị trí địa lí kinh tế - xã hội cũng có vai trò rất quan trọng đối với chất lượng
cuộc sống người di cư. Nêu nơi đó có vị trí trong vùng kinh tế trọng điểm sẽ có điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế
quốc tế. Điều đó cũng có nghĩa nơi đó phát triển về cả kinh tế văn hóa y tế giáo dục
đây là một trong những điều kiện để người di cư họ lựa chọn nơi họ sẽ di cư đến.
Tại đây họ sẽ có thể dễ dàng tìm kiếm công việc cho mình với mức lương cao hơn,
có cơ hội phát triển hơn về ngành nghề, có cơ hội tiếp xúc văn hóa văn minh hơn,
hay được hưởng những dịch vụ về y tế giáo dục tốt nhất cho con cháu họ so với nơi
họ xuất phát.
1.3.2 Các nhân tố tự nhiên:
Các nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng đến CLCS như điều kiện cư trú của dân
cư, chất lượng môi trường sống và khả năng khai thác trực tiếp các tài nguyên làm
nguồn sống cho dân cư (đất đai, khí hậu, nguồn nước )
1.3.3 Các nhân tố về kinh tế, xã hội:
+ Các nhân tố xã hội:
- Quy mô dân số và sự gia tăng dân số: Dân số quá đông sẽ gây khó khăn
cho việc đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần vốn hạn chế của xã hội. Dân số
quá ít sẽ tạo ra sự khan hiếm nguồn lực về con người vốn là động lực chính để tạo
ra CLCS. Đồng thời sự gian tăng dân số quá nha cửa nơi di cư đến có thể tác động
ko nhỏ chất lượng cuộc sống.
- Cơ cấu tuối: tác đông đến việc giải quyết việc làm của ng trong độ tuổi lao
đọng và người ăn theo.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
+ Các nhân tố kinh tế: Chính sách của quốc gia và địa phương có ảnh hưởng
đáng kể đến CLCS dân cư.
- Chính sách xóa đói, giảm nghèo thể hiện ở sự mở rộng cơ hội việc làm và
tạo thu nhập
- Xây dựng cơ sở hạ tầng về kinh tế,
- Sự hỗ trợ của nhà nước, địa phương đối với người nghèo thông qua việc tạo
lập môi trường thông thoáng , cũng như hỗ trợ trực tiếp trong việc tiếp cận các cơ
hội việc làm, tạo điều kiện vay vốn, đất đai, nâng cao tay nghề
- Chính sách mở cửa và hội nhập về vấn đề nhập cư và cơ chế giúp lao động
di cư nông thôn có cơ hội ổn định và nâng cao chất lượng cuộc sống.
2. Sự cần thiết nâng cao chất lượng cuộc sống của lao động lao động nông thôn
di cư vào TP Hà Nội:
2.1 Đóng góp của lao động di cư nông thôn vào tăng trưởng của TP Hà
Nội:
2.1.1 Đóng góp của lao động di cư nông nông làm tăng lực lượng lao động
cho TP. HN:
Chính những người di cư tới Hà Nội để tìm kiếm việc làm đã góp phần bổ
sung nguồn lực lao động cho thành phố, đặc biệt là thúc đẩy phát triển ngành kinh
tế dịch vụ, ngoài ra họ tham gia vào phát triển khu vực phi kết cấu góp phần thỏa
mãn nhu cầu về các ngành nghề như: mộc, nề, rèn, …Cung cấp các mặt hàng lương
thực và thực phẩm…Hơn nữa, họ cũng tham gia vào lĩnh vực hoạt động lao động
phổ thông mà nhà nước chưa bao quát được trong quá trình đô thị hóa như: xích lô,
vận chuyển hàng hóa, chuyên chở hành khách và nhiều hình thức hoạt động lao
động khác. Nhìn chung, tác động tích cực của di dân ngoại tỉnh vào Hà Nội tới quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của thủ đô tuy không đo đếm được chính xác, nhưng
rõ ràng vai trò của nó là không thể phủ nhận. Người dân di cư ngoại tỉnh vào Hà
Nội với mục đích tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập. Do vậy tính năng động trong
việc tìm kiếm việc làm của họ rất cao, tùy thuộc vào trình độ chuyên môn, sức
khỏe, khả năng của mỗi người mà họ sẫn sàng tham gia vào các lĩnh vực khác nhau.
Do đó, những người lao động này đã bù đắp cho nguồn lực lao động ở Hà Nội khi
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
tham gia vào những công việc mang tính chất lao động giản đơn, hoặc lao động
nặng nhọc nhưng rất cần thiết cho đời sống kinh tế xã hội.
2.1.2 Đóng góp của lao động di cư nông thôn vào tăng giá trị sản xuất:
Lao động di cư nông thôn đến Hà Nội có mặt tác động tích cực của nó: ở
mức độ nhất định, di dân vào Hà Nội góp phần thúc đẩy sự phát trỉên đa dạng của
các lĩnh vực và các ngành nghề, dịch vụ và có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng kinh
tế của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Theo thống kê của các nhà kinh tế
cho thấy lao động di cư đã đóng góp khoảng 30% vào GDP của Hà Nội trong hội
thảo di cư phát triển và giảm nghèo
2.1.3 Lao động trong các lĩnh vực mà LLLĐ TP. Hà Nội ko tham gia.
Một số lượng lớn lao động ngoại tỉnh làm việc có tính chất thời vụ vào Hà
Nội tìm việc, họ có thể làm bất cứ công việc gì mà lao động ở thành phố không
muốn làm, những công việc nặng nhọc phải dùng sức cơ bắp mặc dù thu nhập của
họ không cao lắm song vẫn hơn hẳn mức thu nhập ở nông thôn.
2.2 Vấn đề phát sinh::
2.2.1 Thất nghiệp và áp lực giải quyết việc làm cho thị trường lao động
Gia tăng sức ép về việc làm cho Thủ Đô. Tình trạng thiếu việc làm, thất
nghiệp ở Hà Nội đã tồn tại này lại càng gia tăng do tình tặng di dân nông thôn vào
thành phố Hà Nội. Tình trạng di cư nông thông đã khiến Hà Nội phải đối mặt với
sức ép thiếu việc làm nghiêm trọng. Đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn tới những
mặt tiêu cực khác phát sinh gánh nặng về mặt kinh tế, xã hội cho Thành phố Hà Nội
2.2.2 Vấn đề xã hội:
Hiện nay, Hà Nội đang phải chịu cảnh buôn bán và làm các nghề dịch vụ tự
phát lấn chiếm lòng đường, hè phố, gây cản trở giao thông và mất trật tự đô thị.
Ngoài ra, đã và đang xuất hiện nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội từ tình trạng những
người di dân ngoại tỉnh về Hà Nội. Vấn đề lớn thứ ba là tình trạng gây mất trật tự
công cộng và gia tăng sức ép về quản lý cho các cấp chính quyền. Các cuộc điều tra
cho thấy, những người di chuyển về Hà Nội có những hạn chế nhất định về chuyên
môn, tay nghề nên phần đông trong số họ phải làm đủ các loại công việc. Cuộc sống
tạm bợ qua ngày của những người lang thang và di dân tự do hình thành nên các tụ
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
điểm chợ lao động như: cầu Mai Động, Ngã tư Sở, dốc Minh Khai… gây mất trật tự
công cộng và mỹ quan thành phố.
2.2.3 Vấn đề cơ sở hạ tầng:
Mặt khác, thu nhập của LĐDC nhìn chung là thấp và họ còn phải tiết
kiệm để gủi tiền về cho gia đình ở quê, nên họ chỉ có thể thuê nhà trọ giá rẻ.
Do vậy, tại các khu công nghiệp, tại các đô thị, hầu hết lao động di cư nông
thôn đều thuê nhà ở giá rẻ với những điều kiện sinh hoạt hết sức tồi tàn, nhiều
chỗ không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu của các sinh hoạt hàng ngày. Khó
khăn lớn nhất của các địa phương khi triển khai đề án nhà ở xã hội vẫn là vấn
đề kinh phí. Hiện nay, kinh phí để xây dựng nhà ở xã hội chủ yếu là từ ngân
sách từ trung ương và của cả địa phương. Trên thực tế thì không chỉ các địa
phương mà ngay cả doanh nghiệp cũng rất ngại tham gia đề án này, vì xây
nhà ở xã hội là phi lợi nhuận. Không có lợi nhuận thì đương nhiên không hấp
dẫn các doanh nghiệp. Vì vậy, xây nhà ở cho người có thu nhập thấp, đòi hỏi
quyết tâm rất cao của hệ thống chính quyền địa phương thì mới có thể thực
hiện được.
2.3 Đóng góp của lao động di cư vào tăng trường phát triển kinh tế cho Tp
Hà Nội:
Lao động di cư là một hiện tượng tất yếu trong sự phát triển của nền kinh tế
thế giới trong đó có VN, đặc biệt khi toàn cầu hóa. Lao động di cư một mặt góp
phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, giảm tỉ lệ lao động thất nghiệp, tăng chỉ số
GDP… theo thống kê đóng góp của lao động di cư nông thôn là 30% vào tổng GDP
của thành phố năm 2011. Không những thế lao động di cư nông thôn còn găp phần
tham gia vào những lĩnh vực mà nhà nước chưa thế bảo quát khác, chủ yếu về lao
động sử dụng sức lao đọng là chính, nhưng nó đã góp phần vào tăng trường kinh tế
của Hà Nội. Ngoài ra chính chi tiêu của lao đọng di cư nông thôn đã góp phần thúc
đẩy kinh tế hàng hóa, dịch vụ ở Tp Hà Nội
2.4 Những hệ lụy về xã hội mà lao động di cư đem đến.
TP Hà Nội giữ một vị trí then chốt trong sự phát triển quốc gia. Không thể có
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
sự phát triển này nếu không có đóng góp của những người dân di cư. Người dân
nông thôn lên thành phố thường làm những công việc khó khăn, nguy hiểm từ quét
rác tới làm việc trong các công trường xây dựng, đó là những việc cần thiết để thành
phố “vận hành” trôi chảy.
Tất nhiên, di dân cũng đặt ra những thách thức trong quá trình đô thị hoá.
Người dân quê đến thành phố thường có cuộc sống nghèo nàn. Họ ở những nơi ô
nhiễm, chật chội và nguy hiểm, chất lượng cuộc sống kém. Đế phát triển bền vững,
cùng với sự cân bằng của đô, môi trường đô thị. Chúng ta cần quan tâm đến họ
nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của họ để xứng đáng hơn với quyết định di cư
của mình cũng như cuộc sống của học tương xứng với Thành Phố họ ở.
Di cư nông thôn ra thành thị sẽ không có tác động tiêu cực đến thị trường lao
động, nếu như khu vực thành thị tạo đầy đủ công ăn việc làm và không tạo nên thất
nghiệp đối với những người di cư cũng như đối với người dân bản địa. Tuy nhiên
cũng rất có thể di dân nông thôn ra thành thị làm cho vấn đề thất nghiệp ở khu vực
thành thị trở nên cấp bách hơn.
Torado (1976) nhận định rằng, dưới tác động của sức hút của các thành thị
và do những kỳ vọng của người di cư về việc làm và thu nhập ở khu vực thành thị,
di dân nông thôn ra thành thị có khả năng làm cho tỉ lệ thất nghiệp của khu vực
thành thị tăng cao. Điều này xuất phát từ một thực tế rằng, nhiều người di cư với kỳ
vọng về việc làm ở khu vực thành thị, và họ ra đi mà hoàn toàn không rõ về khả
năng tìm kiếm công ăn việc làm của họ ở khu vực thành thị. Hơn thế nữa, khả năng
lao động của những người di cư (tay nghề cũng như học vấn, …) rất khó có thể đáp
ứng được nhu cầu của thị trường lao động, và vì vậy, một kết cục có thể xẩy ra là
thay vì thất nghiêp ở khu vực nông thôn, họ trở thành đội quân thất nghiệp ở khu
vực thành thị. Mặt khác, luồng di dân từ nông thôn ra thành thị, trên thực tế cũng
tạo nên một sức ép về công ăn việc làm với dân cư của khu vực thành thị. Công ăn
việc làm của người dân thành thị có thể trở nên khó khăn hơn, hoặc tiền lương của
họ sẽ bị giảm sút trước sự cạnh tranh về công ăn việc làm với những người di cư.
Như vậy, một câu hỏi lớn đặt ra là liệu rằng di cư lao động nông thôn ra
thành thị có làm cho tình hình thất nghiệp thành thị trở nên trầm trọng hay không?
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
Theo kết quả hồi quy giữa tỷ lệ thất nghiệp ở Hà Nội và tỷ lệ di cư trong tổng dân
số trong giai đoạn 1995 – 2005 cho thấy khi tỷ lệ di cư trong tổng dân số tăng 1%
thì tỷ lệ thất nghiệp tăng 0,776481%. Tuy nhiên con số này không có ý nghĩa giải
thích bởi P-value = 0,101 > 0,05 (mức ý nghĩa thống kê) nên nằm ngoài niềm bác
bỏ. Hơn nữa mô hình ước lượng giải thích được rất ít (chỉ 30%) về mối quan hệ
giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ di cư, số quan sát qúa ít (chỉ 11 quan sát) cho một mô
hình ước lượng.
Một cách tiếp cận khác để trả lời cho câu hỏi trên là mô phỏng mối quan hệ
giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ di cư qua đô thị.
Đồ thị 1.1: Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ di cư (%)
Nguồn: Tổng cục thống kê 2004
Đồ thị cho thấy tỉ lệ thất nghiệp hầu như không có liên quan đến tỉ lệ di dân
nông thôn ra thành thị. Thực tế cho thấy, những năm có tỉ lệ di cư từ nông thôn ra
thành thị cao cũng không phải là những năm có tỉ lệ thất nghiệp cao. Tuy nhiên tăng
dân số cơ học tạo ra những áp lực về việc làm ở Hà Nội. Hiện tại Hà Nội là địa
phương có tỷ lệ thất nghiệp khá cao (Đồ thị 2.11), năm 1999 là 5,59%, trong đó thất
nghiệp thành thị là 8,96% và nông thôn là 1,4%, năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp thành
thị là 6,20%. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp còn khá cao thì hàng năm lại bổ sung một
lượng lớn lao động từ các địa phương khác kéo đến.
Khi lượng dân di cư tập trung về thành phố, khu công nghiệp quá đông,
không kiểm soát nổi sẽ làm tăng thêm đội quân thất nghiệp, gây nhiều khó khăn cho
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
chính quyền địa phương trong quản lý dân cư. Mặc dù được bổ sung đáng kể lực
lượng lao động dư thừa từ nơi khác, nhưng khi chưa kịp thời bố trí, sắp xếp ổn định
việc làm sẽ dẫn đến những biến động phức tạp về mặt xã hội: tăng số người thất
nghiệp; đội ngũ lao động phải chấp nhận những điều kiện lao động và bảo hiểm
thấp kém so với yêu cầu, tạo ra tình trạng cạnh tranh gay gắt nhân công lao động.
Dân di cư ngoài số được tuyển dụng vào các nhà máy, xí nghiệp, hầu hết phải làm
nghề tự do, nghề phụ cần lao động chân tay, không có trình độ chuyên môn. Bố trí,
sắp xếp lượng lao động dư thừa này thế nào cho có hiệu quả là hết sức khó khăn, dù
trong điều kiện các đô thị, và đặc biệt là các khu công nghiệp đang ngày càng được
mở rộng, thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài và đang rất cần nhiều lao động. Cái
khó ở đây là sản xuất công nghiệp cần một lực lượng lao động ít nhất phải được qua
đào tạo tay nghề, kỹ thuật hoặc đã làm quen với máy móc cơ khí. Trong khi đó, dân
di cư tự do hầu hết là cư dân nông nghiệp, không có trình độ chuyên môn, trình độ
văn hóa lại thấp. Để giải quyết công ăn việc làm thực sự không đơn giản.
Như vậy, di cư từ các tỉnh khác đến Hà Nội ngoài những mặt tích cực nhưng
đồng thời nó cũng tạo ra những áp lực đáng kể trong việc giải quyết công ăn việc
làm. Do vậy, ngoài việc có các giải pháp để khai thác lợi ích của quá trình di cư
mang lại thì cũng cần có những chính sách để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực.
- Gây nên sự cạnh tranh với lao động tại chỗ, hạ thấp giá trị sức lao động:
Thị trường sức lao động của Hà Nội hiện nay đang đối phó với nhiều mặt khó khăn,
trong đó khó khăn xuất phát từ quá trình đô thị hoá, phát triển thêm các quận mới
(Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Long Biên). Các quận này được hình
thành trên cơ sở phân chia lại địa giới hành chính của các quận nội thành và các
huyện ngoại thành (Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm). Quá trình đô thị hoá này khiến
cho lực lượng lao động trên các huyện bị biến động khá mạnh mẽ, từ lao động nông
nghiệp với trình độ văn hoá thấp nay chuyển sang dạng lao động công nghiệp, dịch
vụ, nhưng tay nghề hầu như không được trang bị kịp thời. Vì thế, đa số lao động
không thích nghi, tình trạng thất nghiệp có chiều hướng gia tăng. Mặt khác, lao
động ở các quận đô thị hoá nói trên hiện nay đang còn phải đồng thời đối phó với
khó khăn khác là sự cạnh tranh của dân di cư trong tìm việc. Lực lượng lao động địa
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
phương đang gặp phải đối thủ cạnh tranh khá mạnh là lao động nhập cư, họ có nhu
cầu về lương thấp hơn lao động tại chỗ. Giá tiền công của người nhập cư thường rẻ
hơn so với lao động thành phố làm gia tăng mức độ cạnh tranh về chỗ làm việc.
Vấn đề cần xem xét là sự cạnh tranh trong tìm việc làm giữa lao động nhập cư và
lao động tại chỗ sẽ dẫn đến làm suy giảm giá trị kinh tế của sức lao động. Trên thực
tế có thể là do những người di cư là những người có mức sống thấp, và không có
nhiều sự lựa chọn trong việc tìm kiếm công ăn việc làm, và vì vậy họ sẵn sàng chấp
nhận làm tất cả những công việc có thể, thậm chí với đồng lương thấp để duy trì
cuộc sống. Một bài toán đơn giản là một nhà đầu tư nếu tuyển chọn được công nhân
là lao động nhập cư thì nhiều khả năng tiền lương trả cho lao động nhập cư sẽ thấp
hơn lao động tại chỗ.
Một vấn đề khác cần xem xét là lao động di cư từ các tỉnh khác đến làm
giảm giá trị tiền lương của lao động sở tại. Không giống như các loại hàng hóa
thông thường, hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động thuộc loại đặc biệt.
Ở thị trường đó ngoài vấn đề về lượng (số lượng và chất lượng) và giá cả còn có sự
can thiệp của Nhà nước để đặt ra những điều kiện đảm bảo cho điều kiện làm việc
và cuộc sống của người lao động. Ở nước ta ngoài việc quy định vấn đề an toàn lao
động, Nhà nước có đặt ra mức lương tối thiểu mà chủ sử dụng lao động phải trả cho
người lao động. Mức lương tối thiểu có sự khác nhau giữa các khu vực, các ngành
kinh tế và vùng địa lý. Chính phủ ban hành Nghị định 03/2005/NĐ-CP, từ 1/2/2006,
lương tối thiểu của lao động Việt Nam trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI): 870.000 đồng/người/tháng. Trong khi đó, từ ngày 1/10/2006, mức
lương tối thiểu chung là 450.000 đồng/tháng quy định tại Nghị định số
118/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ áp dụng cho hai khối hành chính
sự nghiệp và doanh nghiệp trong nước. Các văn bản pháp lý gần đây là Nghị định
166/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007, quy định mức lương tối thiểu áp dụng từ
1/1/2008 là 540.000 đồng/tháng đối với khu vực hành chính- sự nghiệp. Đối với
khu vực doanh nghiệp trong nước, theo Nghị định 167/2007/NĐ-CP, mức 620.000
đồng/tháng áp dụng đối với khu vực 1; mức 580.000 đồng/tháng áp dụng đối với
khu vực 2; mức 540.000 đồng/tháng áp dụng đối với khu vực 3. Theo Nghị định
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
168/2007/NĐ-CP mức lương tối thiểu ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở
các khu vực trên lần lượt 1 triệu đồng/tháng; 900.000 đồng/tháng 800.000
đồng/tháng.
Dù đặt ra mức lương tối thiểu nhưng những quy định này không phải bao giờ
cũng được tuân thủ một cách nghiêm túc do thiếu những cơ chế và nguồn lực giám
sát. Trong những năm 1990, sự vi phạm quy định về tiền lương tối thiểu ở Việt
Nam là phổ biến đặc biệt trong những doanh nghiệp nước ngoài của ngành may
mặc, thuộc da, sản xuất giấy và nông nghiệp (Bộ LĐ-TB-XH, 1999).
Xét một cách thuần túy theo quy luật cung cầu về hàng hóa trên thị trường
khi cung tăng sẽ kéo giá cả giảm xuống. Cho nên dù đặt ra mức lương tối thiểu
nhưng nếu xét trong một thời kỳ nhất định với các yếu tố khác không đổi, quy luật
này trong một chừng mực nào đó nó cũng thể hiện trường thị trường lao động, đó là
do những áp lực về việc làm (thất nghiệp) làm cho tiền lương cú xu hướng giảm.
Hơn nữa, cung lao động dư thừa có xu hướng làm yếu quyền lực đàm phán và khả
năng đòi hỏi có những điều kiện làm việc tốt hơn của người lao động.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN DI CƯ VÀO TP. HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2011
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của lao động di cư nông
thôn vào Hà Nội:
1.1 Điều kiện tự nhiện của Hà Nội
Hà Nội, Thủ đô của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, là trung
tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn của cả nước, với những đặc điểm và lợi thế về điều
kiện tự nhiên và về kinh tế xã hội, thực sự đã trở thành lực hút của dòng di dân
ngoại tỉnh về Hà Nội. Về đặc điểm tự nhiên: Thành phố Hà Nội nằm ở đồng bằng
Bắc Bộ trù phú (diện tích Hà Nội mở rộng lên tới 3.324, 92 km2). Hà Nội nằm ở
phía hưũ ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các sông. Ngoài hai con sông
lớn, trên địa phận Hà Nội còn có các sông: Đuống, Cầu, Nhuệ… Hồ đầm ở Hà Nội
có nhiều, những hồ nổi tiếng ở Hà Nội như hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Hoàn Kiếm…
hàng chục hồ, đầm thuộc địa phận Hà Nội cũ: hồ Kim Liên, hồ Linh Đàm, đầm Vân
Trì… và những hồ thuộc địa phận Hà Tây cũ: Ngải Sơn, Đồng Mô, Suối Hai. Phía
Bắc Hà Nội giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên; phía Nam giáp Hà Nam;
phía Tây giáp Hòa Bình; phía Đông giáp với các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên. Với vị
trí và địa thế đẹp, thuận lợi, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa
học lớn; là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho khí hậu Bắc Bộ với đặc điểm là khí hậu nhiệt
đới gió mùa: mùa hè nóng ẩm và mưa nhiều, mùa đông lạnh khô và mưa ít. Do nằm
trong vùng nhiệt đới nên Hà Nội quanh năm tiếp nhận được lượng bức xạ mặt trời
rất dồi dào (nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,6 0C), độ ẩm trung bình hàng năm
là 79%, lượng mưa trung bình hàng năm là 1800 mm.
Hà Nội có hai dạng địa hình chính là đồng bằng và đồi núi. Địa hình đồng
bằng chủ yếu thuộc địa phận Hà Nội cũ và một số huyện phía Đông của Hà Tây cũ,
chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên. Phần lớn địa hình đồi núi thuộc địa phận các
huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
1.2 Về đặc điểm kinh tế - xã hội:
Hà Nội là một thành phố lớn và đông dân, có mặt độ dân số cao. Theo số liệu
thống kê 1/4/2009, dân số Hà Nội vào khoảng 6.448.837 người (chiếm khoảng
7,5% dân số cả nước). Từ năm 2001 đến năm 2009, tại Hà Nội trung bình có hơn
100.000 trẻ em ra đời, tỷ lệ nhập cư về Hà Nội trung bình khoảng 100.000
người/năm. Như vậy, mỗi năm quy mô dân số Hà Nội dự kiến tăng thêm tương
đương một dân số huyện lớn. Năm 2009, mặt độ dân số trung bình của Hà Nội là
1926 người/km2, cao gấp 7,4 lần so với cả nước. Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn
hóa, giao thông, du lịch, giáo dục, chính trị lớn của cả nước. Hà Nội hiện có trên
4000 di tích và danh thắng, trong đó xếp hạng quốc gia trên 900 di tích và danh
thắng. Với hàng trăm đền, chùa, công trình kiến trúc, danh thắng nổi tiếng, nhiều lễ
hội, các món ăn ngon, các làng nghề truyền thống, Hà Nội trở thành một trung tâm
du lịch lớn, du khách có dịp khám phá nhiều công trình kiến trúc văn hóa – nghệ
thuật được xây dựng qua nhiều thế hệ trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước.
Hà Nội là trung tâm và đầu mối giao thông của cả nước. Từ Hà Nội, ta có thể đi
khắp mọi miền đất nước bằng bất cứ phương tiện nào. Đường bộ có giao thông
công cộng (xe bus, taxi) phủ khắp thành phố, giao thông cá nhân (xe máy, ô tô).
Đặc biệt ở Hà Nội có loại hình xích lô thường dùng để phục vụ khách du lịch. Xe ô
tô khách liên tỉnh xuất phát từ các bến xe phía Nam, Gia Lâm, Lương Yên, nước
ngầm, Mỹ Đình tỏa đi khắp mọi miền đất nước theo các quốc lộ 1 xuyên Bắc –
Nam, quốc lộ 2 đi Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang; quốc lộ 3 đi Thái
Nguyên, Cao Bằng; quốc lộ 5 đi Hải Phòng, Quảng Ninh; quốc lộ 6 đi Hòa Bình,
Sơn La. Ngoài ra, Hà Nội cũng là đầu mối của tuyến giao thông đường sắt xuyên
Việt và liên vận quốc tế. Hà Nội cũng là trung tâm đường không với cảng hàng
không sân bay Nội Bài. Hà Nội cũng có hệ thống sông ngòi chằng chịt, nằm cạnh
hai con sông lớn là sông Hồng và sông Đà, tạo thuận lợi cho việc vận tải bằng
đường sông. Hà Nội hiện có 5 cây cầu bắc qua sông Hồng: cầu Thăng Long, cầu
Long Biên, cầu Chương Dương, cầu Thanh Trì và cầu Vĩnh Tuy để phục vụ cho
việc giao thông của thành phố giữa hai bờ sông Hồng, nối liền thành phố với các
tỉnh phía Bắc và phía Đông Bắc của Tổ quốc.
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phí Thị Hồng Linh
Thành phố Hà Nội có khoảng 70 trường Đại học, 20 trường Cao đăng, 60
trường Trung cấp, dạy nghề, nhiều trung tâm đào tạo của nước ngoài. Hàng năm có
rất nhiều học sinh, sinh viên đổ về học tập.
Hà Nội là Thủ đô và cũng là Thành phố có diện tích lớn nhất đông dân thứ
hai sau thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội là một trong hai đầu tàu kinh tế của cả
nước, với các ngành dịch vụ, du lịch và bảo hiểm giữ vai trò quan trọng trong cơ
cấu kinh tế của thành phố. Trong lĩnh vực công nghiệp, Hà Nội đã xây dựng hoàn
chỉnh 9 khu công nghiệp và 11 cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều sản phẩm công
nghiệp, trong đó có một số sản phẩm mới của ngành công nghiệp điện tử, công
nghiệp phần mềm, chế tạo khuôn mẫu… đã đứng vững trên thị trường. Thời gian
tới, Hà Nội sẽ tiếp tục chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp, phát triển các ngành các lĩnh vực và sản phẩm công nghệ
cao… Với những đặc điểm và lợi thế đó, Hà Nội thực sự là mảnh đất hấp dẫn dân
nhập cư.
2 Tổng quan về lao động nông thôn di cư vào TP Hà Nội trước năm 2012
2.1 Quy mô lao động di cư nông thôn vào TP Hà Nội trước năm 2012
Số liệu thống kê về tỷ lệ và số lượng ngườidi cư vào Hà Nội thời gian qua
được tổng kết qua bảng số liệu sau (bảng
Bảng 2.1: Tỷ lệ và số lượng người di cư đến Hà Nội qua các năm
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tốc độ tăng dân số
cơ học (%)
0.59 0.66 0.68 0.73 0.81 1.08 1.36 1.31 1.43 1.55
Số người
16,985 19,570 20,768 22,964 26,245 35,218 46,240 44,540 48,620 52,588
Nguồn: Số liệu thống kê dân số Hà Nội qua các năm.
Từ bảng số liệu trên có thể thấy quy mô và tốc độ của lượng người di dân
vào Hà Nội qua các năm ngày càng tăng, chẳng hạn năm 2001 số người di cư vào
Hà Nội là 16.985 người thì đến năm 2007 là 46.240 người, con số đó đã là 52.588
người vào năm 2010. Như vậy, xu thế chung trong những năm tới là số lượng người
lao động ngoại tỉnh vào Hà Nội vẫn tăng lên một cách nhanh chóng. Hiện tượng này
nếu không có sự quản lý, điều tiết chặt chẽ sẽ gây ra những vấn đề phức tạp trong
đời sống kinh tế xã hội cho Thủ đô trong những năm tới. Phân tích về cơ cấu dân cư
Nguyễn Thế Anh Lớp: Kinh tế phát triển 50A
25