1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƢƠNG THỊ THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BẢNG THỜI HẠN BẢO QUẢN
CHO TÀI LIỆU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG CƠ BẢN
(CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG DÂN DỤNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lƣu trữ
Hà Nội, 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƢƠNG THỊ THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG BẢNG THỜI HẠN BẢO QUẢN
CHO TÀI LIỆU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG CƠ BẢN
(CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG DÂN DỤNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: Lƣu trữ
Mã số: 60.32.24
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS. TS Nguyễn Minh Phƣơng
Hà Nội, 2013
5
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
5
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
6
5. Các nguồn tài liệu tham khảo
9
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
10
7. Bố cục của đề tài
12
8. Đóng góp của đề tài
13
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI LIỆU XÂY DỰNG
15
1. Khái niệm và đặc điểm của tài liệu xây dựng
15
1.1. Khái niệm
15
1.2. Đặc điểm của tài liệu xây dựng
18
2. Các loại tài liệu hình thành trong quá trình xây dựng các công
trình xây dựng dân dụng ở nƣớc ta hiện nay
21
3. Các cấp công trình xây dựng dân dụng
39
4. Các cơ quan tham gia xây dựng công trình
42
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH THỜI HẠN
BẢO QUẢN CHO TÀI LIỆU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH XÂY
DỰNG DÂN DỤNG
50
1. Các nguyên tắc xác định giá trị tài liệu của các công trình xây dựng
dân dụng
50
1.1. Nguyên tắc tính Đảng (Nguyên tắc chính trị)
51
1.2. Nguyên tắc lịch sử
52
1.3. Nguyên tắc toàn diện và tổng hợp
54
2. Các tiêu chuẩn xác định giá trị tài liệu của các công trình xây dựng
55
2.1. Tiêu chuẩn ý nghĩa, nội dung của tài liệu
55
6
2.2. Tiêu chuẩn tác giả của tài liệu
58
2.3. Tiêu chuẩn sự trùng lặp thông tin trong tài liệu
60
2.4. Tiêu chuẩn thời gian và địa điểm hình thành tài liệu
62
2.5. Tiêu chuẩn mức độ chính xác của tài liệu
63
2.6. Tiêu chuẩn tình trạng hư hỏng của tài liệu
63
2.7. Tiêu chuân ngôn ngữ, kỹ thuật chế tác và đặc điểm bề ngoài của tài liệu
64
2.8. Tiêu chuẩn mức độ hoàn chỉnh của tài liệu trong trong bộ tài liệu
công trình xây dựng
65
2.9. Tiêu chuẩn về cấp công trình
66
2.10. Tiêu chuẩn giá trị thẩm mỹ và giá trị văn hóa của công trình
67
2.11. Tiêu chuẩn áp dụng các phương pháp khoa học công nghệ mới
69
2.12. Tiêu chuẩn tính phổ biến và tính độc đáo của công trình
70
2.13. Tiêu chuẩn đạt giải thưởng quốc tế, giải thưởng chất lượng quốc gia
71
2.14. Tiêu chuẩn về hiệu quả kinh tế của việc bảo quản tài liệu
72
CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG BẢNG THỜI HẠN BẢO QUẢN CHO
TÀI LIỆU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG DÂN DỤNG
74
1. Phạm vi và đối tƣợng sử dụng bảng thời hạn bảo quản
74
2. Kết cấu bảng thời hạn bảo quản
74
3. Thời hạn bảo quản tài liệu
77
4. Cách sử dụng bảng thời hạn bảo quản
78
5. Bảng thời hạn bảo quản
79
KẾT LUẬN
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102
PHỤ LỤC
Bảng phân loại, phân cấp các công trình xây dựng dân dụng
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, các công trình xây dựng ngày
càng xuất hiện nhanh và nhiều tại các đô thị cũng như các vùng ven đô và
nông thôn. Điều đó dẫn đến khối lượng tài liệu của các công trình xây dựng
tăng lên đáng kể trong các cơ quan, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ liên quan
đến lĩnh vực xây dựng trong những năm gần đây. Làm thế nào để quản lý
khoa học khối tài liệu đó đang là vấn đề đặt ra với cơ quan quản lý ngành xây
dựng cũng như các cơ quan lưu trữ.
Qua khảo sát thực tế tại một số cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ
xây dựng, chúng tôi nhận thấy rất nhiều tài liệu sản sinh trong quá trình xây
dựng các công trình được cho vào bao tải, đóng trong các thùng các tông hoặc
thùng tôn và chất đống trong các kho lưu trữ. Những tài liệu này chưa hề
được xử lý sơ bộ về nghiệp vụ lưu trữ vì vậy rất khó tra tìm khi cần thiết.
Trong khi đó, khối lượng tài liệu xây dựng ngày càng nhiều đã và đang lấn
chiếm diện tích các phòng làm việc, gây khó khăn cho việc bố trí nơi làm việc
của cán bộ, nhân viên trong cơ quan, tổ chức.
Thêm vào đó, để hoàn thành một công trình xây dựng cần đến sự tham
gia của nhiều cơ quan tổ chức như Ban Quản lý Dự án, đơn vị là chủ đầu tư,
đơn vị khảo sát địa chất công trình, đơn vị tư vấn thiết kế, đơn vị thi công, đơn
vị giám sát thi công, đơn vị thẩm định chất lượng đối với từng hạng mục riêng
biệt. Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng, tài liệu của một công trình được
sản sinh từ nhiều đơn vị khác nhau và sau đó được lưu trữ ở nhiều nơi khác
nhau. Điều này đã gây ra sự lãng phí về kho tàng, nhân lực khi mỗi đơn vị tham
gia xây dựng công trình bảo quản cùng một tài liệu xây dựng.
Từ những phân tích trên chúng ta dễ dàng nhận thấy có rất nhiều vấn đề
đang đặt ra với việc lưu trữ tài liệu xây dựng như: Phương án phân loại và tổ
chức khoa học tài liệu xây dựng; Xác định giá trị tài liệu của các công trình
8
xây dựng; Quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc lưu trữ
và phục vụ các nhu cầu khai thác, sử dụng tài liệu của các công trình xây
dựng …. Để góp phần giải quyết một phần trong những vấn đề nghiệp vụ lưu
trữ tài liệu xây dựng nêu trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu
xây dựng bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình xây dựng cơ
bản (công trình dân dụng)” làm luận văn cao học của mình.
Ngoài ra, từ thực tế công tác lưu trữ tài liệu xây dựng hiện nay có thể
thấy việc nghiên cứu, xây dựng Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của các
công trình xây dựng là cần thiết và cấp bách, đóng góp vai trò tích cực trong
việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc chỉnh lý và xác
định giá trị tài liệu xây dựng. Bởi lẽ Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của
các công trình xây dựng được nghiên cứu, xây dựng và ban hành sẽ là cơ sở
để các cơ quan, tổ chức làm công tác xây dựng xác định giá trị tài liệu, là căn
cứ để lựa chọn tài liệu có giá trị nộp lưu vào Lưu trữ lịch sử và đồng thời
cũng là cơ sở quan trọng để Hội đồng xác định giá trị tài liệu của các cơ quan
xem xét, tiêu hủy tài liệu hết giá trị. Sự cần thiết của việc nghiên cứu, xây
dựng Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình xây dựng nêu
trên cũng là lý do quan trọng giúp tác giả mạnh dạn lựa chọn và thực hiện đề
tài nghiên cứu này.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tập trung nghiên cứu các đối tượng sau:
- Các loại tài liệu xây dựng và đặc điểm của chúng;
- Vai trò của các cơ quan tham gia xây dựng công trình;
- Thực tiễn công tác phân loại và xác định giá trị tài liệu của các công
trình xây dựng;
- Ngoài ra, để nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, mang tính khả thi
cho việc xây dựng bảng thời hạn bảo quản tài liệu của các công trình xây
9
dựng, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trực tiếp/gián tiếp công tác này tại một
số cơ quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng.
Do hạn chế về thời gian cũng như kinh nghiệm, phạm vi nghiên cứu
của đề tài giới hạn trong việc xây dựng bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu
của các công trình xây dựng dân dụng. Tài liệu xây dựng của các loại công
trình xây dựng khác (công trình công nghiệp, công trình giao thông, công
trình nông nghiệp và phát triển nông thôn và công trình hạ tầng kỹ thuật) chúng
tôi chưa đủ điều kiện nghiên cứu trong đề tài.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Đề tài thực hiện nhằm đạt được hai mục tiêu sau:
- Nghiên cứu, phân tích nhằm xây dựng cơ sở lý luận của việc xác định
thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình xây dựng, bao gồm các
nguyên tắc và một hệ thống các tiêu chuẩn xác định giá trị tài liệu của các
công trình xây dựng dân dụng.
- Xây dựng được Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình
xây dựng dân dụng. Bảng thời hạn bảo quản này phải quy định cụ thể đối với
cả 2 loại công trình: công trình xây dựng thuộc diện nộp lưu vào lưu trữ lịch
sử và công trình xây dựng không thuộc diện nộp lưu vào lưu trữ lịch sử. Việc
quy định rõ ràng thời hạn bảo quản cho tài liệu xây dựng sản sinh ở từng đơn
vị tham gia xây dựng công trình (chủ đầu tư, cơ quan thiết kế, cơ quan thi
công, cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng) cũng được quy định ở Bảng
thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình xây dựng dân dụng này.
Để đạt được mục tiêu trên, chúng tôi tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, khảo sát thực tế nhằm tìm hiểu về các loại tài liệu xây
dựng và đặc điểm của chúng;
10
- Nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm nhằm xây dựng cơ sở lý luận của
việc xác định thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình xây dựng dân
dụng;
- Xác định thời hạn bảo quản cho các loại tài liệu của công trình xây
dựng dân dụng hình thành trong cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng, chủ
đầu tư, cơ quan sử dụng công trình, cơ quan thiết kế, cơ quan thi công xây
dựng công trình và Lưu trữ lịch sử.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở nước ta, vấn đề lưu trữ tài liệu khoa học công nghệ nói chung và tài
liệu xây dựng nói riêng trong những năm vừa qua đã có nhiều người quan tâm
nghiên cứu, thể hiện bằng các bài viết trên tạp chí chuyên ngành văn thư lưu
trữ, Website Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước và một số công trình nghiên
cứu khoa học cấp ngành, cấp Bộ.
Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, trên website đã đề cập đến
những vấn đề cơ bản của công tác lưu trữ tài liệu xây dựng như: “Một số ý
kiến bước đầu về xây dựng phương án phân loại tài liệu lưu trữ ở Viện thiết
kế công trình, kỹ thuật thành phố” (1973) của tác giả Dương Văn Cừ, “Một số
ý kiến đánh giá giá trị tài liệu thiết kế xây dựng dân dụng của Viện thiết kế
nhà ở và công trình công cộng” của tác giả Lê Thị Thanh Hiền (1983), “Vài ý
kiến về đánh giá giá trị tài liệu lưu trữ kỹ thuật các công trình xây dựng dân
dụng” (1976) của tác giả Đỗ Thanh Liêm … Tuy nhiên trong khuôn khổ một
bài tạp chí, các vấn đề liên quan đến tài liệu xây dựng đề cập đến chưa sâu,
còn sơ sài. Ngoài ra, theo thống kê, những bài viết trên tạp chí, website được
viết đã quá lâu, có những vấn đề không còn phù hợp với thực tế lưu trữ tài
liệu xây dựng hiện nay nữa.
Đến nay, các công trình nghiên cứu khoa học về tài liệu xây dựng vẫn
chưa có nhiều. Có thể kể đến đề tài “Xác định thành phần tài liệu thiết kế xây
dựng cơ bản cần nộp để bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia Việt Nam”
11
do TS Nguyễn Cảnh Đương chủ nhiệm năm 1993, mã số 90-98-021; Đề tài
“Nghiên cứu xây dựng bảng thời hạn bảo quản tài liệu xây dựng cơ bản thuộc
diện nộp lưu vào lưu trữ quốc gia” do bà Nguyễn Thị Mận làm chủ nhiệm
năm 2002, mã số 98-98-020. Hai đề tài này đã khái quát được những loại tài
liệu cơ bản và đưa ra khung phân loại sơ lược. Tuy nhiên, trong phần Bảng
thời hạn bảo quản, các tác giả mới chỉ thống kê những tài liệu có giá trị vĩnh
viễn, nộp vào lưu trữ lịch sử, chưa đề cập đến những tài liệu có thời hạn bảo
quản khác.
Liên quan đến tài liệu xây dựng còn có các báo cáo khoa học, khóa
luận, luận văn của các sinh viên, học viên Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn
phòng như: Khóa luận tốt nghiệp “Tổ chức lưu trữ tài liệu xây dựng cơ bản tại
cơ quan Cục Doanh trại - Tổng Cục Hậu cần - Bộ Quốc phòng” của sinh viên
Hà Thị Tuyết năm 2010, Khóa luận tốt nghiệp hệ chính quy “Tình hình quản
lý tài liệu kỹ thuật các công trình xây dựng cơ bản tại Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia III” của sinh viên Trần Thị Hằng năm 2007, Luận văn Thạc sĩ
“Thực trạng tổ chức khai thác sử dụng tài liệu kỹ thuật các công trình giao
thông tại lưu trữ Bộ Giao thông Vận tải và những giải pháp” của học viên
Đinh Văn Mạnh Tuy nhiên, những đề tài này chưa chỉ ra được thành phần
tài liệu xây dựng hình thành trong quá trình xây dựng một công trình và xác
định thời hạn bảo quản cho tài liệu đó. Đáng chú ý là Báo cáo tham gia Hội
nghị Khoa học Sinh viên năm 2011 “Xây dựng bản hướng dẫn phương án
phân loại tài liệu xây dựng cơ bản tại Ban Quản lý Dự án Đầu tư Bước I - Đại
học Quốc gia Hà Nội” của sinh viên Nguyễn Trang Nhung. Nhưng do cơ
quan sản sinh ra tài liệu là Ban Quản lý Dự án đầu tư Bước I - Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội nên những tài liệu được liệt kê tại đây còn sơ sài, chưa
thể hiện được sự đa dạng trong thành phần của tài liệu xây dựng. Hơn nữa, đề
tài cũng chưa đề cập đến công tác xác định giá trị của tài liệu xây dựng cũng
như xây dựng bảng thời hạn bảo quản cho loại hình tài liệu này.
12
Thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước về văn thư, lưu trữ và
quản lý nhà nước về công tác xây dựng đã ban hành một số văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến việc lưu trữ tài liệu xây dựng như:
- Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 09/2011/TT-BNV ngày 03 tháng
6 năm 2011 quy định thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành phổ biến
trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, Thông tư cũng mới chỉ
quy định thời hạn bảo quản của một số tài liệu quản lý các công trình xây
dựng cơ bản, chưa đề cập đến thời hạn bảo quản của những hồ sơ, tài liệu
hình thành trong quá trình xây dựng một công trình.
- Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư đề cập đến một số vấn đề liên
quan đến công tác lưu trữ tài liệu xây dựng như: Thông tư số 02/2006/TT-
BXD ngày 17 tháng 5 năm 2006 về hướng dẫn lưu trữ hồ sơ thiết kế, bản vẽ
hoàn công công trình xây dựng; Thông tư số 27/2009/TT-BXD ngày 31 tháng
7 năm 2009 về hướng dẫn một số nội dung Quản lý chất lượng công trình xây
dựng. Các Thông tư này đã quy định việc lưu trữ tài liệu thiết kế, hồ sơ hoàn
công, quy định thành phần tài liệu có trong hồ sơ hoàn công. Tuy nhiên, do
được ban hành dưới góc độ là cơ quan quản lý công tác xây dựng (Bộ Xây
dựng) nên nhiều điều, khoản trong Thông tư còn bộc lộ những điều chưa phù
hợp với quy định của Nhà nước về lưu trữ. Có thể thấy rõ nhất ở thời hạn giao
nộp tài liệu. Luật Lưu trữ năm 2011 quy định thời hạn giao nộp tài liệu xây
dựng vào Lưu trữ cơ quan là 03 tháng kể từ ngày công trình được quyết toán
(Điểm b, Khoản 1, Điều 11). Tuy nhiên, tại Điểm a, Khoản 3 Mục II của
Thông tư số 02/2006/TT-BXD lại quy định “chậm nhất 03 tháng kể từ khi
nghiệm thu bàn giao công trình đưa vào sử dụng, chủ đầu tư phải nộp lưu hồ
sơ lưu trữ vào cơ quan quản lý nhà nước”. Tại điểm d Khoản 3 Mục II còn
quy định “Cơ quan lưu trữ nhà nước phải chịu trách nhiệm trước Pháp luật
nếu không tiếp nhận hồ sơ lưu trữ công trình xây dựng do chủ đầu tư nộp
theo quy định; phải chịu các chi phí phát sinh do việc chủ đầu tư phải vận
13
chuyển, bảo quản hồ sơ lưu trữ không được cơ quan lưu trữ nhà nước tiếp
nhận theo quy định”. Rõ ràng quy định đưa ra không đúng chức năng, thẩm
quyền của Bộ Xây dựng, đồng thời trái với Luật Lưu trữ năm 2011.
Kế thừa những thành quả đã đạt được nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn
xây dựng bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình xây dựng dân
dụng làm đề tài nghiên cứu.
5. Các nguồn tài liệu tham khảo
Để phục vụ việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sử dụng một số nguồn
tài liệu tham khảo chính sau đây:
- Các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước có quy định về công
tác lưu trữ nói chung và lưu trữ tài liệu xây dựng như: Luật Lưu trữ năm
2011, Thông tư số 09/2011/TT-BNV ngày 03 tháng 6 năm 2011 của Bộ Nội
vụ quy định thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành phổ biến trong hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, Thông tư số 02/2006/TT-BXD ngày 17 tháng
5 năm 2006 của Bộ Xây dựng hướng dẫn lưu trữ hồ sơ thiết kế, bản vẽ hoàn
công công trình xây dựng…
- Các sách lý luận, giáo trình về công tác lưu trữ như: Giáo trình “Lý
luận và thực tiễn công tác lưu trữ” của nhóm tác giả Đào Xuân Chúc, Nguyễn
Văn Hàm, Vương Đình Quyền, Nguyễn Văn Thâm; Tập bài giảng“Lưu trữ tài
liệu khoa học công nghệ” của nhóm tác giả Nguyễn Minh Phương, Nguyễn
Liên Hương, Nguyễn Cảnh Đương…
- Các bài viết về công tác lưu trữ tài liệu xây dựng trên Tạp chí Văn thư
Lưu trữ Việt Nam, website của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước: “Bàn về
các đặc trưng để lựa chọn phương án hệ thống hóa tài liệu thiết kế xây
dựng”, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam năm 1981, “Các tiêu chuẩn đặc
thù làm cơ sở để đánh giá giá trị tài liệu khoa học kỹ thuật”, Tạp chí Văn thư
Lưu trữ Việt Nam năm 1982….
14
- Các tài liệu thực tế: hồ sơ tài liệu các công trình xây dựng, báo cáo
khảo sát tình hình xác định giá trị tài liệu xây dựng, báo cáo tại các cuộc Hội
thảo…
Những nguồn tài liệu tham khảo này đều được tác giả thống kê trong
phần Danh mục tài liệu tham khảo của đề tài.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lê-nin và lý luận, thực
tiễn công tác lưu trữ, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài bằng các phương
pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã
tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu nhằm nắm vững các kiến thức lý luận về công
tác lưu trữ nói chung và lưu trữ tài liệu khoa học công nghệ nói riêng. Ngoài ra,
để phục vụ việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã tham khảo Bảng thời hạn bảo
quản tài liệu của các công trình xây dựng của Trung Quốc, đồng thời, nghiên
cứu các công trình nghiên cứu khoa học đi trước để kế thừa, học hỏi những
thành quả đạt được, khắc phục những khó khăn, tránh những sai lầm trong quá
trình thực hiện đề tài.
Nhận thức được việc xây dựng Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của
các công trình xây dựng dân dụng phải được giải quyết trên cơ sở nắm vững
và vận dụng linh hoạt các nguyên tắc, tiêu chuẩn giá trị xác định giá trị tài liệu
lưu trữ nói chung nên phương pháp nghiên cứu lý luận được vận dụng ngay từ
khi triển khai đề tài nghiên cứu. Trong Chương 1, khi hệ thống các tài liệu
hình thành trong quá trình xây dựng một công trình, ngoài việc liệt kê các tài
liệu, tác giả còn khái quát được nội dung và nêu lên vai trò của tài liệu đó đối
với việc xây dựng công trình, từ đó bằng phương pháp nghiên cứu lý luận, tác
giả đã luận giải giá trị bảo quản tài liệu đó ở Chương 2 và cụ thể hóa thành
Bảng thời hạn bảo quản tại Chương 3 của đề tài.
15
- Phương pháp khảo sát thực tế: Xác định đây là một đề tài có tính ứng
dụng, do vậy, phương pháp khảo sát thực tế đã được sử dụng trong quá trình
thực hiện đề tài. Chúng tôi đã đầu tư khá nhiều thời gian cho việc khảo sát
thực tế công tác tổ chức khoa học, xác định giá trị tài liệu xây dựng tại một số
cơ quan, tổ chức làm nhiệm vụ xây dựng như: Công ty Cổ phần tư vấn Đầu tư
và Thiết kế xây dựng Việt nam - Bộ Xây Dựng (CDC); Tổng Công ty Đầu tư
và Phát triển nhà Hà Nội (HANDICO)… Nội dung khảo sát bao gồm các
thông tin liên quan đến các công trình mà cơ quan đó đã và đang xây dựng,
tình hình thu thập các tài liệu đó vào lưu trữ cơ quan, chỉnh lý, xác định giá trị
và nộp lưu vào lưu trữ lịch sử. Đặc biệt, trong quá trình khảo sát, chúng tôi
cũng trực tiếp nghiên cứu, tìm hiểu các hồ sơ, tài liệu hình thành trong quá
trình xây dựng các công trình, dự án ở các cơ quan này nhằm xác định cụ thể
thành phần tài liệu có trong mỗi hồ sơ. Ngoài ra, để tìm hiểu việc thu thập tài
liệu xây dựng vào các lưu trữ lịch sử, chúng tôi cũng đã khảo sát tại Phòng
Thu thập - Trung tâm Lưu trữ quốc gia III nhằm xác định những khó khăn và
thực trạng việc thu thập các tài liệu này trên các phương diện: xác định các
công trình thuộc diện nộp lưu vào lưu trữ lịch sử, đơn vị có trách nhiệm nộp
lưu tài liệu xây dựng của công trình, tình trạng xác định giá trị tài liệu khi tiến
hành nộp lưu… Những kết quả thu được từ việc vận dụng phương pháp khảo
sát thực tế đã giúp chúng tôi đưa ra được những nhận định đúng đắn khi tiến
hành xác định giá trị cho từng hồ sơ, tài liệu của công trình xây dựng dân
dụng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp các thông tin: Có được thông tin
thực tế từ việc khảo sát, chúng tôi đã tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá
các thông tin, làm cơ sở để nghiên cứu xây dựng bảng thời hạn bảo quản cho
tài liệu của các công trình xây dựng.
Các thông tin có được về thành phần tài liệu xây dựng của một công
trình từ các cơ quan khảo sát khác nhau được chúng tôi tổng hợp một cách có
16
hệ thống về thành phần tài liệu hình thành trong quá trình xây dựng một công
trình. Đồng thời, qua các thông tin đó, chúng tôi cũng nắm được thực trạng
công tác xác định giá trị tài liệu xây dựng hiện nay để góp phần đưa ra những
căn cứ cho việc định thời hạn bảo quản cho các tài liệu hình thành trong quá
trình xây dựng một công trình sau này.
Thông tin từ các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước có liên quan
đến đề tài là nguồn thông tin được chúng tôi đặc biệt chú trọng tổng hợp, từ
đó nghiên cứu, phân tích nhằm đưa ra các lý giải thuyết phục về việc định
thời hạn bảo quản cho tài liệu của một công trình. Ngoài ra, chúng tôi cũng
tổng hợp và phân tích các thông tin từ các website liên quan đến hoạt động
xây dựng như Website của Bộ Xây dựng, Tổng hội Xây dựng Việt Nam…
hay các diễn đàn về đầu tư xây dựng, giá xây dựng… để có thêm những thông
tin phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Các phương pháp trên không được tiến hành độc lập mà được thực hiện
kết hợp linh hoạt trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm ba
chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về tài liệu xây dựng
Trong chương này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu về tài liệu xây dựng
như nội dung, thành phần tài liệu, đặc điểm… Đặc biệt, các loại tài liệu hình
thành trong quá trình xây dựng các công trình dân dụng được chúng tôi thống
kê chi tiết để thấy được sự đa dạng cũng như vai trò của những tài liệu này.
Đồng thời, trong Chương 1, chúng tôi cũng nghiên cứu, tìm hiểu các cấp công
trình xây dựng dân dụng và các cơ quan liên quan trong quá trình xây dựng
một công trình. Với những nội dung này, chương một có vị trí tương đối quan
trọng làm tiền đề cho việc thực hiện các chương tiếp theo của đề tài.
17
Chương 2. Cơ sở lý luận của việc quy định thời hạn bảo quản cho tài
liệu của các công trình xây dựng dân dụng
Trên cơ sở kết quả khảo sát tại Chương 1, chúng tôi xây dựng cơ sở lý
luận của việc xác định thời hạn bảo quản tài liệu của công trình xây dựng dân
dụng. Đây là chương quan trọng, có ý nghĩa hàng đầu giúp chúng tôi xây
dựng và vận dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn đúng đắn nhằm định thời hạn
bảo quản cho các loại, các cấp công trình và xây dựng bảng thời hạn bảo quản
cho tài liệu của các công trình xây dựng dân dụng ở Chương 3.
Chương 3. Xây dựng Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của công
trình xây dựng dân dụng.
Căn cứ vào các loại tài liệu hình thành trong quá trình xây dựng công
trình đã được liệt kê tại Chương 1 và cơ sở lý luận đã xây dựng ở Chương 2,
tại Chương 3 chúng tôi đã tiến hành xây dựng dự thảo Bảng thời hạn bảo
quản cho tài liệu của các công trình xây dựng dân dụng. Đây là chương quan
trọng, thể hiện phần lớn kết quả nghiên cứu của đề tài.
8. Những đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Đề tài “Nghiên cứu xây dựng Bảng thời hạn
bảo quản cho tài liệu của các công trình xây dựng cơ bản (công trình dân
dụng) có những đóng góp sau:
- Trình bày một cách có hệ thống các nhóm, các loại tài liệu hình
thành trong quá trình hoạt động xây dựng các công trình dân dụng ở nước ta
hiện nay.
- Xây dựng cơ sở lý luận của việc xác định thời hạn bảo quản cho từng
loại tài liệu của các công trình xây dựng dân dụng sản sinh ở các cơ quan liên
quan.
- Xây dựng Bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của các công trình xây
dựng dân dụng gồm 13 nhóm tài liệu và 68 loại hồ sơ, tài liệu. Trong đó,
18
những công trình xây dựng dân dụng thuộc diện nộp lưu vào lưu trữ lịch sử
gồm 50/68 loại hồ sơ, tài liệu bảo quản vĩnh viễn, tài liệu của những công
trình xây dựng dân dụng không có giá trị lịch sử được bảo quản theo tuổi thọ
của công trình.
- Đề tài sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức và
những cá nhân làm công tác lưu trữ tài liệu xây dựng trong việc xác định giá
trị của những tài liệu này.
Đề tài được thực hiện thành công sẽ đóng góp một phần nhỏ về mặt lý
luận trong việc nghiên cứu xây dựng bảng thời hạn bảo quản cho tài liệu của
các công trình xây dựng dân dụng nói riêng và tài liệu xây dựng nói chung -
một loại tài liệu chưa được nghiên cứu nhiều ở nước ta hiện nay.
19
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI LIỆU XÂY DỰNG
1. Khái niệm và đặc điểm của tài liệu xây dựng
Tài liệu xây dựng là loại hình tài liệu chuyên ngành có tính đặc thù cao.
Xung quanh khái niệm “tài liệu xây dựng” (tài liệu xây dựng cơ bản) có nhiều
ý kiến, định nghĩa được nêu ra. Trước khi đi sâu vào nghiên cứu các nhóm,
các loại tài liệu xây dựng và vận dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn định thời
hạn bảo quản cho các loại tài liệu xây dựng đó thì việc nghiên cứu, đưa ra
khái niệm, nắm hiểu được các đặc điểm của loại hình tài liệu này là vấn đề
cần thiết. Việc nắm chắc khái niệm và các đặc điểm của tài liệu xây dựng sẽ
cung cấp cách nhìn nhận tổng quát về đặc điểm và giá trị của từng loại tài liệu
xây dựng.
1.1.Khái niệm
Tài liệu xây dựng là một trong những thành phần tài liệu quan trọng
của Phông Lưu trữ Quốc gia Việt Nam. Để xác định giá trị cho loại tài liệu
này, cần làm rõ khái niệm tài liệu xây dựng và đặc điểm của chúng.
Tham khảo Quy định tạm thời về quản lý tài liệu lưu trữ, tư liệu công
trình xây dựng cơ bản do Cục Lưu trữ Nhà nước, Ủy ban kế hoạch Nhà nước
Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 17 tháng 3 năm 1988 ban
hành có nêu ra khái niệm: “Tài liệu lưu trữ, tư liệu công trình xây dựng cơ
bản là những tài liệu được nộp lưu bảo quản trong quá trình chuẩn bị, quyết
định đến hoàn thành công trình đưa vào sản xuất, sử dụng, bao gồm tài liệu
chữ viết, bản vẽ, biểu đồ, tài liệu, kế toán, phim ảnh, dây ghi âm được hình
thành trong hoạt động xây dựng cơ bản công trình từ lúc điều tra nghiên cứu,
hội thảo, quyết định, kế hoạch, khảo sát, thiết kế, thi công, hoàn công, sản
20
xuất (sử dụng) thử”
1
. Khái niệm này đã liệt kê được hầu hết các dạng tài liệu
hình thành qua các giai đoạn xây dựng một công trình xây dựng. Tuy nhiên,
do ban hành đã lâu nên một số thuật ngữ sử dụng trong khái niệm này đến nay
đã không còn phù hợp nữa. Ngoài ra, việc định nghĩa “Tài liệu lưu trữ, tư liệu
công trình xây dựng cơ bản là những tài liệu được nộp lưu bảo quản” là không
hợp lý, bởi lẽ nếu viết như trên, người đọc rất dễ đánh đồng “tài liệu lưu trữ”
và “tư liệu công trình xây dựng cơ bản” là một. Tài liệu lưu trữ phải là những
tài liệu có giá trị nhất định trên nhiều phương diện khác nhau, còn tư liệu
công trình xây dựng cơ bản lại được hiểu theo nghĩa rộng hơn, là toàn bộ tài
liệu, tư liệu liên quan đến công trình đó, dù nó có giá trị lưu trữ hay không.
Trong “Từ điển giải thích nghiệp vụ văn thư lưu trữ Việt Nam” do Hội
Văn thư Lưu trữ Việt Nam ấn hành năm 2011 có định nghĩa “Tài liệu lưu trữ
xây dựng cơ bản (Archives documents of capital construction) là tài liệu lưu
trữ hình thành trong quá trình thực hiện các dự án, công trình xây dựng cơ
bản”. Nghiên cứu khái niệm này và các tài liệu tham khảo có liên quan,
chúng tôi cơ bản nhất trí với khái niệm này. Tuy nhiên, cần cụ thể hóa khái
niệm này để thấy được quá trình hình thành nên tài liệu lưu trữ xây dựng. Cụ
thể như sau:
Tài liệu xây dựng là những tài liệu được hình thành trong quá trình xây
dựng một dự án, công trình, từ việc lập dự án đầu tư xây dựng công trình,
khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng công trình, thi công xây dựng công trình,
giám sát thi công xây dựng công trình, quản lý dự án đầu tư xây dựng công
trình, lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng và các hoạt động khác có
liên quan đến xây dựng công trình.
Sở dĩ chúng tôi dùng cụm từ “tài liệu xây dựng” vì khái niệm “xây
dựng cơ bản” và “công trình xây dựng cơ bản” không còn phù hợp với tình
hình kinh tế - xã hội hiện nay nữa. Những cụm từ “xây dựng cơ bản” hay
1
Những văn bản pháp quy về lưu trữ của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1980-1992, , Bắc Kinh, 1992.
21
“công trình xây dựng cơ bản” được sử dụng nhiều trong những năm 80, 90
của thế kỷ trước, khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, hoạt động xây
dựng mới được manh nha, phát triển và xây dựng những công trình cơ bản
đầu tiên trong hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất của quốc gia. Mặt khác, nghiên
cứu các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực xây dựng, cụm từ
“công trình xây dựng cơ bản” không được nhắc đến trong các văn bản này,
mà chỉ có công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình nông
nghiệp và phát triển nông thôn, công trình hạ tầng kỹ thuật.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng “công trình xây dựng cơ bản” là
cụm từ để chỉ các công trình xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng cơ sở kinh tế
- xã hội có tính chất xây dựng lớn như công trình giao thông, thủy điện, cầu
cảng… Những công trình này phần lớn thuộc diện nộp lưu vào các Lưu trữ
lịch sử nên cụm từ “Tài liệu lưu trữ xây dựng cơ bản” là hợp lý. Tuy nhiên,
dưới góc độ lưu trữ học, không chỉ những công trình lớn mới có giá trị lưu trữ
lịch sử mà những công trình văn hóa, lịch sử cũng thuộc diện nộp lưu. Do
vậy, tác giả quyết định sử dụng cụm từ “Tài liệu xây dựng” thay cho “Tài liệu
xây dựng cơ bản” trước đây.
Từ khái niệm về tài liệu xây dựng nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm
tài liệu lưu trữ xây dựng như sau:
Tài liệu lưu trữ xây dựng là những tài liệu xây dựng có giá trị thực tiễn,
khoa học, kinh tế, lịch sử và các lĩnh vực khác được lựa chọn để lưu trữ.
Để đưa ra khái niệm trên, chúng tôi đã tham khảo khái niệm tài liệu lưu
trữ được đưa ra trong Luật Lưu trữ trên cơ sở không có sự giới hạn về nơi bảo
quản, vật mang tin cũng như quyền sở hữu tài liệu. Bất kỳ tài liệu xây dựng
nào có giá trị thực tiễn, khoa học, kinh tế, lịch sử và các lĩnh vực khác, không
phân biệt hình thức thể hiện thông tin, quyền sở hữu tài liệu hay nơi bảo quản
đều là tài liệu lưu trữ xây dựng.
22
1.2. Đặc điểm của tài liệu xây dựng
- Tài liệu xây dựng của một công trình được sản sinh trong thời gian
tương đối dài. Khác với tài liệu hành chính thông thường, tài liệu xây dựng
được hình thành từ khi lập dự án và phê duyệt, khảo sát, thiết kế, trải qua quá
trình thi công, nghiệm thu và quyết toán. Tùy theo quy mô của từng dự án,
công trình mà thời gian của tài liệu đó dài hoặc ngắn khác nhau. Ví dụ: Công
trình Sân vận động quốc gia (Mỹ Đình) được khởi công từ năm 2001 và hoàn
thành vào năm 2003, như vậy tài liệu của công trình này kéo dài trong thời
gian hai năm; Hoặc như công trình Keangnam Hanoi Landmark Tower bắt
đầu xây dựng từ năm 2007, đến năm 2012 mới hoàn thành thì tài liệu lại kéo
dài hơn là 5 năm.
- Tài liệu xây dựng đa dạng về thành phần, kích thước và tác giả hình
thành. Sự đa dạng của tài liệu xây dựng là một trong những đặc điểm để phân
biệt loại hình tài liệu này so với các tài liệu khác. Về thành phần, ngoài những
văn bản hành chính thông thường, tài liệu xây dựng còn có rất nhiều bản vẽ,
các loại báo cáo, giấy kiểm định chất lượng, tài liệu ảnh, tài liệu về quản lý
vật tư, tài chính…Về kích thước, nếu như tài liệu hành chính chủ yếu sử dụng
khổ giấy kích thước A4, thì tài liệu xây dựng của một công trình sử dụng rất
nhiều kích thước giấy không giống nhau. Sở dĩ như vậy là vì tài liệu xây dựng
bao gồm nhiều bản vẽ, mỗi bản vẽ lại có kích thước khác nhau. Sự đa dạng về
kích thước của tài liệu chính là đặc điểm đặc thù của tài liệu xây dựng.
Ngoài ra, tài liệu xây dựng còn có sự đa dạng về tác giả hình thành nên
tài liệu. Trong một công trình, có cơ quan tham gia phần thiết kế, có công ty
tham gia phần thi công, có cơ quan thầu phần lắp đặt thiết bị… Ví dụ: Hồ sơ
“Dự toán và bản vẽ thiết kế công trình Thư viện điện tử thuộc Trường Đại học
Bách khoa Hà Hội, năm 2003” có những đơn vị sau đây tham gia:
+ Đơn vị tư vấn thiết kế: Công ty Cổ phần tư vấn Đầu tư và Thiết Kế
Xây dựng Việt Nam - Bộ Xây Dựng (CDC).
23
+ Đơn vị thi công: Tổng Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng
Việt Nam (VINACONEX).
+ Chủ đầu tư: Bộ Giáo dục và Đào tạo.
+ Đơn vị giám sát thi công: Sở Xây dựng Hà Nội.
+ Đơn vị sử dụng: Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Từ ví dụ trên có thể thấy, mỗi cơ quan tham gia xây dựng cùng một
công trình đảm nhận những phần việc khác nhau sẽ sản sinh ra các tài liệu
khác nhau. Ví dụ, đơn vị thi công sẽ là cơ quan sản sinh ra các tài liệu hình
thành trong quá trình thi công xây dựng công trình. Tuy nhiên, khác với tài
liệu hành chính có thể phân loại theo phông (tức là tài liệu thi công do đơn vị
thi công sản sinh ra phản ánh chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của đơn vị thi
công thì có giá trị vĩnh viễn), tài liệu xây dựng thường được phân loại theo bộ
thiết kế công trình (chủ đầu tư là đơn vị chịu trách nhiệm lập hồ sơ về công
trình đó bàn giao cho cơ quan, tổ chức sử dụng công trình và nộp lưu vào Lưu
trữ lịch sử nếu công trình đó có giá trị kinh tế, lịch sử, chính trị, văn hóa theo
quy định của pháp luật về lưu trữ).
- Do sự phát triển của kinh tế - xã hội, những năm gần đây, các công
trình xây dựng ở nước ta ngày càng nhiều nên khối lượng của tài liệu xây
dựng hình thành nên tương đối lớn. Như đã nói ở trên, khác với tài liệu hành
chính, tài liệu xây dựng rất đa dạng về kích thước và thành phần, do vậy khối
lượng tài liệu lưu trữ của các công ty làm công tác xây dựng nói chung và tài
liệu xây dựng của một công trình nói riêng là rất lớn. Đây là nguồn tài liệu
phản ánh cơ sở hạ tầng của cả một quốc gia.
- Tài liệu xây dựng được lập bằng nhiều phương tiện ghi tin khác nhau,
vật mang tin khác nhau: giấy thông thường (khổ A4), giấy can, phim, ảnh, đĩa
CD… Ngoài ra, tài liệu xây dựng dạng điện tử hiện nay ngày càng trở nên
phổ biến tại các công ty hoạt động về xây dựng, đặc biệt là các công ty thiết
24
kế. Do vậy, nhiều công ty xây dựng hiện nay khi nộp tài liệu vào lưu trữ
thường nộp tài liệu là các bản vẽ, các thiết kế xây dựng dưới dạng điện tử.
Điều này đã gây ra khó khăn đối với cơ quan lưu trữ khi phải trang bị máy
tính và phần mềm để đọc được những bản vẽ này.
- Nội dung của tài liệu xây dựng trong quá trình thực hiện dự án hoặc
công trình liên tục được bổ sung. Trong quá trình thi công các công trình, do
điều kiện tự nhiên, xã hội, tài liệu thiết kế của các công trình cũng như các tài
liệu khác có liên quan thường xuyên được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp
với thực tế. Đây cũng là một trong những đặc điểm khác biệt của tài liệu xây
dựng so với các loại tài liệu khác. Ví dụ Công trình văn hóa cấp quốc gia
Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng tại tỉnh Quảng Nam được khởi công xây
dựng từ năm 2008, nhưng do các yêu tố về mặt kinh phí, dư luận xã hội… mà
nó đã tạm dừng vào cuối năm 2011. Đến cuối năm 2012, công trình tiếp tục
được cấp kinh phí để hoàn thiện. Như vậy, tài liệu của công trình sẽ liên tục
được bổ sung theo quá trình xây dựng công trình. Ngoài ra, việc cải tạo, mở
rộng hay nâng cấp cũng thường xuyên diễn ra đối với các công trình xây
dựng. Mỗi lần tiến hành cải tạo lại, mở rộng thì tài liệu xây dựng lại được bổ
sung, ví dụ: Công trình cải tạo cầu Thăng Long, Lăng Hồ Chủ tịch
- Cũng giống như các loại hình tài liệu khác, tài liệu xây dựng chứa
đựng những bí mật quốc gia. Như đã nói ở trên, tài liệu xây dựng không chỉ là
các báo cáo, dự án đầu tư… mà còn là những tài liệu khảo sát, thăm dò địa
chất, tài liệu thiết kế công trình, đặc biệt đối với những công trình lớn, ví dụ
như Tòa nhà Quốc Hội, Trung tâm Hội nghị quốc gia… thì tài liệu xây dựng
còn có những yếu tố mật mang ý nghĩa quốc gia. Ngoài ra, theo Nghị định số
71/2005/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ về quản lý đầu tư
xây dựng công trình đặc thù, việc đầu tư xây dựng công trình bí mật nhà nước
cũng được quy định cụ thể. Theo đó, công trình bí mật nhà nước là công trình
xây dựng thuộc các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học, công
25
nghệ và các lĩnh vực khác thuộc danh mục bí mật nhà nước, được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí
mật nhà nước. Các tài liệu liên quan đến việc xây dựng các công trình này
chứa đựng những bí mật quốc gia, cần phải bảo quản theo quy định của pháp
luật về bảo vệ bí mật nhà nước.
2. Các nhóm tài liệu hình thành trong quá trình xây dựng các công
trình dân dụng ở nƣớc ta hiện nay
Như chúng ta đã biết một trong những đặc điểm của tài liệu xây dựng là
có tính đa dạng. Tài liệu xây dựng của một công trình vừa đa dạng về loại
hình tài liệu, vừa đa dạng về nội dung phản ánh. Qua thực tế khảo sát, xuyên
suốt quá trình xây dựng công trình, từ chủ trương đầu tư, khảo sát, thiết kế, thi
công đến nghiệm thu và bàn giao công trình để đưa vào sử dụng, một công
trình xây dựng sẽ có những loại tài liệu chủ yếu sau đây:
2.1. Báo cáo đầu tư xây dựng công trình (Báo cáo nghiên cứu tiền
khả thi)
Báo cáo đầu tư xây dựng công trình là hồ sơ xin chủ trương đầu tư xây
dựng công trình để cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư.
Nội dung Báo cáo đầu tư xây dựng công trình bao gồm: Sự cần thiết
phải đầu tư xây dựng công trình, các điều kiện thuận lợi và khó khăn; Dự kiến
quy mô đầu tư: công suất, diện tích xây dựng; các hạng mục công trình thuộc
dự án; Phân tích, lựa chọn sơ bộ về công nghệ, thông số kỹ thuật; các điều kiện
cung cấp vật tư, thiết bị, nguyên liệu, năng lượng, dịch vụ, hạ tầng kỹ thuật;
phương án giải phóng mặt bằng, tái định cư nếu có; Hình thức đầu tư, xác định
sơ bộ tổng mức đầu tư, thời hạn thực hiện dự án, phương án huy động vốn theo
tiến độ và hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án và phân kỳ đầu tư
26
Đối với các dự án quan trọng quốc gia, chủ đầu tư phải lập Báo cáo đầu
tư xây dựng công trình trình Quốc Hội xem xét, quyết định về chủ trương đầu
tư. Đối với các dự án khác, chủ đầu tư không phải lập Báo cáo đầu tư.
Hồ sơ dự án, công trình quan trọng quốc gia do Chính phủ trình Quốc
hội bao gồm các tài liệu sau:
- Tờ trình của Chính phủ;
- Báo cáo đầu tư:
- Báo cáo của Hội đồng thẩm định Nhà nước;
- Tài liệu khác có liên quan (nếu có).
Nếu dự án, công trình quan trọng quốc gia cần phải điều chỉnh vì các lý
do khác nhau (điều kiện tự nhiên, những biến động về giá cả…) thì ngoài hồ
sơ trình Quốc hội thẩm định nêu trên còn có hồ sơ trình thẩm định điều chỉnh
dự án, công trình quan trọng quốc gia. Thành phần hồ trình thẩm định điều
chỉnh dự án, công trình bao gồm:
- Tờ trình của Chính phủ hoặc của cơ quan được Chính phủ ủy quyền
báo cáo;
- Báo cáo đầu tư đã được phê duyệt và Báo cáo đầu tư điều chỉnh;
- Báo cáo giám sát, đánh giá điều chỉnh dự án đầu tư;
- Báo cáo thẩm định điều chỉnh dự án của cơ quan được giao nhiệm vụ
thẩm định;
- Tài liệu khác có liên quan (nếu có).
Sau thủ tục trình thẩm định, Quốc hội sẽ có Nghị quyết về chủ trương
đầu tư đối với dự án, công trình. Nghị quyết của Quốc hội và Báo cáo đầu tư
xây dựng công trình chỉ lập đối với các dự án quan trọng quốc gia. Do vậy,
báo cáo này nói riêng và toàn bộ tài liệu hình thành trong quá trình xây dựng
27
công trình nói chung đều là những tài liệu có giá trị cao, cần phải bảo quản
vĩnh viễn trong các Trung tâm Lưu trữ quốc gia.
2.2. Dự án đầu tư xây dựng công trình (Báo cáo nghiên cứu khả thi)
Dự án đầu tư xây dựng công trình là tập hợp các đề xuất có liên quan
đến việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo những công trình xây
dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì, nâng cao chất lượng công trình hoặc
sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn nhất định. Dự án đầu tư xây dựng công
trình bao gồm phần thuyết minh và phần thiết kế cơ sở.
Phần thuyết minh của Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm: Sự
cần thiết và mục tiêu đầu tư; Mô tả về quy mô và diện tích xây dựng công
trình, các hạng mục công trình thuộc dự án; Các giải pháp thực hiện giải
phóng mặt bằng, phương án khai thác dự án và sử dụng lao động; Tổng mức
đầu tư của dự án; khả năng thu xếp vốn, nguồn vốn và khả năng cấp vốn theo
tiến độ…
Phần thiết kế cơ sở của Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm
phần thuyết minh và phần bản vẽ. Phần thuyết minh thiết kế cơ sở bao gồm
các nội dung giới thiệu tóm tắt địa điểm xây dựng, phương án thiết kế; tổng
mặt bằng công trình, hoặc phương án tuyến công trình đối với công trình xây
dựng theo tuyến; vị trí, quy mô xây dựng các hạng mục công trình; Phương án
công nghệ, dây chuyền công nghệ đối với công trình có yêu cầu công nghệ;
Phương án kiến trúc đối với công trình có yêu cầu kiến trúc… Phần bản vẽ
thiết kế cơ sở bao gồm: Bản vẽ tổng mặt bằng công trình hoặc bản vẽ bình đồ
phương án tuyến công trình đối với công trình xây dựng theo tuyến; Sơ đồ
công nghệ, bản vẽ dây chuyền công nghệ đối với công trình có yêu cầu công
nghệ; Bản vẽ phương án kết cấu chính, hệ thống kỹ thuật, hạ tầng kỹ thuật
chủ yếu của công trình, kết nối với hạ tầng kỹ thuật của khu vực.
Một bộ hồ sơ trình thẩm định Dự án đầu tư xây dựng công trình gồm: