Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.06 KB, 142 trang )

Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

1
MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
QUY ƯỚC VIẾT TẮT 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 7
2.1. Tác phẩm của Tố Hữu trước năm 1945 7
2.2.Tác phẩm của Tố Hữu từ năm 1945 đến nay 7
3. Mục đích nghiên cứu 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 11
7. Cấu trúc của luận văn 11
Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT 12
1. 1 Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ 12
1.1.1 Tín hiệu 12
1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ 16
1.3.3 Tín hiệu thẩm mĩ 19
1.1.4 Mối quan hệ giữa Tín hiệu, Tín hiệu ngôn ngữ và Tín hiệu thẩm mỹ . 22
1. 2 Những đặc tính của tín hiệu thẩm mỹ. 24
1.2.1. Đặc tính cấp độ. 24
1.2.2 Đặc tính tác động 25
1.2.3 Đặc tính biểu hiện 26
1.2.4 Đặc tính biểu cảm (bộc lộ) 28
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

2


1.2.5 Tính biểu trưng 29
1.2.6 Tính truyền thống và cách tân 30
1.2.7 Tính hệ thống 31
1.2.8 Tính đẳng cấu 33
1.2.9 Tính trừu tượng và tính cụ thể 35
1. 3 Tín hiệu thẩm mỹ và ngôn ngữ văn chương 38
1.3.1 Quan hệ giữa tín hiệu thẩm mỹ với ngôn ngữ văn chương 38
1.3.2 Tín hiệu thẩm mỹ văn chương 40
1.4 Tiểu kết 41
Chương 2: TÍN HIỆU THẨM MỸ BIỂU ĐẠT HÌNH TƯỢNG "BÁC HỒ"
TRONG THƠ TỐ HỮU Error! Bookmark not defined.
2.1. Kết quả thống kê về số lần xuất hiện của các THTM chỉ Bác Hồ 47
Bảng 2.1 Kết quả thống kê về số lần xuất hiện của các THTM chỉ Bác Hồ 47
2.2 Tín hiệu thẩm mỹ hằng thể “Bác” 48
2.3 Các biến thể của THHT "Bác" 51
2.3.1 Biến thể từ vựng của THHT "Bác" 51
2.3.2. Biến thể kết hợp của các THTM chỉ Bác 66
2.3.3. Biến thể quan hệ của các THTM chỉ Bác Hồ 78
2.4 Tiểu kết 86
Chương 3: TÍN HIỆU THẨM MỸ BIỂU ĐẠT HÌNH TƯỢNG “ANH BỘ ĐỘI”
TRONG THƠ TỐ HỮU 89
3.1. Kết quả thống kê về số lần xuất hiện của các THTM chỉ “Anh bộ đội” 92
3. 2 Tín hiệu thẩm mỹ hằng thể "Anh bộ đội" 93
3. 3 Các biến thể của THHT “Anh bộ đội” 97
3.3.1 Biến thể từ vựng của THHT "Anh bộ đội" 97
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

3
3.3.2 Biến thể kết hợp của các THTM chỉ “Anh bộ đội” 114
3.3.3 Biến thể quan hệ của các THTM chỉ “Anh bộ đội” 122

4. Tiểu kết 130
KẾT LUẬN 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

4

QUY ƯỚC VIẾT TẮT


Chữ viết tắt
Giải thích

TH

Tín hiệu
THHT

Tín hiệu hằng thể
THTM

Tín hiệu thẩm mĩ
THVC

Tín hiệu văn chương
YNTM

Ý nghĩa thẩm mĩ
BT


Biến thể
BTTV

Biến thể từ vựng
BTKH

Biến thể kết hợp
BTQH

Biến thể quan hệ
Cbh

Cái biểu hiện
Cđbh

Cái được biểu hiện

Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tín hiệu thẩm mỹ là một khái niệm có liên quan đến lý thuyết tín hiệu học
nói chung, lý thuyết ngôn ngữ học nói riêng, đặc biệt là những tín hiệu thẩm mỹ
có trong các tác phẩm văn chương. Một tín hiệu thẩm mỹ khi đi vào thế giới thơ
ca nghệ thuật đã được chuyển hoá thành một tín hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm
mỹ ngôn ngữ hay còn là tín hiệu văn chương.
Khi nghiên cứu giá trị tín hiệu thẩm mỹ cần phải nghiên cứu những biến
thể của nó qua mỗi lần xuất hiện và việc nghiên cứu hệ thống tín hiệu thẩm mỹ
cũng chính là nghiên cứu cấu trúc hình tượng của tác phẩm nghệ thuật. Tìm hiểu

các tín hiệu thẩm mỹ văn chương tức là phải tìm hiểu các yếu tố ngôn ngữ biểu
hiện chúng. Chính vì vậy, để hiểu và đánh giá đúng, có cơ sở khoa học một tác
phẩm văn học thì rất cần sự khảo sát, phân tích hệ thống các tín hiệu thẩm mỹ
trong tác phẩm văn học.
Chính vì thế gần đây vấn đề tín hiệu thẩm mỹ đã được các học giả trong
và ngoài nước quan tâm. Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và tín hiệu thẩm mỹ đã được
nghiên cứu trong các công trình của các tác giả như Hoàng Tuệ, Hoàng Trinh,
Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh Một số luận án tiến sĩ triển khai ngiên
cứu theo hướng này cũng đã khẳng định được ý nghĩa lý luận và thực tiễn của
hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học, đồng thời có những bổ sung
mới về lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ. Có thể kể đến các luận án của các tác giả như
Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim Anh, Lê Thị Hồng
Tuy nhiên ở Việt Nam việc nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ văn chương cũng
mới chỉ là bắt đầu.
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

6
Đứng về phương diện tác giả, tác phẩm, chúng ta đều biết Tố Hữu (1920-
2002) là một trong những nhà thơ lớn của thơ ca Việt Nam hiện đại. Các tác
phẩm chính của ông là Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận
(1962- 1971), Máu và hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999).
Tố Hữu là nhà thơ lãng mạn cách mạng, cả cuộc đời ông gắn bó với cách
mạng. Nếu mỗi nghệ sĩ là một người thư ký của thời đại, theo quan niệm của
Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng. Thơ ông là biên niên
sử cách mạng. Có thể lần theo dấu vết thơ ông mà hiểu được những bước thăng
trầm của cách mạng, của kháng chiến. Hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta
chung, lẽ sống lớn, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng. "Cái tôi", nếu có là
"cái tôi của người chiến sĩ", "cái tôi" nhân danh Đảng và dân tộc. Vì thế "cái tôi"
trong thơ Tố Hữu có ý nghĩa khái quát rộng lớn. Cảm hứng trong thơ Tố Hữu
thường bắt đầu từ cảm hứng chính trị, từ những tình cảm lớn lao, cao cả như

tình yêu lý tưởng, lãnh tụ, tình đồng bào, đồng chí.
Ngay từ khi mới xuất hiện, thơ Tố Hữu đã được đón nhận nồng nhiệt. Rất
nhiều bình diện thuộc di sản nghệ thuật của ông đã được nghiên cứu một cách
nghiêm túc và đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
thơ Tố Hữu từ góc nhìn lý thuyết tín hiệu học - lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ, cho
đến nay hầu như chưa có công trình nào.
Trong khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi chỉ chọn một vấn đề
trong số rất nhiều vấn đề của sự nghiệp thơ ca Tố Hữu, đó là tìm hiểu hình
tượng nghệ thuật được thể hiện qua các tín hiệu thẩm mỹ "Bác Hồ" và "Anh bộ
đội" trong thơ ông. Chúng tôi sẽ tìm hiểu vấn đề trên dưới bình diện ngôn ngữ
học. Việc áp dụng thành tựu ngôn ngữ học nói chung, tín hiệu học nói riêng, vào
đề tài này hy vọng sẽ đem lại những kết quả thú vị, góp phần làm rõ bức chân
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

7
dung tinh thần của nhà thơ Tố Hữu. Đồng thời, chúng ta cũng có thêm cơ sở để
khẳng định phương pháp đi đến với đặc trưng ngôn ngữ văn học là phải đi từ hệ
thống các đơn vị ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu nội dung
tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ trong văn học Vấn đề tín hiệu thẩm mĩ được nghiên
cứu thấu đáo chắc chắn sẽ là tiền đề giúp các nhà nghiên cứu tiếp tục soi chiếu
vào các hiện tượng văn học khác.
Thêm nữa, Tố Hữu là một tác gia có nhiều tác phẩm được đưa vào giảng
dạy trong chương trình phổ thông. Vì vậy đề tài luận văn có ý nghĩa thực tiễn to
lớn và rất hữu ích đối với việc dạy và học của giáo viên và học sinh trong nhà
trường.
2. Lịch sử vấn đề
Về tổng thể lịch sử nghiên cứu thơ Tố Hữu có thể chia làm 2 thời kỳ lớn
theo dòng lịch sử của dân tộc: Trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
Thơ Tố Hữu liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng và giải phóng dân
tộc. Các chặng đường thơ ông song hành với các giai đoạn lịch sử.

2.1. Tác phẩm của Tố Hữu trước năm 1945
Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946) là chặng đường sáng tác đầu tiên kéo dài
mười năm của Tố Hữu, cũng là 10 năm hoạt động sôi nổi say mê, từ giác ngộ
qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên yêu nước trong một giai
đoạn lịch sử sôi động. Tập thơ gồm 3 phần tương ứng với ba chặng đường hoạt
động của Tố Hữu trước năm 1945. Với tập thơ này đa số các ý kiến đều tập trung
vào đề tài, hình thơ, tâm trạng thơ…với không ít những lời ca ngợi, biểu dương.
2.2.Tác phẩm của Tố Hữu từ năm 1945 đến nay
Tiếp nối với Từ ấy là hàng loạt các tác phẩm như Máu lửa ca ngợi lý tưởng
cộng sản, kêu gọi quần chúng đứng lên đấu tranh. Xiềng xích ghi lại cuộc đấu
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

8
tranh cam go của người chiến sĩ trẻ tuổi trong nhà tù thực dân. Phần này thể hiện
sự vững vàng của Tố Hữu, đồng thời cũng bộc lộ một tâm hồn yêu đời tha thiết.
Giải phóng thể hiện niềm vui chiến thắng, ca ngợi sự thành công của cách mạng.
Việt Bắc (1947-1954)- giải nhất của Hội nhà văn Việt Nam 1954-1955, là chặng
đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Pháp. Tập thơ ca ngợi
cuộc sống, con người kháng chiến, quá trình trưởng thành và thắng lợi của nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Gió lộng (1955-1961) là tiếng hát
ca ngợi cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, bộc lộ nỗi niềm tha thiết
với miền Nam, đồng thời thể hiện ý chí thống nhất đất nước, tình cảm quốc tế vô
sản. Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977) là hai tập thơ ra đời trong
thời kỳ cả nước chiến đấu kiên cường, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước. Cả hai tập thơ khẳng định phẩm chất Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, đồng
thời là khúc ca khải hoàn kết thúc cuộc chiến đấu, Bắc Nam một nhà, non sông
một dải. Một tiếng đàn (1992), Ta với ta (1999) đánh dấu bước chuyển mới trong
thơ Tố Hữu. Ông hướng ngòi bút vào cuộc sống đời thường. Nếu Từ ấy là tiếng
hát của một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi thì hai tập thơ trên thể hiện những chiêm
nghiệm của một con người từng trải. Sau bao nhiêu biến động, Tố Hữu vẫn vững

tin vào lý tưởng cách mạng. Giai đoạn này có rất nhiều bài tìm hiểu, bình luận,
nghiên cứu về thơ Tố Hữu, tất cả đều đánh giá và khẳng định sự đóng góp lớn
lao của thơ ông vào tiến trình hình thành và phát triển của thơ ca cách mạng. Tuy
nhiên hầu hết các công trình nghiên cứu đều được soi chiếu dưới góc độ văn học
sử, lý luận văn học, lý thuyết làm văn là chủ yếu.
Vấn đề tín hiệu thẩm mỹ là vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài mà
luận văn nghiên cứu, từ lâu đã được các ngành nghệ thuật, đặc biệt là ngữ văn
học và ngôn ngữ học đề cập đến. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như M.B
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

9
Khrapchenkô, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Lai, Trần Đình Sử, Đỗ Việt Hùng, Nguyễn
Thị Ngân Hoa, Hoàng Trinh…Đây là vấn đề mang tính chất liên ngành, được
nhìn nhận từ nhiều góc độ. Việc vận dụng lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ vào nghiên
cứu văn chương cũng đã được chú ý từ những năm 80 của thế kỷ trước với
những luận án, luận văn của các tác giả như Đinh Văn Thiện với tác phẩm Khảo
sát các nét nghĩa biểu trưng của các từ chỉ hiện tượng thiên nhiên (1983), Lê Thị
Hồng, Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Huy Cận (1983), Trương Thị
Nhàn: Tìm hiểu gía trị biểu trưng của một số từ chỉ hiện tượng thiên nhiên trong
tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1984) Lê Thị Tuyết Hạnh, Một số tín hiệu
thẩm mỹ trong thơ Xuân Quỳnh (1990). Nguyễn Thu Trang, Các tín hiệu thẩm
mĩ "Bác Hồ" và "Tổ quốc" trong thơ Chế Lan Viên (2008)… Những công trình
nghiên cứu trên cũng đã thu được ít nhiều kết quả khả quan đồng thời góp thêm
tiếng nói thiện ý đối với các vấn đề tín hiệu thẩm mỹ trong văn chương. Luận án
tiến sĩ của tác giả Trương Thị Nhàn: Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của tín hiệu
thẩm mỹ không gian trong ca dao, luận án tiến sĩ của Phạm Thị Kim Anh: Tín
hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “cây” trong thơ Việt Nam cũng đã vận dụng
các cơ sở lý thuyết về tín hiệu, hoạt động giao tiếp, về hệ thống, trường nghĩa, về
ngôn ngữ liên hội để xem xét các tín hiệu thẩm mỹ văn chương. Và đặc biệt là sự
ra đời của cuốn sách Tín hiệu thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn học của Mai Thị

Kiều Phượng, xuất bản năm 2008…đã có những đóng góp nhất định vừa mang
tính chất bổ sung vừa là bằng chứng xác thực khẳng định ưu thế của hướng
nghiên cứu này.
Tuy nhiên, nếu như các công trình nghiên cứu các tác phẩm thơ Tố Hữu
dưới góc độ văn học phải kể đến hàng trăm (bao gồm các cuốn sách, các bài báo,
chuyên khảo, tiểu luận, phê bình, luận án, luận văn…) thì các công trình nghiên
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

10
cứu về hiện tượng thơ Tố Hữu dưới góc độ lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ hầu như
vẫn còn vắng bóng. Do đó, với đề tài này, luận văn mong muốn góp thêm một
tiếng nói cho hướng nghiên cứu mới về hiện tượng văn học rất đỗi phức tạp và lý
thú nhưng hầu như vẫn còn bỏ ngỏ này.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tiến hành tìm hiểu các hình tượng nghệ thuật được thể hiện qua
các tín hiệu thẩm mỹ “Bác Hồ” và “Anh bộ đội ” trong thơ Tố Hữu. Nói một
cách khái quát, đó là việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ- hệ
thống với thực tiễn hành chức trong một loại hình văn học cụ thể: thơ ca. Mục
đích của luận văn nhằm tìm hiểu về lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ và cơ chế hình
thành, giải mã tín hiệu thẩm mỹ gắn với cấu trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và
phong cách tác giả. Từ đó luận văn áp dụng lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ và một số
lý thuyết liên ngành khác vào khảo sát những tín hiệu cụ thể làm đại diện nhằm
rút ra những vấn đề có tính nguyên lý chung trong việc xử lý các tín hiệu thẩm
mỹ trong văn học để phân tích các hình tượng văn học được chúng phản ánh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các tín hiệu thẩm mỹ "Bác Hồ" và "Anh bộ đội"
trong thơ Tố Hữu. Phạm vi tư liêụ được khảo sát là toàn bộ thơ Tố Hữu. Ngoài
ra chúng tôi cũng trích dẫn một số câu thơ của những nhà thơ cách mạng khác
cùng thời với ông để làm cứ liệu so sánh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa lý thuyết về tín hiệu thẩm mỹ để làm cơ sở cho việc nghiên
cứu.
- Phân tích ý nghĩa thẩm mỹ của các THTM "Bác Hồ" và "Anh bộ đội"
trong thơ Tố Hữu.
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

11
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và sự kết hợp các phương pháp
sau:
- Vận dụng những thành tựu về lý luận của ngôn ngữ học truyền thống và
ngôn ngữ học hiện đại, nhất là ngữ dụng học kết hợp với lý thuyết tín hiệu
thẩm mỹ, lý luận văn học, thi pháp học nhằm tiếp cận và luận giải vấn đề được
nghiên cứu.
- Vận dụng các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu ngôn ngữ học đặc thù:
Thống kê, phân loại, phân tích diễn ngôn, phân tích ý nghĩa của từ trong ngữ
cảnh được sử dụng theo lý thuyết ngữ dụng học.
Trên cơ sở đó luận văn đã phân tích các tín hiệu thẩm mỹ "Bác Hồ" và
"Anh bộ đội" trong toàn bộ các tập thơ của Tố Hữu.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành
ba chương:
Chương 1: Những tiền đề lý thuyết
Chương 2: Tín hiệu thẩm mỹ biểu đạt hình tượng “Bác Hồ” trong thơ Tố
Hữu.
Chương 3: Tín hiệu thẩm mỹ biểu đạt hình tượng “Anh bộ đội” trong thơ
Tố Hữu





Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

12
Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT

1. 1 Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ
1.1.1 Tín hiệu
Trong cuốn Những cơ sở lý thuyết về tín hiệu xuất bản năm 1936,
Ch.W.Morris đã hệ thống hóa và xây dựng một lý thuyết tổng quan về tín hiệu.
Ông chia ra ba chiều của tín hiệu. Thứ nhất là chiều kết học, thứ hai là chiều
nghĩa học, thứ ba là chiều dụng học. Chiều kết học nghiên cứu các tín hiệu trong
mối quan hệ với các tín hiệu khác. Chiều nghĩa học nghiên cứu các tín hiệu trong
mối quan hệ với các sự vật bên ngoài hệ thống tín hiệu. Chiều dụng học nghiên
cứu các tín hiệu trong những mối quan hệ với người sử dụng nó. Ba thuật ngữ
này thật sự có giá trị định hướng nghiên cứu cho tín hiệu học, bởi vì chúng phát
hiện ra những phương diện cơ bản của tín hiệu và thông điệp.
Có thể nói tín hiệu được sử dụng rất nhiều trong thực tế cuộc sống, điển
hình như tiếng kẻng báo giờ học, biển vẽ trên đường giao thông, tín hiệu hàng
hải, các ký hiệu trong toán học, hóa học, vật lý Con người thường dùng một cái
gì đó làm tín hiệu thay thế cho một cái gì khác hoặc thay thế cho một khái niệm
trừu tượng. Từ đó xuất hiện rất nhiều quan niệm khác nhau về tín hiệu.
P. Guiraud đã định nghĩa tín hiệu theo nghĩa rộng “Một tín hiệu là một
kích thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức của một kích
thích khác” [dẫn theo [5, tr51]. Sở dĩ định nghĩa này được xem là rộng bởi vì nó
bao gồm cả những tín hiệu theo nghĩa hẹp, cả những tín hiệu “nhận biết” và cả
những tín hiệu “giao tiếp”, có tính bản năng của loài vật.
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu


13
A. Schaff lại định nghĩa tín hiệu theo nghĩa hẹp “Một sự vật vật chất hay
thuộc tính của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành tín hiệu nếu như trong quá
trình giao tiếp, nó được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một
ngôn ngữ để truyền đạt lại một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới bên
ngoài hay về những cảm thụ nội tâm ”(Dẫn theo [5, tr 51]). Định nghĩa của
A.Schaff hẹp vì ông chỉ thừa nhận là tín hiệu khi nó mang chức năng giao tiếp
được con người sử dụng nhằm trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình trong đời
sống. Theo ông, những tín hiệu không có chức năng giao tiếp thì không được
xem là tín hiệu.
Quan niệm về tín hiệu của F. De. Sausure lại khác với cách hiểu của
Peirce. Theo F.de. Saussure, tín hiệu là hai mặt của cái biểu hiện (hình thức vật
chất cảm tính) và cái được biểu hiện (nội dung ý nghĩa). Hai mặt này "gắn bó
khăng khít với nhau, không có cái này là không thể có cái kia" [64, tr 121].
Qua phân tích các định nghĩa, chúng tôi thấy các ý kiến đều có sự thống
nhất rằng một sự vật hay hiện tượng muốn trở thành tín hiệu thì nó phải nằm
trong quan hệ với những sự vật khác. Chúng tôi chấp nhận định nghĩa về tín hiệu
của tác giả Mai Thị Kiều Phượng trong cuốn sách “Tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn
ngữ văn học”: Tín hiệu là một yếu tố vật chất ( một sự vật, một thuộc tính vật
chất hoặc một hiện tượng ) kích thích vào giác quan của con người, làm cho
người ta tri giác được, suy diễn được và lý giải được, để thông qua đó biết về và
biết tới một cái gì khác ở ngoài sự vật đó.[43, tr.39, 40].
Một tín hiệu cần phải thỏa mãn các điều kiện:
Đầu tiên, tín hiệu phải có tính vật chất. Vật chất đó là một sự vật hoặc là
một thuộc tính vật chất như âm thanh, màu sắc, ánh sáng, vật thể. Đồng thời
thuộc tính vật chất ấy phải có chức năng kích thích đến giác quan của con người
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

14
và được con người cảm nhận bằng chính giác quan của mình. Ví dụ như: hai đặc

vụ vì nhiệm vụ bí mật không hề quen biết nhau, họ muốn thực hiện nhiệm vụ
trao đổi thông tin cho nhau, bằng cách người này liên lạc với người kia bởi một
dấu hiệu vật chất được quy ước trước, có thể là một ám hiệu nào đó. Chính dấu
hiệu này đã kích thích vào giác quan của họ, được họ cảm nhận, giúp họ suy
diễn, lý giải thì họ mới có thể nhận ra nhau. Ở đây chúng ta cũng cần phân biệt,
tín hiệu của loài người với tín hiệu cũng được cảm nhận bằng giác quan của loài
vật, nhưng đó chỉ là phản xạ có điều kiện của loài vật mà thôi. Chẳng hạn, cứ
đến giờ cho ăn ta đánh kẻng, khi tiếng kẻng vang lên con chó chạy đến để ăn hay
khi vỗ tay đàn cá đến gần bờ Những tiếng kẻng đó hay tiếng vỗ tay có thể trở
thành tín hiệu của loài cá hoặc loài chó nhưng không phải là tín hiệu như tín
hiệu của con người.
Thứ hai, tín hiệu phải mang nghĩa. F.Guiraud quan niệm: Ý nghĩa của cái
được gợi ra trong tín hiệu bao giờ cũng là một thực thể tâm lý thuộc tinh thần.
Chẳng hạn hệ thống đèn giao thông đỏ, vàng, xanh, đóng vai trò là cái biểu hiện,
nó có chức năng gợi ra hình ảnh tinh thần khác không phải là chính bản thân nó
mà là gợi cho người tham gia giao thông một nội dung khác là “dừng lại” và
“chuẩn bị đi”
Thứ ba, tín hiệu phải mang tính dụng học, tức tín hiệu phải được các chủ
thể tiếp nhận và lý giải được, ví dụ như tiếng kẻng vang lên trong sân trường đối
với học sinh là tín hiệu báo hiệu giờ học khác với tiếng kẻng vang lên trong sân
đình hợp tác xã nông nghiệp báo hiệu giờ đi làm.
Thứ tư, tín hiệu phải được con người nhận thức trong mối quan hệ hai mặt
của nó, tức là người ta buộc phải liên tưởng được cái biểu hiện với “một cái gì
đó” là "cái được biểu hiện". Tính liên tưởng hai mặt này là một điều kiện không
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

15
thể thiếu của tín hiệu. Nói cách khác, nếu không có điều kiện này thì một sự vật
không thể được nhận thức để trở thành tín hiệu.
Dưới đây, chúng tôi sẽ nêu ra một số cách phân loại tín hiệu của các nhà

ngôn ngữ học: Ch.S.Pierce, Morris, A.Chaff, P.Guiraud và của Đỗ Hữu Châu.
Ch.S. Peirce chia tín hiệu thành 10 loại lớn, mỗi loại lớn lại chia thành
nhiều loại nhỏ (tất cả khoảng 60 loại), dựa vào những tiêu chí có khi chồng chéo
nhau, nhưng chủ yếu vẫn là 3 loại chính: tín hiệu (symbole), hình hiệu (iconet)
và dấu hiệu (indices).
Morris dựa vào mối quan hệ giữa tín hiệu với sự biểu thị các loại sự vật
của tín hiệu mà chia thành 2 loại tín hiệu: chỉ hiệu và định hiệu (tín hiệu nêu đặc
trưng, đặc tính). Các chỉ hiệu như những động tác chỉ trỏ, tín hiệu giao thông hay
các từ chỉ xuất trong ngôn ngữ có tác dụng chỉ ra hướng hoặc xác định vị trí
không gian, thời gian của sự vật đối với nhân vật giao tiếp. Sau đó, ông lại chia
các định hiệu ra thành hình hiệu và biểu trưng (symbole).
A.Schaff xuất phát từ cơ sở chỉ xem tín hiệu gắn liền với chức năng giao
tiếp nên ông đã tiến hành phân loại như sau, đầu tiên, ông chia tín hiệu thành 2
loại: tín hiệu tự nhiên và tín hiệu nhân tạo. Tín hiệu nhân tạo còn được coi là tín
hiệu đích thực, trong tín hiệu đích thực còn được chia thành tín hiệu từ và tín
hiệu thực có khả năng bộc lộ nhất định. Sau đó, tín hiệu thực có khả năng bộc lộ
nhất định lại được chia thành ra lệnh hiệu và định hiệu. Các định hiệu lại được
chia thành các định hiệu đích thực và các symbole.
F.Guidaur từ 1950 đã đưa ra một bảng phân loại các tín hiệu. So với
những kết quả phân loại trước, cách phân loại của F.Guiraud có nhiều ưu điểm
hơn. Ông phân chia tín hiệu dựa trên mối quan hệ giữa thực tế nhận thức của con
người. Trong đó, tác giả quan tâm tới những tín hiệu biểu hiện (tín hiệu không
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

16
giao tiếp). Những tín hiệu biểu hiện về bản chất là các hình hiệu và chức năng
của chúng không phải là công cụ giao tiếp mà là công cụ để phản ánh, miêu tả
thực tế khách quan. Ví dụ như bức ảnh, bản nhạc,v v Chúng là sản phẩm của
các loại hình nghệ thuật và thuộc đối tượng nghiên cứu của nghệ thuật học.
P.Guiraud tiếp tục phân chia tín hiệu thành tín hiệu tự nhiên (là đối tượng của

khoa học tự nhiên) và tín hiệu nhân tạo. Trong tín hiệu nhân tạo ông lại chia
thành tín hiệu không giao tiếp và tín hiệu giao tiếp. Ông còn dựa theo đặc tính
thể chất của tín hiệu mà phân chia các tín hiệu thành tín hiệu thị giác, tín hiệu
thính giác, tín hiệu xúc giác. Theo đặc tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, ông
chia tín hiệu thành tín hiệu thứ cấp (còn gọi là ký hiệu) và tín hiệu sơ
cấp Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn nhau của các loại tín hiệu.
Đỗ Hữu Châu xem tín hiệu là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các
phương diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau. Ông đưa
ra những tiêu chí phân loại sau:
1/ Dựa vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện
2/Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu
3/Dựa vào mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện
4/ Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu.
Dựa vào mặt thể chất của tín hiệu có thể phân chia ra được cái loại tín hiệu
như: tín hiệu màu sắc, tín hiệu âm thanh v v Trong đó tín hiệu ngôn ngữ được
coi là một loại tín hiệu đặc biệt.
1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ
Tín hiệu ngôn ngữ (THNN) luôn nằm trong ba mối quan hệ chính: quan
hệ giữa các tín hiệu với tín hiệu, quan hệ giữa tín hiệu với thực tế, quan hệ giữa
tín hiệu với nhân vật giao tiếp. Ba quan hệ này hình thành ba lĩnh vực nghiên
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

17
cứu: cú học, nghĩa học và dụng học. Ba bình diện này luôn đặt trong mối quan hệ
khăng khít với nhau, không có cái này là không thể có cái kia.
Một cái gì đó để trở thành tín hiệu ngôn ngữ nó phải thỏa mãn các điều
kiện sau:
Thứ nhất, THNN được xây dựng từ hai thể chất (thể chất vật chất và thể
chất tinh thần). Thể chất vật chất là các âm thanh do bộ máy phát âm của con
người phát ra và các âm thanh ấy được ký hiệu lại bằng hệ thống văn tự; thể chất

tinh thần là những hiểu biết về các thuộc tính của sự vật, hiện tượng và những
hiểu biết về mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng do tư duy mang lại. Các thuộc
tính vật chất ấy của tín hiệu ngôn ngữ phải có chức năng kích thích đến giác
quan của con người, sau đó được con người cảm nhận, giúp họ suy diễn, lý giải
các nội dung mà tín hiệu mang lại.
Thứ hai, THNN phải có hình thức âm thanh hoặc chữ viết, có chức năng
gợi ra, đại diện, thay thế cho một cái gì đó khác với nó, không phải là chính bản
thân hình thức âm thanh hoặc chữ viết đó.
F.de Sausure xác định tín hiệu ngôn ngữ như sau: "Tín hiệu ngôn ngữ kết
liền thành một, không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với
một hình ảnh âm thanh", hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái
này là có cái kia (khái niệm được gọi là cái được biểu hiện (cđbh) và hình ảnh
âm thanh gọi là cái biểu hiện (cbh) [64, tr 121]. Hai mặt này như hai mặt của một
tờ giấy, không thể tách rời nhau. Theo F.Sausure, “mối tương quan giữa cái biểu
hiện và cái được biểu hiện là võ đoán” và ông “chỉ muốn nói rằng nó không có
nguyên do, nghĩa là nó võ đoán đối với cái được biểu hiện, vì trong thực tế nó
không có một mối liên quan tự nhiên nào với cái đó” (Dẫn theo [49, tr122 và
124]. Ch.S.Pierce cũng có quan niệm tương tự. Ông cho rằng đại đa số tín hiệu
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

18
ngôn ngữ thuộc loại ước hiệu, loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa cái biểu đạt và
cái được biểu đạt là hoàn toàn võ đoán, không giải thích được nguyên do. Loại
tín hiệu này sẽ mất tư cách là tín hiệu nếu không có cái lý giải. Như vậy, THNN
là mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện, nội dung và hình thức,
âm thanh và ý niệm.
Khi nói tới tính hiện thực của hoạt động ngôn ngữ, Sausure chỉ rõ rằng:
“Thường người ta không nói bằng tín hiệu riêng lẻ, mà bằng từng nhóm tín hiệu,
từng khối có tổ chức, vốn cũng là tín hiệu” [64, tr 121]. Vấn đề “có tổ chức” ở
lĩnh vực ngôn ngữ mà ông đề cập đến ở đây chính là vấn đề về tính hệ thống-

một đặc tính làm nên bản chất tín hiệu của ngôn ngữ. Và giá trị của mỗi yếu tố là
do các yếu tố khác trong hệ thống quy định. Sau này, Ch.W. Morris cũng đồng
tình với Sausure về quan điểm cho rằng tất cả các tín hiệu đều nằm trong quan hệ
với các tín hiệu khác và quy định lẫn nhau. Do đó, các tín hiệu luôn nằm trong
một hệ thống nhất định. Ngôn ngữ là một loại tín hiệu đặc biệt nên nó cũng lập
thành một hệ thống với những cấp độ và quan hệ đặc thù của mình.
Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với
những thể chất tinh thần và vật chất, đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm
của con người làm ra [6, tr 753]. Đỗ Hữu Châu đặc biệt lưu ý vấn đề chức năng
và đặc tính đa chức năng của các tín hiệu ngôn ngữ so với các hệ thống tín hiệu
nói chung và tín hiệu mang chức năng giao tiếp nói riêng. Nếu như các tín hiệu
khác ở từng hệ thống chỉ thực hiện được một chức năng tín hiệu học thì ngôn
ngữ không chỉ thuần túy mang chức năng giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ
để tư duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự sống của con người và còn mang chức
năng thi pháp Trong đó chức năng giao tiếp được coi là chức năng xã hội quan
trọng nhất của ngôn ngữ. Đối với chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

19
chức năng khác nhau có liên quan đến các nhân tố khác nhau của hoạt động giao
tiếp: chức năng miêu tả, chức năng dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng
cú học. Chức năng giao tiếp và chức năng tư duy có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Mỗi đơn vị ngôn ngữ vừa phục vụ cho hoạt động giao tiếp vừa phục vụ
cho hoạt động tư duy. Có thể kể chức năng định danh là chức năng đặc trưng của
tín hiệu ngôn ngữ. Chức năng định danh chỉ riêng ngôn ngữ mới có.
Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý
nghĩa tín hiệu của chúng trên tất cả những đơn vị mang nghĩa như từ, cụm từ,
câu, đoạn văn, văn bản. Một từ ngữ hay một câu nói nào đó có thể vừa mang
những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ những đặc điểm
về địa phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lý của người nói v.v

Có thể nói, sự trình bày các vấn đề về tín hiệu và tín hiệu ngôn ngữ trên
đây là những tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục tìm hiểu đến vấn tín hiệu
ngôn ngữ thẩm mĩ và các đặc tính của nó.
1.3.3 Tín hiệu thẩm mĩ
Nghiên cứu tín hiệu ngôn ngữ thẩm mỹ là một vấn đề có tính liên ngành:
ngôn ngữ học, văn học, tín hiệu học, lý luận văn học, xã hội học, dân tộc học,
tâm lý học
Về mặt lý luận văn học, các nhà nghiên cứu chú ý đến đặc tính của ngôn
ngữ văn học để từ đó nêu lên những vấn đề liên quan đến tín hiệu thẩm mỹ
(THTM). M.B.Khrapchenco xem: nhân hóa, ẩn dụ, phúng dụ, tượng trưng,
những hình tượng nghệ thuật đã được mài mòn và cố định hóa về mặt ý nghĩa là
những ký hiệu thẩm mỹ.
Trong lý thuyết thông tin, THTM được quan niệm đồng nghĩa với cái đẹp.
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

20
Trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình văn học, THTM được coi là chất liệu
cấu thành nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học.
Trong lĩnh vực ngữ nghĩa học, THTM được coi là khái niệm mang tính
biểu trưng đồng thời chúng còn là phương tiện chuyển nghĩa tạo nghĩa mới.
Trong lĩnh vực dụng học, THTM nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu ngôn
ngữ thẩm mỹ với con người lý giải chúng, với các nhân vật giao tiếp trong tác
phẩm ngôn ngữ văn học và ngoài tác phẩm ngôn ngữ văn học.
Các nhà phong cách học có thể giới hạn khái niệm THTM trong phạm vi
hẹp hơn là những tín hiệu nghệ thuật chìa khoá có giá trị tổ chức để biểu hiện tư
tưởng tình cảm của bài văn hay những “thần cú”, những “nhãn tự”, những TH
ngôn ngữ mang phẩm chất thẩm mỹ, những đối thoại có tính thẩm mỹ trong văn
học v.v
Việc xác định thế nào là THTM vẫn là một câu hỏi lớn cho các nhà nghiên
cứu. Tuy nhiên, có một điểm chung là họ đều thừa nhận THTM là yếu tố thuộc

hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là những phương tiện nghệ
thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm mỹ, được chúng ta tiếp
nhận như là những tín hiệu đặc biệt, có khả năng kích thích mạnh đến thế giới
tinh thần của chúng ta (Dẫn theo [20, tr17]). Và chúng có tính chất vật thể hay
phi vật thể thì cũng phải có ý nghĩa thẩm mỹ và được sử dụng vào mục đích
thẩm mỹ.
Đỗ Hữu Châu đã đi vào những kiến giải cụ thể hơn về THTM. Theo ông,
ngôn ngữ THTM là phương tiện sơ cấp của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn
học là ngôn ngữ - THTM, cú pháp- THTM. Tín hiệu (TH) ngôn ngữ tự nhiên
trong văn học chỉ là hình thức- cbh của THTM. Hoặc có thể nói theo Đinh Trọng
Lạc là TH ngôn ngữ- văn học ấy đóng vai trò là hệ thống tín hiệu thứ nhất làm
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

21
cơ sở cho hệ thống tín hiệu thứ hai của THTM [29, tr137]. Còn Trần Ngọc Thêm
lại gọi nó là “mã hoá hai bậc”.
Như vậy, tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ
tự nhiên. Nếu như các tín hiệu ngôn ngữ chỉ giải quyết các nhiệm vụ tức thời thì
THTM không chỉ có tác dụng đó mà nó còn có tham vọng vươn tới cái muôn
đời. Nếu THNN thông thường có thể không trọn vẹn, đầy đủ thì THTM luôn
luôn là hiện tượng trọn vẹn, đầy đủ để tự nó có thể thuyết minh ý nghĩa của nó
trong môi trường giao tiếp văn học.
Để hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa TH ngôn ngữ và THTM, chúng ta có thể
tham khảo ý kiến của L.Hzelmslev về ngôn ngữ liên hội dựa theo sơ đồ sau (dẫn
theo [1, tr21]):


THTM



Cbh

TH ngôn ngữ

Cbh

Âm thanh
Cđbh
Ý nghĩa ngôn ngữ

Cđbh

Ý nghĩa thẩm mỹ


Dựa vào sơ đồ trên có thể hiểu rằng cả cbh và cđbh của THNN lại trở
thành cbh cho cđbh mới đó là ý nghĩa thẩm mỹ của THTM trong tác phẩm văn
học. Do đó, trong văn học không thể đánh đồng phương tiện văn học- THTM với
THNN thông thường được lấy làm chất liệu của tác phẩm văn học. Sự khác biệt
có tính vượt cấp này là do vai trò quyết định của chủ thể sáng tạo khiến cho
“cách dùng ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ của nhà văn có một vực thẳm
không vượt qua được" (dẫn theo [56, tr9]). Vì thế, việc nhận diện ra THTM
trong tác phẩm văn học là không dễ dàng.
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

22
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về THTM. Chúng tôi chấp
nhận cách hiểu về THTM như các tác giả Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim Anh
đã trình bày trong luận án tiến sĩ của mình: “THTM là TH thuộc hệ thống các
phương tiện biểu hiện của các ngành nghệ thuật, bao gồm toàn bộ những yếu tố

của hiện thực, của tâm trạng (những chi tiết, những sự vật hiện tượng, những
cảm xúc thuộc đời sống hiện thực và tâm trạng), những yếu tố của chất liệu (các
yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn chương, các yếu tố của chất liệu màu sắc
với hội hoạ, âm thanh có nhịp điệu với âm nhạc) được lựa chọn và sáng tác trong
tác phẩm nghệ thuật vì mục đích thẩm mỹ [39, tr26], [1, tr23].
1.1.4 Mối quan hệ giữa Tín hiệu, Tín hiệu ngôn ngữ và Tín hiệu thẩm mỹ
Có thể nói rằng TH, THNN và THTM là ba khái niệm có mối liên hệ
khăng khít với nhau, cái này là tiền đề, cơ sở cho sự xuất hiện của cái kia. Để
“một cái gì đó” trở thành TH thì nó phải có những sự kiện về tính vật chất, phải
gợi ra hoặc biểu thị cho một cái gì khác với chính nó, phải tác động vào một chủ
thể và được chủ thể tiếp nhận và lý giải được, phải nằm trong một hệ
thống Ngôn ngữ có đâỳ đủ những đặc điểm trên vì thế ngôn ngữ cũng là một
hệ thống TH nhưng là một hệ thống TH đặc biệt.
Vì là một hệ thống TH đặc biệt nên nó có một số đặc điểm sau:
THNN không chỉ mang quan hệ âm - nghĩa như các TH khác, nó còn chứa
đựng các TH khác: Phức thể âm – nghĩa, đến lượt nó lại có thể có một nghĩa mới
dẫn đến mối quan hệ âm- nghĩa + nghĩa, rồi phức thể thứ ba lại có thể có quan hệ
với một nghĩa mới. Chính vì thế, các đơn vị ngôn ngữ mới có khả năng tạo ra
hàng loạt các nghĩa như nghĩa bóng, hàm ngôn, hiển ngôn, ẩn ý khiến cho hệ
thống ngôn ngữ càng phong phú, phức tạp và có những khả năng diễn đạt to lớn
mà các hệ thống TH khác không thể có được.
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

23
Theo F.de Sausure, THNN mang tính võ đoán và mang tính hình tuyến.
Khi ngôn ngữ dùng để giao tiếp, chuỗi âm thanh được phát ra lần lượt nối tiếp
nhau vì thế người nghe phải tiếp nhận các đơn vị lần lượt theo trục thời gian.
Không như các TH khác như trong âm nhạc, hội hoạ ta có thể cảm nhận được
trực tiếp các THNN bằng các giác quan và tiếp nhận một lúc nhiều đơn vị.
Nếu như các hệ thống TH khác chỉ dùng ở một phạm vi nhất định thì TH

ngôn ngữ diễn đạt một lượng thông tin vô hạn trong mọi lĩnh vực giao tiếp.
Khi đi vào thế giới nghệ thuật, các TH thông thường sẽ chuyển hoá thành
THTM, mang những đặc thù nghệ thuật. THNN được coi là TH nguyên cấp còn
THTM là hệ thống TH thứ cấp, mà hệ thống thứ nhất sẽ được làm cái biểu đạt
cho hệ thống TH thứ hai. Trong đó, THNN là chất liệu của văn học, còn THTM
là phương tiện của văn học.
Khái niệm THTM bản thân đã bao hàm khái niệm TH và THNN. Tuy
nhiên, có sự khác biệt nhau ở chỗ nếu TH và THNN là khái niệm quan hệ thì
THTM vừa là khái niệm quan hệ vừa là khái niệm tự thân bởi bản thân nó đã
mang tính thẩm mỹ và khác THTM ở tính có lý do. Nếu như mối quan hệ giữa
hai mặt âm – nghĩa của THNN là hoàn toàn võ đoán, mang tính quy ước thì
THTM phải là những quan hệ có thể lý giải được. Chẳng hạn như đoạn trích sau
đây trong bài thơ “Nước non ngàn dặm” của Tố Hữu:
Con thuyền rời bến sang Hiên
Xuôi dòng sông Cái, ngược triền sông Biên
Trập trùng thác Lửa, thác Chông
Thác Dài, thác Khó, thác Ông, thác Bà
Thác bao nhiêu thác cũng qua
Thênh thênh là chiếc thuyền ta xuôi dòng
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

24
Từ nghĩa cơ bản của THNN “thuyền” là phương tiện giao thông nhỏ trên
mặt nước, hoạt động bằng sức người, sức gió đã biến đổi nội dung khái niệm do
cách kết hợp độc đáo giữa “chiếc thuyền” (chỉ sự vật cụ thể) với “trên đời” (chỉ
khái niệm trừu tượng) và đã biến đổi THNN trở thành THNN thẩm mỹ “thuyền”.
Quá trình lập mã và giải mã THNNTM “thuyền” đã buộc cả hai vai chuyển sang
nghĩa mới thuộc bình diện nghĩa thứ hai. Chính sự hiện thức hoá đồng thời của
cả hai bình diện nghĩa đã đem đến một rung cảm thẩm mỹ cho cả hai vai, nhất là
đối với người nhận hoặc người đọc khi nhận được những thông tin bổ sung mới

mẻ của THNNTM “thuyền”.
Như vậy, THTM phải là hệ thống cấu trúc ý nghĩa có hai bình diện nghĩa
trở lên, trong đó có một nghĩa là ý nghĩa từ vựng và nghĩa thứ hai là ý nghĩa hàm
ẩn mang giá trị lâm thời.
1. 2 Những đặc tính của tín hiệu thẩm mỹ.
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra THTM có 9 đặc tính chủ yếu sau đây:
1.2.1. Đặc tính cấp độ.
Có nhiều quan điểm về sự phân chia cấp độ THTM.
F.de Sausure cho rằng: “Thường chúng ta không nói bằng những TH riêng
lẻ mà bằng nhóm những TH, bằng khối có tổ chức cũng là TH”. Hay nói cụ thể
hơn, THTM phức là tổ hợp của nhiều TH đơn (mang ý nghĩa thẩm mỹ); đó có
thể là những hình tượng văn học, hình tượng nhân vật trong các tác phẩm, kể cả
các tác phẩm lớn.
Ví dụ, thành ngữ “Kiến bò miệng chén” và sự liên hệ của câu thơ trích
trong truyện Kiều sau đây
Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu
Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu

25
Nếu như thành ngữ “Kiến bò miệng chén” chỉ nói về cái luẩn quẩn của sự
vật, không thoát khỏi cảnh hiện tại và Nguyễn Du đã sử dụng thành ngữ này
bằng cách: đặt vào trong lời nói của Hoạn Thư khiến cho lời nói của thị toát lên
sự đáo để. Như vậy, nếu như thành ngữ trên là TH đơn thì câu thơ trên trong
truyện Kiều của Nguyễn Du là một TH phức.
Đỗ Hữu Châu phân biệt THTM ở hai cấp độ cơ bản sau:
a) Cấp độ cơ sở (TH đơn): ở cấp độ này THTM ứng với một chi tiết, một
sự vật thuộc thế giới khách quan, ví dụ như: Tổ quốc, Nhân dân, Mùa xuân, Mặt
trời đó là những THTM đơn có chức năng tham gia cấu tạo nên những THTM ở
cấp độ cao hơn trong tác phẩm văn học. THTM đơn được tạo nên từ các từ hay

cụm từ, hoặc có thể là những từ ngữ, thành ngữ, điển cố hay những hình ảnh đơn
lẻ, mang ý nghĩa thẩm mỹ.
b) Cấp độ xây dựng (TH phức): đó là THTM ứng với nhiều sự vật, hiện
tượng được xây dựng từ những TH đơn nhưng ý nghĩa không phải là kết quả của
phép cộng đơn giản những THTM đơn. Tín hiệu phức được tạo ra để biểu hiện
những ý nghĩa thẩm mỹ mới trong tác phẩm văn chương.
1.2.2 Đặc tính tác động
Thứ nhất, đặc tính tác động có cơ sở từ bản chất của TH là một “kích thích
vật chất”. P.Guiraud nói rằng: “Một TH là một kích thích mà tác động của nó
đến cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức từ một kích thích khác” (dẫn theo[6, tr 51].
Hiệu quả tác động của THTM trước hết hình thành nên những hình tượng nghệ
thuật. Do đó, hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của thế giới tinh thần phong
phú, sâu sắc của nhà văn được biểu hiện nhờ THTM.
Thứ hai, đặc tính tác động thể hiện ở chức năng giao tiếp nghệ thuật mang
tính đối thoại đặc thù của THTM. THTM luôn kích thích tác động vào đối tượng

×