Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Chân dung Thiệu Trị với tư cách là một tác giả văn học qua Đại Nam thực lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 91 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG




CHÂN DUNG THIỆU TRỊ VỚI
TƢ CÁCH LÀ MỘT TÁC GIẢ VĂN HỌC
QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam




Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Trần Ngọc Vƣơng




Hà Nội-2013


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu luận văn 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp của Luận văn 10
7. Cấu trúc Luận văn 11
PHẦN NỘI DUNG 12
CHƢƠNG 1. THIỆU TRỊ - THỜI ĐẠI VÀ CUỘC ĐỜI 12
1.1. Khái quát 12
1.2. Bối cảnh thời đại nhà Nguyễn 13
1.2.1. Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội 13
1.2.2. Tình hình văn học 18
1.2.2.1. Văn học hoàng đế trong lịch sử Việt Nam 18
1.2.2.2. Văn chương hoàng phái nhà Nguyễn 22
1.3. Vài nét về Thiệu Trị 26
1.3.1. Tuổi nhỏ mồ côi mẹ 26
1.3.2. Tuổi trưởng thành 27
1.3.3. Trị vì 28
1.3.4. Gia quyến 29
CHƢƠNG 2. HỆ THỐNG TÁC PHẨM VÀ NỘI DUNG VĂN CHƢƠNG
CỦA THIỆU TRỊ QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC 31
2.1. Hệ thống văn chƣơng Thiệu Trị 31
2.1.1. Theo Đại Nam thực lục 31
2.1.1.1. Thơ 32
2.1.1.2. Văn 36
2.1.1.3. Văn và thơ chung tuyển tập 37

2.1.1.4. Các thể loại khác 38
2.1.2. Theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu 40
2.1.2.1. Thơ 40
2.1.2.2. Văn 41
2.1.2.3. Thể loại khác 41
2.2. Nội dung chính trong văn chƣơng của Thiệu Trị 42
2.2.1. Văn chương tỏ lòng 43
2.2.1.1. Nỗi lòng với nước với dân 43
2.2.1.2. Tình yêu thiên nhiên 45
2.2.1.3. Tình cảm đối với người thân và quần thần 49
2.2.2. Văn chương tải đạo 55
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH - THI PHÁP VĂN
CHƢƠNG CỦA THIỆU TRỊ QUA ĐẠI NAM THỰC LỤC 58
3.1. Lý luận phê bình 58
3.1.1. “Sách nào cũng tin chi bằng không có sách” 58
3.1.2. Văn chương cổ “còn nhiều thiếu sót” 62
3.1.3. Văn chương phải có ý nghĩa và nghệ thuật 65
3.1.4. “Văn vật nước ta không kém gì Trung Quốc” 67
3.2. Nghiên cứu về thi pháp văn chƣơng 70
3.2.1. Thể thơ 70
3.2.1.1. Thể thuyền liên 70
3.2.1.2. Thể đảo ngược 72
3.2.1.3 . Thể cách của thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ và 9 chữ . 74
3.2.1.4. Thể cách của thơ 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ 76
KẾT LUẬN 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong nhiều năm trở lại đây, việc tìm lại, nhận thức lại những giá trị cổ
trong văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung đã trở thành những băn
khoăn trăn trở của nhiều nhà nghiên cứu. Để nhận thức đúng những giá trị của
văn học, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, nhiều học giả đã không ngần ngại
bỏ thời gian và công sức để tìm tòi và khảo cứu lại những giá trị đã bị bỏ qua.
Trong số đó, văn học triều Nguyễn đặc biệt là sự góp mặt của các tác giả
hoàng tộc như Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức là một trong những giá trị to
lớn mà chúng ta đã bỏ qua trong một thời gian khá dài.
Có lẽ khi nói đến triều Nguyễn, không ít người trong số chúng ta đã suy
nghĩ rằng “triều đại nhà Nguyễn, đó là nhà nước chuyên chế nhất trong lịch
sử” [22, tr. 13] là một triều đại bù nhìn, là tay sai cho giặc… Nhưng cũng
không nhiều trong số chúng ta thừa nhận rằng, triều Nguyễn với sự tồn tại gần
150 năm
1
, bắt đầu từ khi Nguyễn Ánh lật đổ Tây Sơn chính thức thành lập
triều đại nhà Nguyễn (1802) cho đến khi Bảo Đại thoái vị (1945) lại là một
triều đại có rất nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta hôm nay. Bên
cạnh những hạn chế, những sai lầm thì triều đại nhà Nguyễn cũng được nói
đến với những dấu ấn riêng mang phong cách văn hóa đặc trưng riêng cho
dân tộc. Các ông vua nhà Nguyễn đặc biệt rất coi trọng sách vở cũng như
quan tâm đến việc biên tập, in ấn và bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử. Năm
Minh Mệnh (1821), lần đầu tiên mở ra Sử quán, sai quan Sử thần làm bộ Thực
lục về các chúa triều Nguyễn và Gia Long Thế tổ Cao hoàng đế. Và từ đó các
vua nhà Nguyễn sau khi lên nối ngôi đều lần lượt theo truyền thống này, vua
sau làm lịch sử về vua trước, chính cách làm đó đã giúp cho nhà Nguyễn để
lại một khối lượng di sản văn hoá cho Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói

1
Ở đây chúng tôi không tính cả giai đoạn các chúa Nguyễn (từ Nguyễn Hoàng đến Nguyễn Phúc Ánh).



2
chung. Nhà Nguyễn cũng để lại cho dân tộc Việt Nam nhiều tài liệu lịch sử
quý giá và có ý nghĩa như: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại
Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục, Lịch triều tạp kỷ, Lịch triều hiến chương
loại chí… Không những chú trọng về bảo tồn các di tích văn hoá, ghi chép lại
các sự kiện lịch sử mà các ông vua nhà Nguyễn còn rất quan tâm đến văn học,
“thơ phú của các vua so ra chẳng kém với bất cứ một thi gia nào đương thời,
nếu không nói là có phần lấn lướt”
1
. Theo Giáo sư Hà Như Chi trong cuốn
Việt Nam thi văn giảng luận có viết: “Các ông vua như Minh Mệnh, Thiệu
Trị, Tự Đức đều có thi tập và bốn ông Siêu (Nguyễn Văn Siêu), Quát (Cao Bá
Quát), Tùng (Tùng Thiện Vương), Tuy (Tuy Lý Vương) đã nổi tiếng là thi bá
của thời ấy”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Phê cho rằng, “Huế có cả một di
sản văn học có thể nói là đồ sộ của các ông vua và những thơ hoàng tộc trong
đó tiêu biểu là vua Minh Mạng, Thiệu Trị…
2
. Theo ông, gần đây đã có nhiều
nhà nghiên cứu chú ý đến văn chương nhà Nguyễn, nhưng đa phần tác phẩm
của họ đều viết bằng chữ Hán, đòi hỏi nhiều công phu dịch thuật - độc giả
rộng rãi đã mấy ai thấy, mấy ai “sờ” được những tác phẩm đó?
Như trên chúng tôi đã nói, triều Nguyễn rất coi trọng và luôn luôn cổ
vũ tinh thần sáng tạo văn học nên dưới thời nhà Nguyễn có một khối lượng
tác giả nổi tiếng từ vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức… cho đến các hoàng
tử, công chúa như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Vương Am, Mai Am
Công chúa…và các vương tôn quan lại như Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng
Tuân, Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản… Trong số đó, Thiệu Trị là một
minh chứng tiêu biểu. Thơ của ông được đánh giá cao trong giới học thuật,

“tuy số lượng không nhiều bằng vua cha nhưng lại cao cấp về mặt chữ nghĩa”
(Theo Trần Ngọc Vương). Cùng quan điểm đó, dịch giả Lê Nguyễn Lưu cũng

1
Nhóm tác giả, Thần kinh nhị thập cảnh – Thơ vua Thiệu Trị, Trung tâm Bảo tồn Di tích Huế và Nxb Thuận
Hóa, 1997.
2
Tham luận tham gia Hội thảo: “Vai trò của văn học nghệ thuật Huế trong dòng chảy văn hoá Huế - nhìn lại
và phát triển”


3
nghĩ rằng, thơ của vua Thiệu Trị còn hơn vua Minh Mệnh và Tự Đức về mặt
nghệ thuật. Ví dụ, trong tập Ngự chế cổ cách thi pháp với 157 bài, nhà thơ đã
sử dụng nhiều hình thức chơi chữ khác nhau rất trí tuệ. Hay chỉ với một bài
thơ chữ Hán “Vũ trung sơn thuỷ” (Non nước trong mưa) mà theo tác giả, nếu
dùng theo thể hồi văn liên hoàn, trắc bằng bốn vần, bài thơ có thể đọc thành
64 bài thất ngôn, ngũ ngôn. Bài thơ đã gây sự tò mò chú ý không chỉ các nhà
nghiên cứu trong nước mà còn ở nước ngoài, không chỉ về nghệ thuật mà còn
cả về nội dung.
Thơ Thiệu Trị thường được viết với cả tấm lòng chân thành, tha thiết
với tình yêu dành cho non sông đất nước, cho xứ Huế thân yêu, cho nhân dân,
và cả cho người cha của mình. Thơ ông không những cao cấp về mặt chữ
nghĩa, đặc sắc về nghệ thuật, hấp dẫn về nội dung mà còn có một khối lượng
tác phẩm đồ sộ. Thiệu Trị tuy chỉ làm vua có bảy năm (1841 - 1847), thọ 41
nhƣng số tuổi đó không thể tính hết đƣợc số tác phẩm mà nhà thơ để lại
cho đời.
Ngoài 4000 bài thơ được in trong rất nhiều tập khác nhau như Thiệu Trị
ngự chế thi tập, Thiệu Trị thánh chế Bắc tuần thi tập, Ngự chế vũ công thi
tập, Hoàng huấn cửu thiên… thì ông còn viết về văn, chế, biểu, bi, ký đặc biệt

hơn là ông đã biên tập, chỉnh sửa và rút ra các quy tắc về âm, vận, luật trong
nghệ thuật sáng tác với cuốn sách có nhan đề là Thiệu Trị văn quy tự vận hội
tập… Bên cạnh đó ông còn dành thời gian để đọc và luận bàn về văn học
Đông Tây cổ kim một cách uyên bác khiến cho nhiều học giả đương thời phải
gật gù công nhận. Những điều đó đủ chứng minh rằng Thiệu Trị là một tác
giả văn học, một học giả thực thụ mà chúng ta chưa có dịp tìm hiểu. Phải thừa
nhận rằng nếu không có một tâm hồn yêu văn chương, mẫn cảm nghệ thuật,
một tầm hiểu biết cũng như vốn văn chương rộng rãi thì Thiệu Trị không thể


4
làm được những điều đó. Chính khả năng sáng tạo, sự nghiên cứu, tìm tòi đó
của Thiệu Trị đã làm nên tư cách một tác giả văn học lớn ở ông.
Với những nhận thức trên, chúng tôi thật sự khâm phục và ngạc
nhiên trƣớc tài năng của vua Thiệu Trị. Ông xứng đáng được thế hệ hôm
nay và mai sau biết đến không chỉ với tư cách là một vị vua mà còn với tư
cách là một nhà thơ, nhà nghiên cứu. Tuy nhiên vì những quan điểm lệch lạc
trong quá khứ cũng như những khó khăn về mặt tư liệu mà ít học giả có cơ
hội tìm hiểu về thi sĩ này, điều này sẽ là “bước cản” cho chúng tôi trong việc
bước đầu tạo dựng nên chân dung của Thiệu Trị với tư cách là một tác giả văn
học. Nhưng nếu không nghiên cứu về Thiệu Trị có lẽ là một thiếu sót lớn
trong việc hình dung về bức tranh văn học trung đại, vì vậy chúng tôi quyết
định lấy Thiệu Trị làm đề tài cho luận văn của mình, với mong muốn bước
đầu phác dựng chân dung một tác giả văn học lớn mà lịch sử nghiên cứu văn
học đã “vô tình bỏ qua”, với hi vọng những giá trị thẩm mĩ đích thực sẽ được
đưa về đúng vị trí của nó. Từ đó chúng ta sẽ có được cái nhìn toàn diện hơn
về triều Nguyễn - một triều đại hỗn hợp giữa công và tội - một triều đại gây
sự tò mò khó lí giải cho các nhà nghiên cứu.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn Thiệu Trị làm đề tài cho luận văn
Thạc sĩ của mình với tiêu đề: Chân dung Thiệu Trị với tư cách là một tác

giả văn học qua Đại Nam thực lục.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ khi thi nhân còn sống, các tác phẩm của ông đã được các học
giả đương thời, đánh giá và biên tập và xin khắc in.
Tháng 10 năm 1842 quan Nội các đã tập hợp các bài thơ vua làm khi đi
tuần thú ra Bắc, biên tập thành tập Thánh chế Bắc tuần thi tập, các học giả đã
cho rằng: “đó là văn của đất. Tiếng vàng, tiếng ngọc điều lí trước sau, đó là
văn của thánh nhân. Nước ta, bờ cõi muôn dặm, núi sông thắng tích chỗ nào


5
cũng có. Năm nay, ngự giá ra Bắc, thăm mùa màng, hỏi việc nông, xem dân
tình, xét quan lại, làm phúc, ban ơn, dạy chính sự, sửa việc binh, phàm trải
qua chỗ nào đều thơ để ghi việc, tính được gồm 173 bài”, “bút pháp của thánh
thượng như tài khéo của thợ trời, thật nên tiêu biểu, khắc lời cao cả, ghi trên
tấm đá để trấn một phương, và làm áng văn để lưu truyền muôn đời” [51, tr.
416-417], “đùn đùn như mây Đường Nghiêu bay, sang sảng như đàn Ngu
Thuấn gảy, tiếng như vàng ngọc, phát làm thơ văn” [51, tr. 1061].
Tháng 9 năm 1847 vua Thiệu Trị mất, vua Tự Đức có làm bài văn bia
ca ngợi công nghiệp cai trị, ca ngợi văn chương của người “trong bảy năm
làm ra bốn tập thơ thánh chế, hai tập văn, cùng các tập Cổ kim thể cách, Tài
thành phụ tướng đều giãi tỏ những nghĩa ẩn vi, phát triển những nghĩa huyền
diệu, không phải những người chương cú tầm thường dòm được một phần
muôn” [51, tr. 1077]. Sau đó, nhà vua tiếp tục cho các quan khắc in những tập
thơ mà khi còn sống đang làm dở. Tự Đức cho rằng văn chương Thiệu Trị
như “là đồ sông Hà, thư sông Lạc tỏ bày như ánh sáng Mặt Trời của ngôi sao,
mở tỏ sự huyền bí của sáu kinh, mở ra đường lối dìu dắt cho trăm đời sau này.
Cổ võ hết lòng là một vận hội lớn, chính trị và giáo hoá đều tốt đẹp tươi sáng,
từ Đinh, Lý, Trần, Lê trở về trước, chưa có bao giờ” [52, tr. 101]. Đến tháng
12, vua Tự Đức bắt đầu cho quan tra cứu, biên tập và nhiều lần bổ khuyết bộ

Thực lục Chính biên Đệ tam kỷ
1
về Thiệu Trị. Đến 1877, cuốn sách được các
Sử quán Tổng Tài là Trần Tiễn Thành, Phó Tổng tài là Lê Bá Thận, Toản tu
Phạm Huy Bính biên tập xong và được Tự Đức cho khắc in trong năm đó.
Cuốn sách lần lượt ghi chép chi tiết nhiều sự kiện lịch sử của nước ta cũng
như tư tưởng, suy nghĩ và hành động của Thiệu Trị trong thời gian trị vì.
Ngoài ra, Thực lục Chính biên Đệ tam kỷ cũng giành nhiều trang ghi lại các
hoạt động văn chương, quá trình sáng tác, in ấn xuất bản và đặc biệt là cảm

1
Thực lục Chính biên đệ tam kỷ là một phần trong tuyển tập Đại Nam thực lục.


6
nhận của các học giả đương thời về nhà văn này. Bộ sách là một tài liệu lịch
sử quý giá đồng thời cũng được xem như là một tuyển tập về văn chương
Thiệu Trị có tính chất trọn vẹn kể từ đó cho đến ngày nay. Tuy nhiên, sự
nghiệp văn chương của ông ở trong bộ sách này chỉ ghi chép tản mạn và
không theo hệ thống và có phần giấu đi, vì vậy người đọc sẽ rất khó hình
dung được chân dung của ông với tư cách là một nhà văn.
Kể từ sau tuyển tập Đại Nam thực lục, nghiên cứu ở phương diện lịch
sử về Thiệu Trị - với tư cách là một vị vua đã được nhiều công trình thực
hiện, nhưng tư cách một nhà thơ, một học giả văn học của ông vẫn chưa có
nhiều công trình. Chân dung văn học của Thiệu Trị đã được đề cập đâu đó
trong một số bài báo, tạp chí nhưng khá mờ nhạt, ít ỏi, chưa có những phân
tích sâu sắc, cụ thể và tường tận về những khía cạnh cụ thể của đối tượng.
Phải đến 150 năm sau ngày Thiệu Trị mất (1847), người ta mới biết
rằng ông là một nhà thơ đầy tài năng qua công trình Thần Kinh nhị thập cảnh
của nhóm tác giả Phan Thuận Hóa, Phạm Đức Thành Dũng, Phan Thanh Hải

và Nguyễn Phước Hải Trung cùng phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố
đô Huế giới thiệu tới du khách - những người yêu mến Thiệu Trị nói riêng và
yêu mến phong cảnh Huế nói chung, về một tài năng còn chưa được để ý đến.
Đây là công trình đầu tiên giới thiệu về Thiệu Trị như một tác giả văn học.
Cuốn sách gồm hai phần: phần một giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự
nghiệp, phần thứ hai là dịch và chú giải, giới thiệu 20 bài thơ nổi tiếng tác giả
viết về phong cảnh Huế. Các nhà biên soạn đã “cố gắng nghiên cứu dịch thuật
Thần Kinh nhị thập cảnh, với những tư liệu gốc cùng những lời chú giải rõ
ràng kèm theo lời giới thiệu các thắng cảnh trên cùng nguồn gốc và diễn tiến
lịch sử của thắng cảnh đó” [1, tr. 8]. Tuy nhiên tuyển tập chỉ phản ánh được
một phần nhỏ trong tổng số sự nghiệp đồ sộ của Thiệu Trị. Ở đây vì một vài lí
do riêng nên mục đích của các tác giả là mong giới thiệu phong cảnh Huế


7
thông qua sáng tác của Thiệu Trị. Cuốn sách là sự tìm tòi tỉ mỉ và công phu,
đòi hỏi mất nhiều thời gian của nhóm tác giả đồng thời thể hiện niềm yêu
mến, sự tự hào của nhóm tác giả đối với người con đất Huế đầy tài năng văn
chương mà không mấy ai dễ dàng phát hiện này.
Năm 1972, đánh dấu sự phân tích về thi pháp văn chương Thiệu Trị
bằng bài viết của một học giả phương Tây, Pierre Daudin, trên Tạp chí của
Hội nghiên cứu Đông Dương. Bài viết đã giải ra 12 bài thơ thất ngôn bát cú từ
các cách đọc khác nhau của Vũ trung sơn thuỷ của Thiệu Trị. Đến, năm 1994,
nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Tân Phong, tìm ra đúng 64 cách, đúng như
Thiệu Trị đã từng nói khi sáng tác bài thơ này.
Năm 1998, với cuốn sách Tìm hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn trong bài
“Vũ trung sơn thuỷ” của Thiệu Trị của cố Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã khiến
người đọc bái phục trước đỉnh cao thi pháp của Thiệu Trị. Trong cuốn sách,
nhà nghiên cứu đã dành hết 450 trang để diễn giải, chú thích, sau đó đưa ra
128 cách đọc khác nhau về một bài thơ Vũ Trung sơn thủy của vua Thiệu Trị.

Đây là công trình nghiên cứu công phu, mang tính chỉ dẫn rất cao đối với
người nghiên cứu sau này, nhưng chỉ tiếc rằng công trình chỉ giới hạn nghiên
cứu về thi pháp trong một bài thơ, chứ chưa đi vào khai thác Thiệu Trị ở quy
mô rộng hơn, bao quát hơn.
Trên đây là những công trình có giá trị, bước đầu khắc họa cho độc giả
thấy được tài năng thơ của Thiệu Trị. Tuy nhiên, kể từ năm 1998 đến nay việc
nghiên cứu về Thiệu Trị lại bị chìm lắng, tên tuổi của ông được nhắc đến
trong những bài tham luận tại các hội thảo khoa học và tại một số bài báo
được đăng rải rác trên một số trang điện tử, tập chí, có thể kể: Tham luận của
nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Phê trong Hội thảo “Vai trò của văn học nghệ
thuật Huế trong dòng chảy văn hóa Huế - nhìn lại và phát triển”. Trong bài
viết Giáo sư đã đề cập đến vai trò của các ông vua trong nền văn học Huế, trong


8
đó có Thiệu Trị. Giáo sư đánh giá khá cao vai trò của Thiệu Trị nói riêng và văn
chương hoàng phái nói chung. Nhưng bài viết của ông chỉ mới dừng lại ở ngưỡng
giới thiệu khái quát. Bài viết này của Giáo sư đã gợi cho chúng tôi nhiều ý tưởng
trong việc hoàn thiện luận văn của mình. Tiếp đó, trên Tạp chí Hán Nôm, số 5
(84) - 2007 có bài viết “Vũ Trung sơn thủy” - Bài thơ độc đáo của Thiệu Trị, bài
viết nêu lên một số cách đọc khác nhau, từ những cách đọc ấy giúp chúng ta nhận
ra những nét độc đáo, kỳ bí của bài thơ, giúp người đọc hiểu thêm về thú chơi thơ
trong dòng văn hóa Việt.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về Thiệu Trị đã dần trở về
dĩ vãng, mặc dù thỉnh thoảng chúng tôi cũng đọc được một vài bài báo đăng
tải việc vừa tìm thấy bài văn bia Tây lãng hoàng thành của Thiệu Trị hay việc
năm 2007, hai nhà nghiên cứu Hán Nôm Thái Huy Bích và Trần Đình Vân
trong một chuyến điền dã đã phát hiện tấm văn bia gần hai trăm tuổi, trên đó
có khắc in bài “Thiết cảng” (Kênh Sắt) của Thiệu Trị…Giới trẻ ngày nay,
ngay cả các bạn bè của chúng tôi phần lớn không ai biết Thiệu Trị trên

phương diện văn học. Có chăng đôi ba lần đến Huế nhìn thấy một vài bản
khắc in trên các tấm bia ở cung điện, nhưng không mấy ai trong số họ có thể
biết được đó là những bài thơ của Thiệu Trị.
Như chúng tôi đã nói, ngoài một số công trình ít ỏi trên thì hầu như
không có công trình nào chuyên khảo, hay nghiên cứu về tác giả này. Còn các
bài báo, nghiên cứu, tham luận chủ yếu tập trung vào một tác phẩm chính đó
là “Vũ Trung sơn thuỷ” hoặc “điểm danh” tên Thiệu Trị trong hệ thống văn
chương hoàng phái mà thôi.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu luận văn
Xây dựng chân dung Thiệu Trị là một đề tài rộng và có nhiều cách thức
khác nhau để tiếp cận. Thiệu Trị vốn là một vị vua trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, sức ảnh hưởng của người không chỉ nằm trên phương diện của văn


9
chương mà còn trên nhiều bình diện như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá và
quan trọng hơn nữa là ảnh hưởng trong tiến trình hình thành và phát triển của
dân tộc. Đối với nhiều nhà nghiên cứu, văn học chỉ là một bộ phận nhỏ trong
tổng thể chân dung phức tạp của ông. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi
hướng tới tìm hiểu ông với tư cách một nhà văn, cụ thể, chúng tôi hướng tới
giới thiệu chân dung nhà văn Thiệu Trị và những đóng góp của ông đối với
nền văn học nước nhà.
Xác định đối tượng như vậy, luận văn của chúng tôi, ngoài việc rà soát
toàn bộ sự nghiệp văn chương Thiệu Trị, chúng tôi cũng hướng đến phác thảo
một bối cảnh thời đại để thấy sức chi phối của nó đối với ông, đồng thời, phác
dựng một cách khái quát thơ văn triều Nguyễn để thấy vị trí của Thiệu Trị
trong tổng thể mạch nguồn thơ văn hoàng phái từ Lý, Trần, Lê đến Nguyễn.
Xem xét những đóng góp của ông về mặt thi pháp đặc biệt là các thể thơ.
Về mặt tư liệu, chúng tôi dựa chủ yếu vào bộ sử Đại Nam thực lục (10
tập, Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb. Giáo dục, 2007) .

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tôi làm luận văn này với mục đích trước hết là giới thiệu tới bạn
đọc nói chung và những người yêu thích tài năng của Thiệu Trị nói riêng
những đóng góp to lớn của tác giả về lĩnh vực văn học. Mục đích cao hơn nữa
mà chúng tôi đang cố gắng hướng tới đó là góp phần bổ khuyết cho phả hệ
văn học được hoàn chỉnh, đầy đủ hơn. Tác phẩm của Thiệu Trị chủ yếu được
viết bằng chữ Hán, nên tôi hi vọng với những tập thơ mà chúng tôi đã hệ
thống hóa được, sẽ có những nhà nghiên cứu, các tổ chức dịch và giới thiệu
tác phẩm của ông tới cộng đồng, để nền văn hóa Huế nói chung và văn hóa
Hoàng phái nói riêng tới tay bạn đọc. Đồng thời từ đó, cũng có cái nhìn khách
quan và đầy đủ hơn về các ông vua triều Nguyễn. Có thể họ có những sai lầm
về chính trị nhưng chúng ta cũng không vì thế mà phủ nhận tài năng cũng như


10
vai trò của họ trong lịch sử Việt Nam. Hi vọng, với luận văn này chúng tôi sẽ
góp phần nhỏ của mình vào công cuộc nhìn nhận và xem xét lại những gì đã
qua để con người trong hiện đại đánh giá khách quan về quá khứ và hành
động đúng hơn trong tương lai.
Chính vì thế nhiệm vụ của chúng tôi trong luận văn này là bước đầu
sưu tầm tài liệu, sau đó xem xét các vấn đề sau:
Thứ nhất, tìm hiểu nguyên nhân, động lực, hoàn cảnh để Thiệu Trị trở
thành một tác giả, một học giả văn học.
Thứ hai, đặt văn chương Thiệu Trị trong hệ thống văn chương Hoàng
phái Việt Nam, để có cái nhìn khách quan theo chiều dài lịch sử.
Thư ba, cố gắng dựng nên chân dung đầy đủ và trọn vẹn về một tác giả
vốn chưa được mấy người biết đến.
Thứ tư, hệ thống hoá về nội dung và quan niệm thi pháp văn chương
của Thiệu Trị.
Thứ năm, xem xét cách nhìn nhận của Thiệu Trị đối các tác giả cổ của

Việt Nam và Trung Quốc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Do đặc trưng của đề tài, cũng như với mong muốn luận văn được trình
bày một cách khoa học, logic và hoàn chỉnh phương pháp mà chúng tôi lựa
chọn trước hết là tổng hợp, thống kê tài liệu dựa trên các tư liệu lịch sử để từ
đó phân loại đánh giá. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp so sánh,
cùng cách tiếp cận văn hóa học trong phân tích, đánh giá
6. Đóng góp của Luận văn
Với đề tài: Chân dung Thiệu Trị với tư cách là một tác giả văn học
qua “Đại Nam thực lục”, luận văn có những đóng góp chủ yếu sau:
- Nâng cao nhận thức của các bạn độc về văn chương Thiệu Trị nói
riêng và văn chương hoàng phái nói chung.


11
- Bổ sung thêm một chỗ khuyết trong dòng lịch sử văn học Việt Nam.
- Góp phần làm cho lịch sử nghiên cứu về thi pháp văn chương trung
đại Việt Nam phong phú và toàn diện hơn.
7. Cấu trúc Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo ra, phần Nội
dung của Luận văn bao gồm ba chương chính như sau:
Chương 1. Thiệu Trị - Thời đại và cuộc đời.
Chương 2. Hệ thống tác phẩm và nội dung văn chương của Thiệu Trị
qua Đại Nam thực lục
Chương 3. Quan điểm lý luận, phê bình - thi pháp văn chương của
Thiệu Trị qua Đại Nam thực lục.


12
PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1. THIỆU TRỊ - THỜI ĐẠI VÀ CUỘC ĐỜI
1.1. Khái quát
Mỗi một nhà văn, nhà thơ dù muốn hay không cũng không thể tách rời
thời đại và xã hội mà họ sống. Đời sống xã hội nuôi nấng tâm hồn, nhận thức,
suy nghĩ của họ, và bản thân họ phản ánh thời đại, nhận thức thông qua tác
phẩm - những đứa con tinh thần. Những đứa con tinh thần ra đời lại chịu quy
luật phản ứng dây chuyền này. Nói như thế để thấy rằng, xã hội, nhà văn và
tác phẩm không thể tách rời nhau mà luôn gắn bó khăng khít với nhau. Bối
cảnh thời đại sẽ là tác nhân không nhỏ trong việc hình thành nhân cách cá
nhân con người. Mặt khác, không gian văn hóa thời đại chi phối đến hành xử,
thị hiếu và mĩ cảm… của con người. Tuy nhiên thời đại không phải là yếu tố
duy nhất và quyết định mà quá trình hình thành nhân cách, tài năng còn là sự
kết hợp của nhiều nhân tố khác - ý thức hệ chi phối đến tư tưởng, không gian
văn hoá của gia đình, nền giáo dục và chính nội lực bên trong con người đó.
Trở lại với tác giả Thiệu Trị, chúng ta thấy Thiệu Trị sinh ra trong một
thời đại tương đối phức tạp về chính trị xã hội, thời đại của sự du nhập các
luồng gió mới từ châu Âu đặc biệt là Pháp, Bồ Đào Nha. Nhưng đây cũng là
giai đoạn mà văn chương đạt được nhiều đỉnh cao, đặc biệt là góp mặt của
nhiều tác giả, tác phẩm văn chương bằng chữ Nôm. Thiệu Trị ham mê sáng
tác văn chương, ham mê tìm tòi, nghiên cứu về các tác phẩm Đông Tây kim
cổ nhưng bản thân Thiệu Trị lại chủ yếu sáng tác văn chương bằng chữ Hán
và đạt đến “tuyệt đỉnh” (Theo Trần Ngọc Vương) trong thể loại này. Theo
chúng tôi, để làm nên một tác giả Thiệu Trị ngoài việc bị ảnh hưởng bối cảnh
thời đại thì trong bản thân ông cũng có thiên bẩm nghệ thuật, tài năng sáng
tạo cộng với những quan niệm, lý tưởng.


13
1.2. Bối cảnh thời đại nhà Nguyễn
1.2.1. Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội

Cuối thế kỷ 18 nửa đầu thế kỷ 19 là giai đoạn mà lịch sử Việt Nam trải
qua nhiều biến động, việc tranh giành quyền lực của hai tập đoàn phong kiến
Trịnh - Nguyễn kéo dài hàng trăm năm khiến cho lịch sử dân tộc rơi vào vực
thẳm, đời sống nhân dân cực khổ. Nhà Tây Sơn vừa lên đã ra tay giết hại rất
nhiều người thuộc phe phái Trịnh - Nguyễn, gieo rắc sự thù hằn ngày càng
gay gắt. Chính quyền Tây Sơn dù đã đánh bại chúa Nguyễn, chúa Trịnh,
thành lập chính quyền mới, nhưng chiến tranh giữa Tây Sơn và các dư đảng
của nhà Nguyễn tiêu biểu là Nguyễn Ánh vẫn tiếp diễn không ngừng. Nguyễn
Ánh là cháu nội của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gia tộc
bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, ông phải chạy trốn và tìm cách khôi phục
lực lượng để trả thù. Sau 25 năm với nhiều thất bại, phải cầu viện sự giúp đỡ
Xiêm La và Pháp, ông lấy được Nam Hà, lật đổ triều Tây Sơn, lên ngôi hoàng
đế, thống nhất Việt Nam. Nguyễn Ánh lên ngôi, định đô tại Phú Xuân, lấy
niên hiệu là Gia Long, đổi quốc hiệu là Việt Nam. Thời đại này nước ta có
cương thổ rộng lớn nhất, kéo dài từ biên giới Trung Quốc đến vịnh Thái Lan.
Sau khi lên ngôi, ông thay thế các cải cách có xu hướng tự do của Tây Sơn
bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo xu hướng Nho giáo. Đây là giai
đoạn mà Nho gia phát triển mạnh mẽ, khẳng định được vị thế của nó trong
nghệ thuật cai trị của Gia Long.
Gia Long cũng là người mở đường cho các ảnh hưởng của Pháp ở Việt
Nam qua việc nhờ họ xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội. Dưới
triều đại của ông, Việt Nam trở thành một quốc gia có thế lực quân sự hùng
mạnh ở Đông Dương, cùng với Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân
Lạp. Gia Long có rất nhiều lỗi lầm trong quá khứ như lưu vong ở Xiêm, kêu
sự ủng hộ ngoại quốc, bắt tay với Pháp trong nội chiến, trả thù tàn bạo triều


14
Tây Sơn nhưng nhờ chính sách “ngoại giao” với ngoại bang mà ông đã xây
dựng một đất nước hùng mạnh về quân đội, ổn định chính trị - xã hội. Trong

thời gian trị vì ông thực hiện nhiều công cuộc khai hoang ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long, đào kênh thoát nước Thụy Hà và sông Vĩnh Tế tạo thuận lợi
cho kinh tế nông nghiệp phát triển. Triều đại của ông đã xây dựng khối lượng
đê, kè, cống nhiều nhất so với trước.
Sau nhiều năm chinh chiến trên chiến trường, Gia Long tập hợp được
một đội ngũ quan võ hùng hậu, đến lúc lên ngôi ông nhận thấy triều đình rất ít
quan văn vì vậy ông bắt đầu tuyển dụng quan văn, khuyến khích quần thần
sáng tác thơ văn. Ông bắt đầu mở trường Quốc Tử giám ở Kinh đô để dạy con
em triều đình, lập văn miếu ở các trấn, doanh để thờ đức Khổng Tử… Năm
1807, ông mở thêm 6 trường thi Hương, đặt chức Đốc học, Giáo thụ, Huấn
đạo để coi việc giáo dục ở các trấn.
Tuy trong lòng nhân dân lúc này vẫn hướng vọng về nhà Lê, nhưng
tình hình chính trị trong những năm Gia Long về cơ bản là yên ổn. Trong
không khí yên bình đó Thiệu Trị được sinh ra, ông sinh năm 1807 khi triều
Gia Long chính thức tồn tại được năm năm. Đến năm Thiệu Trị 12 tuổi thì
Gia Long mất.
Sang thời Minh Mệnh tình hình chính trị chuyển biến theo một xu thế
xấu. Trong nước, có nhiều cuộc nổi dậy chống triều đình. Cụ thể, trong thời
Minh Mệnh có đến 250 cuộc nổi dậy như nổi dậy của Phan Bá Vành, Lê
Trọng Liên, Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Lê Văn Khôi… Tuy nhiên,
những cuộc nổi loạn đó nhanh chóng bị Minh Mệnh dẹp tan.
Minh Mệnh là ông vua năng động, quyết đoán, có nhiều cải cách trên
nhiều mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao. Ông cho tổ chức lại quân
đội, cử quan ra chỉ đạo khai hoang ở ven biển Bắc Kỳ và Nam Kỳ, lập nên hai
huyện Kim Sơn và Tiền Hải. Năm 1832, ông còn cho mở ngành tơ tằm Đại


15
Nam, bắt các quan lại ở các tỉnh phải xuất lúa giống ở trong kho cho nhân dân
vay để làm mùa sau. Ngoài ra, ông còn khuyến khích cải cách kỹ thuật công

nghiệp. Mặc dù có nhiều cố gắng cải cách về kinh tế, nhưng vì đất nước đã
trải qua một thời gian hoang tàn khá dài, cộng thêm chiến tranh liên miên nên
mọi cố gắng của Minh Mệnh cũng không giúp được nhiều cho đời sống nhân
dân, vì thế đời sống nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn như kỹ thuật canh
tác lạc hậu, thiếu đất đai để trồng trọt lại thêm nạn lũ lụt, hạn hán, vỡ đê.
Minh Mệnh là một người am hiểu Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh,
ông rất quan tâm đến việc học tập đặc biệt là việc dạy dỗ các hoàng tử trong
đó có Thiệu Trị . Năm 1822, ông mở lại các kì thi Hội, thi Đình ở kinh đô để
tuyển chọn nhân tài. Năm 1836, ông còn cho lập Tứ dịch quán để dạy ngoại
ngữ. Vì vậy, dưới thời Minh Mệnh chế độ Nho học, thi cử phát triển mạnh
mẽ. Minh Mệnh cũng là một học giả văn chương, từng làm thơ, soạn sách,
khuyến khích quần thần sáng tác và biên soạn sử sách, các sách dâng lên đều
được ông khuyến khích ban thưởng. Những khi có thời gian, ông có thói quen
đàm đạo văn chương, làm thơ sai các quan hoạ vần. Điều này đã ảnh hưởng
đến tư duy, suy nghĩ của Trường Khánh Công (sau này là vua Thiệu Trị) cũng
như nhiều hoàng tử khác, họ phần lớn là những nhà thơ nổi tiếng. Một gia
đình đế vương mà có nhiều tác giả nổi tiếng như thế này là một hiện tượng
xưa nay chưa từng thấy.
Về mặt ngoại giao, Minh Mệnh có chính sách hà khắc hơn Gia Long,
ông khước từ tiếp xúc với phương Tây, đưa ra các chiếu chỉ cấm đạo, tàn sát
hàng loạt các tín đồ Cơ Đốc giáo, ra sức củng cố chế độ lưu quan ở miền núi,
chủ trương mở mang thế lực ra nước ngoài, kiểm soát Chân Lạp. Kết quả là
Việt Nam trở thành một quốc gia hùng mạnh và có lãnh thổ rộng nhất so với
các đời trước. Dù còn nhiều khó khăn, song về cơ bản tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội dưới thời Minh Mệnh đã đi vào nề nếp.


16
Thiệu Trị lên ngôi (1841) may mắn được thừa hưởng một cơ nghiệp về
cơ bản đã đi vào ổn định. Sau khi lên ngôi, vua cho các quan kê cứu, khảo sát

những việc, những lệ từ triều Gia Long (1802 - 1819), Minh Mệnh (1820 -
1840), biên chép lại làm thành tắc lệ, về sau cứ thế mà làm. Mọi định chế về
pháp luật, hành chính, học hiệu, điền địa và quân đội đều được Thiệu Trị kế
thừa từ thời Gia Long, Minh Mệnh.
Mặt khác, nhà vua chú trọng về văn hoá, giáo dục và thi cử. Năm Thiệu
Trị thứ nhất (1841) bắt đầu mở Sử cục để biên tập, hiệu đính và khắc in các
bộ sử. Thời đại của ông đánh dấu sự ra đời của nhiều bộ sử có giá trị. Ngoài
việc khắc in các tập thơ của Minh Mệnh, của bản thân, ông còn cho in “Tiền
biên và Chính biên, bộ Thực lục, sửa Thực lục chính biên về Thánh tổ Nhân
hoàng đế” [51, tr. 579]. Năm 1844, cuốn Thực lục tiền biên về Liệt Thánh
làm xong (tức là phần Thực lục về các đời chúa Nguyễn: từ Gia Dụ đến Hiếu
Định). Ngoài ra, ông còn cho khắc in bộ Ngọc điệp, các bộ sách của các
hoàng đế Trung Hoa cũ. Về giáo dục, cũng có nhiều thành tựu đáng kể. Ví dụ
như tháng 4 năm 1847, nhà vua bắt đầu cho đặt chức đốc học tỉnh Phú Yên và
giáo thụ, huấn đạo các phủ huyện ở những tỉnh duyên biên như Cao Bằng,
Lạng Sơn và Thái Nguyên. Vua cho rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại
của triều đình”, “văn phong ngày một chấn khởi, nên mở rộng việc tác thành
nhân tài” [51, tr. 1000 - 1001]. Vì thế, dưới thời Thiệu Trị việc đặt nơi dạy
học đã phát triển rộng rãi trên hầu hết các tỉnh thành. Năm 1847, ông cho đặt
trường thi tại Gia Định. Từ khi lên ngôi chấn hưng văn trị, mở rộng khoa thi,
trong khoảng bảy năm mở luôn 11 khoa thi Hội, thi Hương, các đời ít thấy có.
Lâm Duy Thiếp một đại thần lúc bấy giờ nói rằng “từ đời cổ, đặt chế độ mở
khoa thi lấy nhân tài, không đời nào thịnh bằng đời nay, cho nên đời nay,
những người làm học trò đều muốn quyết thi cho đỗ, mà không muốn làm lại
viên, sáu bộ và các nha phải cần đến người làm việc. Có thể biết được văn
phong đời nay là thịnh” [51, tr. 1056].


17
Ngoài ra, ông còn khuyến khích quần thần sáng tác, hoạ vần. Mỗi khi

coi chầu giải quyết công việc xong, bao giờ ông cũng tụ họp các quần thần để
luận bàn văn chương thi pháp. Ông thường nói với quần thần “Ta muôn việc
ở mình, dù lúc mặt trời đã xế bóng, hay ban đêm, chưa lúc nào được nhàn rỗi,
còn ở những lúc chính sự thư thả, không lúc nào bỏ việc học, huống chi các
ngươi? Người đời xưa học sách cổ rồi ra làm quan, nghiên cứu kinh điển đến
cùng để sẽ dùng vào việc đời” [51, tr. 1038].
Cũng như thời Minh Mệnh, xã hội thời Thiệu Trị cũng phức tạp, chỉ
trong bảy năm mà có đến 50 cuộc nổi dậy nhưng may mắn được sự giúp đỡ
của các đại quan giỏi như Nguyễn Đăng Giai, Nguyễn Công Trứ, hầu hết các
cuộc nổi dậy được dẹp yên.
Về ngoại giao, ông giữ chủ trương hoà hảo nhưng không khuất phục
đối với nhà Thanh. Đối với Chân Lạp, Xiêm La trong những năm đầu mối
quan hệ có vẻ căng thẳng, nhưng sau khi Thiệu Trị cho rút quan lại và binh sĩ
đóng ở Chân Lạp thì mối quan hệ trở nên tốt đẹp hơn. Mặc dù Thiệu Trị giữ
thái độ hoà hảo đối với các nước bên ngoài, “để cho quân nhân được nghỉ
ngơi” [51, tr. 968], nhưng trong những năm này nhà Nguyễn bắt đầu phải đối
mặt các thế lực phương Tây, đặc biệt là Pháp. Thời Minh Mệnh, vua có
những chính sách hà khắc đối với việc truyền đạo như giết các giáo sĩ truyền
đạo, giam cầm một số thương gia người Pháp… nên cuối đời Thiệu Trị, người
Pháp bắt đầu thực hiện “đường lối ngoại giao pháo hạm” tại cửa biển Đà
Nẵng, tìm cách can thiệp vào nội tình nước ta. Đầu năm 1847 hai tàu chiến
của nước Phật Lan Tây (Pháp) vào cửa Đà Nẵng, gây sự, bất chấp các quy
định của quan chức nhà Nguyễn. Chúng nổ súng vào các hạm thuyền của
quan quân, 5 - 6 người đạo trưởng công nhiên đeo chữ “thập”, đi lại nơi cửa
biển. Không dừng lại ở đó Đầu mục Tây dương là Lạp Biệt Nhĩ còn đem vài


18
mươi tên đồ đảng, đeo gươm, đeo súng, đến thẳng ngay công quán; quan quân
ngăn lại không được.

Đến tháng 3 năm 1847, tiếp tục “Có 5 chiếc thuyền bọc đồng ở Kinh
phái đi Nam (Kim Ưng, Phấn Bằng, Linh Phượng, Thọ Hạc, Vân Bằng) chưa
ra biển còn đậu lại ở vụng Trà Sơn cùng đối diện với thuyền Tây dương, cũng
bị chúng sấn đến cướp lấy buồm thuyền và dây buộc thuyền” [51, tr. 975],
quan quân chống lại bị chúng nổ súng, bắn cả vào thuyền. “Quan binh giở tay
không kịp, năm chiếc thuyền đồng chốc lát đều bị đắm mà vỡ cả. Lãnh binh
Nguyễn Đức Chung, Hiệp quản Lý Điển đều chết ở trận, biền binh chết hơn
40 người, bị thương hơn 90 người, còn 104 người không biết trôi dạt đi đâu,
súng và khí giới chìm mất rất nhiều”[51, tr. 984]. Theo, 82 năm Việt sử tác
giả Nguyễn Phương viết rằng: “Năm 1847, Rigault de Genouilly đưa hai
chiếc thuyền Gloire và Victorieuse cập bến Đà Nẵng để gây áp lực, bắt bỏ
lệnh cấm đạo.Vua ra lệnh đối phó. Khoảng 5000 quân tại chỗ dùng 13 chiến
thuyền cùng nhiều ghe lớn ra bao vây tàu Pháp. Sau hai giờ giao tranh quân
triều đình thất bại, tàu Pháp bỏ đi” [43, tr. 69]. Trong bầu không khí đầy phẫn
uất đó, vua Thiệu Trị băng hà.
1.2.2. Tình hình văn học
1.2.2.1. Văn học hoàng đế trong lịch sử Việt Nam
Trong lịch sử văn học trung đại, hoàng đế làm thơ là một hiện tượng rất
phổ biến, thậm chí “làm thơ là một khía cạnh nghệ thuật cai trị của các hoàng
đế” (Theo Trần Nho Thìn). Ngay từ thế kỷ X, một số vua nhà Lý đã mở đầu
cho trường phái văn chương hoàng phái như Lý Thái Tổ đã để lại cho đời sau
một áng văn, đó là “Thiên đô chiếu”; Lý Thái Tông có hai bài thơ chép ở
“Thiền Uyển tập anh” và có một tác phẩm mang tính chất làm nền tảng cho
luật pháp nước nhà (bộ Hình thư) , nhưng hiện nay không còn; Lý Nhân Tông
với bài Thơ viếng Vạn Hạnh. Nhìn chung, thơ văn các vua nhà Lý còn mờ


19
nhạt, số lượng để lại không nhiều, nội dung chủ yếu mang đậm chất Thiền và
giáo lý Phật giáo.

Đến đời Trần, đất nước đã ba lần đánh bại quân xâm lăng Nguyên
Mông, một đế quốc hùng mạnh lúc bấy giờ. Không chỉ là những anh hùng
trên chiến trường mà các vua và vương hầu nhà Trần còn là những tao nhân
mặc khách, luôn hướng về sáng tác ngâm vịnh, trăm họ âu ca. Tiêu biểu là
Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông.
Trần Thái Tông nghiên cứu cả Nho và Phật, trở thành một tác gia quan
trọng của dòng văn học Thiền Tông, có sách là “Khoá hư lục”, một tác phẩm
cổ nhất, quan trọng nhất về phương diện triết học Thiền của đời Trần, quan
trọng hơn nó còn có có giá trị về văn học, bởi Trần Thái Tông mượn hình
thức văn, luận, thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngôn, ngũ ngôn để biểu
đạt tư tưởng, cảm xúc của mình. Trần Thái Tông còn có Thiền Tông chỉ
nam ca, Lục thì sám hối khoa nghi, Trần Thái Tông ngự tập, được Phan
Huy Chú khen là “lời thơ thanh nhã, đáng đọc” nhưng hiện nay chỉ còn
hai bài chép ở Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục. Ngoài ra, ông còn đề
tựa kinh Kim Cương, viết một số bài bình luận về việc toạ thiền, việc
niệm Phật và một bài răn về tửu sắc.
Tác giả thứ hai là Trần Thánh Tông, một người thích đàm đạo văn thơ,
nghiên cứu kinh Phật. Dưới thời trị vì của vua, văn học rất phát triển. Tương
truyền tác phẩm của vua là các cuốn Cơ cừu lục, Di hậu tập, Hoàng Tông
ngọc điệp, Thiền Tông liễu ngộ ca, Phóng ngưu, Chỉ giá Minh, một tập thơ
lấy nhan đề Trần Thánh Tông thi tập chép trong “Toàn viện thi lục”. Ngoài
ra, ông còn viết nhiều thư từ ngoại giao. Nay chỉ còn lại sáu bài thơ được chép
trong Việt âm thi tập (5 bài) và Đại Việt sử ký toàn thư (1 bài).
Tác giả thứ ba là Trần Nhân Tông, một vị vua anh hùng, đã có công lớn
trong việc lãnh đạo cuộc kháng chiến đánh thắng giặc Nguyên Mông lần hai


20
và lần ba (1285 - 1288). Trần Nhân Tông còn là một nhà văn hoá, nhà thơ
xuất sắc ở thế kỷ XII. Ông sáng lập ra dòng Thiền Trúc Lâm ở Việt Nam. Tác

phẩm của ông có nhiều như: Trần Nhân Tông thi tập, Đại hương hải âm thi
tập, Thiền tâm thiết chuỷ ngữ lục, Tăng già toái sự, Thạch thất mỵ ngữ, Trung
hưng thực lục. Hiện chỉ còn 31 bài thơ, một bài minh, một bài phát biểu của
ông với sứ giả Trương Lập Đạo do chính vị sử giả này ghi lại.
Thứ tư là, Trần Anh Tông, theo Đại Việt sử kí toàn thư, Trần Anh Tông
có bài Thạch dược châm và tập Thuỷ văn tuỳ bút nhưng đều đã bị chính tác
giả thiêu huỷ trước khi mất. Hiện còn 14 bài thơ. Ông rất yêu nghệ thuật,
thích vǎn chương. Ông làm thơ nhiều, nhưng chỉ xem thơ ca như một lợi khí
nuôi dưỡng tính tình, diễn đạt tâm hồn ở những thời gian nhất định, chứ
không có dụng ý lưu lại công trình, nghĩ tới danh hiệu về sau.
Thứ năm là, Trần Minh Tông. Hầu hết tác phẩm của Minh Tông đã
mất, nay chỉ còn khoảng 25 bài thơ được chép rải rác ở các sách như Việt âm
thi tập,Đại Việt sử kí toàn thư và Nam Ông mộng lục. Thời này Nho học được
đề cao, Phật học giảm dần uy thế; Minh Tông cũng xuất gia như các vị tiên đế
nhưng ông luôn dặn dò các Hoàng hậu đừng đi tu.
Cuối cùng là, Trần Nghệ Tông, có Tông Bắc sứ ngưu lượng, Tỵ cư Gia
Hưng trấn ký đệ cung Tuyên Vương, Đề Tư đồ Trần Nguyên Đán từ
đường…Hiện chỉ còn 5 bài thơ chép trong Việt âm thi tập. Nhìn chung, thơ
ông thể hiện sự bất lực trước thời cuộc, với cơ nghiệp tổ tiên để lại, phản ánh
tình cảm đối với anh em bạn bè.
Nhìn chung, các vua nhà Trần đã làm cho phả hệ văn chương hoàng
phái được đậm nét hơn, tuy nhiên hiện nay tác phẩm còn sót lại không nhiều,
chủ yếu là thơ, biểu, chiếu, không có sự xuất hiện các tác phẩm viết về thi
pháp. Các tác giả nhà Trần đã có công rất lớn trong việc sáng lập nên dòng
văn hoá Thiền Tông, là những tác giả quan trọng trong phạm vi thơ Thiền


21
Sang triều Lê, Lê Thánh Tông là hoàng đế duy nhất làm thơ ở triều Lê.
Ông được xem là một nhà văn hoá, một ông vua coi trọng hiền tài, trân trọng

lịch sử. Chính ông đã giao cho Ngô Sĩ Liên làm bộ Đại Việt sử ký toàn thư và
Thân Nhân Trung biên soạn bộ Thiên Nam dư hạ tập, là những bộ bách khoa
có giá trị trên nhiều phương diện đối với dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, ông còn
cho cho soạn bộ luật Hồng Đức rất nổi tiếng. Lê Thánh Tông là tác giả của
chín tập thơ chữ Hán và hàng trǎm bài thơ Nôm khác. Vừa là một vị hoàng đế
ông vừa có phong cách của một nghệ sĩ giang hồ thưởng ngoạn thú non sông,
đi đến đâu ông cũng cho đề thơ làm kỷ niệm. Về sau chính Minh Mệnh, Thiệu
Trị cũng có phong cách này. Ông thường đàm đạo với các nhà học giả trong
triều đình, tự nhận mình là nhà thơ, và có phần nào đó vượt cả tài nǎng một số
nhà thơ bên Trung Quốc. Sau khi làm thơ ông đưa cho các triều thần họa lại
để phát triển ý mình, khơi dậy một không khí sáng tác rất sôi nổi lúc bấy giờ
bằng sáng kiến thành lập hội Tao Đàn, là nơi chuyên sáng tác và bình phẩm
thơ văn. Ông tự xưng là Tao Đàn nguyên súy, tập trung xung quanh mình 28
học giả vào câu lạc bộ này, gọi một cách vǎn vẻ là Tao Đàn nhị thập bát tú
với tuyển tập thơ khá quy mô và đồ sộ là Hồng Đức quốc âm thi tập. Thơ ông
vô cùng phong phú không chỉ phong phú về nội dung mà còn cả về chữ viết,
tiêu biểu là sở trường thơ Nôm. Tuy nhiên, so với thơ ca sau này đặc biệt là
thế kỷ 18, 19 thơ ông không được đánh giá cao về mặt nghệ thuật.
Nhà Nguyễn đánh dấu sự phát triển nhiều mặt trong dòng thơ văn
hoàng phái với sự góp mặt của Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức.
Minh Mệnh là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn, sinh năm 1791 -
1841. Số lượng tác phẩm mà ông để lại là tương đối nhiều, khoảng gần 3500
bài thơ, được Thiệu Trị cho in trong sáu tập Ngự chế thi. Tuy Minh Mệnh là
người trọng văn chương, thích sáng tác nhưng có thể nói thơ của Minh Mệnh
không đạt được đỉnh cao về mặt ngôn từ như thơ Thiệu Trị. Ngay chính bản


22
thân ông cũng đã từng nói: “Thơ trẫm làm không cần khéo léo, chỉ luôn
miệng ngâm ra để nói chí mình thôi. Những bài ban cho ấy đều nói về việc

kính trời lo dân, mong tạnh cầu mưa… không phải vụ lời văn hoa mà đua hay
với văn sĩ đâu”[50, tr. 427]. Chính vì những suy nghĩ đó mà thơ vua Minh
Mệnh phần nhiều viết về tự nhiên, thể hiện mong ước cầu mưa, cầu nắng, cầu
tạnh, thể hiện tấm lòng lo lắng cho nền sản xuất nông nghiệp nước nhà, bày tỏ
cái ý chí của mình. Do đó, Minh Mệnh tuy là ông vua chuộng văn học, đề cao
những người học văn học nhưng ông lại cho rằng văn chương nếu đề cao quá
mức, không gắn với thực tế thì sẽ trở nên sáo rỗng.
Thiệu Trị được sinh ra trong dòng chảy đó, ông là một mắt xích - một
mắt xích quan trọng vì vị hoàng đế này không chỉ đóng góp nhiều mặt trên
các lĩnh vực văn hoá, giáo dục mà còn góp thêm một màu sắc cho văn chương
hoàng tộc nói riêng và văn chương Việt Nam nói riêng. Không chỉ tiếp nối
truyền thống hăng say sáng tạo của các bậc đế vương mà Thiệu Trị còn phát
huy truyền thống đó lên đến đỉnh cao.
1.2.2.2. Văn chương hoàng phái nhà Nguyễn
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng “không thời nào, văn hoá phát triển
như thời Nguyễn, sách vở sáng tác gần bằng hoặc bằng, thậm chí còn nhiều
hơn mấy trăm năm trước. Những nhà tư tưởng của thời Nguyễn cao hơn
những nhà tư tưởng trước, những nhà văn cao hơn những nhà văn trước,
những nhà làm sử cũng giỏi hơn những người làm sử trước. Có thể nói, sự
phát triển dưới thời Nguyễn tương đương với sự thống nhất của quốc gia. Sự
thống nhất về chính trị thúc đẩy sự phát triển về văn hoá rất nhiều. Đó là
thành tích của triều Nguyễn” [16, tr. 18]. Giáo sư Nguyễn Lộc viết: “Văn học
Việt Nam nửa cuối thế kỷ 18 đến hết thế kỷ 19 không những phát triển rực rỡ
mà còn là đỉnh cao của văn học dân tộc”, “Trước kia lịch sử chưa bao giờ
chứng kiến một giai đoạn văn học nào lại phát triển một cách phong phú

×