ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ THU HÀ
NHÂN VẬT VÀ CỐT TRUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TÔ HOÀI
LUẬN VĂN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội-2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN THỊ THU HÀ
NHÂN VẬT VÀ CỐT TRUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TÔ HOÀI
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội-2013
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………
2
1. Lý do chọn đề tài ………………………………………….……………
2
2. Lịch sử vấn đề ………………………………………… ………………
3
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ………….…………… ….
6
4. Phương pháp nghiên cứu …………………….…… ………………….
6
5. Cấu trúc luận văn………….……………….……….………… … ….
7
CHƯƠNG 1. TIỂU THUYẾT TÔ HOÀI TRONG DÒNG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI …….……………………………….
8
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và sáng tác của Tô Hoài .……
8
1.2. Đặc điểm tiểu thuyết của nhà văn Tô Hoài ……………………
23
CHƯƠNG 2. NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TÔ HOÀI
40
2.1. Khái lược về nhân vật ………………………………………………
40
2.2. Các loại hình nhân vật trong tiểu thuyết của Tô Hoài ….…………….
43
2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật………………………………
70
CHƯƠNG 3. CỐT TRUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TÔ
HOÀI ……………………………………………………………………
84
3.1. Khái lược về cốt truyện ………………………….……………………
84
3.2. Các kiểu cốt truyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài … ……………….
89
3.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện………………………… ……………
102
KẾT LUẬN ……………………………………………………………….
109
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………….
113
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau chiến thắng 1975, đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI,
nền văn học Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới ngày càng sâu sắc, toàn diện.
Sự đổi mới văn học diễn ra trên nhiều phương diện và thể loại, trong đó phải
kể đến những thay đổi lớn lao của thể tài tiểu thuyết.
Nằm trong cuộc vận động đổi mới của văn học, nhà văn Tô Hoài cũng
đã có những cách tân, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật để thích ứng trước
những biến động của thời đại. Thông qua các sáng tác của mình, nhà văn đã
góp phần tạo nên sự thay đổi diện mạo mới cho văn học.
Sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài với những tác phẩm được nhắc đến
nhiều nhất và làm nên tên tuổi của ông là những tập Hồi ký; Tự truyện;
truyện ngắn Truyện Tây Bắc; truyện dài Dế Mèn phiêu lưu ký, Quê người,
Quê nhà, Đêm mưa, Xóm Giếng; tiểu thuyết Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn
Thụ, Nhớ Mai Châu, Kẻ cướp bến Bỏi, Đảo hoang, Ba người khác…
Không chỉ thành công ở thể loại truyện dài, truyện ngắn, hồi ký, mà ở
thể loại tiểu thuyết, ngay từ ngày đầu cầm bút, Tô Hoài đã tạo được cho mình
một phong cách riêng. Tiểu thuyết của ông hấp dẫn người đọc với lời kể
chuyện hóm hỉnh, tài quan sát và miêu tả, cách thể hiện nhân vật sinh động,
nhân vật người kể chuyện giữ vị trí quan trọng, là nhân vật trung tâm của tác
phẩm, đồng thời là nhân vật mang hình bóng của tác giả với những chi tiết có
thật về cuộc đời, số phận và tính cách. Các tác phẩm viết về đề tài miền núi,
đề tài Hà Nội ở mỗi chặng đường lại có những phản ánh từ các góc độ khác
nhau, theo những cảm hứng khác nhau tiếp nối truyền thống văn học hiện đại
phản ánh hiện thực cuộc sống. Khảo sát tiểu thuyết Tô Hoài thời kỳ đổi mới,
chúng tôi nhận thấy bút pháp mang đậm phong cách nghệ thuật, quan niệm
nghệ thuật về con người, quan niệm về hiện thực, sự đổi mới về thi pháp thể
loại trong quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Mỗi tác phẩm trở thành một khám phá cho những số phận, những bí ẩn trong
chiều sâu tính cách và thế giới tâm hồn của con người. Chính sự cách tân đã
5
tạo nên những đổi mới đáng kể trong tiểu thuyết Tô Hoài, đặc biệt ở khía
cạnh nhân vật và cốt truyện.
Với đề tài: Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết Tô Hoài, chúng
tôi muốn có cái nhìn đầy đủ, trọn vẹn về những đóng góp của Tô Hoài trong
quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Trong dòng văn học Việt Nam hiện đại, Tô Hoài được đánh giá là một
cây đại thụ. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 1996. Nhà phê bình
Vương Trí Nhàn đã nhận xét: “
” [20 ; 182]. Giáo sư Hà
Minh Đức cho rằng: “.
,
,
,
” [20 ; 110].
Qủa thật, Tô Hoài đã miệt mài sáng tác 70 năm nay và đã cho ra đời 160 đầu
sách. Ông thành công ở nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện dài, truyện
ngắn, truyện đồng thoại, kịch, hồi ký, chân dung văn học. Nghiên cứu nghệ
thuật văn chương Tô Hoài sẽ giúp chúng ta đánh giá được đầy đủ hơn những
đóng góp của ông với nền văn học nước nhà.
Tô Hoài bước vào con đường văn học khá sớm. Ông cầm bút và nổi
danh từ trước năm 1945. Đến nay, Tô Hoài vẫn là nhà văn viết nhiều, dẻo dai,
sung sức ở các thể loại. Tô Hoài đến với tiểu thuyết khá sớm, ngay từ chặng
đầu sáng tác, tiểu thuyết Tô Hoài đã được giới phê bình văn học chú ý như
tiểu thuyết Quê người, in năm 1942, cùng lúc với các tập truyện ngắn O
chuột, Nhà nghèo, Giăng thề, … tất cả khai thác đề tài về cuộc sống và con
người ở vùng quê ven thành của tác giả. Có thể nhận ra một đặc điểm này
trong hành trình viết tiểu thuyết của Tô Hoài, với cùng một đề tài, ông thường
bắt đầu bằng truyện ngắn, ký rồi mới tích tụ trong các tiểu thuyết. Nếu các
truyện ngắn là những mảnh nhỏ của cảnh đời, những ký họa chân dung con
người thì truyện dài và tiểu thuyết là cả một dòng sông cuộc đời trôi chảy của
bao nhiêu sự việc, câu chuyện, đời người. Nhìn đề tài, tiểu thuyết Tô Hoài có
6
ba mảng lớn: về Hà Nội (chủ yếu vùng quê ven thành), về miền núi (Tây Bắc,
Việt Bắc), về thời huyền sử xa xưa của đất nước (khai thác các truyền thuyết,
cổ tích) ngoài ra còn có một vài cuốn thuộc những mảng đề tài khác (Một
mình kể chuyện, Ba người khác). Những ý kiến đánh giá phê bình về tiểu
thuyết của Tô Hoài được tập trung trong cuốn
, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2000, được tái bản nhiều lần, do Phong
Lê (giới thiệu) và Vân Thanh (tuyển chọn).
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài cũng như tác
phẩm của ông. Trong , Phong Lê đã chỉ ra chân
dung: “
” [28 ; 41].
Khi nghiên cứu về Tô Hoài, Giáo sư Phan Cự Đệ nhận xét: “
, …” [20 ; 98].
Năm 2006, Mai Thị Nhung cho ra đời cuốn sách
và bài viết trên Tạp chí
Văn học. Trong đó, tác giả cũng đã thu thập rất nhiều ý kiến về nghệ thuật
viết văn của Tô Hoài. [23 ; 8-10].
Giáo sư Hà Minh Đức trong khẳng
định: “
” [20 ; 135 ]. Trần Hữu Tá chỉ rõ năng lực đặc biệt của Tô Hoài
chính là “” .Nguyễn Văn Long
nhấn mạnh: “
p”. Vương Trí Nhàn quả quyết: “
7
” [20 ; 205]. Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết
, khẳng định: “
”. [30 ; 5]. Về ngôn
ngữ giọng điệu, Vân Thanh nhận định: “Ng
, g
” [20 ; 452]. Phan Cự Đệ cũng có cùng quan điểm như vậy:
“
[20 ; 94]. Tô Hoài đã chú ý học tập ngôn ngữ nghề
nghiệp và ngôn ngữ địa phương. “
” [20 ; 99]. “
” ( ).
Bùi Hiển thấy rằng: “V
.” [20 ; 102].
“
.” [20 ; 104]. Tô Hoài đưa hai ý niệm thời gian và không
gian vào tác phẩm của mình một cách vừa cụ thể vừa khái quát, tạo thêm
chiều sâu tâm trạng cho tác phẩm bởi vì tất cả những cái đó đều xuất phát từ
một tình yêu gắn bó đối với cuộc sống chiến đấu của dân tộc, sáng tác của Tô
Hoài tỏa một nguồn sáng ấm áp và phảng phất lung linh nhiều sắc độ, nó là
một trong những bí quyết thành công của Tô Hoài.
Nguyễn Đăng Điệp cũng nhận thấy những nét tiêu biểu về lối kể
chuyện của Tô Hoài: “
8
”. [29 ; 113].
Tô Hoài thành công hơn trong việc khai thác và miêu tả chân dung hơn
là tính cách nhân vật. Giáo sư Phan Cự Đệ cho rằng: “
c,
” () .
Các ý kiến còn đi sâu khai thác, khẳng định năng lực sáng tạo của Tô
Hoài về khả năng tiếp cận và nắm bắt hiện thực, về hình tượng nhân vật trong
giai đoạn đổi mới, về phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Tô Hoài. Những sáng
tác của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám đã khẳng định được vị trí và tài
năng nghệ thuật của ông trước hiện thực của cuộc đời mới.
Đó là những gợi ý quan trọng để tiến tới nhận thức ngày càng rõ về đề
tài: Nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết Tô Hoài.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Đề tài nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết, qua đó đi sâu
khám phá giá trị nghệ thuật độc đáo trong tiểu thuyết của Tô Hoài ở hai mặt
nhân vật và cốt truyện.
- Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm nhân vật và cốt truyện trong tiểu thuyết Tô
Hoài.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung đi sâu vào bốn cuốn tiểu thuyết: Đảo
hoang, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Ba người khác.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp loại hình.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
9
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm có ba chương:
Chương 1. Tiểu thuyết Tô Hoài trong dòng tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Chương 2. Nhân vật trong tiểu thuyết của Tô Hoài.
Chương 3. Cốt truyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài.
10
Chương 1
TIỂU THUYẾT TÔ HOÀI TRONG DÒNG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại và sáng tác của Tô Hoài
1.1.1. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Với một nền văn học hiện đại, tiểu thuyết luôn được coi là thể loại biểu
hiện tập trung nhất trình độ tư duy văn học, nơi kết tinh quan trọng nhất thành
tựu của một thời đại văn học. Qúa trình đổi mới văn chương ở nước ta diễn ra
đã hơn hai thập kỷ với rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được lý giải,
đánh giá mà dư luận chung thì còn rất phức tạp. Đề tài này góp phần nắm bắt
sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại qua một số khuynh hướng
đáng chú ý. Thông qua việc nhận diện, mô tả những khuynh hướng đó, chỉ ra
sự biến đổi trong tư duy thể loại, lý giải những thể nghiệm, cách tân, ghi nhận
thành tựu bước đầu của nỗ lực đổi mới tiểu thuyết, góp phần cập nhật đời
sống văn chương đương đại. Do lượng xuất bản hàng năm rất lớn nên việc
khảo sát tập trung vào những tác phẩm có chất lượng, có dư luận hoặc chứa
đựng một quan niệm thể loại độc đáo. Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại được coi
là chiếc “máy cái” trong nền văn học hiện đại, thành tựu và những quy luật
vận động của tiểu thuyết có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu
văn học sử.
Ở nước ta, tiểu thuyết chỉ thực sự được khẳng định nhờ tài năng của
các cây bút Tự lực văn đoàn và các nhà văn hiện thực giai đoạn 1930 – 1945.
Trên những kinh nghiệm khá phong phú nhưng ít nhiều còn mới mẻ đó, tiểu
thuyết Việt Nam sau 1945 tự điều chỉnh hướng đi để trở thành một vũ khí đa
dạng trước yêu cầu phục vụ kháng chiến và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Các tác phẩm mang tinh thần sử thi trở thành dạng thức tiểu thuyết điển
hình trong giai đoạn hai cuộc kháng chiến vệ quốc. Mỗi mô hình, dạng thức
nghệ thuật mang trong nó một quan niệm thẩm mỹ riêng chi phối đến những
đặc trưng cơ bản về bút pháp.
11
Tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 – 1975 đã đạt được những thành tựu
xuất sắc về giá trị nội dung tư tưởng, đã có đóng góp lớn lao cho công cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Mười năm cuối cùng của giai đoạn 1965-1975 có ý nghĩa vô cùng quan
trọng vì trong mười năm ấy đã xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết thuộc loại tầm
cỡ nhất của cả giai đoạn văn học – những tác phẩm vừa có cấu trúc thể loại
hoàn kết nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, vừa là đỉnh cao của lịch sử
phát triển tiểu thuyết Việt Nam đến thời điểm này. Các tác giả tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại trải qua một hành trình sáng tạo bền bỉ đã đạt tới độ chín trong
nghệ thuật tiểu thuyết: mười năm cuối cùng (1965 - 1975) còn có tính bản lề
khép lại một giai đoạn văn học mang những đặc trưng riêng của thời đại chiến
tranh cách mạng với mô hình sử thi hóa, chuẩn bị tiền đề cho bước chuyển
giao để đi tới một thời đại văn học mới.
Nếu so sánh với tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, thì tiểu
thuyết 1945 – 1975 đã có sự đổi mới sâu sắc về nội dung thể tài và các
nguyên tắc xây dựng hình thức thể loại. Một cấu trúc thể loại mới mẻ chưa
từng có trong lịch sử phát triển tiểu thuyết Việt Nam đã ra đời với đặc trưng
của loại hình tiểu thuyết sử thi.
Một loại hình cấu trúc thể loại được hình thành từ yêu cầu thời đại để
đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang do yêu cầu chính trị, yêu
cầu lịch sử giao phó. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này đã hoàn thành sứ
mạng lịch sử của nó. Nhưng do sự chi phối tuyệt đối của nhiệm vụ chính trị
do yêu cầu cổ vũ động viên kịp thời công cuộc kháng chiến kiến quốc, nhà
văn, bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình văn học đều đặt tiểu thuyết trước
một hệ quy chiếu đậm tính chất xã hội học. Các bài phê bình văn học, các
công trình nghiên cứu văn học thời kỳ này chủ yếu khai thác giá trị nội dung
tư tưởng của tác phẩm với ba yêu cầu nặng về chính trị: Có phản ánh chân
thực và kịp thời cái hiện thực vĩ đại đã có sẵn không? Có thực hiện tốt chức
năng giáo dục đối với quần chúng nhân dân? Có nêu cao yêu cầu tính Đảng
khi tái hiện bức tranh lịch sử xã hội không? Có thể nói trong quá trình vận
động và đổi mới, tiểu thuyết đã trải qua “những bước thăng trầm”. So với
12
những loại hình văn xuôi khác, tiểu thuyết với những thành tựu và hạn chế
của nó luôn là vấn đề “nóng” lôi cuốn sự quan tâm và kích thích cảm hứng
“đối thoại” của cả giới sáng tác, lý luận, phê bình và công chúng trên diễn đàn
văn học Việt Nam những năm đổi mới. Không ít lần đã xuất hiện các ý kiến
tỏ ra băn khoăn, lo lắng cho sự dẫm chân tại chỗ hoặc đang mầy mò của tiểu
thuyết mà thực chất là sự mong muốn có những tác phẩm hay, những tác
phẩm đạt chất lượng nghệ thuật, mang tính nhân loại. Gần đây nhất, câu hỏi
? đã ít nhiều thu hút sự chú ý của dư luận đối
với thực trạng tiểu thuyết, đồng thời thể hiện mối quan tâm của công chúng
đến sự đổi mới tư duy tiểu thuyết, đến sự cách tân về nội dung cũng như hình
thức thể loại, sao cho tiểu thuyết không chỉ được đón nhận ở trong nước mà
còn được giới thiệu ra nước ngoài, hòa nhập vào quỹ đạo của văn chương thế
giới.
Do đó, trong rất nhiều bài viết về tiểu thuyết thời kỳ này, những nghiên
cứu và đánh giá về cấu trúc thể loại tiểu thuyết trong tính loại hình của nó thật
là ít ỏi. Ngay cả những bài viết tìm hiểu lý thuyết về thể loại tiểu thuyết 1945
– 1975 cũng chỉ tập trung vào phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ
nghĩa, nguyên tắc điển hình hóa, vấn đề nguyên mẫu và nhân vật. Sau năm
1975 và đặc biệt từ khởi điểm đổi mới 1986, một số bài phê bình văn học và
công trình nghiên cứu đã tập trung và khảo sát thi pháp tiểu thuyết 1945 –
1975 ở những bình diện mang tính cục bộ: quan niệm nghệ thuật, hình tượng
con người, kết cấu, xung đột. Nhưng các công trình ấy vẫn chưa đi đến một
cái nhìn tổng thể về cấu trúc thể loại của tiểu thuyết giai đoạn này. Những vấn
đề được nghiên cứu hoặc tách rời khỏi hệ thống của nó hoặc mới chỉ dừng lại
ở nhận định khái quát mà chưa được chứng minh thật thấu triệt.
Tiểu thuyết từ sau 1975 đến nay không cắt lìa truyền thống nhưng đã có
ý thức truyền thống đã và đang trở thành khát
vọng, nhu cầu mạnh mẽ của hầu hết người viết. Tuy vẫn có nhiều lời phàn
nàn, nhiều cái nhìn hoài nghi nhưng không thể phủ nhận được rằng những nỗ
lực đổi mới tiểu thuyết hơn ba thập kỷ qua đã tạo ra không ít tác phẩm có giá
trị, bên cạnh sự đông đúc của đội ngũ tác giả, sự dồi dào về số lượng tác phẩm
13
là sự đa dạng về bút pháp, sự phong phú về đề tài, chủ đề. Áp lực cạnh tranh
từ các phương tiện giải trí – truyền thông, lối sống và nhịp độ sống của thời
đại kỹ trị, vừa là yếu tố kích thích vừa là một nguy cơ làm hao mòn tình yêu
văn chương. Người viết bây giờ buộc phải đối diện với đòi hỏi nghiệt ngã:
“
” (Dẫn theo Lê Phương Tuyết
Tạp chí Văn học số 3 – 1999).
Trong sự vận hành chung của thể loại, nhìn lại những năm tiền đổi mới
tiểu thuyết của Việt Nam sau 1975 bắt đầu khá sớm nhưng thầm lặng với
những tín hiệu có tính dự báo trong Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi
nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu, Cha và Con và … (1979) của Nguyễn
Khải, Đất trắng (Tập I - 1979) của Nguyễn Trọng Oánh, Năm 1975 họ đã
sống như thế (1979) của Nguyễn Trí Huân, Trong cơn gió lốc (1980) của
Khuất Quang Thụy… Những tác phẩm này cho thấy ý thức khắc phục cái
nhìn lý tưởng hóa một chiều về hiện thực, những khởi động ngõ hầu đưa tới
sự đổi mới triệt để và quyết liệt hơn trong cách nhìn hiện thực và thi pháp thể
loại. Nếu nói theo Nguyễn Minh Châu thì cái “ ” mà
các nhà văn thường “tráng lên” hiện thực đang được cố gắng gột tẩy. Thực
tiễn văn học thời kỳ đổi mới đã theo sự chi phối chung của quy luật thời bình,
nghiêng về thể tài thế sự, đời tư. Vào thời điểm 1986 và những năm tiếp theo,
trong cao trào đổi mới, tiểu thuyết đã thực sự bộc lộ ưu thế của mình trên con
đường dân chủ hóa nội dung nghệ thuật. Với xu hướng nhìn thẳng vào sự thật,
các nhà tiểu thuyết đã dấn thân vào hiện thực ở thời hiện tại, đang hình thành,
chưa ổn định; ở chính tiêu điểm của đời sống. Trong tác phẩm của họ ý thức
“lột trần mặt nhau, lột trần mặt mình, lột trần mặt đời” và cao hơn là “bóc trần
thế giới”, đồng thời với ý thức hướng tới “chất lượng cuộc sống”, sống sao
cho đúng với cuộc sống của con người đã thẩm thấu các tầng ngữ nghĩa,
mang đậm tính nhân văn.
14
Một cái nhìn khái quát về đội ngũ các tiểu thuyết gia và tác phẩm của
họ trong không khí phóng khoáng, cởi mở của đời sống văn học cho thấy tiểu
thuyết đã vận hành trong cơ chế vận động và đổi mới của văn xuôi đương đại.
Những người cầm bút trong nước cũng như đang sống ở bên ngoài bằng các
tác phẩm của mình đã ít nhiều chứng minh được tiềm năng sáng tạo cùng với
nỗ lực đổi mới và hiện đại hóa ngòi bút của chính họ. Điều đáng nói ở đây là
trong bối cảnh gợi lên cái “thời của tiểu thuyết”, độc giả đã trở lại với văn hóa
đọc. Một văn hóa đọc đã được nâng cấp, được lựa chọn không bị áp đặt bởi
chủ nghĩa đề tài hoặc một phương pháp sáng tác duy nhất. Trong cái “thời của
tiểu thuyết” hôm nay, người đọc đã có hứng thú đi tìm những cuốn sách hay,
những cuốn sách trở về với chức năng thẩm mỹ và giải trí, tôn trọng vai trò
của người đọc, khêu gợi ở họ những suy ngẫm, liên tưởng và đồng sáng tạo.
Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới đã đứng trước nhu cầu đổi mới tư duy
tiểu thuyết. Điều này chứng tỏ sự nghiêm khắc trong sáng tạo và tâm huyết
với thể loại của các tiểu thuyết gia đương đại. Trên phương diện đề tài, tiểu
thuyết thời kỳ đổi mới đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực hàng
ngày, cái đời thường của đời sống cá nhân. Các nhà tiểu thuyết đã nhìn thẳng
vào những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái
nhìn trung thực, táo bạo. Các đề tài truyền thống hay hiện đại đều được đưa
vào trường nhìn mới, hướng tới những gấp khúc trong đường đời và thân
phận con người, thấm đẫm cảm hứng nhân văn. Nhìn từ góc độ thể loại, trong
những năm đổi mới, tiểu thuyết đã có những tìm tòi, cách tân thể hiện ở một
số phương diện: cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ.
Trong cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm cũng như những yếu tố khác,
cốt truyện đã trải qua những chặng đường khác nhau trong tiến trình văn học.
Nghiên cứu sự vận động của cốt truyện sẽ góp phần lý giải sự chuyển đổi của
tiểu thuyết thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn lịch sử, trong mỗi
trào lưu, khuynh hướng, hoặc trong thi pháp sáng tạo của nhà văn, vai trò của
cốt truyện trong tiểu thuyết nói riêng và thể tự sự nói chung có những cách
thể hiện khác nhau. Trong một số tiểu thuyết trước đây, người ta có thể kể lại
cốt truyện, chỉ chú ý đến cốt truyện mà ít để ý đến cách viết của nhà văn.
15
Theo các tiểu thuyết gia của trào lưu tiểu thuyết mới (Pháp) thì càng ngày vai
trò của cốt truyện càng giảm: “
” [18 ; 41].
Thực chất trong tác phẩm tự sự, cốt truyện là sợi dây liên kết các mối
quan hệ của nhân vật, tổ chức, sắp xếp các sự việc diễn ra trong đó, bộc lộ
chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Ở giai đoạn văn học 1930-1945, cốt truyện đóng vai trò đáng kể trong
tiểu thuyết. Các tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng,
Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan tiêu biểu cho loại tiểu thuyết có
cốt truyện rõ ràng, với những xung đột căng thẳng, diễn biến hành động tuần
tự theo thi pháp truyền thống. Đến tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao đã
vượt ra ngoài khuôn khổ, không có tình huống, sự kiện gì đặc biệt mà chỉ là
một chuỗi tâm trạng và suy nghĩ của nhân vật. Nam Cao là một trong những
nhà văn đương thời có sự cách tân thể loại với dạng cốt truyện tâm lý.
Ở giai đoạn cách mạng và kháng chiến 1945-1975, tiểu thuyết bội thu
vào thời điểm những năm 60 và những năm chống Mỹ. Ở đây, cốt truyện là
phương tiện thể hiện cuộc sống và tính cách con người, ít nhiều đã chịu “áp
lực sử thi”. Để phản ánh những vấn đề lớn lao của lịch sử và dân tộc, cốt
truyện tiểu thuyết thường dựa trên hai tuyến đối lập địch – ta, tốt – xấu, cảm
hứng chủ đạo là ngợi ca, khẳng định. Cốt truyện chủ yếu dựa trên mô thức
trần thuật của “đại tự sự”. Trong tác phẩm văn học không phải cốt truyện nào
cũng chứa đựng những tình huống gay cấn với những xung đột gay gắt mà có
những câu chuyện về những cái bình thường, nhỏ nhặt, gây cảm giác như là
không có chuyện. Trong thời kỳ đổi mới, thực tiễn văn học đã theo sự chi
phối chung của quy luật thời bình, nghiêng về đề tài, thế sự, đời tư. Chính
những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở
thành yếu tố thúc đẩy sự hình thành cốt truyện tiểu thuyết đa dạng hơn trong
nội dung phản ánh, phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn ở cách
thức dựng truyện. Bên cạnh những cốt truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu,
có kết thúc, cũng có những tiểu thuyết là những cốt truyện dựa trên thi pháp
16
hiện đại. Cốt truyện đã vận động thay đổi trong sự phát triển của thể loại. Về
đoạn kết của tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải
quyết một cách hoàn tất, trọn vẹn. Có đoạn kết với kiểu kết thúc bỏ ngỏ,
không hoàn kết. Tất cả các dạng thức trên đều nhằm phân tích, lý giải những
vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người, cuộc sống đương đại. Cốt truyện tiểu
thuyết từ những năm đổi mới đến nay, một mặt vẫn kế thừa và phát triển
những đặc trưng của cốt truyện truyền thống, một mặt khác đã tiếp cận với
tiểu thuyết hiện đại thế giới. Nghệ thuật đồng hiện, kỹ thuật độc thoại nội tâm,
dòng ý thức, lắp ghép, sử dụng huyền thoại, nghệ thuật gián cách, đa giọng
điệu là những vấn đề còn mới mẻ trong văn xuôi Việt Nam đã được tiểu
thuyết vận dụng, biến hóa một cách linh hoạt và uyển chuyển trên tinh thần
dân tộc hiện đại. Trong đội ngũ những người viết tiểu thuyết có không ít tác
giả đã cố gắng đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm một hướng đi mới trong sáng
tạo thể loại: Ma Văn Kháng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Trí Huân, Tô Hoài,
Nguyễn Xuân Khánh, Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Hồ
Anh Thái, … Những cây bút kể trên đã cố gắng cách tân trong sáng tạo với
những tiểu thuyết có cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó tóm tắt, khó kể
lại. Có thể nói đến sự tan rã của cốt truyện trong tác phẩm tự sự. Cấu trúc tác
phẩm được lắp ghép, chắp nối từ những mảnh vụn của hiện thực.
Tiểu thuyết không tạo ra những tình huống kịch hoặc lối kể chuyện có
trước, có sau. Các yếu tố sự kiện, tình tiết, nhân vật được triển khai theo mạch
vận động của cảm xúc, suy nghĩ. Tiểu thuyết vừa là tiếng nói của ý thức, vừa
là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ, thể hiện cái hiện tại đang vận động,
biến chuyển, không khép kín. Ý thức cách tân nghệ thuật, đổi mới tư duy tiểu
thuyết là nỗ lực sáng tạo đáng kể của các cây bút văn xuôi nhằm biểu đạt tâm
hồn con người thời đại.
Trong các tiểu thuyết Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng, Cuộc đời dài lắm,
Một ngày và một đời, Ngày hoàng đạo, các cây bút đã sử dụng thủ pháp đồng
hiện trong cấu trúc tác phẩm. Ở đó, quá khứ và hiện tại là cốt truyện của tiểu
thuyết. Với Một ngày và một đời, Lê Văn Thảo đã tái tạo ký ức, làm sống dậy
cuộc đời một nữ chiến sĩ biệt động vô danh bằng cách lắp ghép những mảnh
17
vụn của quá khứ qua lời kể, trí nhớ của các nhân vật, với sự di chuyển các
điểm nhìn trần thuật khá mới mẻ và độc đáo. Trong Chim én bay của Nguyễn
Trí Huân, quá khứ đậm nhạt luôn luôn có mặt trong hiện tại, thời gian luôn
luôn chuyển động, thay đổi theo dòng hồi ức tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu
vào diễn biến tâm lý phong phú và phức tạp của nhân vật. Với Nỗi buồn
chiến tranh, Bảo Ninh đã xây dựng tác phẩm theo dòng tâm trạng nhân vật,
bao gồm cả ý thức lẫn vô thức sáng tạo, dựa trên trực giác, linh cảm để ngòi
bút phiêu lưu trong thế giới tâm linh của con người.
Xu hướng lắp ghép liên văn bản là một trong những yếu tố không thể
không kể đến của thi pháp cốt truyện tiểu thuyết hiện đại. Tiểu thuyết được
viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Tiểu
thuyết hình thành bằng cách lắp ghép, tạo dựng các mảnh cốt truyện, các
mảnh tâm trạng không theo trình tự thời gian mà ngổn ngang, đảo ngược theo
ý đồ của các tác giả, tạo ra “truyện trong truyện”. Những tình huống, cảnh
ngộ, biến cố như không quan hệ, liên đới được xích lại gần nhau. Cùng với sự
lắp ghép đó là sự di chuyển các điểm nhìn, là tư duy nghệ thuật trong sự qui
ước vừa chặt chẽ, vừa co giãn của cấu trúc thể loại. Sự thâm nhập các thể loại
khác vào tiểu thuyết cũng là một nhân tố làm co giãn cốt truyện. Tiểu thuyết
có thể chứa trong chính nó: nhật ký, chuyện kể, thơ, thư từ, “tham luận khoa
học”… huyền thoại, điển tích, cổ tích. Những hình thức văn bản trong văn
bản góp phần tạo thành những tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết, nới rộng
cấu trúc thể loại, mở rộng trường nhìn.
Như vậy cốt truyện trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại không biến mất
mà co giãn theo cấu trúc của từng tác phẩm cụ thể, mỗi chủ thể nhà văn có thể
sáng tạo ra nó bằng nhiều cách thức, kiểu dạng mà mục đích cuối cùng là thể
hiện ý đồ nghệ thuật một cách có hiệu quả. Nhân vật văn học là sự thể hiện
quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Tiểu thuyết ngoài khả năng
tái hiện bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội còn có khả năng đi sâu khám
phá số phận con người. Quan niệm nghệ thuật về con người là yếu tố chi phối
các yếu tố khác của nghệ thuật thể hiện, gắn với đời sống văn học của mỗi
một giai đoạn lịch sử. Văn học thời đổi mới là giai đoạn chuyển biến từ tư
18
duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng
thế sự đời tư. Tiểu thuyết đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh
hiện thực, con người trong giai đoạn mới một cách nhanh nhạy và sắc bén.
Trong giai đoạn đổi mới, vấn đề con người cá thể được đặt ra một cách
bức xúc, mạnh mẽ trong cảm hứng sáng tạo của các nhà văn. Song con người
cá thể trong văn học hiện nay không phải là con người của chủ nghĩa cá nhân,
của cái tôi cực đoan, phủ nhận mọi nền tảng đạo đức đã được thiết lập, không
chịu sự tác động của xã hội. Mà ở đây số phận cá nhân được giải quyết thỏa
đáng trong mối liên hệ mật thiết với cộng đồng, xã hội. Đằng sau mỗi cá thể
là những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh của thời đại, có sự giao nhịp phức
điệu giữa con người cá thể và nhân loại: Cõi người rung chuông tận thế,
Trong sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái, Chinatown, Pari 11 tháng 8
của Thuận, Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh. Các tác giả tiểu thuyết đã nhìn nhận con người như một cá thể
bình thường trong môi trường đời sống bình thường. Nhân vật trong tiểu
thuyết là những con người với trăm ngàn mảnh đời khác nhau “
”: Cơn giông của Lê Văn Thảo, Cánh
đồng lưu lạc của Hoàng Đình Quang, Tấm ván phóng dao của Mạc Can,
Dòng sông Mía của Đào Thắng.
Có thể nói, tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay đã dần dần
khẳng định được vị trí riêng của mình trên con đường hiện đại hóa văn học
nước nhà. Nhiều cây bút, nhiều phong cách mới lạ. Những tác phẩm văn
chương không dừng ở nói chuyện đạo lý, lịch sử mang trong mình hơi thở của
cuộc sống. Những câu văn hết sức linh hoạt, giống như lời ăn tiếng nói của
nhân dân không bị gò bó như những câu văn biền ngẫu trong thời trung đại.
Nhân vật và chi tiết trong tác phẩm cũng đời thường không khuôn sáo, ước lệ
như trước. Đặc biệt các nhà văn bộc lộ cái tôi của mình một cách độc đáo rõ
nét. Vì vậy, mỗi tác phẩm là một cá tính sáng tạo riêng, một cách cảm nhận
riêng về cuộc sống. Trong số những tác giả viết tiểu thuyết có tên tuổi trong
thời kỳ này, Tô Hoài được coi là một cây bút xuất sắc, đóng góp không nhỏ
cho sự thành công của tiểu thuyết nước nhà.
19
1.1.2. Sáng tác của Tô Hoài
Không phải ngay từ đầu Tô Hoài đã chiếm lĩnh được chủ nghĩa hiện
thực. Sau những năm tháng trôi giạt, cuối cùng Tô Hoài vẫn giữ vững được vị
trí một ngòi bút của chủ nghĩa hiện thực. Văn hóa Cứu quốc chính là một mặt
trận yêu nước của những người làm văn hóa, thống nhất về chính trị, nhưng
quan điểm nghệ thuật còn khác nhau, có khuynh hướng lãng mạn tiến bộ, hiện
thực phê phán và hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ở Tô Hoài hội nhập được nhiều
tính cách ngỡ như trái ngược , sắc sa
̉
o , dí dỏm nhưng lại điềm tĩnh , ít nói,
thích giấu mình đi nhưng luôn có mặt khi cần thiết. Tô Hoa
̀
i co
́
mô
̣
t xê-ri sa
́
ch
viết về ca
́
c con vâ
̣
t : dế, chuô
̣
t, chim, mo, cá, gấu, …đươ
̣
c go
̣
i la
̀
truyê
̣
n loa
̀
i
vâ
̣
t. Truyê
̣
n loa
̀
i vâ
̣
t cu
̉
a Tô Hoa
̀
i la
̀
mô
̣
t cống hiến đô
̣
c đa
́
o va
̀
o văn ho
̣
c hiê
̣
n
đa
̣
i no
́
i chung va
̀
văn ho
̣
c da
̀
nh cho thiếu nhi no
́
i riêng . Tô Hoa
̀
i co
́
ma
̉
ng sa
́
ch
viết về vu
̀
ng Tây Bắc . Mảng sách này của ông làm thay đổi diện mạo của đề
tài về miền núi trong văn học hiện đại . Truyê
̣
n Tây Bă
́
c nằm trong số như
̃
ng
cuốn sách hay về vùng Tây Bắc.
Truyện Tây Bắc đã kế thừa được những truyền thống tốt đẹp của văn
học các dân tộc. Tô Hoài đã nghiên cứu lịch sử, phong tục tập quán các dân
tộc miền núi, những dân ca trữ tình của người H’mông, người Mường, những
truyện cổ tích Cô tóc thơm, Giời thấp giời cao, những truyền thuyết về con
rúi, con chim kỳ, những tục lệ “cướp vợ” múa xòe ngày tết … những mô típ
trong các truyện cổ dân gian đã được sử dụng, cải biên, mang nội dung hiện
thực mới. Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, Đôi mắt của Nam Cao cũng chứng
minh nền văn xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta trong bước đầu
hình thành, đã tiếp thu được những thành tựu tiến bộ của nền văn học hiện
thực phê phán. Từ sau Truyện Tây Bắc, Tô Hoài tiếp tục đi sâu hơn vào đề tài
miền núi và ghi được những thành tựu mới trong quá trình chiếm lĩnh phương
pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tiểu thuyết Miền Tây, Trở lại cao
nguyên Đồng Văn, Nhật ký vùng cao, Những làng Dao trên Viễn Sơn (ký
sự) là những tác phẩm viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở vùng
cao. Miền Tây là một cuốn tiểu thuyết vừa giàu chất ký sự, vừa giàu chất thơ.
Miền Tây quy mô hơn Truyện Tây Bắc, nhưng ta có cảm tưởng đây là một
20
bài thơ đẹp hơn là một cuốn tiểu thuyết được viết bằng phong cách hiện thực
tỉnh táo, đi sâu vào những mâu thuẫn gay gắt, phức tạp của đời sống. Đặc
điểm của phong cách Tô Hoài là bao giờ cũng cố gắng gắn liền bút pháp hiện
thực với màu sắc lãng mạn trữ tình thơ mộng. Cái thiên nhiên miền núi có thể
chỉ hằn lên những đường nét dữ dội khi: “
,
,
…” [2 ; 14-15 ]. Nghe phảng phất đâu đây cái hơi
trong thơ Đường (Tô Hoài cho rằng lối miêu tả thiên nhiên có tính
chất tượng trưng, ước lệ, ít cá thể hóa ở thơ Đường là lối miêu tả mang tính
độc đáo của phương Đông). Dưới con mắt của Tô Hoài, thiên nhiên Tây Bắc
vừa dữ dội, lại vừa thơ mộng. Đó là những đêm trăng ở vùng núi cao Phìn-sa:
“ N,
,
.” [2 ; 100]. Dưới ngòi bút
lãng mạn trữ tình kết hợp với bút pháp hiện thực, thiên nhiên Tây Bắc vừa thơ
mộng, vừa dữ dội hiện ra thật sinh động trước mắt người đọc. Đó cũng là
những đêm tình mùa xuân trai gái H’mông thổi sáo gọi bạn đi chơi trong
rừng: “N
21
” [1 ; 26]. Không phải trong bất tác phẩm nào của Tô Hoài
cũng có sự hài hòa giữa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn. Ở Miền
Tây, có lúc màn sương thơ mộng đã làm mờ đi những đường nét gân guốc,
góc cạnh của hiện thực. Tô Hoài có cái xông xáo, nhanh nhạy của một nhà
báo, ông là tác giả của nhiều tập phóng sự và ký sự. Nhờ vốn sống lâu năm ở
vùng cao và khả năng quan sát tinh tế nên Tô Hoài đã đưa được vào tác phẩm
những sự kiện, những chi tiết vừa chính xác, vừa tươi nguyên sự sống, làm
cho những cảnh mà ông mô tả sinh động hẳn lên, hiện ra lồ lộ như trên màn
ảnh. Tất nhiên, không phải bất cứ nhà văn nào cũng có thể dễ dàng tạo ra
được sức mạnh của những chi tiết cụ thể về đời sống. Nhưng sức mạnh của
tiểu thuyết không chỉ là vấn đề dựng cảnh hay quan sát thế giới bên ngoài mà
một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất là việc xây dựng những tính cách
điển hình trong hoàn cảnh điển hình, việc đi sâu vào thế giới bên trong của
nhân vật. Trong Miền Tây, nhà văn Tô Hoài đã dựng được một số nhân vật có
những nét điển hình nhất định (bà Giàng Súa, Thào Nhìa, Thào Khay,
Nghiã…). Trong những nhân vật đó, bà Giàng Súa ít nhiều đã có tính cách
riêng, đời sống riêng. Nhìn chung, các nhân vật chính diện tuy đẹp nhưng còn
đơn giản và mờ nhạt. Nếu như tác giả nghiên cứu sâu sắc hơn đời sống tâm lý
bên trong của người nông dân miền núi, tập trung vào việc xây dựng những
tính cách sinh động và có tầm khái quát cao thì chắc chắn cuốn tiểu thuyết sẽ
để lại những ấn tượng sâu sắc hơn nữa trong lòng người đọc.
Những tác phẩm của Tô Hoài viết về đề tài miền núi có thể chia làm
hai loại. Một loại viết về những vấn đề nói chung (chính trị, xã hội) trong
phong trào cách mạng dân tộc dân chủ và xã hội chủ nghĩa như: Truyện Tây
Bắc, Miền Tây, … loại thứ hai viết truyện về người thật việc thật, về các anh
hùng tiêu biểu của miền núi như Hoàng Văn Thụ (dân tộc Tày), Kim Đồng
(dân tộc Nùng), Vừ A Dính, Giàng A Thào (dân tộc H’mông). Trong những
tác phẩm này, tiểu thuyết Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971) thành công hơn
cả. Tác phẩm viết về cuộc đời của một chiến sĩ cộng sản ưu tú trong khoảng
thời gian từ 1927 đến 1935. Trong cuốn truyện viết về người thật việc thật
này, Tô Hoài đã tôn trọng đến mức tối đa tính chính xác lịch sử của các nhân
22
vật và sự kiện. Ông đọc các hồi ký, nghiên cứu lịch sử Đảng của vùng Cao –
Bắc – Lạng, về làng Hoàng Văn Thụ, ra ở nhà Mã Hợp, lên Thất Khê, lấy tài
liệu và viết ngay tại địa phương. Hầu hết các chi tiết về cuộc đời Hoàng Văn
Thụ, Mã Hợp (chuyện gặp Mảy ở Khâu Bay, cảnh bán thuốc cao Sơn Đông
trên đường từ Vũ Hán về Long Châu, cành bồ quân trên chiếc xe ngựa của
Mã Hợp từ Lũng Nghìu đi Long Châu …) đều là những chi tiết chân thực.
Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ giúp cho thanh niên hiểu được sâu sắc xã hội
cũ, từ đó thấy hết niềm tự hào vui sướng của một con người được sống tự do,
hạnh phúc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; nhưng chủ yếu là tác giả đã làm cho
họ thấm thía con đường gian khổ đi tìm lý tưởng, tìm cách mạng của thế hệ
cha anh trước 1930. Hoàng Văn Thụ sẵn sàng hy sinh gian khổ, làm tất cả
mọi nghề (đi lính, thợ máy, thợ chữa súng, cắt tóc, múa võ, bán cao, vác củi,
vắt bún, … ) để có điều kiện gần gũi quần chúng, nhưng chủ yếu là để kiếm
sống. Lớp thanh niên như Thụ, Chi phải chọn một con đường giữa những con
đường đi của lớp trước (Đặng Tử Mẫn, Phan Bội Châu cách mạng và thậm
chí cả Nguyễn Hải Thần nhụt chí, sa đọa) rồi cuối cùng mới tìm được con
đường đúng đắn, theo chí hướng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng
Phong. Tô Hoài đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thanh niên say mê lý
tưởng tập trung hết cả nghị lực, ý chí để tìm ra lý tưởng. Trong tiểu thuyết
Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, nhiều nhân vật được phác họa bằng những nét bút
thật sắc sảo (Chính Hiền, Sảo Kinh), trong đó Mã Hợp, tuy là nhân vật phụ
nhưng lại có tính cách sinh động hơn cả. Do những tài liệu về nhân vật chính
quá ít ỏi, do tác giả quá lệ thuộc vào tính chính xác lịch sử, nên hình tượng
Hoàng Văn Thụ còn có phần mờ nhạt, chưa được triển khai trong nhiều quan
hệ và bình diện khác nhau, chưa đi sâu vào thế giới nội tâm nhất là quá trình
giác ngộ lý tưởng, sự bừng tỉnh trí tuệ của một học sinh người Tày yêu nước
ở trường Kỳ Lừa xuất dương đi tìm cách mạng.
Những thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong quá trình chiếm lĩnh
phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung vào đề tài miền núi. Trong
phạm vi đề tài này, ông cũng viết được nhiều truyện thiếu nhi có giá trị như:
Kim Đồng, Vừ A Dính. Sau những truyện và tiểu thuyết về miền núi thì
23
những tác phẩm viết cho thiếu nhi có vị trí rất quan trọng trong toàn bộ sự
nghiệp sáng tác văn học của Tô Hoài. Mặt khác, Tô Hoài đã phát huy cao độ
khả năng tưởng tượng và hư cấu nghệ thuật của người viết tiểu thuyết.
Không phải ngẫu nhiên Tô Hoài có nhiều thành công khi viết về đề tài
miền núi và thiếu nhi. Ông quen viết về những nhân vật, những cảnh đời hồn
nhiên như hơi thở của sự sống, khỏe mạnh, thuần phác, lạc quan như những
con người trong truyện cổ tích, trữ tình trong sáng, đẹp và ý nhị như ca dao.
Ông ít khai thác nhân vật của mình ở góc độ trí tuệ, ở sự bừng tỉnh trí tuệ và
hầu như cũng chưa có một nhân vật trí tuệ nào được miêu tả thành công trong
tác phẩm của ông. Có thể nói tác phẩm của Tô Hoài gắn với truyền thống, dân
tộc mà chưa thật hiện đại, dân gian nhưng chưa được nâng cao nhiều về mặt
trí tuệ. Tác phẩm của Tô Hoài đôi khi yếu về trình độ tổng hợp, ít nêu được
những vấn đề triết học, đạo đức nhân sinh có chiều sâu và tầm khái quát cao.
Những tác phẩm của Tô Hoài, tuy thành công ở khá nhiều mặt, nhưng nhìn
chung chưa đặt ra được những vấn đề về ý thức hệ, về tư tưởng, tâm lý của
người nông dân miền núi trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tô Hoài là một nhà văn viết cho thiếu nhi với tất cả ý thức trách nhiệm,
với niềm say mê và tâm huyết của mình. Ông xem nền văn học cho thiếu nhi
là một công cụ có tác dụng giáo dục trực tiếp cho các em, và người viết phải
hết sức chú ý đến phương pháp giáo dục sao cho phù hợp với các lứa tuổi,
phù hợp với một đối tượng phát triển, mỗi bước đổi thay về tâm sinh lý, để
phát huy cao nhất tác dụng giáo dục trực tiếp của văn học thiếu nhi. Tiểu
thuyết Đảo hoang của Tô Hoài về mặt cốt truyện, giống như loại truyện
Rôbinxơn. Câu chuyện xảy ra vào thời đại đồng thau, thời kỳ tồn tại của quốc
gia người Việt trong truyền thuyết xưa. Nghe lời vu khống của những kẻ ghen
tị, xu nịnh trong triều đình, nhà cầm quyền thời ấy đã đày An Tiêm tài năng
và dũng cảm cùng với gia đình ra một hòn đảo hoang vu. Thế là người đàn
ông, đàn bà cùng với cậu con trai, cô con gái nhỏ đấu tranh khốc liệt với môi
trường, cải tạo rẻo đất cằn cỗi trong mênh mông biển cả. Họ làm nhà cửa, tạo
ra công cụ và đồ dùng, vũ khí và quần áo, thuần dưỡng thú hoang. Và không
một giây phút nào họ quên Tổ quốc yêu dấu. Họ xem hòn đảo của mình như
24
một phần của đất mẹ và coi việc cống hiến cho đồng bào tài sản mới, những
thứ họ chăm nom vun bón đồng thời mở lòng đón tiếp hàng trăm người đói
khát, không nhà cửa, khốn cùng, là mục đích cuộc đời mình. Kết thúc cuốn
tiểu thuyết, tất cả đều được giải quyết như ước mơ… Lao động, ý chí, trí tuệ!
Đúng là đất được sáng tạo bởi bàn tay con người và con người sáng tạo ra đất,
không thể tách rời nó. Chính thiên nhiên nhiều vẻ luôn luôn biến đổi, khắc
nghiệt và thuận hòa – người mẹ - thiên nhiên vĩ đại cũng là một nhân vật có
đủ tư cách của Đảo hoang. Tiểu thuyết của Tô Hoài nhìn chung vốn giàu tính
chất hội họa, trong Đảo hoang nhà văn đã đạt đến những đỉnh cao mới.
Người đọc tự mình nhìn thấy thế giới tạo ra bởi sự tưởng tượng của nhà văn,
trải qua những cơn lốc xoáy nhiệt đới nguy hại và đắm trong muôn màu sắc
của mùa xuân tươi sáng. Dường như bạn tận mắt thấy kinh thành Phong Châu
rực rỡ đn đuốc và cuộc đua thuyền nhanh vùn vụt của những thuyền chiến,
mái cho của chúng bứt tung những lưỡi bọt sáng xám khỏi những đợt sóng
sông Hồng đỏ rực.
Trong năm 2006, có hai cuốn sách gây được sự quan tâm chú ý nhiều
của độc giả và giới phê bình văn học, đó là cuốn tự truyện Lê Vân yêu và
sống của diễn viên điện ảnh Lê Vân – Mai Hạnh và cuốn tiểu thuyết Ba
người khác của nhà văn Tô Hoài. Tiểu thuyết Ba người khác được viết ra từ
năm 1992, đến cuối năm 2006 mới được xuất bản. Ngay khi vừa ra mắt bạn
đọc tác phẩm này đã gây xôn xao dư luận với rất nhiều ý kiến đánh giá khác
nhau. Ba người khác là cuốn tiểu thuyết viết về đề tài khó và nhạy cảm, đó là
Cải cách ruộng đất. Đây là cuộc cách mạng quan trọng sau khi đất nước ta
giành lại được nền hòa bình. Cuộc cải cách ruộng đất giúp xóa bỏ hoàn toàn
chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho người nông dân và thực hiện quyền
làm chủ của giai cấp nông dân. Có thể nói, đây là cuộc cách mạng có bản chất
tích cực với mục đích hướng tới cuộc sống tốt đẹp cho người nông dân. Tuy
nhiên, “
” (bài tham luận về tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài “
” Hội nhà văn, Hà Nội 22/12/2006).
25
Cải cách ruộng đất là sự kiện có tác động to lớn tới đời sống của người
dân Việt Nam trong một thời gian dài, đặc biệt trong giai đoạn diễn ra cuộc
cải cách. Cải cách rộng đất được thực hiện ở khắp các vùng nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ thông qua các đội công tác về các địa phương. Nhà văn Tô Hoài
không vẽ lại diện mạo của cuộc cải cách mà đi sâu vào khía cạnh con người,
thế cuộc qua những nét sinh hoạt, các vụ việc xoay quanh họ, qua đó nhà văn
phản ánh những mặt hạn chế, những nét bản năng ấu trĩ, những sai lầm, tội lỗi
của những con người cụ thể ở đội công tác trong bối cảnh nhận thức chung ở
các vùng miền nhất là nông thôn vùng sâu xa còn nhiều yếu kém.
Tiểu thuyết Ba người khác được viết dựa trên những ký ức, hồi ức của
nhà văn Tô Hoài, một người đã từng trực tiếp làm công tác cải cách với tư
cách là đội phó đội cải cách kiêm chánh án toà án. Chính vì vậy mà tiểu
thuyết mang đậm phong cách của truyện ký. Câu chuyện xoay quanh sự kiện
lịch sử cải cách ruộng đất với nhân vật chính là “Tôi” – anh Bối đồng thời là
người kể chuyện.
Nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài thiên về thị giác, một thứ thị giác
tinh nhạy, đầy màu sắc và ấn tượng, cảm xúc, nói rộng ra hơn nữa là thiên về
cảm giác, về cảm nhận trực quan cụ thể, về biểu hiện các sắc thái tình cảm
gần gũi thầm kín. Và bởi vì tất cả những cái đó đều xuất phát từ một tình yêu
gắn bó đối với cuộc sống chiến đấu của dân tộc, sáng tác của ông tỏa một
nguồn sáng ấm áp và phảng phất lung linh nhiều sắc độ, nó là một trong
những bí quyết thành công của ông.
1.2. Đặc điểm tiểu thuyết Tô Hoài
1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 27 tháng 09 năm 1920. Ông
sinh ra và lớn lên ở quê ngoại tại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức - tỉnh Hà
Đông (nay là phường Nghĩa Đô - quận Cầu Giấy - Hà Nội) trong một gia đình
thợ thủ công. Ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai Trang, Duy Phương,
Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đột Kích,…Quê nội ông ở thị trấn Kim Bài huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Bút danh Tô Hoài cũng gắn liền với những địa danh