Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ và Absalom, Absalom ! của William Faulkner

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 195 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN THỊ ANH PHƯƠNG



THêI GIAN TRONG ¢M THANH Vµ CUåNG Né
Vµ ABSALOM, ABSALOM! CñA WILLIAM
FAULKNER




LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC





HÀ NỘI, 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN THỊ ANH PHƯƠNG


THêI GIAN TRONG ¢M THANH Vµ CUåNG Né
Vµ ABSALOM, ABSALOM! CñA WILLIAM
FAULKNER


Chuyên ngành: VĂN HỌC BẮC MỸ
Mã số: 62 22 30 20


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học
1. PGS.TS. ĐÀO DUY HIỆP
2. GS.TS. LÊ HUY BẮC


HÀ NỘI, 2013
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dẫn liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Tác giả luận án




Trần Thị Anh Phương

















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
2.1. Nguồn tài liệu tiếng Việt 3
2.2. Tư liệu tiếng Anh 14
2.3. Những công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến vấn đề thời gian
trong tác phẩm văn học ở Việt Nam 24
3. Ý nghĩa khoa học và đóng góp của luận án 28

4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu 29
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 29
6. Phương pháp nghiên cứu 29
7. Bố cục luận án 30
Chương 1. THỜI GIAN BIÊN NIÊN 31
1.1. Trật tự thời gian 31
1.2. Kỹ thuật trật tự thời gian truyện kể 36
1.3. Biểu hiện thời gian biên niên 43
1.3.1. Tổng quan cấu trúc lớn qua các chương 44
1.3.2. Biên niên qua các nhân vật 50
Bảng thống kê sự xuất hiện của các nhân vật trong Âm thanh và cuồng nộ 60
Bảng thống kê sự xuất hiện của các nhân vật trong Absalom, Absalom! 74
1.3.3. Biên niên qua các biến cố lịch sử – xã hội 76
Tiểu kết 80
Chương 2. THỜI GIAN PHI TUYẾN TÍNH 83
2.1. Lối đón trước 83
2.1.1. Đón trước bổ sung 84
2.1.2. Đón trước lặp lại 92
Bảng thống kê chi tiết lặp lại qua các chương tác phẩm Âm thanh và
cuồng nộ 92
Bảng thống kê chi tiết lặp qua các chương tác phẩm Absalom, Absalom! 95
2.2. Lối ngoái lại 99
2.2.1. Ngoái lại bên ngoài 99
2.2.2. Ngoái lại bên trong qua chi tiết 108
2.2.3. Ngoái lại bên trong trong qua không gian 119
2.3. Một số vận động thời gian của thời lưu 122
2.3.1. Tỉnh lược 122
2.3.2. Vắn tắt 124
2.3.3. Đoạn ngưng 125
Tiểu kết 128

Chương 3. THỜI GIAN ĐỒNG HIỆN 130
3.1. Khái niệm thời gian đồng hiện 130
3.2. Các cấp độ thời gian đồng hiện 141
3.2.1. Thời gian hiện tại gợi nhắc quá khứ 141
3.2.2. Quá khứ gợi nhắc quá khứ 155
3.2.3. Hiện tại hoá quá khứ 161
Tiểu kết 171
KẾT LUẬN 174
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 178
TÀI LIỆU THAM KHẢO 179
Tiếng Việt 179
Tiếng Anh 185

1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
William Faulkner (1897–1962) là tiểu thuyết gia lỗi lạc của nền văn học Mỹ
(Hoa Kỳ) hiện đại. Tên tuổi ông luôn được đứng bên cạnh những nhà văn lớn của
thế kỉ XX: F. Kafka, J. Joyce, M. Proust Ông thuộc thế hệ mới, thế hệ trưởng
thành sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Thế hệ này xuất hiện những tên tuổi lừng
danh bậc nhất Hoa Kỳ, những người đã “đổi mới phương pháp và nguồn cảm
hứng”, khai sáng ra kỷ nguyên mà người ta mệnh danh là “kỷ nguyên của tiểu
thuyết Mỹ”. Faulkner là tác giả của 126 truyện vừa và truyện ngắn (đáng chú ý là
Con gấu, Mặt trời chiều hôm ấy, ), 19 tiểu thuyết (nổi tiếng nhất là Âm thanh và
cuồng nộ, Absalom, Absalom!, Nắng tháng tám, ). Tác phẩm của Faulkner phản
ánh những giây phút khủng hoảng của tâm hồn nhân vật mà trong đó thời gian hiện
tại không còn nhiều giá trị. Những trang viết của Faulkner vừa thật vừa ảo, biến hoá
linh hoạt, vừa đậm chất lịch sử vừa bàng bạc vẻ huyền thoại. Bằng lối viết độc đáo

đó, Faulkner đã thành công trong việc xác lập cho mình một phong cách riêng của
văn chương miền Nam Hoa Kỳ. Phong cách đó được ông thể hiện qua cách xử lý
thời gian, không gian, lối kết cấu vẫy gọi độc giả tham gia tích cực vào cuộc phiêu
lưu của nhân vật, của đời sống đang xảy ra trước mắt Chính vì thế, trong văn học
thế giới hiện đại có một kiểu phong cách mang tên ông: kiểu Faulkner
(Faulknerian).
Tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ xuất bản vào năm 1929 là tác phẩm xuất sắc
đầu tiên của ông. Bên cạnh đó, Absalom, Absalom! (1936) được giới phê bình Pháp
cho rằng nhờ nó mà Faulkner đã đoạt giải Nobel. Với Absalom, Absalom! khi nói
đến vấn đề thời gian, Nguyễn Văn Nha và Doãn Quốc Sĩ nhận định, “nhân vật chính
không phải là người, mà đúng ra là thời gian” [68,72].
Một trong những cách tân độc đáo của Faulkner là việc xử lý thời gian trong
tác phẩm, sự đổi mới thi pháp thời gian đã thực sự tạo ra diện mạo mới cho tiểu
thuyết hiện đại. Khi nghiên cứu về thời gian của Faulkner, Jean-Paul Sartre ghi
nhận, Faulkner đã sử dụng thời gian trong tác phẩm một cách khác thường.
2
Trong Tiểu thuyết hiện đại, Dorothy Brewster nhận xét, “cuốn Âm thanh và
cuồng nộ (1929) có lẽ là tác phẩm thành công nhất về việc sử dụng nhiều bút pháp
khác nhau và đảo lộn thứ tự thời gian” [13,76]. Kỹ thuật chắp nối thời gian, hiện tại
hoá quá khứ, phương pháp đồng hiện, kết cấu đa thanh, tất cả hòa quyện một cách
uyển chuyển và phức tạp trong Âm thanh và cuồng nộ. Còn với Absalom, Absalom!,
đây là một tiểu thuyết dung hòa, thâu tóm thể tài tiểu thuyết lịch sử, bình luận thánh
kinh lẫn thể tài triết lý siêu hình, tâm lý xã hội, với lối hành văn vừa biểu tượng
vừa gợi tả. Đặc điểm nổi bật của hai cuốn tiểu thuyết này là cách tổ chức thời gian
theo cấu trúc phi trật tự tuyến tính. Phải nói rằng, cảm quan hiện đại về thời gian
được thể hiện sâu sắc trong nghệ thuật mà tiểu thuyết là nơi thể nghiệm của hầu hết
các nhà văn phương Tây trong đó có Faulkner.
Vấn đề thời gian là mối quan tâm hàng đầu trong tiểu thuyết Faulkner. Sự cách
tân của ông về mặt thời gian đã làm thay đổi toàn bộ kết cấu của tác phẩm. Việc
nghiên cứu thời gian được tái hiện trong tác phẩm, thời gian mang tính thẩm mỹ

trong văn học của Faulkner thực sự là vấn đề cần thiết. Những khảo sát về thời gian
sẽ mang lại ý nghĩa hết sức to lớn để hiểu bản chất mỹ học của tác phẩm, nghệ thuật
xây dựng nhân vật, hình thức biểu đạt mới, phản ánh thời đại và tinh thần thế giới.
Việc nghiên cứu hai cuốn tiểu thuyết đã từng mang lại vinh danh cho Faulkner với
giải Nobel văn học năm 1948, sẽ giúp chúng ta tiếp cận hiệu quả với thế giới nghệ
thuật của Faulkner đặc biệt là vấn đề thời gian – một kỹ thuật đã có ảnh hưởng rất
sâu rộng đến nền tiểu thuyết cùng thời và các thế hệ nhà văn.
Đặc biệt, hai cuốn tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ; Absalom, Absalom! có sự
liên kết với nhau về mặt thời gian. Tính liên văn bản (intertexuality) của hai tác
phẩm thể hiện qua việc tiếp nối của các nhân vật: Tướng Compson, ông Compson,
Quentin, Shreve xuất hiện trong Âm thanh và cuồng nộ lại được tái xuất với tư cách
người kể chuyện (NKC) trong tác phẩm Absalom, Absalom! càng nhấn mạnh thêm
bức thông điệp mới về số phận con người mang tinh thần và hơi thở của thời đại.
Ngay từ tiêu đề của hai tác phẩm đã mang tính ẩn dụ sâu sắc, nó đề cập đến vấn đề
bi kịch trong kinh Thánh và bi kịch của Sharkespear được cách tân, trong tiểu
3
thuyết hiện đại của Faulkner. Hai tác phẩm này cùng đề cập những nỗi ám ảnh về
người da đen, nạn phân biệt chủng tộc dai dẳng và nặng nề ở các bang miền Nam
nước Mỹ. Thêm nữa, sự cách tân về kỹ thuật viết tiểu thuyết cả hai tác phẩm đều sử
dụng kiểu thời gian phi tuyến tính, thời gian đồng hiện để làm thay đổi kết cấu thời
gian truyện kể, thể hiện được thời gian mà nhân vật nếm trải nhằm miêu tả con
người trong toàn bộ chiều sâu bản ngã vốn có của nó. Chọn hướng nghiên cứu về
thời gian, chúng tôi sẽ khám phá những thể nghiệm đặc sắc, qua đó bộc lộ rõ tài
năng, phong cách của Faulkner trong thể loại tiểu thuyết.
Chọn đề tài Thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ và Absalom, Absalom!
của William Faulkner, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu những cách tân của ông về
kỹ thuật viết, cụ thể là vấn đề thời gian. Bước đầu luận án mong sẽ giới thiệu thi
pháp thời gian của Faulkner với bạn đọc Việt Nam. Đồng thời luận án cũng giúp
cho việc giảng dạy, nghiên cứu văn học Mỹ nói chung và Faulkner nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề

Tìm hiểu quá trình nghiên cứu về Faulkner chúng tôi tập hợp được một số ý
kiến bao gồm cả phần tiếng Anh và phần tiếng Việt như sau:
2.1. Nguồn tài liệu tiếng Việt
2.1.1. Tài liệu nghiên cứu
Ở Việt Nam các bài viết, công trình giới thiệu về Faulkner và sáng tác của ông
chỉ chiếm số lượng khiêm tốn. Đối với sự kiện William Faulkner ra đi ngày 6.7.1962,
các tạp chí ở miền Nam và miền Bắc đều có bài viết tưởng nhớ về ông. Các nhà
nghiên cứu đưa ra những đánh giá nhất định về cuộc đời và sự nghiệp của ông.
Từ những năm đầu của thập niên 1960, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã bắt
đầu chú ý đến Faulkner, người đã đạt giải Nobel văn học. Tạp chí Bách khoa số 135
ra ngày 5.8.1962 đăng bài Sống và viết theo ý William Faulkner của Tràng Thiên.
Nhà văn đã bày tỏ quan niệm của ông về đời sống, kỹ thuật viết, cảm hứng sáng tạo,
sự kế thừa có sáng tạo với các nhà văn tiền bối và nhạc tính trong ngôn từ của
Faulkner.
4
Tiếp đó, tạp chí Văn nghệ số 11 1962 đăng bài Văn hào Faulkner của Hà Hoài
(viết theo tài liệu rút trong Faulkner en France – Tạp chí Hiện đại số 5, tuần báo
Express số ngày 12.7.1962). Tác giả đã lược thuật ý kiến của một số nhà phê bình
về Faulkner ở Pháp. Họ chú trọng đến tác phẩm của Faulkner trên hai phương diện:
phương diện siêu hình và phương diện kỹ thuật thông qua một số luận điểm chính
như: thực tại khách quan, quan niệm về thời gian định mệnh và chủ nghĩa khắc kỉ.
Cũng trong bài nghiên cứu này, tác giả nhắc lại ý kiến của nhà văn Mỹ, Robert Penn
Warren đăng ở tạp chí Quốc tế về bốn phương diện quan trọng nhất trong tác phẩm
của Faulkner là: Đề tài thiên nhiên và sự đối lập con người làm ô nhiễm thiên nhiên
với con người giữ gìn nó; tính hài hước trong tác phẩm và vấn đề về những người
da trắng nghèo; những người da đen tượng trưng cho tội lỗi của con người, sự nô lệ.
Trên cơ sở bốn chủ đề đó, Warren bàn đến kỹ thuật viết của Faulkner với ba cách
thức đó là: Cách kể chuyện trong tác phẩm của Faulkner hợp lý và khách quan; cách
kể thông qua cảm xúc của nhân vật; sự có mặt của người kể chuyện. Từ việc phân
tích tác phẩm, Warren xếp Âm thanh và cuồng nộ vào loại thứ hai.

Bên cạnh đó, Hà Hoài còn lược thuật ý kiến của nhà phê bình văn học Alfred
Kazin trong cuốn Toàn cảnh văn học Hoa Kỳ, ông phân tích tính giả tạo ở những
nhân vật của Faulkner.
Tạp chí Văn Sài Gòn số 41 năm 1965 đăng một bài giới thiệu về W. Faulkner
của Trần Phong Giao. Điểm sơ qua tác phẩm Faulkner, Trần Phong Giao dừng lại ở
Âm thanh và cuồng nộ. Ông đề cập đến vấn đề thời gian và kỹ thuật độc thoại nội
tâm của Faulkner. Theo tác giả tinh thần bài viết được “đúc kết từ nhiều bài báo cũ
và được viết theo sách báo ngoại quốc”.
Nhà nghiên cứu Phạm Công Thiện đã cho ra đời cuốn Ý thức mới trong văn
nghệ và triết học vào năm 1965. Ông đã điểm qua các tác phẩm của Faulkner từ tập
thơ đầu tay Thần đồng nội bằng cẩm thạch (The Marble Faun) đến những quyển
tiểu thuyết cuối cùng đầy “sương mù ám phủ” (chữ dùng của Phạm Công Thiện),
rồi đưa ra nhận xét: Đừng đem lý trí để tìm đến Faulkner hãy đem tâm hồn Về
cuốn Âm thanh và cuồng nộ, ông cho rằng: The Sound and the Fury là tác phẩm
5
mãnh liệt huyền bí nhất của Faulkner. Bên cạnh đó, ông phản bác tư tưởng “Siêu
hình học về thời gian của Faulkner” của Jean-Paul Sartre. Tác giả phân biệt thời
gian thực sự và thời gian giả tạo trong Âm thanh và cuồng nộ. Đồng thời ông cho
rằng con người bị thời gian ám ảnh chỉ là một trong những đề tài quan trọng của tác
phẩm còn thân phận con người mới là chủ đề thực sự mà Faulkner muốn nói.
Năm 1969, Nguyễn Đức Đàn trong cuốn Hành trình văn học Mỹ. Đây là cuốn
sách dạng từ điển tra cứu. Tác giả có bài riêng giới thiệu về Faulkner, nhưng ý kiến
sơ lược, không đi sâu vào hai tác phẩm luận án khảo sát. Dẫu sao thì Nguyễn Đức
Đàn cũng đánh giá sơ lược về những thành tựu của William Faulkner ở tác phẩm
Âm thanh và cuồng nộ trên phương diện đổi mới nghệ thuật. Trong phần, Con
người và năm tháng trong tiểu thuyết hiện đại, tác giả đưa ra nhận định sau: “…
nhiều nhà văn và nhà phê bình thường nhắc đến Đôx Paxôx, Fôôcne, đến Jêm Joix,
Kafka. Đối với họ những nhà văn ấy là những nhà cách tân bậc thầy về kỹ thuật”
[20,114]. Tác giả nhận định về nhân vật trong tiểu thuyết của Faulkner suốt đời khổ
sở vì mang nặng thời gian trong mình. Faulkner khai thác tâm trạng hoài nghi, cô

đơn, thất vọng của con người sau Đại chiến thế giới lần hai. Đặc biệt ở trang 169,
tác giả đưa ra nhận định về vấn đề thời gian trong văn học hiện đại “Thời gian!
Ngày nay người ta cũng đang có đủ thứ ý kiến về thời gian, thời khắc của đồng hồ,
thời gian vũ trụ thời gian vật lý, thời gian sinh lý, thời gian tâm lý… Trong tiểu
thuyết hiện đại nhiều nhà văn đã tìm cách “phanh chia” thời gian, lật ngược thời
gian và níu chặt nó lại…” [20,116]
Năm 1969, tác giả Hoàng Trinh đã xuất bản cuốn Phương Tây văn học và con
người (3 tập). Trong đó, tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ xuất hiện ở hai chương
với tiêu đề: Bàn về văn học viết về con người; Tiểu thuyết và thời gian. Ông khẳng
định giá trị hiện thực lịch sử toát ra từ sáng tác của Faulkner: Tình yêu của nhà văn
với những người lớp dưới, cái nhìn tiến bộ về quan hệ cần thiết giữa người da trắng
và người da đen. Ông cũng nhấn mạnh việc đóng góp của Faulkner về kỹ thuật thời
gian đồng hiện. Đây là yếu tố đặc trưng của bút pháp Faulkner có tác dụng đắc lực
khi gợi ra toàn bộ thế giới mà ở đó là tập hợp của “những bản giao hưởng quái dị”.
6
Tác giả đã đánh giá cao nhà văn Faulkner về phương diện thời gian như sau: “Một
số nhà văn Mỹ như William Faulkner và Dos Passos đã chịu ảnh hưởng của James
Joyce về mặt sử dụng thời gian đồng hiện. Đến lượt Faulkner và Dos Passos lại phát
huy ảnh hưởng trở lại sang các nước Tây Âu nhất là ở Pháp, Albert Camus và nhiều
nhà Tiểu thuyết Mới đã khai thác ở Faulkner và Dos Passos nghệ thuật “hòa hợp”
thời gian và phương pháp phát triển các “độc thoại nội tâm”. Đồng hiện, chuyện cũ
trong một tích tắc bỗng được nhập vào chuyện đang xảy ra một cách rất khéo léo…
Đương nhiên, những biểu hiện gọi là ngoài ý thức, ngoài lý trí của con người như:
trạng thái điên loạn, mê sảng, mơ màng, tâm thần bất định… không phải như thế là
loại trừ ra khỏi văn học. Nhà văn có thể khai thác, miêu tả những trạng thái đó trong
tác phẩm” [92,168].
Trong cuốn William Faulkner cuộc đời và tác phẩm xuất bản năm 1973, Doãn
Quốc Sĩ và Nguyễn Văn Nha đã tổng kết một số yếu tố thuộc về thi pháp của
Faulkner. Đáng chú ý hơn cả là mục C phần I với tựa đề Nghệ thuật Faulkner, tác
giả chỉ ra một số điểm quan trọng có liên quan đến đề tài: 1. Thế giới nhân vật; 2.

Thời gian trong tiểu thuyết Faulkner; 3. Bút pháp của Faulkner. Đặc biệt khi đề cập
đến vấn đề thời gian trong Âm thanh và cuồng nộ, hai nhà nghiên cứu đã có nhận
định như sau: “Phải nói rằng ông cố viết một cách uẩn khúc, thiếu sáng sủa để diễn
tả những cái phức tạp tối tăm của nhân thế. J-P. Sartre và Jean Pouillon khi khảo sát
về tác phẩm của Faulkner đã nêu ra cái rắc rối khó hiểu chính yếu là vì quan niệm
thời gian của ông. Nói cách khác là ông đã sử dụng thời gian trong tác phẩm một
cách hết sức khác thường. Một đoạn truyện tối nghĩa thường được chú dẫn bằng
những tình tiết xảy ra từ hai, ba mươi năm về trước, có khi tới cả thế kỷ. Ông bắt
đầu bằng đoạn áp chót gỡ mối lần lần bằng các sự kiện đã xảy ra trong dĩ vãng.
Điểm đặc sắc này của ông là gạt bỏ cái thứ tự thời gian như nhân vật Quentin trong
Âm thanh và cuồng nộ phá vỡ thời gian niên biểu (đập bỏ đồng hồ) Quan niệm
đích xác về thời gian là cả cái quá khứ bao trùm lên cái hiện tại, mà hiện tại chỉ có
vì những sự kiện trong dĩ vãng. Quá khứ được ví như một tên khổng lồ đã đứng
choán lấy hiện tại, mà hiện tại chỉ là cái hậu quả của dĩ vãng” [67,75].
7
Năm 1985, nhà nghiên cứu Pravin xing Savda tập hợp các bài viết của Hội thảo
Quốc tế về tiểu thuyết với cuốn Số phận của tiểu thuyết. Trong đó, nhà nghiên cứu
có bàn đến Faulkner. Nhà nghiên cứu cho rằng: Hiện nay, người ta đã đoạn tuyệt
với “những cuộc phiêu lưu bên ngoài” để dành cho những cuộc phiêu lưu vào chiều
sâu của trí tuệ, của ý thức trong tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ của Faulkner. Ở
đây, sự mô tả những tình cảm mạnh mẽ, cởi mở, đòi hỏi không phải cách sắp xếp sự
kiện theo trình tự thời gian mà là đòi hỏi phá vỡ, phân bố lại đo lường thời gian và
không gian
Trong chuyên luận Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây hiện đại xuất
bản vào năm 1991, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào chỉ ra vai trò của Faulkner trong
sự cách tân của tiểu thuyết phương Tây thế kỷ XX trên nhiều khía cạnh: cách kể
chuyện, thời gian đồng hiện. Tác giả cho rằng: “Hiện tại hoá câu chuyện, làm cho
ngay cả quá khứ cũng hiện lên qua cảm giác của hiện tại, thậm chí một số nhà văn
đã bất chấp quy ước kể chuyện, sử dụng thì hiện tại trong khi kể lại quá khứ bằng
dòng tâm tư (như Faulkner chẳng hạn). Điều này sẽ kéo theo kết quả là thời gian

đồng hiện” [21,85].
Tác giả Lê Huy Bắc đã công bố các bài nghiên cứu về Faulkner rải rác từ
những năm 1996, 1997, 1998 như: Đồng hiện trong văn xuôi đăng trên Tạp chí Văn
học, số 6/1996; Faulkner, Hemingway và ngôn từ dòng ý thức, Báo Văn nghệ trẻ, số
31/1997; Giọng và giọng điệu trong văn học hiện đại; Tạp chí Văn học, số 9/1998.
Nhìn chung, tác giả đã phân biệt rõ ràng dòng ý thức và độc thoại nội tâm từ vấn đề
nghiên cứu và qua đó phân tích những ví dụ từ tác phẩm của Faulkner. Với các bài
viết của mình, tác giả mở ra góc nhìn để tiếp cận tác phẩm Faulkner cũng như các
nhà văn hiện đại sâu sắc hơn.
Trong tập Hồ sơ văn hóa Mỹ do nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm 2000, Hữu
Ngọc đã nêu nhận xét rằng: Faulkner là một bậc thầy của tiểu thuyết hiện đại
phương Tây, ông so sánh nghệ thuật tiểu thuyết của Faulkner với Proust, James
Joyce và Kafka. Ông cho rằng Proust tái tạo thời gian đã mất và khơi dậy tiềm thức;
những nhân vật của Kafka bị tha hóa trong một thế giới vô lý và trung tính đến cực
8
điểm; James Joyce thì đi sâu vào tiềm thức, siêu thực và tổng hợp văn hóa phương
Tây. Proust, Kafka và Joyce đại diện cho nền văn hóa cổ kính của châu Âu; ảnh
hưởng của họ đến các nước châu Âu, đến tinh thần các dân tộc châu Âu hoang
mang sau chiến tranh có thể hiểu được vì nó mang tính phổ biến. Nhưng tác phẩm
của Faulkner với những nhân vật có đặc trưng rất Mỹ; đó là những đại tá, các bang
miền Nam, những người da đen an phận, những tên phe phẩy cỡ bự… những nhân
vật này không có ảnh hưởng đến văn học châu Âu. Faulkner ảnh hưởng đến châu
Âu với hai sắc thái: về mặt triết lý siêu hình và kỹ thuật viết. Triết lý siêu hình của
Faulkner xuất phát từ khái niệm tội lỗi và ơn trên, rất hợp với mặc cảm tội lỗi của
nền văn hóa Do Thái Thiên chúa giáo tại Cựu thế giới sau một cuộc chiến tranh tàn
phá kéo dài năm năm. Tấn bi kịch của nhân loại trở lại dã man trong chiến tranh đã
gây ra mối đồng cảm của một cộng đồng “những kẻ có tội tìm phương cứu vớt, mỗi
cá nhân sám hối theo cách của mình, cái tôi chung đó, đôi khi mình chẳng tham gia
mà còn là nạn nhân nữa. Những tình tiết và cốt truyện vô lý của Faulkner đã thể
hiện chủ đề về sự tha hóa và cô đơn của con người thế kỷ XX với chủ đề miền Nam

nước Mỹ (hậu quả của chế độ nô lệ, quan hệ da trắng da đen, sự bất lực của quý tộc
không đáp ứng nổi đòi hỏi của cuộc sống hiện đại). Faulkner đã gắn cổ đại với hiện
đại bằng cách đưa bi kịch của Hy Lạp – vai trò của định mệnh – vào truyện trinh
thám. Sắc thái thứ hai về ảnh hưởng của Faulkner là nghệ thuật viết, có đôi lúc “kỳ
quặc”: bố cục phức tạp, kể chuyện hay bắt đầu bằng dạo cuối, lấy một cái tên gắn
cho nhiều nhân vật, tránh không gọi tên và miêu tả những sự kiện quan trọng, ném
độc giả vào những tình huống rối beng phải tự đọc lấy mà hiểu, hay kể ít nhất hai
câu chuyện cùng một lúc, thường dùng động từ vào thời hiện tại để làm sống lại dĩ
vãng, chồng chất hình dung từ, kéo dài một câu nhiều khi hàng trang, cố tình xóa
nhòa thời gian để diễn tả “dòng ý thức” thường trộn lẫn hiện tại, quá khứ, tương lai”
[66,48].
Nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp về văn học Mỹ ở Việt Nam là Lê Đình Cúc.
Ông là người cho in những bài viết gần như là đầu tiên trên tạp chí Văn học ở Việt
Nam về văn học Mỹ. Các công trình nghiên cứu đó, về sau được tập trung vào hai
cuốn Văn học Mỹ – Mấy vấn đề và tác giả 2001 và Lịch sử văn học Mỹ 2007.
9
Văn học Mỹ – Mấy vấn đề và tác giả chủ yếu giới thiệu, nghiên cứu 17 nhà văn
có vai trò, vị trí và ảnh hưởng lớn của Văn học Mỹ từ thế kỷ XVIII đến nay như H.B.
Stower, Hawthorne, Melville, M.Mitchell, Steinbeck, Faulkner, John Dos Passos,
Dreiser, Upton Sinclair, Toni Morrison, A.Miller Phần Văn học Mỹ thế kỷ XIX và
XX, mục D, Chủ nghĩa tự nhiên và phim ảnh – thế hệ thứ hai của chủ nghĩa tự nhiên
sẽ áp dụng “kỹ thuật chụp ảnh” của báo chí vào văn học và kỹ thuật của phim ảnh.
Tác giả đã viết về William Faulkner như sau: “Cuối cùng là William Faulkner (1897
– 1962), người kịch liệt bài xích sự công nghiệp hóa miền Nam chiến bại, đã viết một
loạt tiểu thuyết xảy ra trong một địa danh tưởng tượng vùng Yoknapatawpha:
Sartoris (1929), Âm thanh và cuồng nộ (1929), Điện thờ (Sanctuaire) (1931), Nắng
tháng Tám (1932), Absalom, Absalom! (1936) cuối cùng là Kinh cầu nguyện cho một
nữ tu sĩ (1951). Tại đó ông triển khai “một sự hòa trộn giữa siêu hình tồi tệ và sự hài
hước”, với văn phong hoa mĩ kì cục và dày công tu từ. Tác phẩm của Faulkner tạo
nên một hiện tượng đặc biệt trong văn học” [15,47]. Đồng thời tác giả cũng đề cập

đến ảnh hưởng của lịch sử xã hội Mỹ, đó là chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa cá
nhân ngày càng cực đoan và cạnh tranh quyết liệt. Vấn đề đó có ảnh hưởng vào tư
tưởng nghệ thuật, các khuynh hướng trào lưu. Tác giả viết: “Các khuynh hướng tiên
phong chủ nghĩa, các trào lưu Tiểu thuyết Mới rồi lại Mới mới. Những Đa đa đến Phê
bình mới rồi Cấu trúc, Hiện sinh đều xuất hiện rầm rộ ở Mỹ. Dù nhiều lí luận gia xuất
hiện trong văn học Pháp nhưng thực tiễn sáng tác lại ở văn học Mỹ. Những Edza
Pound, W.Faulkner, E.Hemingway đến E.S.Eliot, đều là văn học Mỹ sản sinh ra”
[15,56]. Riêng nhà văn W. Faulkner được đánh giá là người có nhiều tác phẩm lừng
danh và ma quái với đỉnh cao là giải Nobel văn học năm 1948.
Năm 2003, tác giả Huy Liên đã xuất bản cuốn Văn học Mỹ: nhà văn, tác phẩm,
thi pháp và kỹ thuật. Tác giả đề cập đến kỹ thuật thời gian của Faulkner và một số
nhà văn trên thế giới và ghi nhận bản thân thời gian có sức mạnh tàn phá đối với
con người. Tác giả đã dẫn lời của nhà văn triết học Pháp Jean-Paul Sartre, cho rằng:
cùng với Marcel Proust, James Joyce, John Dos Passos, André Gide và Virginia
Woolf đều có ý đồ bóp méo thời gian trong tác phẩm của họ. Các nhà văn muốn
tước bỏ đi quá khứ và tương lai, cô đúc thời gian thành “trực giác thuần tuý trong
10
khoảnh khắc”. John Dos Passos biến thời gian thành ký ức chết cứng và khép kín.
Còn Faulkner thì cắt bỏ luôn cả thời gian. Một số nhà văn Mỹ cũng nói tới đặc điểm
phi thời gian trong sáng tác của Faulkner.
Năm 2003, Lê Huy Bắc cho in cuốn giáo trình Văn học Mỹ. Tuy không viết kỹ
về Faulkner, nhưng cuốn sách cũng có giới thiệu qua về ông như một tác gia tiêu
biểu của nền văn học Hoa Kỳ hiện đại.
Năm 2004, tác giả lại tiếp tục xuất bản cuốn Tác gia văn học Mỹ (thế kỷ XVIII -
XX). Trong cuốn này, tác giả đi sâu nghiên cứu 31 tác gia của nền văn học Mỹ từ đầu
thế kỷ XVII cho tới thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Mặc dù tác giả không đề cập tới W.
Faulkner, nhưng với số lượng đông đảo các tác giả được khảo cứu đã giúp cho người
đọc có một cái nhìn tổng quan về quá trình phát triển của văn học Mỹ. Từ đó giúp ta
đánh giá được vị trí Faulkner trong nền văn học Mỹ.
Năm 2007, tác giả Lê Đình Cúc lại cho ra đời tác phẩm Lịch sử văn học Mỹ.

Ngay ở lời nói đầu, ông viết: “Trong số các nhà văn Mỹ được biên soạn, phần lớn
lần đầu tiên được giới thiệu ở Việt Nam nhưng cũng lại có hiện tượng một vài nhà
văn Mỹ khá nổi tiếng ở Việt Nam như: Henry David Thoreau, William Faulkner lại
không có mặt. Đó là điều đáng tiếc” [17,6]. Trang 285, tác giả viết: “người ta tìm
thấy trong các nhân vật chính diện của ông một chút ngưỡng mộ về thế giới mà đã
mất hết ý nghĩa và nó là sự mở đầu cho trào lưu văn học của “thế hệ vứt đi”… Tiếp
nối ngay sau đó là “kỷ nguyên nhạc jazz”, theo như cách gọi của F. Scott Fitzgerald.
Ý thức của dân Mỹ về mối liên hệ với quá khứ và với vị trí của bản thân dường như
đã thay đổi về căn bản. Nói tóm lại, đây là một thời kì đầy biến động, thời kì của sự
mơ hồ và của những thử nghiệm. Đây cũng là thời kì con người thoát khỏi ảo tưởng
và thậm chí còn là thời kì của thói hoài nghi ngạo đời. Các nhà văn của “Lost
generation” như Sherwood Anderson, J. Dos Passos, G. Stein, E. O‟Neill,
Fitzgerald, W.Faulkner đều sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị dưới ngọn cờ của
Hemingway và trào lưu văn học này kéo dài mãi đến phần cuối của thế kỷ XX, tỏa
bóng xuống văn học Châu Âu như A.Camus, S.Beckett, Eugène Ionescu, F.Sagan…
Trong cuốn sách này, Lê Đình Cúc có đề cập đến vấn đề phân tâm học, ở trang 287,
tác giả viết: “Yếu tố Libido và chủ nghĩa Freud ngày càng in đậm trong tiểu thuyết
11
Hemingway và các nhà văn Mỹ thuộc “thế hệ vứt đi” đến nỗi khi đánh giá về
Hemingway và các nhà văn Mỹ thời kì này không thể không nhắc đến Freud”. Khi
đề cập đến sự phản ánh lịch sử Mỹ vào tác phẩm, tác giả viết: “Lịch sử là một cơn
ác mộng mà ai cũng muốn thoát khỏi nó (cũng như nhân vật Stephen Dedalus của
Joyce). Còn người Mỹ thì tin chắc là mình có thể thoát khỏi cơn ác mộng đó. Lịch
sử là một biên niên sử đáng buồn đầy tai họa và lầm lỗi. Đúng như một số người
Mỹ cảm nhận khi cho rằng họ có thể tìm lại một Arcadia đã mất bằng cách xâm
nhập sâu hơn nữa vào nơi rừng rú của lục địa mới, từ đó mà chuyển dịch trật tự thời
gian vào không gian. Do đó, họ đã thực hiện một chuyển dịch tương tự, rằng mình
dã bỏ lại lịch sử phía sau với thế giới cũ để bước tiếp lên, trút bỏ gánh nặng của quá
khứ để đến được bến bờ của thế giới mới. Vì vậy trong nhiều tiểu thuyết của
Hemingway, S.Fitzgerald, W.Faulkner… không có bóng dáng của lịch sử, truyền

thống mà chỉ có hiện tại và tương lai, đánh mất tương lai chứ không phải đánh mất
niềm tin ở quá khứ, ở truyền thống” [17, 297-298].
Đến năm 2009, tác giả Nguyễn Liên lại cho ra mắt bạn đọc Việt Nam cuốn
chuyên luận Văn học Mỹ – nghệ thuật viết văn và kỹ xảo. Trong cuốn chuyên luận
này, tác giả tập trung nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của một vài nhà văn Mỹ trong đó
có Faulkner. Bên cạnh đó, tác giả đã nêu một cách tổng quát những sáng tạo về thi
pháp và kỹ xảo của các nhà văn trong từng thời kỳ làm nổi bật lên tính sáng tạo và
cách tân xuất sắc góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn học Mỹ. Đặc biệt trong
chương tám, tác giả đã dành để nghiên cứu về Faulkner. Trong phần II, Nghệ thuật
viết văn của William Faulkner qua tiểu thuyết “Âm thanh và cuồng nộ”, Nguyễn
Liên đưa ra năm phương diện trong nghệ thuật viết văn của Faulkner: Vai trò của thủ
pháp đồng hiện trong cấu trúc tiểu thuyết; kỹ xảo xáo trộn thời gian trong tiểu thuyết
hiện đại chủ nghĩa; sự cách tân cấu trúc thể loại; vai trò của gam màu thể loại trong
việc khắc họa những tính cách tương phản; tính tượng trưng, trữ tình và châm biếm
trong ngôn từ tiểu thuyết. Tác giả khẳng định, Faulkner là một nhà cách tân táo bạo
tiểu thuyết của thế kỷ XX, mà đóng góp xuất sắc của ông đó là sự sáng tạo thủ pháp
đồng hiện thời gian trong tiểu thuyết.
12
Năm 2010, Lê Huy Bắc hoàn thành chuyên luận Lịch sử văn học Hoa Kỳ. cuốn
sách dày gần 1000 trang này đã dành cho Faulkner một vị trí xứng đáng. Nhà
nghiên cứu ghi nhận những nỗ lực cách tân tiểu thuyết của Faulkner ở các phương
diện cốt truyện, nhân vật, thời gian. Ông đánh giá Faulkner cùng với Hemingway là
hai trụ cốt của văn học Mỹ thế kỉ XX. Ông khẳng định Faulkner đã nâng kĩ thuật
dòng ý thức lên đến đỉnh cao mà sau đó chẳng ai có thể theo kịp.
Năm 2011, Faulkner chính thức được đưa vào chương trình đại học trong giáo
trình Văn học Âu–Mỹ thế kỉ XX do Lê Huy Bắc chủ biên. Trong sách này, Âm thanh
và cuồng nộ và Con gấu được chú trọng phân tích ở các cấp độ: thể loại gotich,
dòng ý thức, đa điểm nhìn Đây là công trình có ý nghĩa lớn đối với việc nghiên
cứu và giảng dạy Faulkner ở Việt Nam. Các ý kiến về Âm thanh và cuồng nộ như
“sự bất toàn, ám ảnh và những nỗi đau”, “lối văn trinh thám”, là những vấn đề

luận án sẽ tiếp thu và đối thoại trong các chương sau.
Như thế, dù nổi tiếng hơn Hemingway tại Mỹ, nhưng ở Việt Nam văn chương
của Faulkner chưa được phổ biến rộng rãi. Vậy nên, tình hình nghiên cứu về ông
dường như cũng chỉ đang ở giai đoạn đầu, chưa có công trình chuyên biệt hay luận
án tiến sĩ nào về Faulkner ở Việt Nam. Vấn đề luận án quan tâm nhận được rất ít sự
hỗ trợ từ phía các nhà nghiên cứu Việt Nam.
2.1.2. Tài liệu dịch
Về tình hình dịch thuật tác phẩm của William Faulkner ở Việt Nam hầu như
vẫn còn rất khiêm tốn. Trước đây, các dịch giả chỉ dịch một vài bài nghiên cứu về
Faulkner, một số truyện ngắn và độc nhất một cuốn tiểu thuyết Âm thanh và cuồng
nộ. Đặc biệt trong năm 2012, một số tiểu thuyết của Faulkner đã được các dịch giả
xuất bản tạo nên một hiện tượng trong văn học Việt Nam.
Năm 1963, ở miền Nam dịch giả Bửu Ý đã xuất bản cuốn Văn học thế giới hiện
đại. Trong phần giới thiệu toàn cảnh văn học Hoa Kỳ, tác giả đã đề cập ảnh hưởng to
lớn của Hemingway và Faulkner đến loại tiểu thuyết hướng về quá khứ. Chính điều
đó, những nhà văn này đã mang đến cho thế hệ sau một thẩm mỹ mới.
13
Năm 1964, trong bài Lời nguyền và nguồn hy vọng của Horace Judson, đăng
trên tạp chí Văn, dịch giả Nhã Điển đã đưa ra kết luận về việc Faulkner đã phản ánh
sâu sắc mọi khía cạnh cuộc sống ở miền Nam Hoa Kỳ. Đứng trên quan điểm bắt
nguồn từ “Nhãn quan lịch sử và tâm tình”, mối quan tâm lớn nhất của Faulkner là
quan hệ giữa người da trắng và da đen, nạn phân biệt chủng tộc nơi đây vẫn chưa
được cải thiện. Trong phần phân tích tác phẩm, Nhã Điển có điểm qua Âm thanh và
cuồng nộ. Ông tìm đến nội dung tác phẩm nhằm chứng minh cho quan điểm vừa nêu
trên hơn là việc đi sâu vào thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã dụng công xây dựng.
Tiếp đến năm 1965, trong cuốn Năm văn sĩ Hoa Kỳ do Lê Bá Kông và Bửu Nghi
dịch, mang tính tổng quan về văn chương Hoa Kỳ. Ở phần viết dành cho Faulkner, hai
tác giả xoáy sâu vào kỹ thuật viết của cuốn tiểu thuyết Âm thanh và cuồng nộ, về vai
trò của các nhân vật chính đã mang lại tính đa thanh cho tác phẩm.
Mãi cho đến 1993, hai dịch giả Phan Đan, Phan Linh Lan đã xuất bản cuốn Âm

thanh và cuồng nộ. Trong lời nói đầu, các dịch giả đã đề cập đến quá trình viết tác
phẩm, những nét thi pháp đặc trưng như thời gian, nhân vật và cốt truyện lắp ghép
với nhiều người kể
Hiện nay, trong năm 2012, nhà xuất bản Hội nhà văn vừa ấn hành tiểu thuyết
Khi tôi nằm chết (nguyên tác As I lay Dying) do Hiếu Tân dịch. Bọn đạo chích (The
Reivers) của dịch giả Phạm Văn và dịch giả Trần Nghi Hoàng vừa xuất bản cuốn
Thánh địa tội ác (Sanctuary) vào tháng 7/2012.
Nhìn qua tình hình dịch thuật tác phẩm của Faulkner trong năm 2012, chúng
tôi nhận thấy sự tiếp nhận Faulkner ở Việt Nam đã bắt đầu có nhiều dấu hiệu khả
quan. Điều đó cho thấy, các nhà nghiên cứu và độc giả Việt Nam đang tăng dần sự
quan tâm đến Faulkner.
Ngoài ra, chúng tôi còn thu thập được một số bài viết của các tác giả nước
ngoài được dịch ở Việt Nam. Trong đó, có cuốn Tiểu thuyết hiện đại của Dorothy
Brewster; cuốn Một trăm năm Faulkner của Từ Huy dịch từ cuộc phỏng vấn tác giả
Pháp nhân dịp kỷ niệm 100 năm Faulkner; cuốn Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện
thực của Boris Suskov. Những cuốn sách này đều có đề cập văn hào Faulkner ở các
14
khía cạnh cuộc đời và một số nét văn phong nổi bật, trong đó có kĩ thuật thời gian.
Tuy nhiên do chưa phải là chuyên luận, nên dù có những định hướng nhất định đối
với đề tài, nhưng những sách trên vẫn chưa có điều kiện đi sâu khảo sát. Vậy nên,
khoảng trống trong nghiên cứu vẫn còn để chúng tôi thực hiện đề tài.
2.2. Tƣ liệu tiếng Anh
2.2.1. Về vấn đề thời gian trong tiểu thuyết của Faulkner
Từ năm 1952, nhà nghiên cứu Irving Howe đã xuất bản cuốn A Crirtical
Study, Ivan R Dee (Nghiên cứu phê bình, Ivan R Dee). Trong cuốn sách này, tác giả
xoay quanh nhân vật bí ẩn Thomas Sutpen và các điểm nhìn khác nhau của những
NKC. Tác giả cho rằng vấn đề thời gian quá khứ trong Absalom, Absalom! nhìn
thấy như một kiểu “thời gian chết”, những đoạn văn trong tác phẩm như những cơn
ác mộng, nhưng nó lại được trình bày trong một thời gian được dát phẳng ma quái.
Thông qua sự tương tác tinh tế của thời gian, cuốn tiểu thuyết tạo ra một ảo ảnh của

không thời gian được cảm nhận mạnh mẽ trong hiện tại. Thời gian dừng lại, quá
khứ không chiếm lại trong dòng chảy vì vậy hình ảnh trong quá khứ đã tạo ra hàng
loạt ảnh tĩnh.
Trong cuốn The Dictionary of World literature (Từ điển văn học thế giới) in
năm 1956 do Lillian Hellman chủ biên, đã đề cập đến cách xây dựng kết cấu và thời
gian trong tiểu thuyết của Faulkner. Tác giả cũng đã nhận xét về thủ pháp hồi cố
được sử dụng trong kết cấu và trong thời gian tác phẩm của Faulkner. Phương pháp
viết của Faulkner thường bắt đầu từ phần cuối hơn là phần đầu. Thường thì ông mở
đầu câu chuyện bằng đoạn cuối rồi đi ngược lại dòng thời gian, nghĩa là đi từ hiện
tại trở lại quá khứ. Luận án tiếp thu ý kiến này.
Nhà nghiên cứu John Edward Hardy, trong Man in the Modern Novel,1964
(Con người trong tiểu thuyết hiện đại) đã nhận định về nhân vật của Faulkner bằng
bài viết có nhan đề Huyền thoại đằng sau huyền thoại. Đặt cạnh Hemingway và các
nhà văn Mỹ cùng thời, Faulkner được xem là người có thể nghiệm mới nhất trong
phong cách. Những điểm nổi bật mà John Edward Hardy nêu ra có liên quan đến
nhiều vấn đề: 1. Độc giả luôn phải đối diện với những tình huống mà ở đó chìa khoá
có thể từ quá khứ đến hiện tại; 2. Tính chất anh hùng ở nhân vật của Faulkner không
15
giống Hemingway; 3. sự tái hiện của Quentin Compson trong các tác phẩm khác; 4.
Tác phẩm Faulkner có tính truyền thống theo kiểu dễ nhận biết; 5. Việc Quentin
cháu bỏ trốn vào ngày lễ phục sinh là một sự tái sinh; 6. Sự tương phản giữa hai
hình ảnh Benjy và Jason là sự tương phản giữa hai hình ảnh Chúa và con người xấu
xí; 7. Ý nghĩa khác biệt của thời gian qua cảm nhận của Benjy – Quentin và Jason.
Những ý kiến này rất hữu ích cho chúng tôi khi triển khai đề tài.
Năm 1966, Robert Penn Warren xuất bản cuốn Faulkner: A Collection of
Critical Essays (Faulkner: Tuyển tiểu luận phê bình). Sách gồm 24 bài chọn lọc từ
sách báo đã đăng và xuất bản trước đó. Có chín bài giới thiệu về văn phong
Faulkner, bốn bài đề xuất những ý kiến riêng về Âm thanh và cuồng nộ và 11 bài về
các tác phẩm khác. Đặt vấn đề Thời gian và số phận trong tác phẩm của Faulkner,
Claude Emoude triển khai bài viết trên ba luận điểm chính: Thời gian: Với Âm

thanh và cuồng nộ quá khứ là thực tế, quá khứ hiện lên trong từng cảnh thực của thế
giới. Quá khứ được xen kẽ do đó nó vừa là quá khứ vừa là hiện tại. Điểm khác nhau
giữa M.Proust và nghệ thuật trần thuật của Faulkner khi gợi nhớ về quá khứ. Kết
quả trần thuật của Faulkner: cấu trúc thời gian đặc biệt ấy của Faulkner là kết quả
của việc làm giảm giá trị của tương lai và hiện tại đối với giá trị của quá khứ. Ý
nghĩa của số phận: Việc loại bỏ trật tự thời gian trong tâm tưởng nhân vật cho thấy
Faulkner chủ trương cho nhân vật ý thức rõ ràng về số phận của nó. Phương tiện để
Faulkner thực hiện điều này là độc thoại nội tâm và cách đặt mình vào các nhân vật
của ông.
Trong tuyển tập phê bình về Faulkner của Robert Penn Warren, Jean Pouillon
được tuyển chọn bài Time and Destiny in Faulkner (Thời gian và định mệnh trong
Faulkner). Jean Pouillon đã nêu một số điểm giống nhau về vấn đề thời gian trong hai
tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust và Âm thanh và cuồng nộ của W.
Faulkner. Với Proust quá khứ cũng là thực tế hiện tại, thậm chí trong tiêu đề cuốn
sách ông cũng thông báo rằng hiện tại không có tính kiên định và không thực là hiện
tại, nó trở nên thực tế trong một quá khứ làm cho nó rõ ràng trong một quá khứ đã
được hồi tưởng. Nhưng quá khứ cũng có sự khác biệt giữa hai tác giả. Với Proust,
quá khứ hoàn toàn mang tính cá nhân, dựng nên thói quen và cảm nhận cá nhân.
16
Hành trình của một chiếc bánh nhỏ nhúng trong tách trà chỉ áp dụng cho ông. Ngược
lại đối với Faulkner, nó không chỉ là quá khứ của tôi, xuất hiện và tự chấp nhận như
cách tốt nhất với hiện tại bên ngoài, mà còn là quá khứ của mọi người, quá khứ của
tất cả nhân vật của ông.
Năm 1967, tác giả Jesse Gatlin cho ra đời tiểu luận Thời gian và nhân vật
trong “Âm thanh và cuồng nộ” của Faulkner, của Viện Nhân văn Bullentin.
Trong luận văn thạc sĩ hoàn thành vào năm 1973, Margaret Anne Clark nghiên
cứu vấn đề Time–perception in Light In August, the Sound and the Fury and As I
Lay Dying (Tri giác – thời gian trong Nắng tháng Tám, Âm thanh và cuồng nộ và
Khi tôi hấp hối) tại Đại học British Columbia. Tác giả nhận định rằng, trong ba
cuốn tiểu thuyết lớn này, Faulkner rất quan tâm đến vấn đề thời gian, mối quan hệ

giữa nhận thức của từng cá nhân về thời gian. Trong Nắng tháng tám, tầm quan
trong của thời gian thể hiện trong tần suất lặp đi lặp lại tạo nên biểu tượng bánh xe
và vòng tròn. Với Âm thanh và cuồng nộ, biểu tượng thời gian là cái bóng. Còn
trong Khi tôi hấp hối thì biểu tượng thời gian là chiếc quan tài – cái chết và biểu
tượng dòng sông – thời gian đang diễn ra. Thời gian đã tạo nên phong cách riêng
của Faulkner. Đặc biệt, cả ba cuốn tiểu thuyết đều đề cập đến mối quan hệ giữa cái
vô hạn của thời gian và mối quan hệ của nhận thức cá nhân, điều đó đã tạo nên thời
gian đa chiều trong tác phẩm.
Nhà nghiên cứu Jean-Paul Sartre, trong cuốn On The Sound and the Fury:
Time in the Work of Faulkner (Về Âm thanh và cuồng nộ: Thời gian trong tác
phẩm của Faulkner). Trong cuốn sách này, Sartre đồng nhất và khai thác sâu hơn
yếu tố thời gian so với Claude-Edmonde Magny. Ông cho rằng bản chất thời gian
trong tác phẩm của Faulkner là hiện tại “sa lầy” hiện tại không có khả năng mang
tính tương lai. Với Âm thanh và cuồng nộ, Faulkner thể hiện phong cách độc đáo
hơn. Ông có xu hướng che dấu hiện tại, trật tự của quá khứ thuộc vào cảm xúc.
Nhân vật của Faulkner do vậy không bao giờ hướng về phía trước, họ hướng về quá
khứ. Sartre lý giải sự lựa chọn vô lý về thời gian của Faulkner xuất phát về sự cảm
nhận về sự ngột ngạt của thời đại, của thế giới đang chết vì tuổi già.
17
2.2.2. Về vấn đề thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Faulkner
Năm 1929, Evelyn Scott khi giới thiệu Âm thanh và cuồng nộ, có nhắc đến nội
dung cơ bản của các chương sách với vai trò kể chuyện của Benjy, Quentin, Jason.
Trong đó Quentin được coi là hình ảnh tượng trưng của Chúa. Trong On William
Faulkner’s “The sound and the Fury” (Về “Âm thanh và cuồng nộ” của William
Faulkner), Scott nhận định: “Người ta dường như rất hay yêu cầu “tính đạo đức”
trong một cuốn sách. Chẳng có một tuyên bố đạo đức nào trong Âm thanh và cuồng
nộ, nhưng những kết luận đạo đức thì có thể được rút ra từ nó chắc chắn như từ
“cuộc sống”, bởi lẽ với tư cách là một nghệ thuật, cuộc sống được tổ chức theo cách
để được khám phá đầy đủ hơn”.
Năm 1942, Maxwell Geismar khi giới thiệu cuốn Writers in Crisis: The

American novel between two wars (Nhà văn trong khủng hoảng: Tiểu thuyết Mỹ
giữa hai cuộc chiến) đã chú trọng đến Dilsey và Caddy trong Âm thanh và cuồng
nộ. Dilsey được đặt trong hệ quy chiếu với những giá trị tinh thần của người da
trắng thuộc gia đình Compson. Caddy với những tác động tích cực lẫn tiêu cực với
ba nhân vật Benjy, Quentin và Jason. Ngược lại chân dung khuất của Caddy cũng
được phác họa ngày một rõ nét qua ba nhân vật này. Chủ đề toát ra từ câu chuyện
về những đứa trẻ nhà Compson là “tất cả sự an ủi và yêu thương của thế giới trẻ thơ
trong hiện tại trong sự va chạm của nó với giá trị người lớn”.
Laurence Edward Bowling trong Faulkner: Technique of “The sound and the
Fury”, 1948 (Faulkner: Kĩ thuật trong “Âm thanh và cuồng nộ”) đưa ra ý kiến của
các nhà phê bình Mỹ về cách kể chuyện rắc rối của Faulkner. Hai ý kiến chính được
tác giả “kiểm duyệt” qua tác phẩm là: 1. Sự rắc rối, phức tạp khi kể chuyện của
Faulkner mang ý nghĩa nghệ thuật; 2. Sự rắc rối ấy chẳng có tác dụng gì, chỉ làm trở
ngại thêm cho độc giả mà thôi. Ông viết: “trong số tất cả các sáng tác văn xuôi của
Faulkner, Âm thanh và cuồng nộ là phức tạp nhất, nhưng nó lại là một trong những
tác phẩm hay nhất của ông. Nó không phải là một trong những cuốn dễ đọc của ông,
bởi kĩ thuật khác lạ của nó gây nên sự khó hiểu đối với đại đa số độc giả và tạo cho
nhiều người trong số họ định kiến chống lại cuốn sách ngay tại chỗ quẳng nó sang
một bên khi chưa đọc hết và chưa phán xử công bằng. Vì lẽ đó, nếu đưa Faulkner ra
18
tòa vì kĩ thuật viết của mình thì cuốn tiểu thuyết này sẽ là một bằng chứng thích
hợp” [108, 84].
Năm 1960, Lawrance Thompson trong công trình Mirror Analogues in “The
Sound and the Fury” (Vật tương tự tấm gương trong “Âm thanh và cuồng nộ”) đã
hé mở một cách tiếp cận thế giới nội tâm bí ẩn của nhân vật. Có một mối liên hệ
giữa nhân vật với vô số hình ảnh tượng trưng. Ví dụ: với Benjy là hình ảnh ngọn lửa
trong gương, với Quentin là hình ảnh về chiếc bóng của anh ta, mặt con chim nước
nơi chân cầu, tấm gương trong phòng, con cá hồi, con chim hải âu
Faulkner: Technique of “The sound and the Fury”, 1948 (Những nhà tạo hình
tiểu thuyết Mỹ) được ấn hành năm 1961. George Snell bàn về sự phẫn nộ của Faulkner.

Faulkner được coi là một nhà phê bình “hung dữ” của miền Nam Hoa Kỳ đồng thời là
một người bảo vệ văn hóa miền Nam trung thành nhất. Tiểu thuyết của ông là sự kết
hợp giữa tính hài hước và sự bi thảm. Tác giả cũng nhận định sự thành công về kỹ
thuật viết của Faulkner trong cuốn Âm thanh và cuồng nộ. Theo Snell, sự lôi cuốn của
tác phẩm chính là kiểu phân bố điểm nhìn cố ý xô lệch ở các chương. Lối kể chuyện
trong tác phẩm của Faulkner rất khác thường, nó phù hợp với xu hướng suy đồi trên
cấp độ con người hiện đại nói chung và gia đình Compson nói riêng.
Năm 1964, Nhà nghiên cứu Horace Judson ra mắt bạn đọc bài nghiên cứu
Books:The Curse & The Hope (Sách: Sự nguyền rủa và hi vọng ). Tác giả đã bàn về
tác phẩm Absalom, Absalom! như cuốn tiểu thuyết thần thoại lãng mạn của miền
Nam, cho ta thấy sự đàn áp tàn bạo của chế độ nô lệ, sự kiêu ngạo của những chủ đồn
điền khi xem những cô gái da đen như những món hàng. Ông đánh giá tác phẩm
Absalom, Absalom! Là một trong những tác phẩm văn xuôi với lối kể chuyện khó
hiểu. Nhân vật chính Sutpen là nhân vật gần với một anh hùng bi kịch Hy Lạp cổ.
Với Âm thanh và cuồng nộ, Horace Judson đề cập đến hình tượng Dilsey, cô
trở thành chuẩn mực đạo đức của cuốn sách. Bên cạnh gia đình Compson là những
kẻ say rượu, bệnh thần kinh, ngu xuẩn, phóng đãng và tự tử. Tác giả đã khẳng định
tầm vóc nhà văn Faulkner thuộc hàng tiểu thuyết gia như Marcel Proust hay
Dostoievsky
19
Năm 1966, Michael Millgate xuất bản cuốn The Achievement of William
Faulkner (Thành tựu của William Faulkner). Trong Âm thanh và cuồng nộ, tác giả
đã truy tìm ý nghĩa cái tên của tác phẩm từ cái tựa đề đầu tiên chưa kịp xoá bỏ trong
bản thảo của Faulkner: Twilight – Tranh tối tranh sáng – một cái tên thích hợp khi
gợi ra sự suy tàn của gia đình Compson tại thời điểm mà sự huy hoàng đã mờ nhạt
trước sự huỷ diệt đang tới gần. Ông cũng ghi lại những lý do đầy đủ nhất mà
Faulkner đưa ra tại hội thảo Nagano năm 1955 khi viết Âm thanh và cuồng nộ. So
sánh bản viết tay và bản đánh máy, Millgate nhận thấy cách đặt chữ in nghiêng của
Faulkner vừa gây sự chú ý cho người đọc vừa đạt được những tiến bộ nhất định khi
diễn đạt về sự bất biến của thời gian quá khứ.

Năm 1968, trong Seven Modern American Novelists: An Introduction, (Nhập
môn bảy tiểu thuyết gia hiện đại Hoa Kỳ ),William Van O‟Connor giới thiệu ngắn
gọn về gia thế, quá trình sáng tác của Faulkner. Âm thanh và cuồng nộ được xem là
một tiểu thuyết mới với kỹ thuật độc thoại nội tâm – dòng ý thức ảnh hưởng từ
James Joyce – tiểu thuyết ấn tượng với chủ trương, “Đời sống không kể chuyện cho
ta nghe nhưng gây nên ấn tượng trong óc ta. Có hai thông điệp được tác giả đề cập
đến từ nội dung của tác phẩm: Nếu coi tác phẩm cốt yếu là chuyện Quentin thì đó là
câu chuyện của một nhà thẩm mỹ đi tìm ý nghĩa cơ bản cho cuộc sống. Ta cũng có
thể coi chuyện diễn tả sự lỏng lẻo của mối quan hệ gia đình: Sự thiếu tình thương và
tôn trọng lẫn nhau. Một điểm yếu của tác phẩm mà O‟Connor chỉ ra là sự “xuất đầu
lộ diện” của nhà văn ở một số độc thoại nội tâm làm cho lời văn mất tính khách quan.
Năm 1975, Michael Groden với công trình nghiên cứu Criticism in New
Composition: “Ulysses” and “The Sound and the Fury” (Phê bình tác phẩm mới:
“Ulysses” và “Âm thanh và cuồng nộ” ), tác giả chỉ ra những điểm tương đồng
trong việc xây dựng nhân vật và kỹ thuật kể chuyện giữa hai tác giả James Joyce và
William Faulkner.
Nhà nghiên cứu Malcolm Cowley, trong cuốn The Faulkner–Cowley File:
Letters and Memories, 1944-1962 (Hồ sơ Faulkner–Cowley: Thư và hồi kí, 1944-
1962) được viết chung với William Faulkner, hai người là bạn thân nên đã có những
20
trao đổi thư từ qua lại. Thông qua những bức thư đó, độc giả nhận biết được ý đồ
xây dựng các nhân vật chính của Faulkner: Đó là bi kịch của hai người đàn bà “bỏ
đi”, Caddy và con gái cô ta Quentin; quan điểm nhất quán của Faulkner khi cố tình
khắc họa hai nhân vật Benjy và Jason: một kẻ điên khùng và một kẻ xảo quyệt.
Năm 1997, Lothar Hönnighausen xuất bản cuốn Faulkner: Masks and
Metaphors (Faulkner: mặt nạ và ẩn dụ ). Kể từ khi công bố bởi Roland Barthes về
cái chết của “tác giả”, sự chú ý nhiều hơn và quan trọng hơn của các nhà nghiên cứu
đã được dành cho vai trò và chức năng của bạn đọc. Đứng trên quan điểm đó, cách
tiếp cận quan trọng của Lothar Hönnighausen trong Faulkner: mặt nạ và ẩn dụ cũng
quan tâm đến những phản ứng, chỉ trích của bạn đọc về văn bản của Faulkner.

Hönnighausen, trong cuốn sách này, cố gắng để độc giả đọc các tác phẩm của
Faulkner như văn bản mở, từ quan điểm đặc biệt của riêng mình “mặt nạ” và “ẩn
dụ”. “Mặt nạ”, chẳng hạn như Faulkner thường sử dụng nó để “che giấu” và “ngụy
trang,” trong tác phẩm mà bạn đọc có thể nhận thức được trong chi tiết, biểu tượng.
Nhà văn chỉ tiết lộ thông qua một số hình ảnh trong tác phẩm của mình. Theo ông,
sự đa dạng của các mặt nạ trong văn bản của Faulkner là một biểu hiện của các
phản ứng khác nhau của mình với tình huống hiện đại xã hội, tâm lý và văn học,
trong đó mọi người được tham gia trong vai trò chơi truy tìm văn bản, đó cũng là
“một hành động giao tiếp”, mở cửa cho người đọc, nhờ vào trí tưởng tượng của
người đọc để hoàn thành bản thông điệp của tác phẩm. Sau khi phân tích một số chi
tiết nghệ thuật trong tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ, Absalom, Absalom! ,
Hönnighausen đưa đến kết luận rằng sự sáng tạo ẩn dụ của Faulkner trở thành sự
thách thức nghệ thuật của ông đối với người đọc.
Gary Storhoff trong Faulkner’s Familly Crucible: Quentin’s Dilemma (Sự
thử thách gia đình của Faulkner: tình thế lưỡng nan của Quentin) đã nhận diện vấn
đề văn học gia đình đã trở thành trung tâm trong tác phẩm của Faulkner; Faulkner
luôn tôn vinh, hoài cổ về sự ấm áp của gia đình; tiểu thuyết của ông cho thấy gia
đình là nơi che giấu sự đau đớn của những con người dễ bị tổn thương nhất là phụ
nữ và người cao tuổi… Đặc biệt, khi phân tích Âm thanh và cuồng nộ, Storhoff lý

×