Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (Từ góc nhìn từ sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 109 trang )

















ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP









VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM
ĐIỆN ẢNH (TỪ GÓC NHÌN TỰ SỰ)








LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC











Hà Nội-2010


















ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐỖ THỊ NGỌC ĐIỆP









VẤN ĐỀ CHUYỂN THỂ
TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM
ĐIỆN ẢNH (TỪ GÓC NHÌN TỰ SỰ)







Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 32







Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lý Hoài Thu









Hà Nội-2010


Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 8
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh 8
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự. 10
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu 12
4. Phương pháp nghiên cứu 14
5. Đóng góp mới của luận văn 15
6. Cấu trúc luận văn 15
GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM 16
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CỐT TRUYỆN 19
1. Cốt truyện trong tác phẩm văn xuôi tự sự 19
1.1. Khái niệm cốt truyện 19
1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn và cốt truyện trong tiểu thuyết 22
1.3 Vai trò của cốt truyện 23
2. Cốt truyện trong phim truyện điện ảnh 24
2.1. Khái niệm cốt truyện trong phim 24
2.2. Đặc điểm cốt truyện phim 26
3. Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ góc
nhìn cốt truyện. 31
3.1. Tiếp thu, bổ sung và cải biên về đường dây cốt truyện chính 33
3.2. Tiếp thu, bổ sung và cải biên về chi tiết nghệ thuật 41

3.3. Mở đầu và kết thúc 44
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ NHÂN VẬT 47
2.1. Nhân vật trong tác phẩm văn học 47
2.2. Nhân vật trong phim truyện điện ảnh 51
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
2
2.3. Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ
góc nhìn nhân vật 54
2.3.1. Miêu tả nhân vật bằng ngôn ngữ điện ảnh 54
2.3.2. Tiếp thu, bổ sung, cải biên về hệ thống nhân vật 58
2.3.3. Tiếp thu, bổ sung, cải biên về tính cách nhân vật 63
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ KẾT CẤU 70
3.1. Kết cấu trong tác phẩm văn học 70
3.2. Kết cấu phim 73
3.3. Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh
từ góc nhìn kết cấu 75
3.3.1. Bố cục 76
3.3.2. Tổ chức không gian – thời gian 81
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC 1 97
PHỤ LỤC 2 103
PHỤ LỤC 3 104
PHỤ LỤC 4 105
PHỤ LỤC 5 106









Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh đã và đang là
hiện tượng hết sức phổ biến trong đời sống văn hoá nghệ thuật cả ở Việt Nam
và trên thế giới. Chưa ai có thể thống kê nổi con số khổng lồ về những tác
phẩm văn học đã được chuyển thể thành phim. Chỉ biết rằng: Hầu hết tác
phẩm văn chương ưu tú của các dân tộc ở mọi thời đại khác nhau đều đã một
lần, thậm chí hơn một lần sống đời sống mới của mình trong ngôi nhà của
nàng Muydơ thứ 7. Từ những thiên anh hùng ca, những câu chuyện truyền
thuyết, thần thoại, truyện thơ… trong kho tàng văn học dân gian, ra đời từ khi
con người chưa có chữ viết: anh hùng ca Iliát và Ôđixê (Homerơ, thế kỷ 9 - 8
trước công nguyên), Thần thoại Hy Lạp, Nghìn lẻ một đêm… đến những tác
phẩm văn học cổ điển như: Đôn Kihôtê (Miguel de Cervantes Saavedra, 1605,
văn học Tây Ban Nha), Đồi gió hú (Emily Brontê, 1847, văn học Anh), Bà
Bôvary (Gustave Flaubert, 1856, văn học Pháp) Những người khốn khổ
(Victor Hugo, 1862, văn học Pháp), Chiến tranh và Hoà Bình (Lev
Nikolayevich Tolstoy, 1865, văn học Nga), Kiêu hãnh và Định kiến (Jane
Austen, 1813, văn học Anh), Cuốn theo chiều gió (Margaret Mitchell, 1936,
văn học Mỹ), Tam Quốc diễn nghĩa (La Quán Trung, thế kỷ XIV, văn học
Trung Quốc), Tây du ký (Ngô Thừa Ân, xuất bản những năm 1590, văn học
Trung Quốc), Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần, thế kỷ XVIII, văn học Trung

Quốc )… và những tác phẩm mới của văn học hiện đại: Bệnh nhân người Anh
(Michael Ondaatje, 1992, văn học Ý), bộ truyện Hary Potter (J. K. Rowling,
gồm 7 phần xuất bản từ 1997 đến 2007, văn học Anh), Mật mã Da vinci (Dan
Brown, 2003, văn học Mỹ), bộ 3 tiểu thuyết Chạng Vạng – Trăng non - Nhật
thực (Stephenie Meyer, 2005, văn học Anh)… Trong danh sách giải thưởng
của Oscar - giải thưởng điện ảnh danh giá nhất hành tinh, ngay từ những kỳ
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
4
trao giải đầu tiên (năm 1928 – 1929), bên cạnh giải Oscar cho Kịch bản gốc
hay nhất (Best Writing - Original Screenplay) luôn có hạng mục giải Oscar
cho Kịch bản chuyển thể hay nhất (Best Writing - Adapted Screenplay). Giải
Oscar cho Kịch bản chuyển thể hay nhất là một trong các giải Oscar được trao
hàng năm cho người viết kịch bản, chuyển thể từ một nguồn khác, chủ yếu là
từ tác phẩm văn học thuộc các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch
1
. Trong
số 83 bộ phim đoạt giải Oscar cho Phim hay nhất (Best Picture) tại 83 kỳ trao
giải Oscar (từ năm 1927/1928 đến năm 2010) có tới 46 bộ phim được chuyển
thể từ các tiểu thuyết, truyện ngắn
2
. Những năm gần đây, rất nhiều bộ phim
“đình đám” - được công chúng đón nhận nhiệt tình, thiết lập nên những kỷ lục
về doanh thu phòng vé đồng thời được giới phê bình phim quốc tế đánh giá
cao - là phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học: Lụa, Không chốn
nương thân, Áo khoác lông chồn, Đảo kinh hoàng, Nhật ký tiểu thư Jones,
Chúa tể những chiếc nhẫn, series phim Harry Potter, Tối hậu thư của Bourne,
Nhật ký vú em, Chạng vạng, Nhật thực… Tại giải Oscar 2009, trong số 5 đề
cử cho Phim hay nhất có tới 3 bộ phim là phim chuyển thể từ các tác phẩm

văn học: The curious case of Benjamin Button chuyển thể từ một truyện ngắn
của nhà văn Mỹ Frank Scott Fritzgerald, The reader chuyển thể từ tác phẩm
best-seller của nhà văn Đức Bernhard Schlink và Revolutionary road chuyển
thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Mỹ Richard Yates. Thành công lớn
của phim No Country for Old men (chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà
văn Cormac McCarthy) tại Oscar 2008 và The Reader (chuyển thể từ tiểu
thuyết The Reader của Bernhard Schlink) tại Oscar 2009 khiến giới phê bình
phim ngày càng ấn tượng với phim chuyển thể từ tác phẩm văn học. Có khá
nhiều cuộc bình chọn liên quan đến phim chuyển thể, thu hút sự quan tâm của


1
Trong 81 bộ phim được trao giải Oscar cho Kịch bản chuyển thể hay nhất từ năm 1928 đến nay, có 50 bộ
phim được chuyển thể từ tiểu thuyết, 6 bộ phim được chuyển thể từ truyện ngắn, 17 phim được chuyển thể từ
kịch (thống kê theo tư liệu trên Wikipedia.org – Đ.T.N.Đ).
2
Đ.T.N.Đ thống kê (xem Phụ lục 1).
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
5
đông đảo khán giả, các nhà nghiên cứu – phê bình điện ảnh và báo giới: tờ
Celeb bình chọn “10 bộ phim xuất sắc nhất chuyển thể từ tác phẩm văn học”;
trang Premiere đưa ra tổng hợp “Top 10 bộ phim hay hơn sách”; Tạp chí Mỹ
Forbes công bố danh sách “những bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại
(tại thị trường Mỹ) được chuyển thể từ các cuốn sách bán chạy nhất”…
Những sự kiện, những con số thống kê đó đã phần nào nói lên vị trí quan
trọng của các phim chuyển thể từ tác phẩm văn học trong thành tựu chung của
nghệ thuật điện ảnh. Các tác phẩm văn học, đặc biệt là những cuốn sách best-
seller luôn là nguồn tư liệu hấp dẫn cho các đạo diễn điện ảnh, các nhà biên kịch.

Ở Việt Nam, môn nghệ thuật thứ 7 được du nhập vào Việt Nam từ cuối
thập niên 1890. Tuy nhiên, dấu mốc thực sự cho sự ra đời của nền điện ảnh
Việt Nam là năm 1923, khi xuất hiện bộ phim truyện đầu tiên: Kim Vân Kiều
- do Công ty Chiếu bóng Đông Dương thực hiện, dựa trên tác phẩm bất hủ
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Trong những thành tựu nổi bật của
điện ảnh Việt Nam qua suốt chặng đường dài gần một thế kỷ: từ giai đoạn
khởi đầu đến điện ảnh cách mạng, điện ảnh miền Nam thời kỳ chia cắt 2 miền
Nam - Bắc, điện ảnh thời kỳ mở cửa, điện ảnh hải ngoại và điện ảnh Việt
Nam đương đại; không thể không kể đến đóng góp rất đáng tự hào của những
bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học: Lục Vân Tiên (1957, dựa theo
truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu), Vợ chồng A Phủ (1961,
chuyển thể từ truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài), Chim vành
khuyên (1962, dựa trên truyện ngắn Câu chuyện một bài ca của Nguyễn Văn
Thông), Chị Tư Hậu (1963, chuyển thể từ tác phẩm Một chuyện chép ở bệnh
viện của nhà văn Bùi Đức Ái), Nổi gió (1966, dựa trên vở kịch cùng tên của
Đào Hồng Cẩm), Loan mắt nhung (1970, dựa theo truyện Loan mắt nhung
của Nguyễn Thuỵ Long), Trống mái và Gánh hàng hoa (1971, dựa theo tiểu
thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn), Điệu ru nước mắt và Vết thù trên lưng
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
6
ngựa hoang (1971, chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Duyên Anh),
Chân trời tím (1970, chuyển thể từ tiểu thuyết Chân trời tím của Văn Quang),
Chị Dậu (1980, chuyển thể từ tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố), Làng Vũ
Đại ngày ấy (1983, chuyển thể từ các tác phẩm: Sống mòn, Lão Hạc, Chí
Phèo của nhà văn Nam Cao), Ván bài lật ngửa (gồm 8 tập được thực hiện từ
năm 1982 đến 1987: Đứa con nuôi vị giám mục, Quân cờ di động, Phát súng
trên cao nguyên, Cơn hồng thủy và bản tango số 3, Trời xanh qua kẽ lá, Lời
cảnh cáo cuối cùng, Cao áp và nước lũ, Vòng hoa trước mộ; được chuyển thể

từ tiểu thuyết tình báo cùng tên của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý),
Người đi tìm dĩ vãng (chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của nhà văn
Chu Lai), Đêm hội Long Trì (1989, được chuyển thể từ tác phẩm của nhà văn
Nguyễn Huy Tưởng), Tướng về hưu (1988) và Những người thợ xẻ (1998) -
chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp, Đời cát (1999,
chuyển thể từ truyện ngắn Ba người trên sân ga của Hữu Phương), Thời xa
vắng (2004, chuyển thể từ tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu), Mê
Thảo - Thời vang bóng (2003, chuyển thể từ tác phẩm Chùa đàn của Nguyễn
Tuân), Mùa len trâu (2004, dựa theo 2 truyện ngắn: Một cuộc biển dâu và
Mùa len trâu của nhà văn Sơn Nam), Trăng nơi đáy giếng (2008, chuyển thể
từ truyện ngắn cùng tên của nữ nhà văn Trần Thuỳ Mai), Chuyện của Pao
(2007, chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng đàn môi bên bờ rào đá của nhà văn
Đỗ Bích Thuý), Cánh đồng bất tận (2010, chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên
của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư)…
Không chỉ điện ảnh lấy cảm hứng, chất liệu từ mạch nguồn phong phú
của kho tàng văn học, tiếp thu kinh nghiệm nghệ thuật và các thủ pháp biểu
hiện của văn học mà ngược lại “điện ảnh cũng làm thay đổi tiểu thuyết”.
Cùng với việc chuyển thể tác phẩm văn học thành phim và sự tham gia trực
tiếp của các nhà văn vào quá trình ấy, nghệ thuật điện ảnh cũng đang ảnh
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
7
hưởng không nhỏ tới cách viết, cách kể chuyện và cấu trúc tác phẩm … của
nhiều nhà văn hiện đại. Người ta thấy rõ: “các thủ pháp điện ảnh đã xâm nhập
vào địa hạt văn học và ngày càng chiếm một lãnh thổ rộng lớn”. Pied Buadeff
đã phải thốt lên: “điện ảnh đã bắt tiểu thuyết theo kĩ thuật của nó. Rất nhiều
thủ pháp sáng tác trở thành chung cho cả hai loại”.
Điện ảnh vừa “chịu ơn” các tác phẩm văn học, vừa có công chắp cánh
cho tác phẩm văn học thăng hoa trong thứ ngôn ngữ đa chiều đầy hấp lực của

mình. Nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh qua một số phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự là một hướng đi thú
vị để tìm hiểu quá trình thâm nhập lẫn nhau giữa văn học và điện ảnh.
1.2. Tự sự học là một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. Lý
luận tự sự không chỉ đóng khung trong tự sự văn học mà được vận dụng để
nghiên cứu nhiều hình thức tự sự khác như: tôn giáo, lịch sử, triết học, điện
ảnh Đúng như Roland Barthes đã nói: “Đã có bản thân lịch sử loài người thì
đã có tự sự”. Trong các hình thức tự sự, tự sự văn học có truyền thống lâu đời
nhất, phức tạp nhất và trở thành đối tượng nghiên cứu chính của tự sự học. Là
một nghệ thuật non trẻ, điện ảnh cũng không ngừng bắt rễ vào “kho văn học
vô tận” để tạo nên truyền thống nghệ thuật của riêng mình. Điện ảnh không
chỉ học hỏi hình thức tự sự của văn học về cốt truyện, nhân vật, tính cách
mà còn tiếp thu rộng rãi các phương thức và thủ pháp biểu hiện của văn học
như: ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, mượn cảnh tả tình…Không phải ngẫu nhiên
mà hội hoạ và văn học được coi là hai cái nôi của điện ảnh: “nghệ thuật màn
ảnh mới mẻ dường như đã thống nhất được trong nó tính không gian tạo hình
của hội họa và lối phát triển hành động theo thời gian mà chỉ văn học mới có”
[35, tr.274]. Tự sự điện ảnh và tự sự văn học có nhiều nét gần gũi song cũng
có không ít những khác biệt bởi điện ảnh và văn học có chất liệu nghệ thuật
và phương thức tác động khác nhau. Bởi vậy, hiện tượng chuyển thể tác phẩm
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
8
văn học thành phim ngày càng trở nên phổ biến nhưng phim chuyển thể
không bao giờ là “bản sao” của tác phẩm văn học gốc. Tác phẩm văn học khi
đi vào môi trường điện ảnh không thể sống trọn vẹn đời sống của nó mà luôn
có những biến đổi nhất định để phù hợp với ngôn ngữ điện ảnh, phù hợp với
phương thức tự sự của điện ảnh. Vận dụng lý thuyết tự sự để nghiên cứu vấn
đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh sẽ giúp chúng ta hiểu

rõ những nét tương đồng cũng như những đặc trưng riêng của nghệ thuật tự
sự văn học và nghệ thuật tự sự điện ảnh.
1.3. Bản thân người viết đã từng có thời gian tìm hiểu về những đặc
trưng của ngôn ngữ điện ảnh và ngôn ngữ văn học, về một “lối viết điện ảnh
trong văn học” như một hướng tìm tòi, đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết thế kỷ
XX qua khoá luận tốt nghiệp Chất điện ảnh trong văn học qua một số tiểu
thuyết của M.Duras. Với luận văn thạc sĩ, người viết mong muốn được tiếp
tục nghiên cứu mối quan hệ phức tạp, đa chiều giữa văn học và điện ảnh,
nghiên cứu về nghệ thuật tự sự văn học và nghệ thuật tự sự điện ảnh qua vấn
đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
Mối quan hệ mật thiết, đa chiều giữa văn học và điện ảnh là một thực
tiễn sống động, không thể phủ nhận: Văn học là nguồn chất liệu trực tiếp,
phong phú và vô cùng quan trọng của điện ảnh. Không chỉ lấy chất liệu từ văn
học về: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, tính cách, lời thoại…; điện ảnh còn tiếp
thu rộng rãi kinh nghiệm tự sự, các thủ pháp biểu hiện của văn học. Ngược lại,
phim chuyển thể không phải là sự sao chép tác phẩm văn học mà “chính nó
cũng tác động đến văn học bằng cách kiến giải tác phẩm, cũng như bằng sự
tác động vào phương thức thuật chuyện của văn học” [35, tr.144]. Nhiều thủ
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
9
pháp biểu hiện của điện ảnh không chỉ có trong kịch bản điện ảnh như một
đặc trưng thể loại mà còn thâm nhập vào các thể loại văn học khác đặc biệt là
tiểu thuyết và truyện ngắn… Khi phân tích mối quan hệ giữa văn học và điện
ảnh, tất cả các nhà lí luận đều khẳng định: bên cạnh quá trình điện ảnh hấp thụ
và cải tiến những kinh nghiệm nghệ thuật của văn học, một hiện tượng không
kém phần quan trọng là tác dụng ngược lại rất to lớn của điện ảnh đối với văn

học. Tuy vậy, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh nói
chung vẫn chưa được quan tâm, chú ý đúng mức. Ở Việt Nam, chưa có một
công trình nghiên cứu thật sự công phu về vấn đề này. Cuốn sách duy nhất mà
chúng tôi tìm được có nhan đề Văn học với điện ảnh (Nxb Văn học, 1961) lại
là tập hợp những bài viết, bài giảng của nhiều nhà nghiên cứu Liên Xô: I.Vai-
sphen, M.Rôm, I.Khây-phít-xơ, E.Gabơrilôvitru, về một số vấn đề liên quan
giữa văn học và điện ảnh như: đặc trưng của văn học và điện ảnh, phương
pháp biểu hiện truyện phim, đặc điểm thành phần văn xuôi trong truyện
phim… Nó chưa phải là một công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống
về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. Bên cạnh đó, vấn đề này cũng đã
được một số nhà lí luận, nghiên cứu điện ảnh quan tâm và giới thiệu trong các
bài báo:
- Về cái gọi là tính văn học trong điện ảnh (Tạp chí Nghiên cứu Nghệ
thuật, số 06 – 1984, Lê Châu).
- Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 06 – 1999,
Phạm Vũ Dũng).
- Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 02 – 2001,
Hương Nguyên).
- Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,
số 10- 2002, Minh Trí).
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
10
- Trung Quốc: sự tương tác giữa văn học và điện ảnh (Thế Hà tổng hợp
từ China.com.cn, nguồn: )
Tuy nhiên, các bài viết trên mới chỉ mang tính chất giới thiệu khái quát
về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, trong đó chủ yếu nhấn mạnh vai trò
của văn học đối với điện ảnh qua việc chuyển thể tác phẩm văn học lên màn
ảnh chứ chưa đi vào những phân tích cụ thể.

Tại Khoa Văn học, trường ĐHKHXH&NV những năm gần đây cũng
có một số Khoá luận tốt nghiệp nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và
điện ảnh: Chất điện ảnh trong văn học qua một số tiểu thuyết của M.Duras -
Đỗ Thị Ngọc Điệp, năm 2006; Mật mã Da Vinci - Từ tiểu thuyết đến điện ảnh
(so sánh tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh) – Hà Thị Phượng, năm
2007; Kết cấu, người kể chuyện và không gian trong phim Rashomon của đạo
diễn Kurasawa dưới góc nhìn trần thuật học – Đoàn Thị Bích Thuỷ, năm
2008… Có thể nói, Khoa Văn học - trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội là cơ sở đầu tiên sớm chú ý đến nghiên cứu
mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng lẫn nhau giữa văn học và điện ảnh.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự
Hiện tượng chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh diễn
ra vô cùng sôi động trong thực tiễn đời sống văn hoá nghệ thuật. Tuy nhiên, ở
Việt Nam chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này một
cách có hệ thống. Có thể nói, vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ của lý luận phê bình văn học
cũng như điện ảnh Việt Nam. Nó chỉ được nhắc đến rải rác trong phần trả lời
phỏng vấn báo chí của các nhà biên kịch, đạo diễn - những người đã trực tiếp
tham gia vào quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh:
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
11
Phạm Thuỳ Nhân – không thích lối chuyển thể “coppy”!
(www. ngày 18/12/2007), Vì cùng tần số rung động (Thuỷ Lê,
Tạp chí Đẹp) Bài báo Tiểu thuyết và kịch bản điện ảnh chuyển thể từ tiểu
thuyết của tác giả Thane Rosenbaum (do Hà Linh dịch và đặt lại đầu đề) là
một trong số rất ít bài viết được đăng tải tại Việt Nam có bàn trực tiếp đến vấn
đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh với nhiều kiến giải

sâu sắc: “Tạo cho tác phẩm văn học một cuộc sống thứ hai nhiều khi là tạo ra
một sinh thể nghệ thuật mới trên cơ sở sự biến đổi chứ không phải là một hình
thức bản sao của tác phẩm. Những biến đổi trong quá trình chuyển thể tác
phẩm thường được đối chiếu với nguyên bản. Điều này giải thích cho những
nỗ lực bảo toàn nguyên bản của tác phẩm văn học”, “Thay đổi lại kết thúc,
dồn nén thời gian hoặc sáng tạo thêm về nhân vật , tác phẩm điện ảnh là sự
thay đổi hoàn toàn cơ cấu truyện kể của tác phẩm văn học” Điều thú vị là
tuy chưa được các nhà lý luận phê bình quan tâm nghiên cứu nhưng vấn đề
chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh lại là chủ đề được khá nhiều độc
giả - khán giả quan tâm và bàn luận sôi nổi trên các diễn đàn về điện ảnh: chủ
đề “Sách và phim chuyển thể” trên website hay một
số bài viết của Nguyễn Kinh Luân về Kịch bản điện ảnh cải biên từ văn học
đăng trên website Tuy nhiên, đó đều chưa phải là
những nghiên cứu mang tính khoa học, hệ thống về vấn đề chuyển thể tác
phẩm văn học thành phim truyện điện ảnh.
Cùng với thành công của một số phim chuyển thể trong thời gian gần
đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam có công trình nghiên cứu Từ Chùa Đàn đến
Mê Thảo: Liên văn bản trong văn chương và điện ảnh, tác giả Phạm Ngọc
Hiến có bài viết Về quá trình chuyển thể tiểu thuyết thành phim (qua tác
phẩm Triệu phú ổ chuột). Các công trình trên có những phân tích và so sánh
rất thú vị về tác phẩm văn học gốc và phim truyện chuyển thể: tiểu thuyết
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
12
Chùa Đàn và bộ phim Mê Thảo thời vang bóng, tiểu thuyết Triệu phú ổ chuột
và bộ phim Triệu phú ổ chuột. Tác giả bài viết đã bước đầu khai thác mối
tương quan giữa phim chuyển thể với tác phẩm văn học gốc trên một số
phương diện của nghệ thuật tự sự qua một trường hợp cụ thể. Mới đây, công
trình Nhập môn phân tích phim theo trần thuật học của tác giả Manfred Jahn

đã được dịch sang tiếng Việt làm tài liệu lưu hành nội bộ tại khoa Văn học –
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Công trình này đã cung cấp một số
gợi ý cho chúng tôi trong quá trình ứng dụng lý thuyết tự sự vào nghiên cứu
nghệ thuật điện ảnh.
Lý thuyết tự sự học đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam vào đầu thế
kỷ XXI và được nhiều nhà nghiên cứu đón nhận, ứng dụng vào nghiên cứu
các hiện tượng văn học, văn hoá. “Lý thuyết tự sự ngày nay đã cung cấp một
bộ công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp cho người ta có thể đi sâu vào các
lĩnh vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền thông, nghiên cứu
văn hoá” [23, tr.11]. Tự sự học không chỉ được ứng rộng rãi trong nghiên cứu
nhiều bộ môn văn hoá nghệ thuật mà còn mở ra khả năng nghiên cứu so sánh
liên ngành, nghiên cứu so sánh quốc tế về phương diện tự sự, trở thành một
bộ phận của thi pháp học so sánh. Đây là cơ sở lý luận quan trọng giúp chúng
tôi tìm hiểu những tương đồng và khác biệt giữa nghệ thuật tự sự văn học và
tự sự điện ảnh - chìa khoá quan trọng để hiểu bản chất qúa trình chuyển thể
tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh là vấn đề rất rộng
và phức tạp. Luận văn của chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác
phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự, vận dụng lý thuyết tự
sự để tìm hiểu và lý giải quá trình chuyển thể tác phẩm văn học thành phim.
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
13
Lý thuyết tự sự học hiện đại chú ý đến cấu trúc tự sự, kết cấu của tầng
bậc trần thuật, mô hình trần thuật, ngôn ngữ tự sự, loại hình cốt truyện Đó là
những vấn đề trọng tâm của tự sự học giúp người nghiên cứu khám phá được
các tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm. Dựa vào lý thuyết tự sự học, luận văn của
chúng tôi tìm hiểu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện

ảnh trên các khía cạnh nổi bật: cốt truyện, nhân vật và kết cấu. Cốt truyện,
nhân vật và kết cấu đều là những vấn đề cơ bản và quan trọng của lý thuyết tự
sự. Đó cũng là những yếu tố cốt lõi nhất của cả nghệ thuật tự sự văn học và
nghệ thuật tự sự điện ảnh.
Để có thể đáp ứng được yêu cầu của luận văn về nghiên cứu vấn đề
chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự, chúng
tôi lựa chọn phân tích và khảo sát 4 trường hợp:
- Chuyển thể tiểu thuyết Chùa Đàn của nhà văn Nguyễn Tuân thành bộ
phim Mê Thảo thời vang bóng (Chuyển thể kịch bản: Phạm Thuỳ Nhân, Đạo
diễn: Việt Linh).
- Chuyển thể từ tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu thành
phim Thời xa vắng (Chuyển thể kịch bản: Lê Lựu, Đạo diễn: Hồ Quang Minh)
- Chuyển thể từ hai truyện ngắn Một cuộc bể dâu và Mùa len trâu của
nhà văn Sơn Nam thành phim Mùa len trâu (Chuyển thể kịch bản: Nguyễn Võ
Nghiêm Minh, Đạo diễn: Nguyễn Võ Nghiêm Minh).
- Chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng đàn môi bên bờ rào đá của nhà văn
Đỗ Bích Thuý thành bộ phim Chuyện của Pao (Chuyển thể kịch bản: Ngô
Quang Hải, Đạo diễn: Ngô Quang Hải).
Mỗi trường hợp mà chúng tôi lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu của
luận văn đều có những đặc trưng riêng tiêu biểu cho các con đường khác nhau
của quá trình chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh: chuyển thể từ tiểu
thuyết sang phim truyện điện ảnh (phim Mê Thảo thời vang bóng và phim
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
14
Thời xa vắng) và chuyển thể từ truyện ngắn sang phim (phim Chuyện của Pao
và Mùa len trâu), chuyển thể từ một tác phẩm văn học thành tác phẩm điện
ảnh (phim Mê Thảo thời vang bóng, Thời xa vắng, Chuyện của Pao) và
chuyển thể từ nhiều tác phẩm văn học thành một tác phẩm điện ảnh (phim

Mùa len trâu), tác giả văn học tự viết kịch bản chuyển thể cho tác phẩm của
mình (phim Thời xa vắng) và người khác viết kịch bản chuyển thể (phim Mê
Thảo thời vang bóng, Chuyện của Pao, Mùa len trâu), chuyển thể trung thành
với nguyên tác và chuyển thể có nhiều thay đổi so với nguyên tác Bên cạnh
đó, các bộ phim: Mê Thảo thời vang bóng, Thời xa vắng, Chuyện của Pao,
Mùa len trâu đều là những bộ phim của điện ảnh Việt Nam được đánh giá rất
cao về chất lượng nghệ thuật và đạt nhiều giải thưởng danh giá tại các Liên
hoan phim uy tín
3
. Không chỉ được khán giả và giới phê bình đánh giá là đã
chuyển thể từ tác phẩm văn học rất thành công, đạt chất lượng cao cả về nội
dung lẫn nghệ thuật mà bản thân các nhà văn – tác giả các tác phẩm văn học
gốc cũng rất hài lòng về “hình hài mới” của đứa con tinh thần của mình trong
ngôi nhà điện ảnh. Bởi vậy, qua phân tích và khảo sát các trường hợp trên,
chúng ta có thể có cái nhìn tương đối toàn diện về vấn đề chuyển thể tác phẩm
văn học lên màn ảnh (ở một số phương diện cơ bản nhất của nghệ thuật tự sự).
Trong quá trình phân tích, chúng tôi sẽ liên hệ, so sánh, đối chiếu với các phim
chuyển thể khác của Việt Nam và thế giới để làm rõ các luận điểm của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận văn:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp liên ngành


3
Xem Phụ lục 2, 3, 4 và 5
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)


Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
15
5. Đóng góp mới của luận văn
Vận dụng lý thuyết tự sự học vào nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm
văn học sang tác phẩm điện ảnh, chúng tôi muốn phân tích đặc trưng của tự
sự văn học và tự sự điện ảnh đồng thời so sánh và chỉ ra những nét giống và
khác nhau trong phương thức tự sự của hai loại hình nghệ thuật này. Từ đó
làm sáng tỏ vấn đề cơ bản: những yếu tố tự sự nào của tác phẩm văn học có
thể đi vào môi trường điện ảnh, những yếu tố tự sự nào sẽ bị lược bỏ hoặc
phải biến đổi cho phù hợp với ngôn ngữ biểu đạt của điện ảnh trong quá trình
chuyển thể. Đây cũng là nội dung quan trọng để hiểu bản chất của quá trình
chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh nói riêng và mối quan
hệ giữa văn học – điện ảnh nói chung. Bên cạnh đó, việc chỉ ra những đặc
trưng riêng trong phương thức tự sự của văn học và điện ảnh cũng sẽ góp
phần lý giải hiện tượng: nghệ thuật điện ảnh đang ảnh hưởng đến cách viết,
cách kể chuyện, cách cấu trúc tác phẩm… của nhiều nhà văn hiện đại như thế nào.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và mục Tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Vấn đề cốt truyện
Chương 2: Vấn đề nhân vật.
Chương 3: Vấn đề kết cấu.






Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)


Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
16
GIỚI THUYẾT KHÁI NIỆM

Tự sự học đã có từ xa xưa, từ thời của Platon và Aristote, nhưng phạm
vi quan tâm không ra ngoài giới hạn tu từ học. Tự sự học với tư cách là một
bộ môn khoa học chỉ thực sự ra đời vào năm 1969 qua công trình nghiên cứu
Ngữ pháp Câu chuyện mười ngày của T.Todorov. Từ đó ngành nghiên cứu tự
sự có tên chính thức (Narratology, Narratologie) và trở thành một khoa nghiên
cứu độc lập vì nội hàm văn hoá của nó.
Tự sự học là một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. “Tự sự
học không đóng khung trong tiểu thuyết mà vận dụng cả vào các hình thức “tự
sự” khác như tôn giáo, lịch sử, điện ảnh, triết học, khoa học” [23, 12]. Nó là
một ngành văn hoá bởi vì các hình thức tự sự khác nhau có thể có chung với
nhau những nguyên tắc siêu tự sự.
Theo giáo sư Trần Đình Sử: “Bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là
một sự truyền đạt thông tin, và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều phương
thức, con đường” [23, 12]. “Tự sự là cách để ta đưa các sự việc vào một trật tự
và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa. Tự sự là cách tạo nghĩa cho sự
kiện, biến cố” (J.H.Miller). “Tự sự là phương thức chủ yếu để con người hiểu
biết sự vật” (Jonathan Culler).
Được hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XX đến nay, tự sự học
hiện đại có thể chia làm 3 giai đoạn phát triển: Tự sự học trước chủ nghĩa cấu
trúc, tự sự học cấu trúc chủ nghĩa và tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa.
Nghiên cứu quá trình phát triển của lý thuyết tự sự, nhà lý luận tự sự
người Mỹ GeraldPrince chia làm ba nhóm:
Nhóm thứ nhất là các nhà tự sự chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức
chủ nghĩa Nga như V.Propp. Nhà nghiên cứu Greimas chú ý làm nổi bật lôgíc
của tự sự. Những người còn lại như Todorov, Barthes, Remak chú ý tới cấu
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)


Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
17
trúc câu chuyện được kể, đi tìm mẫu cổ của tự sự, chức năng của biến cố và
quy luật tổ hợp, lôgíc phát triển và loại hình cốt truyện Lúc cực đoan nhất
họ cho rằng tác phẩm tự sự không bị chi phối bởi chất liệu: một câu chuyện có
thể được kể bằng văn học, điện ảnh, ba lê, hội hoạ Họ bỏ qua hoặc không đi
vào đặc trưng biểu đạt của chất liệu.
Nhóm thứ hai xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ nói hay viết
mà biểu đạt. Họ chú trọng nhất vai trò của người trần thuật, chú ý lớp ngôn từ
của người trần thuật với các yếu tố cơ bản như điểm nhìn, giọng điệu
Nhóm thứ ba gồm những nhà nghiên cứu như: Gerald Price, Seymour
Chatman Họ coi trong phương pháp nghiên cứu tổng thể hay dung hợp.
Như vậy, nội dung chính của ngành tự sự học là nghiên cứu cấu trúc
văn bản tự sự và những vấn đề liên quan. Vấn đề cấu trúc tự sự bắt đầu từ
khuynh hướng lưỡng phân Fabula/Xiuzhet (chất liệu và hình thức) của chủ
nghĩa hình thức Nga đến Genette, M.Bal đã có xu hướng tam phân: ngoài hai
lớp mà chủ nghĩa hình thức Nga nêu ra, họ nêu thêm lớp “tự sự” (kể chuyện).
Ngày nay, cấu trúc tự sự lại có xu hướng lưỡng phân theo một cách khác:
Histoire/ Récit (chuyện / kể, bản kể); Story / Discours (chuyện / lời kể); Récit
/ Naration (bản kể/ hành vi kể) Nhìn chung, đó là sự phân biệt giữa kể “cái
gì” và “kể như thế nào”.
Những nghiên cứu, phân tích của các nhà tự sự học lần đầu tiên đã cho
người ta thấy nhiều vấn đề mới mẻ: sự phức tạp của cấu trúc tự sự; vấn đề ý
thức của chủ thể tự sự; kết cấu của tầng bậc trần thuật; sự biến dạng của thời
gian; vấn đề điểm nhìn, tiêu cự và các mô hình tự sự; vấn đề cấu trúc của tình
tiết, các kiểu tổ hợp tình tiết, loại hình cốt truyện…
Trên đây là những vấn đề lý thuyết khái quát nhất của bộ môn khoa
học Tự sự học. Nó là cơ sở lý luận giúp chúng tôi định hướng con đường
khám phá quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh qua

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
18
lăng kính tự sự ở ba phương diện tiêu biểu: cốt truyện, nhân vật và kết cấu.
Đây đều là những phương diện cơ bản và quan trọng của cả tự sự văn học và
tự sự điện ảnh. Nghiên cứu nghệ thuật tự sự trên ba phương diện trên sẽ giúp
chúng ta thấy rõ những tương đồng và khác biệt trong phương thức tự sự của
hai loại hình nghệ thuật.
Khái niệm tác phẩm văn học mà chúng tôi sử dụng trong luận văn chỉ
nhằm nói tới tác phẩm văn xuôi tự sự mà cụ thể là truyện ngắn và tiểu thuyết
(không bao gồm tác phẩm thuộc các thể loại trữ tình, kịch…). Khái niệm tác
phẩm điện ảnh được sử dụng để chỉ phim truyện nhựa/hay phim tự sự (không
bao gồm phim tài liệu, phim hoạt hình, phim ngắn, phim thử nghiệm…). Các
khái niệm chuyển thể, cải biên được sử dụng như những khái niệm tương đồng.

















Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
19
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ CỐT TRUYỆN
1. Cốt truyện trong tác phẩm văn xuôi tự sự
1.1. Khái niệm cốt truyện
Vấn đề cốt truyện từ lâu đã được ngành Tự sự học coi là một trong
những yếu tố cơ bản để tìm ra cấu trúc tác phẩm văn xuôi, là mắt xích quan
trọng tạo nên kết cấu tác phẩm tự sự.
Lịch sử nghiên cứu cốt truyện đã được bắt đầu từ rất sớm với công trình
Nghệ thuật thi ca của Aristote. Theo Aristote, cốt truyện là yếu tố cơ bản và
tất yếu, không thể thiếu được của các tác phẩm tự sự và kịch: “Cốt truyện là
cơ sở, là linh hồn của bi kịch, sau đó mới tính đến tính cách” [19, tr.13]. Cốt
truyện được tạo ra bởi sự kiện và hoạt động. Aristote không chỉ quan tâm đến
sự kiện mà còn chú ý đến cách sắp xếp, tổ chức, miêu tả các sự kiện ấy:
“Ngoài các mối liên hệ bên ngoài mang tính chất thời gian và nhân quả, giữa
các sự kiện được miêu tả còn có mối liên hệ bên trong mang ý nghĩa và cảm
xúc” [20, tr.254]. Có thể nói, Aristote là người đầu tiên đặt nền móng cho lý
thuyết nghiên cứu cốt truyện.
G.N.Pospelov trong công trình Dẫn luận nghiên cứu văn học cho rằng
“cốt truyện là tiến trình của các sự kiện” [30, tr.63]. Nhà nghiên cứu
V.B.Shklovsky cũng đề xuất cách hiểu: “Cốt truyện là sự sắp xếp các sự kiện
sự việc, tình tiết của chúng trong văn bản nghệ thuật” [20, tr.38]. Cách hiểu
này được lưu truyền rộng rãi trong giới nghiên cứu suốt những năm 20 của thế
kỷ XX và được B.V.Tomashevski chia sẻ trong công trình Lý luận văn học –
Thi pháp học: “Tổng thể các sự kiện trong mối liên hệ nội tại của chúng, ta sẽ
gọi là cốt truyện (Fabula), sự sắp xếp các sự kiện được xây dựng một cách
nghệ thuật trong tác phẩm gọi là truyện (Suizhet)”.

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
20
Ở Việt Nam, trong cuốn Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên
(Nxb Đà Nẵng, 1997) định nghĩa: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng
cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ phức tạp của tính cách nhân vật trong tác
phẩm văn học loại tự sự” [37, tr.206]. Theo cách hiểu này, tác giả muốn nhấn
mạnh: một là, cốt truyện là một hệ thống sự kiện; hai là, chỉ có tác phẩm tự sự
mới có cốt truyện. Tuy nhiên, đây chưa phải là một định nghĩa đầy đủ, đáp
ứng được yêu cầu của giới nghiên cứu phê bình văn học.
Với cách nhìn mang tính chuyên ngành, Từ điển Thuật ngữ văn học (Lê
Bá Hán chủ biên) đưa ra định nghĩa: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể
được tổ chức theo nhu cầu, tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ
phận cơ bản nhất, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học
thuộc loại tự sự và kịch. Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi tác
phẩm văn học. Trong các tác phẩm trữ tình, cốt truyện (với ý nghĩa chặt chẽ
nhất của khái niệm này) không tồn tại vì ở đây tác giả biểu hiện sự diễn biến
của tình cảm, tâm trạng” [38, tr.586].
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân lại cho rằng: “Cốt
truyện là sự phát triển hành động, tiến trình các sự việc, các biến cố trong tác
phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong các tác phẩm trữ tình” [36, tr.112].
Giáo trình Lý luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên, tập 2, phần “Tác
phẩm và thể loại văn học” đưa ra cái nhìn cụ thể về cốt truyện: “Cốt truyện là
một chuỗi các sự kiện được tạo dựng trong tác phẩm tự sự, kịch. Một số văn
bản trữ tình cũng có yếu tố cốt truyện. Khái niệm cốt truyện nhằm tách truyện
thành hai phần: một phần là chuỗi các sự kiện rất đặc trưng cho thể loại tự sự
và kịch, và một phần khác quan trọng không kém là các yếu tố miêu tả, lời kể,
lời bình. Thiếu các yếu tố này thì truyện không thể thành truyện” [20, tr.56].
Giáo trình Lý luận văn học do Phương Lựu chủ biên cũng khẳng định:

“Cốt truyện thực chất là cái lõi diễn biến của truyện từ lúc xảy ra cho đến lúc
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
21
kết thúc” [19, tr.304]. Yếu tố để hình thành và phát triển diễn biến của truyện
chính là sự kiện.
Như vậy, tuy mỗi nhà nghiên cứu đưa ra những cách định nghĩa khác
nhau về cốt truyện nhưng đều thống nhất chung ở điểm: sự kiện là yếu tố giữ
vai trò quan trọng, thiết yếu nhất của cốt truyện. Nói đến cốt truyện là nói đến
hệ thống những biến cố, sự kiện. Sự kiện là những biến đổi, chuyển biến,
những sự cố có ý nghĩa quan trọng đối với nhân vật, làm cho nhân vật và quan
hệ của chúng không giữ được nguyên trạng mà phải thay đổi theo. Bởi vậy,
khái niệm sự kiện rất quan trọng để lý giải tác phẩm. Sự kiện một mặt phản
ánh các quan hệ, xung đột xã hội của các nhân vật, mặt khác lại có chức năng
kết cấu. Hệ thống sự kiện vừa phản ánh sự vận động của đời sống, vừa tạo nên
sự vận động trong tác phẩm. Sự kiện buộc nhân vật bộc lộ bản chất đồng thời
tự nó lại hợp thành lịch sử nhân vật. Sự kiện là cơ sở của mọi truyện kể.
Về thành phần của cốt truyện, mỗi cốt truyện truyền thống thường gồm
5 thành phần: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào, mở nút.
Tuy nhiên, ở những cốt truyện cụ thể không phải bao giờ cũng có đầy
đủ 5 thành phần như trên. Và, không phải bao giờ các thành phần của cốt
truyện cũng được sắp xếp theo đúng trình tự vốn có, nhất là đối với các truyện
ngắn, tiểu thuyết hiện đại. Vì vậy, khi phân tích cốt truyện, cần tránh thái độ
máy móc khi xác định các thành phần của cốt truyện. Vấn đề không phải là
xác định một cách hình thức mỗi thành phần mà là thâm nhập sâu vào nội
dung cụ thể của thành phần, khảo sát các chặng đường phát triển có ý nghĩa
quyết định đối với số phận nhân vật, đặc biệt là các nhân vật chính.
Mặt khác, cốt truyện của tác phẩm văn xuôi tự sự rất phong phú và đa
dạng. Xét theo phương diện thể loại, ta có cốt truyện truyện ngắn và cốt

truyện tiểu thuyết… Xét theo kết cấu và quy mô nội dung, ta có cốt truyện
đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến. Xét theo phương diện nội dung, ta có cốt
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
22
truyện sự kiện và cốt truyện luận đề. Nếu xét theo tính chất của sự kiện trong
truyện thì lại có kiểu cốt truyện mang kịch tính cao và cốt truyện tâm lý…
1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn và cốt truyện trong tiểu thuyết
Truyện ngắn và tiểu thuyết là hai thể loại tiêu biểu nhất của văn xuôi tự
sự. Đối với truyện ngắn và tiểu thuyết, cốt truyện là yếu tố cơ bản, quan trọng
trong cấu trúc tự tự của tác phẩm. Cốt truyện vừa là phương diện bộc lộ tính
cách nhân vật vừa là nơi nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Tuy nhiên, xuất
phát từ đặc điểm thể loại, cốt truyện truyện ngắn và cốt truyện tiểu thuyết có
những đặc trưng riêng khác biệt. Truyện ngắn là thể loại “tự sự cỡ nhỏ” (có
dung lượng phản ánh cuộc sống và số lượng câu chữ ít hơn nhiều so với tiểu
thuyết) cho nên mọi sự kiện, chi tiết… trong cốt truyện của một truyện ngắn
phải chặt chẽ, mang tính thống nhất cao. Do đặc trưng thể loại, truyện ngắn
không thể ôm trùm trong nó dung lượng hiện thực lớn, phong phú và phức tạp
như tiểu thuyết. Cốt truyện một truyện ngắn thường không thể đi hết những
diễn biến trong cả cuộc đời nhân vật mà chỉ tái hiện lại một giai đoạn ngắn,
thậm chí chỉ là một khoảnh khắc trong cuộc đời nhân vật. Yếu tố quan trọng
nhất làm nên sự hấp dẫn của truyện ngắn là tình huống truyện. Tình huống
truyện trong truyện ngắn chỉ là một lát cắt đời sống nhưng nó có giá trị phản
ánh hiện thực lớn lao. Thông qua tình huống truyện, tính cách và số phận nhân
vật được bộc lộ rõ nét; tư tưởng và tài năng nhà văn cũng được khẳng định.
Nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu, cốt truyện trong truyện ngắn chỉ như
một lát cắt ngang trên thân cây nhưng cái “lát cắt ngang” ấy lại nói lên cả “đời
sống 1000 năm thảo mộc”. Nhà văn, nhà hoạt động chính trị GS.Juan Bosch
cũng nhận xét: “Trong các thể loại văn học nói chung, truyện ngắn đóng vai

trò của hổ báo trong đại gia đình các loài vật. Ở loài thú dữ này không được
có chút mỡ thừa nào dính vào mọi cơ bắp, nếu không chúng không thể săn
mồi được…”. Ngược lại với truyện ngắn, tiểu thuyết không hề bị giới hạn về
Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (từ góc nhìn tự sự)

Đỗ Thị Ngọc Điệp – K51
23
độ dài văn bản, về dung lượng phản ánh. Một cuốn tiểu thuyết có thể chỉ dài
một trăm trang nhưng cũng có thể lên đến vài ngàn trang. Sự tự do, linh hoạt
về quy mô tác phẩm cho phép tiểu thuyết có thể bao chứa dung lượng hiện
thực khổng lồ. Tiểu thuyết không chỉ phản ánh số phận của một hay một vài
cá nhân mà còn có thể tái hiện số phận của cả cộng đồng, của cả một dân tộc,
một thời đại. Cốt truyện tiểu thuyết thường có rất nhiều sự kiện, biến cố… với
nhiều tuyến nhân vật. Những đặc trưng riêng mang tính thể loại của cốt truyện
truyện ngắn và cốt truyện tiểu thuyết sẽ chi phối khá nhiều đến quá trình
chuyển thể tác phẩm thành phim.
1.3 Vai trò của cốt truyện
Trong văn xuôi tự sự truyền thống, cốt truyện rất được coi trọng. Cốt
truyện là vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà văn đồng thời cũng là yếu tố
quan trọng nhất tạo nên cái hay, cái dở, sự hấp dẫn hay nhàm chán của một tác
phẩm tự sự. Nhiều nhà nghiên cứu rất đề cao vai trò của cốt truyện, coi cốt
truyện là yếu tố không thể thiếu trong việc quyết định thành công của tác
phẩm. Gớt đã nhấn mạnh: “Còn gì quan trọng hơn cốt truyện và nếu thiếu nó
thì cả nền lý luận nghệ thuật còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện không dùng được
thì tài năng ta cũng sẽ lãng phí vô ích”. Nhà nghiên cứu Môôm thì khẳng
định: “Nhà văn sống bằng cốt truyện, y như hoạ sĩ sống bằng màu và bút vẽ
vậy”. Cốt truyện đảm nhiệm nhiều chức năng quan trọng: bộc lộ tính cách
nhân vật, thể hiện xung đột xã hội và bộc lộ phong cách, tài năng của nhà văn.
Ngày nay, trong văn học hiện đại, cốt truyện không còn giữ vị trí độc
tôn nữa. Một số nhà phê bình văn học phương Tây khẳng định rằng: “Việc trí

tuệ hoá văn xuôi đang diễn ra hiện nay khiến cho cốt truyện trở nên một thành
tố ít quan trọng trong văn xuôi”. Nhà văn Anđrê Malraux cũng cho rằng:
“Muốn cho nghệ thuật hiện đại ra đời thì cốt truyện cần phải mất đi bởi vì sẽ
xuất hiện một cốt truyện mới - sự hiện diện của người nghệ sĩ trong tác

×