Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (Từ góc nhìn từ sự)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.86 KB, 13 trang )

Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh (Từ góc nhìn từ sự)

Đỗ Thị Ngọc Diệp

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận văn học; Mã số: 60 22 32
Người hướng dẫn: PGS.TS Lý Hoài Thu
Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Khảo sát vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học(TPVH) sang tác phẩm điện
ảnh(TPĐA). Tìm hiểu đặc trưng của tự sự văn học và tự sự điện ảnh, đồng thời so
sánh và chỉ ra những nét giống và khác nhau trong phương thức tự sự của hai loại hình
nghệ thuật này. Phân tích những yếu tố tự sự của TPVH có thể đi vào môi trường điện
ảnh; những yếu tố sẽ bị lược bỏ hoặc phải biến đổi cho phù hợp với ngôn ngữ biểu đạt
của điện ảnh trong quá trình chuyển thể. Nghiên cứu bản chất của quá trình chuyển thể
TPVH sang TPĐA nói riêng và mối quan hệ giữa văn học – điện ảnh nói chung. Chỉ ra
những đặc trưng riêng trong phương thức tự sự của văn học và điện ảnh nhằm góp
phần lý giải hiện tượng: nghệ thuật điện ảnh đang ảnh hưởng đến cách viết, cách kể
chuyện, cách cấu trúc tác phẩm…của nhiều nhà văn hiện đại

Keywords: Văn học; Lý luận văn học; Tác phẩm văn học; Tác phẩm điện ảnh

Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh đã và đang là hiện tượng hết
sức phổ biến trong đời sống văn hoá nghệ thuật cả ở Việt Nam và trên thế giới. Chưa ai có thể
thống kê nổi con số khổng lồ về những tác phẩm văn học đã được chuyển thể thành phim. Chỉ
biết rằng: Hầu hết tác phẩm văn chương ưu tú của các dân tộc ở mọi thời đại khác nhau đều
đã một lần, thậm chí hơn một lần sống đời sống mới của mình trong ngôi nhà của nàng


Muydơ thứ 7. Từ những thiên anh hùng ca, những câu chuyện truyền thuyết, thần thoại,
truyện thơ… trong kho tàng văn học dân gian, ra đời từ khi con người chưa có chữ viết: anh
hùng ca Iliát và Ôđixê (Homerơ, thế kỷ 9 - 8 trước công nguyên), Thần thoại Hy Lạp, Nghìn
lẻ một đêm… đến những tác phẩm văn học cổ điển như: Đôn Kihôtê (Miguel de Cervantes
Saavedra, 1605, văn học Tây Ban Nha), Đồi gió hú (Emily Brontê, 1847, văn học Anh), Bà
Bôvary (Gustave Flaubert, 1856, văn học Pháp) Những người khốn khổ (Victor Hugo, 1862,
văn học Pháp), Chiến tranh và Hoà Bình (Lev Nikolayevich Tolstoy, 1865, văn học Nga),

2
Kiêu hãnh và Định kiến (Jane Austen, 1813, văn học Anh), Cuốn theo chiều gió (Margaret
Mitchell, 1936, văn học Mỹ), Tam Quốc diễn nghĩa (La Quán Trung, thế kỷ XIV, văn học
Trung Quốc), Tây du ký (Ngô Thừa Ân, xuất bản những năm 1590, văn học Trung Quốc),
Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần, thế kỷ XVIII, văn học Trung Quốc )… và những tác phẩm
mới của văn học hiện đại: Bệnh nhân người Anh (Michael Ondaatje, 1992, văn học Ý), bộ
truyện Hary Potter (J. K. Rowling, gồm 7 phần xuất bản từ 1997 đến 2007, văn học Anh),
Mật mã Da vinci (Dan Brown, 2003, văn học Mỹ), bộ 3 tiểu thuyết Chạng Vạng – Trăng non
- Nhật thực (Stephenie Meyer, 2005, văn học Anh)… Trong danh sách giải thưởng của Oscar
- giải thưởng điện ảnh danh giá nhất hành tinh, ngay từ những kỳ trao giải đầu tiên (năm 1928
– 1929), bên cạnh giải Oscar cho Kịch bản gốc hay nhất (Best Writing - Original Screenplay)
luôn có hạng mục giải Oscar cho Kịch bản chuyển thể hay nhất (Best Writing - Adapted
Screenplay). Giải Oscar cho Kịch bản chuyển thể hay nhất là một trong các giải Oscar được
trao hàng năm cho người viết kịch bản, chuyển thể từ một nguồn khác, chủ yếu là từ tác phẩm
văn học thuộc các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch
1
. Trong số 83 bộ phim đoạt giải
Oscar cho Phim hay nhất (Best Picture) tại 83 kỳ trao giải Oscar (từ năm 1927/1928 đến năm
2010) có tới 46 bộ phim được chuyển thể từ các tiểu thuyết, truyện ngắn
2
. Những năm gần
đây, rất nhiều bộ phim “đình đám” - được công chúng đón nhận nhiệt tình, thiết lập nên

những kỷ lục về doanh thu phòng vé đồng thời được giới phê bình phim quốc tế đánh giá cao
- là phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học: Lụa, Không chốn nương thân, Áo khoác
lông chồn, Đảo kinh hoàng, Nhật ký tiểu thư Jones, Chúa tể những chiếc nhẫn, series phim
Harry Potter, Tối hậu thư của Bourne, Nhật ký vú em, Chạng vạng, Nhật thực… Tại giải
Oscar 2009, trong số 5 đề cử cho Phim hay nhất có tới 3 bộ phim là phim chuyển thể từ các
tác phẩm văn học: The curious case of Benjamin Button chuyển thể từ một truyện ngắn của
nhà văn Mỹ Frank Scott Fritzgerald, The reader chuyển thể từ tác phẩm best-seller của nhà
văn Đức Bernhard Schlink và Revolutionary road chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà
văn Mỹ Richard Yates. Thành công lớn của phim No Country for Old men (chuyển thể từ tác
phẩm cùng tên của nhà văn Cormac McCarthy) tại Oscar 2008 và The Reader (chuyển thể từ
tiểu thuyết The Reader của Bernhard Schlink) tại Oscar 2009 khiến giới phê bình phim ngày
càng ấn tượng với phim chuyển thể từ tác phẩm văn học. Có khá nhiều cuộc bình chọn liên
quan đến phim chuyển thể, thu hút sự quan tâm của đông đảo khán giả, các nhà nghiên cứu –
phê bình điện ảnh và báo giới: tờ Celeb bình chọn “10 bộ phim xuất sắc nhất chuyển thể từ


1
Trong 81 bộ phim được trao giải Oscar cho Kịch bản chuyển thể hay nhất từ năm 1928 đến nay, có 50 bộ
phim được chuyển thể từ tiểu thuyết, 6 bộ phim được chuyển thể từ truyện ngắn, 17 phim được chuyển thể từ
kịch (thống kê theo tư liệu trên Wikipedia.org – Đ.T.N.Đ).
2
Đ.T.N.Đ thống kê (xem Phụ lục 1).

3
tác phẩm văn học”; trang Premiere đưa ra tổng hợp “Top 10 bộ phim hay hơn sách”; Tạp chí
Mỹ Forbes công bố danh sách “những bộ phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại (tại thị
trường Mỹ) được chuyển thể từ các cuốn sách bán chạy nhất”… Những sự kiện, những con số
thống kê đó đã phần nào nói lên vị trí quan trọng của các phim chuyển thể từ tác phẩm văn
học trong thành tựu chung của nghệ thuật điện ảnh. Các tác phẩm văn học, đặc biệt là những
cuốn sách best-seller luôn là nguồn tư liệu hấp dẫn cho các đạo diễn điện ảnh, các nhà biên kịch.

Ở Việt Nam, môn nghệ thuật thứ 7 được du nhập vào Việt Nam từ cuối thập niên 1890.
Tuy nhiên, dấu mốc thực sự cho sự ra đời của nền điện ảnh Việt Nam là năm 1923, khi xuất
hiện bộ phim truyện đầu tiên: Kim Vân Kiều - do Công ty Chiếu bóng Đông Dương thực hiện,
dựa trên tác phẩm bất hủ Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Trong những thành tựu nổi
bật của điện ảnh Việt Nam qua suốt chặng đường dài gần một thế kỷ: từ giai đoạn khởi đầu
đến điện ảnh cách mạng, điện ảnh miền Nam thời kỳ chia cắt 2 miền Nam - Bắc, điện ảnh thời
kỳ mở cửa, điện ảnh hải ngoại và điện ảnh Việt Nam đương đại; không thể không kể đến đóng
góp rất đáng tự hào của những bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm văn học: Lục Vân Tiên
(1957, dựa theo truyện Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu), Vợ chồng A Phủ (1961,
chuyển thể từ truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài), Chim vành khuyên (1962,
dựa trên truyện ngắn Câu chuyện một bài ca của Nguyễn Văn Thông), Chị Tư Hậu (1963,
chuyển thể từ tác phẩm Một chuyện chép ở bệnh viện của nhà văn Bùi Đức Ái), Nổi gió
(1966, dựa trên vở kịch cùng tên của Đào Hồng Cẩm), Loan mắt nhung (1970, dựa theo
truyện Loan mắt nhung của Nguyễn Thuỵ Long), Trống mái và Gánh hàng hoa (1971, dựa
theo tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn), Điệu ru nước mắt và Vết thù trên lưng ngựa
hoang (1971, chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Duyên Anh), Chân trời tím (1970,
chuyển thể từ tiểu thuyết Chân trời tím của Văn Quang), Chị Dậu (1980, chuyển thể từ tiểu
thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố), Làng Vũ Đại ngày ấy (1983, chuyển thể từ các tác phẩm:
Sống mòn, Lão Hạc, Chí Phèo của nhà văn Nam Cao), Ván bài lật ngửa (gồm 8 tập được thực
hiện từ năm 1982 đến 1987: Đứa con nuôi vị giám mục, Quân cờ di động, Phát súng trên cao
nguyên, Cơn hồng thủy và bản tango số 3, Trời xanh qua kẽ lá, Lời cảnh cáo cuối cùng, Cao
áp và nước lũ, Vòng hoa trước mộ; được chuyển thể từ tiểu thuyết tình báo cùng tên của nhà
văn Nguyễn Trương Thiên Lý), Người đi tìm dĩ vãng (chuyển thể từ tiểu thuyết Ăn mày dĩ
vãng của nhà văn Chu Lai), Đêm hội Long Trì (1989, được chuyển thể từ tác phẩm của nhà
văn Nguyễn Huy Tưởng), Tướng về hưu (1988) và Những người thợ xẻ (1998) - chuyển thể từ
truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Huy Thiệp, Đời cát (1999, chuyển thể từ truyện ngắn Ba
người trên sân ga của Hữu Phương), Thời xa vắng (2004, chuyển thể từ tiểu thuyết Thời xa
vắng của nhà văn Lê Lựu), Mê Thảo - Thời vang bóng (2003, chuyển thể từ tác phẩm Chùa

4

đàn của Nguyễn Tuân), Mùa len trâu (2004, dựa theo 2 truyện ngắn: Một cuộc biển dâu và
Mùa len trâu của nhà văn Sơn Nam), Trăng nơi đáy giếng (2008, chuyển thể từ truyện ngắn
cùng tên của nữ nhà văn Trần Thuỳ Mai), Chuyện của Pao (2007, chuyển thể từ truyện ngắn
Tiếng đàn môi bên bờ rào đá của nhà văn Đỗ Bích Thuý), Cánh đồng bất tận (2010, chuyển
thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư)…
Không chỉ điện ảnh lấy cảm hứng, chất liệu từ mạch nguồn phong phú của kho tàng văn
học, tiếp thu kinh nghiệm nghệ thuật và các thủ pháp biểu hiện của văn học mà ngược lại
“điện ảnh cũng làm thay đổi tiểu thuyết”. Cùng với việc chuyển thể tác phẩm văn học thành
phim và sự tham gia trực tiếp của các nhà văn vào quá trình ấy, nghệ thuật điện ảnh cũng
đang ảnh hưởng không nhỏ tới cách viết, cách kể chuyện và cấu trúc tác phẩm … của nhiều
nhà văn hiện đại. Người ta thấy rõ: “các thủ pháp điện ảnh đã xâm nhập vào địa hạt văn học
và ngày càng chiếm một lãnh thổ rộng lớn”. Pied Buadeff đã phải thốt lên: “điện ảnh đã bắt
tiểu thuyết theo kĩ thuật của nó. Rất nhiều thủ pháp sáng tác trở thành chung cho cả hai loại”.
Điện ảnh vừa “chịu ơn” các tác phẩm văn học, vừa có công chắp cánh cho tác phẩm văn
học thăng hoa trong thứ ngôn ngữ đa chiều đầy hấp lực của mình. Nghiên cứu vấn đề chuyển
thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh qua một số phương diện cơ bản của nghệ thuật
tự sự là một hướng đi thú vị để tìm hiểu quá trình thâm nhập lẫn nhau giữa văn học và điện
ảnh.
1.2. Tự sự học là một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. Lý luận tự sự
không chỉ đóng khung trong tự sự văn học mà được vận dụng để nghiên cứu nhiều hình thức
tự sự khác như: tôn giáo, lịch sử, triết học, điện ảnh Đúng như Roland Barthes đã nói: “Đã
có bản thân lịch sử loài người thì đã có tự sự”. Trong các hình thức tự sự, tự sự văn học có
truyền thống lâu đời nhất, phức tạp nhất và trở thành đối tượng nghiên cứu chính của tự sự
học. Là một nghệ thuật non trẻ, điện ảnh cũng không ngừng bắt rễ vào “kho văn học vô tận”
để tạo nên truyền thống nghệ thuật của riêng mình. Điện ảnh không chỉ học hỏi hình thức tự
sự của văn học về cốt truyện, nhân vật, tính cách mà còn tiếp thu rộng rãi các phương thức
và thủ pháp biểu hiện của văn học như: ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, mượn cảnh tả
tình…Không phải ngẫu nhiên mà hội hoạ và văn học được coi là hai cái nôi của điện ảnh:
“nghệ thuật màn ảnh mới mẻ dường như đã thống nhất được trong nó tính không gian tạo
hình của hội họa và lối phát triển hành động theo thời gian mà chỉ văn học mới có” [35,

tr.274]. Tự sự điện ảnh và tự sự văn học có nhiều nét gần gũi song cũng có không ít những
khác biệt bởi điện ảnh và văn học có chất liệu nghệ thuật và phương thức tác động khác nhau.
Bởi vậy, hiện tượng chuyển thể tác phẩm văn học thành phim ngày càng trở nên phổ biến
nhưng phim chuyển thể không bao giờ là “bản sao” của tác phẩm văn học gốc. Tác phẩm văn

5
học khi đi vào môi trường điện ảnh không thể sống trọn vẹn đời sống của nó mà luôn có
những biến đổi nhất định để phù hợp với ngôn ngữ điện ảnh, phù hợp với phương thức tự sự
của điện ảnh. Vận dụng lý thuyết tự sự để nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học
sang tác phẩm điện ảnh sẽ giúp chúng ta hiểu rõ những nét tương đồng cũng như những đặc
trưng riêng của nghệ thuật tự sự văn học và nghệ thuật tự sự điện ảnh.
1.3. Bản thân người viết đã từng có thời gian tìm hiểu về những đặc trưng của ngôn ngữ
điện ảnh và ngôn ngữ văn học, về một “lối viết điện ảnh trong văn học” như một hướng tìm
tòi, đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết thế kỷ XX qua khoá luận tốt nghiệp Chất điện ảnh trong
văn học qua một số tiểu thuyết của M.Duras. Với luận văn thạc sĩ, người viết mong muốn
được tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ phức tạp, đa chiều giữa văn học và điện ảnh, nghiên
cứu về nghệ thuật tự sự văn học và nghệ thuật tự sự điện ảnh qua vấn đề chuyển thể tác phẩm
văn học sang tác phẩm điện ảnh.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh
Mối quan hệ mật thiết, đa chiều giữa văn học và điện ảnh là một thực tiễn sống động,
không thể phủ nhận: Văn học là nguồn chất liệu trực tiếp, phong phú và vô cùng quan trọng
của điện ảnh. Không chỉ lấy chất liệu từ văn học về: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, tính cách,
lời thoại…; điện ảnh còn tiếp thu rộng rãi kinh nghiệm tự sự, các thủ pháp biểu hiện của văn
học. Ngược lại, phim chuyển thể không phải là sự sao chép tác phẩm văn học mà “chính nó
cũng tác động đến văn học bằng cách kiến giải tác phẩm, cũng như bằng sự tác động vào
phương thức thuật chuyện của văn học” [35, tr.144]. Nhiều thủ pháp biểu hiện của điện ảnh
không chỉ có trong kịch bản điện ảnh như một đặc trưng thể loại mà còn thâm nhập vào các
thể loại văn học khác đặc biệt là tiểu thuyết và truyện ngắn… Khi phân tích mối quan hệ giữa
văn học và điện ảnh, tất cả các nhà lí luận đều khẳng định: bên cạnh quá trình điện ảnh hấp

thụ và cải tiến những kinh nghiệm nghệ thuật của văn học, một hiện tượng không kém phần
quan trọng là tác dụng ngược lại rất to lớn của điện ảnh đối với văn học. Tuy vậy, việc nghiên
cứu về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh nói chung vẫn chưa được quan tâm, chú ý đúng
mức. Ở Việt Nam, chưa có một công trình nghiên cứu thật sự công phu về vấn đề này. Cuốn
sách duy nhất mà chúng tôi tìm được có nhan đề Văn học với điện ảnh (Nxb Văn học, 1961)
lại là tập hợp những bài viết, bài giảng của nhiều nhà nghiên cứu Liên Xô: I.Vai-sphen,
M.Rôm, I.Khây-phít-xơ, E.Gabơrilôvitru, về một số vấn đề liên quan giữa văn học và điện
ảnh như: đặc trưng của văn học và điện ảnh, phương pháp biểu hiện truyện phim, đặc điểm
thành phần văn xuôi trong truyện phim… Nó chưa phải là một công trình nghiên cứu chuyên

6
sâu và có hệ thống về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. Bên cạnh đó, vấn đề này cũng
đã được một số nhà lí luận, nghiên cứu điện ảnh quan tâm và giới thiệu trong các bài báo:
- Về cái gọi là tính văn học trong điện ảnh (Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 06 – 1984,
Lê Châu).
- Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 06 – 1999, Phạm Vũ Dũng).
- Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 02 – 2001, Hương Nguyên).
- Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 10- 2002, Minh
Trí).
- Trung Quốc: sự tương tác giữa văn học và điện ảnh (Thế Hà tổng hợp từ China.com.cn,
nguồn: )
Tuy nhiên, các bài viết trên mới chỉ mang tính chất giới thiệu khái quát về mối quan hệ
giữa văn học và điện ảnh, trong đó chủ yếu nhấn mạnh vai trò của văn học đối với điện ảnh
qua việc chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh chứ chưa đi vào những phân tích cụ thể.
Tại Khoa Văn học, trường ĐHKHXH&NV những năm gần đây cũng có một số Khoá
luận tốt nghiệp nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh: Chất điện ảnh trong văn
học qua một số tiểu thuyết của M.Duras - Đỗ Thị Ngọc Điệp, năm 2006; Mật mã Da Vinci -
Từ tiểu thuyết đến điện ảnh (so sánh tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh) – Hà Thị
Phượng, năm 2007; Kết cấu, người kể chuyện và không gian trong phim Rashomon của đạo
diễn Kurasawa dưới góc nhìn trần thuật học – Đoàn Thị Bích Thuỷ, năm 2008… Có thể nói,

Khoa Văn học - trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội là
cơ sở đầu tiên sớm chú ý đến nghiên cứu mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng lẫn nhau giữa văn
học và điện ảnh.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh từ
góc nhìn tự sự
Hiện tượng chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh diễn ra vô cùng sôi
động trong thực tiễn đời sống văn hoá nghệ thuật. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này một cách có hệ thống. Có thể nói, vấn đề chuyển
thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh vẫn còn là vấn đề khá mới mẻ của lý luận phê
bình văn học cũng như điện ảnh Việt Nam. Nó chỉ được nhắc đến rải rác trong phần trả lời
phỏng vấn báo chí của các nhà biên kịch, đạo diễn - những người đã trực tiếp tham gia vào
quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh: Phạm Thuỳ Nhân – không
thích lối chuyển thể “coppy”! (www. ngày 18/12/2007), Vì cùng tần số rung
động (Thuỷ Lê, Tạp chí Đẹp) Bài báo Tiểu thuyết và kịch bản điện ảnh chuyển thể từ tiểu
thuyết của tác giả Thane Rosenbaum (do Hà Linh dịch và đặt lại đầu đề) là một trong số rất ít

7
bài viết được đăng tải tại Việt Nam có bàn trực tiếp đến vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học
sang tác phẩm điện ảnh với nhiều kiến giải sâu sắc: “Tạo cho tác phẩm văn học một cuộc
sống thứ hai nhiều khi là tạo ra một sinh thể nghệ thuật mới trên cơ sở sự biến đổi chứ không
phải là một hình thức bản sao của tác phẩm. Những biến đổi trong quá trình chuyển thể tác
phẩm thường được đối chiếu với nguyên bản. Điều này giải thích cho những nỗ lực bảo toàn
nguyên bản của tác phẩm văn học”, “Thay đổi lại kết thúc, dồn nén thời gian hoặc sáng tạo
thêm về nhân vật , tác phẩm điện ảnh là sự thay đổi hoàn toàn cơ cấu truyện kể của tác phẩm
văn học” Điều thú vị là tuy chưa được các nhà lý luận phê bình quan tâm nghiên cứu nhưng
vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh lại là chủ đề được khá nhiều độc giả - khán
giả quan tâm và bàn luận sôi nổi trên các diễn đàn về điện ảnh: chủ đề “Sách và phim chuyển
thể” trên website hay một số bài viết của Nguyễn Kinh Luân về
Kịch bản điện ảnh cải biên từ văn học đăng trên website Tuy nhiên,
đó đều chưa phải là những nghiên cứu mang tính khoa học, hệ thống về vấn đề chuyển thể tác

phẩm văn học thành phim truyện điện ảnh.
Cùng với thành công của một số phim chuyển thể trong thời gian gần đây, nhà nghiên
cứu Nguyễn Nam có công trình nghiên cứu Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong
văn chương và điện ảnh, tác giả Phạm Ngọc Hiến có bài viết Về quá trình chuyển thể tiểu
thuyết thành phim (qua tác phẩm Triệu phú ổ chuột). Các công trình trên có những phân tích
và so sánh rất thú vị về tác phẩm văn học gốc và phim truyện chuyển thể: tiểu thuyết Chùa
Đàn và bộ phim Mê Thảo thời vang bóng, tiểu thuyết Triệu phú ổ chuột và bộ phim Triệu phú
ổ chuột. Tác giả bài viết đã bước đầu khai thác mối tương quan giữa phim chuyển thể với tác
phẩm văn học gốc trên một số phương diện của nghệ thuật tự sự qua một trường hợp cụ thể.
Mới đây, công trình Nhập môn phân tích phim theo trần thuật học của tác giả Manfred Jahn
đã được dịch sang tiếng Việt làm tài liệu lưu hành nội bộ tại khoa Văn học – Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn. Công trình này đã cung cấp một số gợi ý cho chúng tôi trong quá
trình ứng dụng lý thuyết tự sự vào nghiên cứu nghệ thuật điện ảnh.
Lý thuyết tự sự học đã được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XXI và
được nhiều nhà nghiên cứu đón nhận, ứng dụng vào nghiên cứu các hiện tượng văn học, văn
hoá. “Lý thuyết tự sự ngày nay đã cung cấp một bộ công cụ cơ bản nhất, sắc bén nhất giúp
cho người ta có thể đi sâu vào các lĩnh vực nghiên cứu điện ảnh, giao tiếp, phương tiện truyền
thông, nghiên cứu văn hoá” [23, tr.11]. Tự sự học không chỉ được ứng rộng rãi trong nghiên
cứu nhiều bộ môn văn hoá nghệ thuật mà còn mở ra khả năng nghiên cứu so sánh liên ngành,
nghiên cứu so sánh quốc tế về phương diện tự sự, trở thành một bộ phận của thi pháp học so
sánh. Đây là cơ sở lý luận quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu những tương đồng và khác biệt

8
giữa nghệ thuật tự sự văn học và tự sự điện ảnh - chìa khoá quan trọng để hiểu bản chất qúa
trình chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh.
3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh là vấn đề rất rộng và phức tạp. Luận
văn của chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh
từ góc nhìn tự sự, vận dụng lý thuyết tự sự để tìm hiểu và lý giải quá trình chuyển thể tác
phẩm văn học thành phim.

Lý thuyết tự sự học hiện đại chú ý đến cấu trúc tự sự, kết cấu của tầng bậc trần thuật, mô
hình trần thuật, ngôn ngữ tự sự, loại hình cốt truyện Đó là những vấn đề trọng tâm của tự sự
học giúp người nghiên cứu khám phá được các tầng bậc ý nghĩa của tác phẩm. Dựa vào lý
thuyết tự sự học, luận văn của chúng tôi tìm hiểu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác
phẩm điện ảnh trên các khía cạnh nổi bật: cốt truyện, nhân vật và kết cấu. Cốt truyện, nhân vật
và kết cấu đều là những vấn đề cơ bản và quan trọng của lý thuyết tự sự. Đó cũng là những
yếu tố cốt lõi nhất của cả nghệ thuật tự sự văn học và nghệ thuật tự sự điện ảnh.
Để có thể đáp ứng được yêu cầu của luận văn về nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm
văn học sang tác phẩm điện ảnh từ góc nhìn tự sự, chúng tôi lựa chọn phân tích và khảo sát 4
trường hợp:
- Chuyển thể tiểu thuyết Chùa Đàn của nhà văn Nguyễn Tuân thành bộ phim Mê Thảo thời
vang bóng (Chuyển thể kịch bản: Phạm Thuỳ Nhân, Đạo diễn: Việt Linh).
- Chuyển thể từ tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu thành phim Thời xa vắng
(Chuyển thể kịch bản: Lê Lựu, Đạo diễn: Hồ Quang Minh)
- Chuyển thể từ hai truyện ngắn Một cuộc bể dâu và Mùa len trâu của nhà văn Sơn Nam
thành phim Mùa len trâu (Chuyển thể kịch bản: Nguyễn Võ Nghiêm Minh, Đạo diễn: Nguyễn
Võ Nghiêm Minh).
- Chuyển thể từ truyện ngắn Tiếng đàn môi bên bờ rào đá của nhà văn Đỗ Bích Thuý thành
bộ phim Chuyện của Pao (Chuyển thể kịch bản: Ngô Quang Hải, Đạo diễn: Ngô Quang Hải).
Mỗi trường hợp mà chúng tôi lựa chọn làm đối tượng nghiên cứu của luận văn đều có
những đặc trưng riêng tiêu biểu cho các con đường khác nhau của quá trình chuyển thể tác
phẩm văn học lên màn ảnh: chuyển thể từ tiểu thuyết sang phim truyện điện ảnh (phim Mê
Thảo thời vang bóng và phim Thời xa vắng) và chuyển thể từ truyện ngắn sang phim (phim
Chuyện của Pao và Mùa len trâu), chuyển thể từ một tác phẩm văn học thành tác phẩm điện
ảnh (phim Mê Thảo thời vang bóng, Thời xa vắng, Chuyện của Pao) và chuyển thể từ nhiều
tác phẩm văn học thành một tác phẩm điện ảnh (phim Mùa len trâu), tác giả văn học tự viết
kịch bản chuyển thể cho tác phẩm của mình (phim Thời xa vắng) và người khác viết kịch bản

9
chuyển thể (phim Mê Thảo thời vang bóng, Chuyện của Pao, Mùa len trâu), chuyển thể trung

thành với nguyên tác và chuyển thể có nhiều thay đổi so với nguyên tác Bên cạnh đó, các bộ
phim: Mê Thảo thời vang bóng, Thời xa vắng, Chuyện của Pao, Mùa len trâu đều là những bộ
phim của điện ảnh Việt Nam được đánh giá rất cao về chất lượng nghệ thuật và đạt nhiều giải
thưởng danh giá tại các Liên hoan phim uy tín
3
. Không chỉ được khán giả và giới phê bình
đánh giá là đã chuyển thể từ tác phẩm văn học rất thành công, đạt chất lượng cao cả về nội
dung lẫn nghệ thuật mà bản thân các nhà văn – tác giả các tác phẩm văn học gốc cũng rất hài
lòng về “hình hài mới” của đứa con tinh thần của mình trong ngôi nhà điện ảnh. Bởi vậy, qua
phân tích và khảo sát các trường hợp trên, chúng ta có thể có cái nhìn tương đối toàn diện về
vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học lên màn ảnh (ở một số phương diện cơ bản nhất của nghệ
thuật tự sự). Trong quá trình phân tích, chúng tôi sẽ liên hệ, so sánh, đối chiếu với các phim
chuyển thể khác của Việt Nam và thế giới để làm rõ các luận điểm của mình.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong luận văn:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp liên ngành
5. Đóng góp mới của luận văn
Vận dụng lý thuyết tự sự học vào nghiên cứu vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang
tác phẩm điện ảnh, chúng tôi muốn phân tích đặc trưng của tự sự văn học và tự sự điện ảnh
đồng thời so sánh và chỉ ra những nét giống và khác nhau trong phương thức tự sự của hai
loại hình nghệ thuật này. Từ đó làm sáng tỏ vấn đề cơ bản: những yếu tố tự sự nào của tác
phẩm văn học có thể đi vào môi trường điện ảnh, những yếu tố tự sự nào sẽ bị lược bỏ hoặc
phải biến đổi cho phù hợp với ngôn ngữ biểu đạt của điện ảnh trong quá trình chuyển thể. Đây
cũng là nội dung quan trọng để hiểu bản chất của quá trình chuyển thể tác phẩm văn học sang
tác phẩm điện ảnh nói riêng và mối quan hệ giữa văn học – điện ảnh nói chung. Bên cạnh đó,
việc chỉ ra những đặc trưng riêng trong phương thức tự sự của văn học và điện ảnh cũng sẽ
góp phần lý giải hiện tượng: nghệ thuật điện ảnh đang ảnh hưởng đến cách viết, cách kể

chuyện, cách cấu trúc tác phẩm… của nhiều nhà văn hiện đại như thế nào.
6. Cấu trúc luận văn


3
Xem Phụ lục 2, 3, 4 và 5

10
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và mục Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1: Vấn đề cốt truyện
Chương 2: Vấn đề nhân vật.
Chương 3: Vấn đề kết cấu.


References
Sách tác phẩm.
1. Đỗ Bích Thuý, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (Tạp chí Văn nghệ Quân đội);
2. Lê Lựu (2008), Thời xa vắng, NxbVăn học, Hà Nội;
3. Nguyễn Tuân (2000), Tuyển tập Nguyễn Tuân I, Lữ Huy Nguyên tuyển chọn, Nxb Văn
học, Hà Nội;
4. Sơn Nam (2003), Hương rừng Cà Mau , Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
Sách nghiên cứu.
5. David Bordwell và Kristin Thompson (2008), Nghệ thuật điện ảnh, Nxb Giáo dục, Hà
Nội ;
6. David Bordwell và Kristin Thompson, Film History, tài liệu lưu hành nội bộ của Dự án
điện ảnh - Khoa Văn học – Trường ĐHKHXHNV;
7. Donald Richie - Paul Lucey - Tom Holden, Tài liệu biên kịch, tài liệu lưu hành nội bộ
của Dự án Điện ảnh – Khoa Văn học - Trường ĐHKHXH&NV;
8. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại

học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội;
9. Phan Bích Hà (2007), Văn học nghệ thuật truyền thống với phim truyện Việt Nam, Nxb
Văn hoá Thông tin, Hà Nội;
10. Trần Hinh (2005), Tiểu thuyết A.Camus trong bối cảnh tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX, Nxb
Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội;
11. Trần Tây Hòa (1995), Mấy nguyên tố cấu thành trong ngôn ngữ điện ảnh, Ban nghiên
cứu nghệ thuật - Cục Điện ảnh, Hà Nội;
12. Izvetan Todorov (2007), Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội;
13. Phương Lựu (2004), Lý luận phê bình văn học, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng;
14. Hồ Ngọc (1977), Xây dựng cốt truyện kịch, Nxb Văn hoá, Hà Nội;
15. Phạm Thuỳ Nhân (2005), Làm sao viết kịch bản phim?, Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp. Hồ
Chí Minh;

11
16. Manfred Jahn (2007), Nhập môn phân tích phim theo trần thuật học, người dịch:
Nguyễn Thị Như Trang, tài liệu lưu hành nội bộ Dự án Điện ảnh - Trường ĐHKHXH&NV;
17. Manfred Jahn (2005), Trần thuật học - nhập môn lý thuyết trần thuật, Người dịch:
Nguyễn Thị Như Trang, Người hiệu đính: PGS.TS Phạm Gia Lâm, tài liệu lưu hành nội bộ
Khoa Văn học - Trường ĐHKHXH&NV;
18. Nguyễn Nam, Từ Chùa Đàn đến Mê Thảo: Liên văn bản trong văn chương và điện ảnh
(website: vienvanhoc. org.vn);
19. Nhiều tác giả (2003), Lý luận văn học, Chủ biên: Phương Lựu, Nxb Giáo dục, Hà Nội;
20. Nhiều tác giả (2005), Lý luận văn học, tập 2, Chủ biên: PGS.TS Trần Đình Sử, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội;
21. Nhiều tác giả (2005), Lý luận và Phê bình văn học - đổi mới và phát triển,Chủ biên:
PGS.TS Phan Trọng Thưởng, Nxb KHXH, Hà Nội;
22. Nhiều tác giả (2007), Lý luận phê bình văn học thế giới thế kỷ XX, Chủ biên: GS.TS
Lộc Phương Thuỷ, Nxb Giáo dục, Hà Nội;
23. Nhiều tác giả (2008), Tự sự học: Một số vấn đề lý luận và lịch sử, Phần 1, Chủ biên:
GS.TS Trần Đình Sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội;

24. Nhiều tác giả (2008), Tự sự học: Một số vấn đề lý luận và lịch sử, Phần 2, Chủ biên:
GS.TS Trần Đình Sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội;
25. Nhiều tác giả (2004), Thời xa vắng: tiểu thuyết và phim, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội;
26. Nhiều tác giả (1964), Bàn về cải biên tiểu thuyết thành phim, Đỗ Kim Phượng dịch,
Nxb Văn hoá Nghệ thuật, Hà Nội;
27. Nhiều tác giả (1961), Văn học với điện ảnh, Mai Hồng dịch, NxbVăn học, Hà Nội;
28. Nhiều tác giả (1963), Đặc điểm của truyện phim, Mai Hồng dịch, Nxb Văn hoá nghệ
thuật, Hà Nội;
29. Bùi Phú (1984), Đặc trưng và ngôn ngữ điện ảnh, Nxb Văn hóa, Hà Nội;
30. Poxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử - Lại Nguyên Ân – Lê
Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo Dục, Hà Nội;
31. Richart Walter (1995), Kĩ thuật viết kịch bản điện ảnh và truyền hình, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội;
32. Nguyễn Thị Minh Thái (2005), Phê bình tác phẩm văn học nghệ thuật trên báo chí,
Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội;
33. Lê Ngọc Tú (1999), Để hiểu Đông Chu liệt quốc: Qua tác phẩm văn học và điện ảnh,
Nxb Văn học, Hà Nội;
34. V. Kô-gi-nôp (1963), Các loại hình nghệ thuật, Bùi Khánh Thế dịch, Nxb Văn hóa

12
Nghệ thuật, Hà Nội;
35. X. Prêi-lich (1986), Tiết diện vàng màn ảnh, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Từ điển.
36. Nhiều tác giả (2004), 150 thuật ngữ văn học, Chủ biên: Lại Nguyên Ân, Nxb Đại học
Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội;
37. Nhiều tác giả (1997), Từ điển tiếng Việt, Chủ biên: Hoàng Phê, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội;
38. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Chủ biên: Lê Bá Hán - Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Minh Tùng – Phương Lan (2007), Từ vựng điện ảnh, Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp. Hồ
Chí Minh;

Khóa luận
40. Trần Thị Tố Nga (1992), Tìm hiểu những yếu tố điện ảnh qua tác phẩm Người tình của
Marguerite Duras;
41. Đỗ Thị Ngọc Điệp (2006), Chất điện ảnh qua một số tiểu thuyết của M.Duras;
42. Hà Thị Phượng (2007), Mật mã Điện ảnh Vinci - Từ tiểu thuyết đến điện ảnh (so sánh
tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh);
43. Đoàn Thị Bích Thuỷ (2008), Kết cấu, Người kể chuyện và Không gian trong phim
Rashomon của đạo diễn Kurosawa dưới góc nhìn trần thuật học;
Báo và tạp chí
44. Đăng Ngọc, Điện ảnh thay đổi tiểu thuyết?,
nguồn: ngày 27/01/2008.
45. Phim chuyển thể có phải là phong cách đương đại?, nguồn:

46. Phạm Thùy Nhân - Không thích lối chuyển thể "copy"!,
nguồn: :
47. Nguyễn Kinh Luân, Những lỗi nên tránh khi viết truyện phim, nguồn:
ngày 07/5/2002;
48. Nguyễn Kinh Luân, Các loại kịch bản điện ảnh - Phần I và II: Kịch bản điện ảnh
cải biên từ văn học,
nguồn: ngày 09/5/2002;
49. Thane Rosenbaum, Tiểu thuyết và kịch bản điện ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết, Hà
Linh dịch và đặt lại đầu đề, nguồn: www.evan.com.vn
50. Tạp chí nghiên cứu văn học, số 4- 2005.
51. Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 10-2002.

13
52. Tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 01- 2003.

×