Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 137 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______***________






BÙI THỊ HỢI







VĂN XUÔI TỰ SỰ CỦA BẢO NINH
TRONG BỐI CẢNH VĂN XUÔI VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI








TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


MÃ SỐ: 60 22 34









HÀ NỘI- 2011


Công trình được hoàn thành tại
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Xuân Thạch




Phản biện 1: PGS.TS Mai Hương
Phản biện 2: PGS.TS Phạm Thành Hưng








Luận văn được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn thạc sỹ tại
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
Vào lúc 11h30', ngày 04 tháng 01 năm 2012












Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm thư viện Quốc gia Hà Nội

Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

134
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 3
3.PHẠM VI NGHIÊN CỨU 10

4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 10
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN 11
NỘI DUNG 11
CHƯƠNG 1: BẢO NINH TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI 12
1.1. Những biến chuyển của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới 12
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội 12
1.1.2. Những đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 13
1.1.3. Những khuynh hướng mới của văn xuôi 19
1.1.3.1.Khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử kiểu mới 19
1.1.3.2. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực 22
1.1.3.3. Khuynh hướng triết luận 24
1.1.3.4. Khuynh hướng thực huyền ảo 27
1.2. Bảo Ninh và văn học Việt Nam đương đại 30
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương 30
1.2.2. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh 33
1.2.3. Những truyện ngắn đặc sắc 38
CHƯƠNG 2: SÁNG TÁC CỦA BẢO NINH – MÔT CÁI NHÌN MỚI VÈ
HIỆN THỰC 42
2.1. Nỗi ám ảnh quá khứ trong tác phẩm của Bảo Ninh 42
2.1.1. Kí ức về chiến tranh 42
2.1.1.1. Khúc ca bi tráng về một thế hệ người Việt Nam anh hùng thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước 43
2.1.1.2. Chiến tranh khốc liệt, tàn bạo và hủy diệt 45
2.1.2. Hiện thực bất cập thời hậu chiến 50
2.1.3. Kí ức về Hà Nội bình yên và những biến động lịch sử 53
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

135
2.2. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Bảo Ninh 56

2.1.1. Hình tượng người lính khiếm khuyết 56
2.1.2. Hình tượng người phụ nữ 58
2.1.3. Hình tượng người trí thức, người nghệ sĩ 65
2.3. Những suy tư mới mẻ về hiện thực 70
2.3.1. Chiến tranh được nhìn từ góc độ nỗi buồn 70
2.3.2. Số phận của con người trong lịch sử 76
2.3.3. Ước mơ về hòa bình, hòa giải dân tộc 80
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỔI MỚI NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC TỰ
SỰ CỦA BẢO NINH 83
3.1. Đổi mới về kết cấu 83
3.1.1. Khái niệm kết cấu 83
3.1.2. Kết cấu dòng ý thức trong Nỗi buồn chiến tranh và những truyện
ngắn đặc sắc 84
3.2. Đổi mới về giọng điệu 97
3.2.1. Giọng điệu trần thuật 97
3.2.2. Giọng ngậm ngùi buồn thương 99
3.2.3. Giọng mỉa mai chua xót 106
3.2.4. Giọng tra vấn 110
3.3. Đổi mới về phân tích tâm lý trong Nỗi buồn chiến tranh và một số truyện
ngắn đặc sắc 112
KẾT LUẬN 121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 124




Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

1

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chiến tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam đã thắng lợi, đất
nước Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng với ngày 30 tháng 4 năm 1975 mãi đi vào
sử sách như một mốc son chói lọi. Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc lập đã
hoàn thành. Lịch sử đã sang trang, đất nước bước vào thời kỳ mới - hòa bình và
xây dựng. Đặc biệt từ sau Đại hội Đảng VI (1986) với phương châm của Đảng: hòa
nhập - giao lưu - phát triển; đất nước, xã hội con người Việt Nam đổi thay hàng
ngày. Do vậy, văn học đứng trước một thử thách mới cũng như một nhu cầu tự thân,
một nhu cầu "thay máu" của chính mình để phù hợp với thời đại. Trong bối cảnh ấy
văn xuôi Việt Nam sau 1975 đã kịp thời có những bước đi mới mẻ, phong phú và đa
dạng. Văn xuôi chuyển từ tính thống nhất một khuynh hướng sang tính nhiều
khuynh hướng, từ chịu ảnh hưởng của các quy luật thời chiến sang chịu tác động
của quy luật thời bình, từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Hệ thống
tiêu chí thẩm mĩ có nhiều thay đổi, nhiều giá trị không còn phù hợp với cuộc sống
đang đổi thay hàng ngày, trong khi đó nhiều giá trị mới được xác lập. Sự giao lưu
văn hoá đa chiều đã góp phần thúc đẩy thêm khát vọng tìm tòi khám phá của văn
nghệ sĩ. Người nghệ sĩ phải là người khai phá những miền đất lạ bởi bản chất của
nghệ thuật là phải phản ánh tính hiện sinh của đời sống. Con người hôm nay đang
sống đang suy nghĩ không thể phù hợp với con người hôm qua đã nghĩ và tồn tại.
Văn xuôi Việt Nam sau 75 đổi mới trên nhiều phương diện trong đó có đổi
mới quan niệm về văn chương, về con người. Những thay đổi ấy bao giờ cũng được
soi sáng trong những sáng tác cụ thể và được chuyển hoá thành nghệ thuật thực thụ
chứ không chỉ là lý thuyết suông, đặc biệt tiểu thuyết được coi là một thử nghiệm
lớn. Văn chương khi đã trút bỏ vai trò chính trị trở lại với bản chất nghệ thuật đích
thực của mình thì nhà văn có nhiều cơ hội trong việc nghiền ngẫm hiện thực. Các
vấn đề về cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, ý thức về cái tôi đã trở thành
chủ đề nổi bật khiến cho văn học càng đổi mới mạnh mẽ. Người ta hình dung lại
con người, thay đổi cách miêu tả, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới Tất cả những

Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

2
điều này chúng ta đều bắt gặp trên những trang viết của các nhà văn. Họ trăn trở tìm
hướng đi mới cho con thuyền văn chương của mình. Có người lặng lẽ đối chứng lại
với những quan niệm sơ lược hoặc phiến diện một thời về thế sự, để từ đó nhằm đấu
tranh cho sự hoàn thiện của mỗi con người trong thời đại mới như Nguyễn Minh
Châu. Có người suy ngẫm về quá khứ để nắm bắt nhịp thở hiện tại như Dương Thu
Hương. Có người tìm đề tài trong những cái bộn bề phức tạp của hiện thực cuộc
sống, đối thoại cùng người đọc để tìm ra biện pháp tháo gỡ như Nguyễn Khải,
Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp Và cùng chung
dòng chảy ấy ta bắt gặp Bảo Ninh - một trong những cây bút đã góp phần không
nhỏ vào sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt nền văn học Việt Nam từ sau 1975. Có thể
không nói quá rằng ông là người viết về chiến tranh, viết về những năm tháng chiến
đấu của người lính, về kẻ thù bên kia chiến tuyến, về những khó khăn của cuộc sống
thời kỳ đất nước chia cắt và viết về những khó khăn của cuộc sống thời hậu chiến
môt cách sâu sắc nhất, cảm động nhất, để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người
đọc. Những điều ông viết có thể xem như là một sự tri ân cho những cuộc đời mà
tuổi trẻ của họ kinh qua dấu ấn thời đại của dân tộc, dấu ấn mà sau này dù có nỗi
khổ nào của ngày hôm nay cũng không sánh bằng những nỗi đau khổ đã trải qua và
trái lại mai đây dù được sống sung sướng tới thế nào cũng chẳng hạnh phúc nào
bằng hạnh phúc ngày đã qua.
Nhắc đến Bảo Ninh người ta nhớ ngay đến Nỗi buồn chiến tranh - giải
thưởng Hội nhà văn năm 1991. Những năm gần đây có rất nhiều báo cáo khoa học,
luận văn thạc sỹ, cũng như những luận văn tốt nghiệp viết về tác phẩm nổi tiếng
này. Tuy vậy, Bảo Ninh không chỉ có một tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, mà ông
còn sáng tác truyện ngắn và trong đó có những truyện cự kỳ đặc sắc như: Mùa khô
cuối cùng, Lá thư từ Quí Sửu, Hà Nội lúc không giờ, Rửa tay gác kiếm, Thời tiết
của kí ức, Khắc dấu mạn thuyền, Vô cùng xưa cũ, Tiếng vĩ cầm của quân xâm lăng,

Ba lẻ một, Thách đấu Bội phản,v.v, với phong cách viết cô đọng và những khúc vĩ
thanh đầy cuốn hút. Thế nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn bộ sáng
tác của Bảo Ninh. Vì những lí do đó, chúng tôi mong muốn qua luận văn này sẽ góp
thêm một tiếng nói bằng việc đi vào khảo sát tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh và
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

3
những truyện ngắn đặc sắc của Bảo Ninh đồng thời có so sánh với văn xuôi Việt
Nam thời kì đổi mới để thấy những nét riêng, vị trí riêng của nhà văn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Trong phạm vi vấn đề nhằm tìm hiểu những đóng góp của tác giả Bảo Ninh
vào quá trình phát triển văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới trên phương diện đề tài
và những cách tân nghệ thuật, chúng tôi quan tâm tới những công trình nghiên cứu
về lý luận thể loại, những đánh giá tổng kết về văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới,
đặc biệt là các bài viết về nhà văn Bảo Ninh và sáng tác của ông. Dưới đây chúng
tôi xin tổng thuật lại những công trình, bài viết có liên quan.
2.1. Từ sau năm 1986, với những thay đổi trong tư duy văn học và việc tiếp nhận
nhiều lí thuyết nghiên cứu hiện đại, tình hình nghiên cứu văn xuôi đã có nhiều thành
tựu quan trọng. Trong số những thành tựu đó phải kể đến những công trình nghiên
cứu lí luận về thể loại văn học thời kì Đổi mới: công trình Lí luận văn học của tập
thể các tác giả tại trường Đại học tổng hợp cũ (nay là trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn Hà Nội). Đây là công trình lí luận bao quát những vấn đề cơ sở lí
luận chung đến các vấn đề thuộc cấu trúc tác phẩm văn học, loại thể văn học và
phương pháp sáng tác. Công trình Giáo trình Dẫn luận thi pháp học - vốn là tập
hợp những bài giảng của GS.TS. Trần Đình Sử tại Đại học Sư phạm - đã bao quát
toàn diện từ khái niệm, lịch sử, các trường phái, quan niệm về con người, thời gian,
không gian, cốt truyện, ngôn từ, v.v. trong tác phẩm văn học của lí thuyết thi pháp
học. Tiếp đến là một số các công trình tập thể và các sách chuyên luận như: Văn học
Việt Nam sau 1975 – Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (Nguyễn Văn Long,

Lã Nhâm Thìn chủ biên, 2006, NXB GD, Hà Nội); 50 năm văn học Việt Nam sau
cách mạng tháng Tám do Đại học Quốc gia Hà Nội – Trường viết văn Nguyễn Du –
Tạp chí văn nghệ Quân đội tổ chức (1996), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỉ XX của
Viện Văn học (2002), Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Phan Cự Đệ chủ biên, 2005),
v.v. đã có những đánh giá tổng kết về bức tranh chung của văn học Việt Nam thời
kỳ đổi mới. Công trình tập thể Văn học Việt Nam thế kỉ XX – những vấn đề lịch sử
và lí luận (2005) của các nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học như Phan Cự Đệ, Trần
Đình Sử, Mã Giang Lân, v.v. đã tổng kết văn học Việt Nam thế kỉ XX dưới ánh
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

4
sáng của loại hình học, thi pháp học và văn học so sánh. Đặc biệt, trong quá trình
nghiên cứu chúng tôi kế thừa và vận dụng khung lí thuyết từ công trình của TS.
Phạm Xuân Thạch Sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật trong tiến trình
hiện đại hoá văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX (2008). Đây là công trình
chuyên sâu tìm hiểu về thể loại tự sự, thông qua việc ứng dụng lý thuyết thi pháp
học, trần thuật học, luận án đã đưa ra nhiều kiến giải sắc sảo về bức tranh vận động
của thể loại tự sự. Trên cơ sở đó, luận án đã xây dựng một khung lý thuyết khả dĩ có
thể mô tả được bản chất và sự vận động của đối tượng từ vấn đề người kể chuyện,
ngôi kể, điểm nhìn, miêu tả, phân tích nhân vật đến các vấn đề thời gian, giọng điệu.
Đây là công cụ nghiên cứu quan trọng giúp chúng tôi thấy được những cách tân mới
mẻ về hình thức thể loại cũng như nội dung trong sáng tác của Bảo Ninh.
Ngoài các công trình nghiên cứu về lí luận thể loại nói chung là tập hợp
nhiều các công trình, các sách chuyên khảo, chuyên luận, v.v. về tiểu thuyết Việt
Nam nói riêng như: công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại của GS. Phan Cự Đệ
là công trình dày dặn chuyên biệt về vấn đề lí luận thể loại tiểu thuyết. Với công
trình này, người viết đã có một sự tổng quát toàn diện về quá trình hình thành, phát
triển của văn học Việt nam hiện đại trên cơ sở các khuynh hướng tiểu thuyết, vấn đề
điển hình hoá, vấn đề thể loại, lao động của người cầm bút trong tiểu thuyết. Trên

tinh thần thay đổi cách tư duy và phương pháp tiếp cận thể loại, Đổi mới tư duy tiểu
thuyết (2002) gồm nhiều bài viết của các nhà văn, nhà nghiên cứu – phê bình đã
đánh giá thực trạng, sự cấp thiết cần đổi mới tiểu thuyết. Ngoài ra phải kể đến các
công trình chuyên sâu về quá trình đổi mới, cách tân của văn xuôi nói chung và tiểu
thuyết nói riêng như luận án tiến sĩ Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau năm 1975 – khảo sát trên nét lớn của tác giả Nguyễn Thị Bình, luận án
tiến sĩ Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại giai đoạn
1986 – 2006 của tác giả Mai Hải Oanh đã đề cập tới những biến đổi lớn trong tiến
trình đổi mới của văn xuôi, tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Đặc biệt chúng tôi
quan tâm tới những bài nghiên cứu về sự phát triển của tiểu thuyết từ 1986 đến nay,
của các tác giả: Trần Đình Sử, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Phong Lê, Nguyễn Thị
Bình, Lại Nguyên Ân, Bích Thu, Nguyễn Ngọc Thiện, Vũ Tuấn Anh, Vương Trí
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

5
Nhàn, Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Xuân Nguyên, Phạm Xuân Thạch, Huỳnh Như
Phương, Lê Ngọc Trà, Mai Hương, Tôn Phương Lan, Lê Dục Tú, Ma Văn Kháng,
Bích Thu, Nguyễn Ngọc Thiện, Trần Độ, Nguyễn Hà, Trần Thị Mai Nhân Các tác
giả đều thống nhất ở việc nhìn nhận tiểu thuyết là một thể loại năng động. Tiểu
thuyết Việt Nam đương đại ngày càng tăng cường yếu tố đa thanh, tính dân chủ và
tính đối thoại, sự thay đổi về nội dung cùng sự thay đổi về thi pháp thể loại như một
đòi hỏi tất yếu của một thể loại năng động và luôn bám sát hiện thực đời sống.
Trong các bài viết của các tác giả nói trên chúng tôi nhận thấy nổi bật lên hai hướng
tiếp cận vấn đề chính sau:
- Hướng tiếp cận thứ nhất: các bài viết mang tính chất nhận định tổng quan
về quá trình phát triển thể loại. Ở hướng tiếp cận này, GS. Hà Minh Đức đã có
những tổng kết về thành tựu văn học Đổi mới trong đó có tiểu thuyết. GS. Phong Lê
trong bài viết Từ sự nghiệp đổi mới nhìn lại lịch sử các mối giao lưu với văn học
phương Tây hiện đại và Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn học Việt

Nam từ tháng Tám – 1945 đã cho thấy một sự thay đổi đa dạng của văn xuôi, tiểu
thuyết thời kỳ Đổi mới. Trong bài viết Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời
kỳ đổi mới và Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa văn học nửa đầu
thế kỷ, PGS.TS. Bích Thu chỉ rõ thực tế tiểu thuyết Việt Nam đang vận động và sẽ
tiếp tục vận động. Bài viết Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – một cái nhìn khái quát
của PGS.TS. Nguyễn Thị Bình lại nhấn mạnh nhu cầu thay đổi tư duy nghệ thuật
của người viết trong một cái nhìn tổng quát về tiểu thuyết Đổi mới.
- Hướng tiếp cận thứ hai: các bài viết đi sâu vào việc phân tích sự phát triển
các khuynh hướng tiểu thuyết, những đặc điểm nghệ thuật trong hình thức và nội
dung cũng như các yếu tố mang tính thẩm mỹ thể loại nói chung. PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Thiện quan tâm đến “tiểu thuyết hướng nội” trong văn xuôi Việt Nam hiện
đại: khai thác và khám phá chiều sâu tâm hồn con người với tất cả sự phong phú và
phức tạp. Thông qua việc tìm hiểu sự vận động của văn học đương đại từ phương
diện thể loại, PGS. Vũ Tuấn Anh đã cho thấy một xu hướng thay đổi trong thể loại
tiểu thuyết từ khuynh hướng sử thi sang khuynh hướng đời tư, số phận. Trên tạp chí
nghiên cứu văn học số 11 – 2006, các tác giả Mai Hương, Bùi Thanh Truyền đã có
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

6
những ý kiến xác đáng về tiểu thuyết đương đại. Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo
một số bài viết của các tác giả Đặng Anh Đào, Lưu Liên, Phạm Xuân Nguyên, Ma
Văn Kháng có đề cập tới những khía cạnh về lí luận thể loại như Tính chất hiện
đại của tiểu thuyết, Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết, Tiểu thuyết - một thể loại
năng động đầy triển vọng, "Sự vận động trong con người" ở tiểu thuyết sử thi hiện
đại Bên cạnh đó, một bộ phận các tác phẩm dịch về lí luận thể loại đã có tác động
quan trọng đối với công tác nghiên cứu văn học Việt Nam thời gian qua. Tiêu biểu:
công trình của Bakhtin Lí luận và thi pháp tiểu thuyết do Phạm Vĩnh Cư dịch và
Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki do Trần Đình Sử dịch đã khảo cứu thi pháp tiểu
thuyết trên cơ sở xây dựng lí thuyết chung về thể loại; cuốn tiểu luận Nghệ thuật

tiểu thuyết của Milan Kundera do Nguyên Ngọc dịch nêu lên nhiều nhận định về sự
phát sinh, phát triển và khái niệm tiểu thuyết.
Không chỉ chú ý đến những công trình lí luận về thể loại nói chung, tiểu
thuyết nói riêng chúng tôi còn quan tâm tới những công trình, những bài viết, những
chuyên luận.v.v.về thể loại truyện ngắn Việt Nam. Trong số đó phải kể đến cuốn Sổ
tay viết truyện ngắn do nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn sưu tầm, biên soạn (NXB
Tác phẩm mới, Hà Nội, 1980) đã tập hợp nhiều ý kiến của các nhà văn trong và
ngoài nước nhận xét, phát biểu về đặc điểm truyện ngắn (những ý kiến của các tác
giả, các nhà phê bình lí luận nước ngoài chiếm non nửa dung lượng sách). Đáng lưu
ý là bài viết Truyện ngắn – một số vấn đề nghề nghiệp như là ý kiến mang tính bàn
luận, nhận xét của người sưu tầm, biên soạn “thông báo một số khía cạnh lí luận của
vấn đề”, “xác định những đặc điểm chủ yếu làm nên bản chất cái thể tài tự sự cỡ
nhỏ này”. Tiếp đến là hai công trình tiêu biểu về truyện ngắn của tác giả Bùi Việt
Thắng: Bình luận truyện ngắn (Nxb Văn học, 1999), Truyện ngắn- những vấn đề lý
thuyết và thực tiễn thể loại (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000). Trong hai công
trình này Bùi Việt Thắng đã tập trung cái nhìn của mình dưới góc độ thể loại, khảo
sát một cách tương đối đầy đủ, toàn diện về truyện ngắn. Trước hết, công trình
Bình luận truyện ngắn là sự góp nhặt toàn bộ những gì mấy chục năm anh đọc và
ngẫm nghĩ về các tác giả, tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn. Ở Truyện ngắn-
những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, tác giả đi từ định nghĩa, nguồn gốc để
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

7
xác định các yếu tố đặc trưng, các kiểu truyện ngắn, từ đó cung cấp một cái nhìn
khái quát về sự phát triển truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX. Ngoài ra chúng tôi còn
tham khảo các bài viết của các nhà văn: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Tô
Hoài, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm
Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Thân.v.v. họ phát biểu những suy nghĩ,
quan niệm của mình về thể tài mà họ từng có tác phẩm được người đọc và các nhà

nghiên cứu phê bình ghi nhận. Tiêu biểu là 3 bài viết của Nguyễn Minh Châu tập
hợp trong cuốn Trang giấy trước đèn, in lần đầu 1993, tái bản 2002: Đôi điều về
truyện ngắn, Nghĩ về truyện ngắn, Nói về truyện ngắn của mình có bàn luận trực
tiếp về truyện ngắn. Gần đây nhất là cuốn chuyên luận của tác giả Lê Huy Bắc:
Truyện ngắn: lí luận, tác gia và tác phẩm (tập một, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004).
Tác giả cuốn sách bày tỏ mong muốn từ việc tìm hiểu lí luận và thành tựu truyện
ngắn thế giới và Việt Nam để “hình thành một hệ thống lí luận về truyện ngắn nói
chung, truyện ngắn của từng giai đoạn và của từng tác giả…”. Đây là những cơ sở
khoa học quan trọng giúp chúng tôi tiến hành nghiên cứu mảng truyện ngắn của
Bảo Ninh.
Như vậy, trong những công trình trên, dưới những mức độ khác nhau, vấn đề
lí luận thể loại đã được đề cập một cách cụ thể ở nhiều phương diện. Các nhà
nghiên cứu - phê bình đã tiếp nhận nhiều lí thuyết nghiên cứu hiện đại, nổi bật là
hướng nghiên cứu theo thi pháp học, tự sự học mà cụ thể là vận dụng tư tưởng của
M.Bakhtin. Những vấn đề lý thuyết thể loại từ các công trình nghiên cứu trên là cơ
sở khoa học quý báu để chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu.
2.2. Bảo Ninh được văn đàn biết đến sau truyện ngắn Trại bảy chú lùn in năm
1987, nhưng chỉ thực sự tạo ra làn sóng phê bình khen chê với tác phẩm Nỗi buồn
chiến tranh - Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1991. Từ khi ra mắt độc giả Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã trở thành một “hiện tượng có vấn đề” của văn
học nước nhà. Cuốn tiểu thuyết ngay sau khi xuất bản (với tên gọi Thân phận tình
yêu do Hội Nhà văn in) đã trở thành tâm điểm của cuộc thảo luận do tuần báo Văn
nghệ tổ chức. Trong cuộc thảo luận ban tổ chức có đưa ra nhận định: “Đây là một
trong số ít tác phẩm được dư luận bạn đọc hết sức chú ý và đã gây ra nhiều luồng ý
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

8
kiến nhận xét khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Âu đó cũng là lẽ thường tình và
là điều đáng mừng với một tác phẩm văn học” .

Về hướng khẳng định giá trị của cuốn tiểu thuyết người đầu tiên mà chúng ta
không thể bỏ qua là Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Trong bài “Những nghịch lý của
của cuộc chiến tranh”, ông đã nhiệt liệt cổ vũ cho một lối nghĩ mới, một lối viết
mới, xuất phát từ nhận xét cho rằng văn học ta từ 1945 - 1975 chủ yếu nói bằng
“thuận lý” một nghĩa. Bộ mặt “gớm guốc” tàn bạo của chiến tranh được Bảo Ninh
mô tả rất hiện thực nhưng không phải không có sự thăng hoa, ông đã khẳng định giá
trị tích cực của tác phẩm là đem đến cho người đọc một cái nhìn mới, sâu sắc về
chiến tranh.
Các ý kiến tham gia thảo luận của các tác giả Trần Đình Sử, Cao Tiến Lê,
Phạm Tiến Duật, Nguyên Ngọc, Vũ Quần Phương, Hồ Phương, Chu Lai, Nguyễn
Phan Hách, Đỗ Đức Hiểu, Ngô Văn Phú, Tôn Phương Lan, Nguyễn Trọng Tân,
đưa ra đều sâu sắc và thuyết phục xong đều nhất trí ở giá trị khẳng định: “Một tác
phẩm văn chương đích thực, văn đẹp lắm, cực kỳ đẹp, chi tiết tuyệt vời gây ấn
tượng không thể nào quên. Những chi tiết gợi bóng dáng một tác phẩm lớn.”
(Nguyễn Phan Hách). Sau đó các ý kiến này đều được đăng tải trên báo văn nghệ số
37, 43, 44, 47 năm 1991. Tiêu biểu là các bài viết “Đôi điều quanh ba cuốn tiểu
thuyết vừa được giải của Nguyễn Khắc Phê; “Về một xu hướng tiếp cận tác phẩm”
của Đỗ Ngọc Thống (bút chiến với Đỗ Văn Khang); “Những nhịp mạnh của tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh” của Đỗ Đức Hiểu in trong Tạp chí Tác phẩm mới
tháng 1/1992.v.v(chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần 1.2.2 của Chương 1)
Về hướng phủ nhận giá trị của tác phẩm, người chính thức phủ nhận hoàn
toàn tác phẩm của Bảo Ninh là tiến sỹ Mỹ học Đỗ Văn Khang trên báo Văn nghệ
ngày 26/10/1991 với bài “ Nghĩ gì khi đọc Thân phận tình yêu” ông đã phủ nhận
không thương tiếc giá trị của tác phẩm :”Tác phẩm có cảm hứng chủ đạo là dối bời,
bất định, tư tưởng rõ ràng hoang mang, dễ rơi vào phủ định”. Những cảnh tàn khốc
của chiến tranh trong tác phẩm bị gọi là “chủ nghĩa tự nhiên trong văn học”. Nhân
vật trong tác phẩm bị “thiết kế sai, chẳng có ý tưởng nào cả”. Cách tiếp cận như thế
đã bị một số nhà phê bình lên tiếng phản bác một cách gay gắt. Tiếp đó là ý kiến
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi


9
phê phán không kém phần quyết liệt của Trần Duy Châu trên tạp chí Cộng Sản số
10/1994 đã cho rằng: “Tác giả đã không thể lập luận được đã cố ý sử dụng những
yếu tố tâm thần không bình thường để được “ miễn truy cứu trách nhiệm” trước tòa
án lương tâm của thời đại, đây là “bài ai điếu của kẻ lạc loài xúc phạm những
người đang sống”. Về nghệ thuật của tiểu thuyết thì ông cho là : “Thuần túy là kỹ
thuật - một sự khéo tay nếu có”. Đã có rất nhiều ý kiến không đồng tình với ý kiến
nhận xét của Trần Duy Châu
Sau đó là một khoảng thời gian dài tác phẩm bị lãng quên, vắng bóng trong
các công trình nghiên cứu, các tác phẩm phê bình và các chuyên luận về văn học
Việt Nam thời kỳ đổi mới. Mãi đến năm 2003, cuốn sách của Bảo Ninh lặng lẽ
được tái bản và xuất hiện trong đời sống văn học Việt Nam với tiêu đề Nỗi buồn
chiến tranh (NXB Hội Nhà văn) và Thân phận tình yêu (NXN Hội phụ nữ). Trong
những bài viết đánh giá về tác phẩm trong những năm gần đây đáng chú ý phải kể
đến bài viết của TS. Phạm Xuân Thạch với nhan đề Nỗi buồn chiến tranh viết về
chiến tranh thời hậu chiến - từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp
đăng trong cuốn Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy
do Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn chủ biên - NXB GD - 2006. Bài viết đã đưa
ra những lí giải sâu sắc về những cách tân trong cấu trúc tác phẩm, đổi mới về đề
tài, đổi mới về xây dựng nhân vật từ đó đưa tác giả đưa ra một đề nghị một cách
đọc mới – “đọc sâu”, “đọc liên văn bản” để có thể chạm đến mọi tầng nghĩa của tác
phẩm. Sau đó là các bài viết: Phép lặng với việc đổi mới một số nét về nghệ thuật
trong Thân phận của tình yêu - Báo cáo khoa học năm 2004 của Nguyễn Ngọc
Bích, Kết cấu không gian trong Thân Phận của tình yêu - Báo cáo khoa học năm
2002 của Khương Thị Thu Cúc, Nghệ thuật trần thuật của Bảo Ninh qua thân phận
của tình yêu - Báo cáo khoa học năm 2001 của Đỗ Văn Hiểu. Từ đại học Paris TS.
Đoàn Cầm Thi có bài viết “Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam
đương đại”. Trên các website chính thức của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng
đăng tải nhiều bài viết về tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh cũng như những bài phỏng

vấn tác giả. Qua đây người đọc có thể hiểu rõ hơn về quan niệm văn chương của
nhà văn cũng như những yếu tố tác động tới nghề văn của Bảo Ninh:
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

10
;;;
Ngoài ra Nỗi buồn chiến tranh cũng trở thành đề tài
nghiên cứu của nhiều học viên cao học, sinh viên tại các trường đại học, Viện
nghiên cứu chuyên ngành tiêu biểu: Thân phận tình yêu - Nhìn từ góc độ thi pháp
tiểu thuyết. Luận văn tốt nghiệp, ĐHSP Hà Nội, 2002 của Nguyễn Thị Phương
Thanh; Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Luận văn thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội, 2006 của Nguyễn Thị Thanh; v.v.
Như vậy đã có một dòng chảy phê bình, đánh giá về tác giả Bảo Ninh nhưng
chủ yếu thông qua tiếp cận tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh mà chưa có tác giả nào
tiếp cận toàn bộ sáng tác của tác giả. Chính vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của
mình chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói tri ân đối với quá trình lao động nghệ
thuật nghiêm túc của nhà văn với mong muốn xác định những đóng góp của nhà
văn vào sự Đổi mới văn xuôi Việt Nam trong toàn bộ sáng tác của mình chứ không
tập trung vào một tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh.
Trên đây là những trình bày tổng quan của chúng tôi về tình hình nghiên cứu
văn xuôi Việt Nam thời kì Đổi mới, những bài viết, những công trình khoa học về
tác giả Bảo Ninh và sáng tác của ông có liên quan đến đề tài.
3.PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, ba tập truyện ngắn Chuyện xưa, kết đi
được chưa?, Lan man trong lúc kẹt xe và Truyện ngắn của Bảo Ninh. Nghiên cứu
trên các bình diện: đề tài, hệ thống nhân vât, đặc điểm nghệ thuật để thấy được
những đổi mới của Bảo Ninh trong sáng tác, từ đó có những đánh giá đúng đắn về
những đóng góp của tác giả vào văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để đạt được mục đích nghiên cứu của mình chúng tôi sử dụng chủ yếu các
phương pháp sau:
4.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Vấn đề vị trí của một tác giả trong một
giai đoạn văn học có liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học như văn học sử, lý luận
văn học, ngôn ngữ học. Chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu của các
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

11
ngành khoa học liên quan để hỗ trợ và làm sáng tỏ các khía cạnh của vấn đề nghiên
cứu.
4.2. Trên cơ sở của đề tài đặt ra và tiếp thu những lí thuyết nghiên cứu văn học hiện
đại một cách tích cực, luận văn sử dụng phương pháp luận: Phương pháp thi pháp
học kết hợp lí thuyết tự sự học được chúng tôi sử dụng như một phương pháp nòng
cốt của luận văn nhằm thể hiện cụ thể và nổi bật được những giá trị về mặt thẩm mỹ
trong sáng tác của Bảo Ninh cũng như các sáng tác và khuynh hướng văn học thời kì
Đổi mới. Ngoài ra, trong quá trình tiến hành đề tài nghiên cứu, luận văn của chúng tôi
còn phối kết hợp các thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp, v.v. cũng như vận dụng
một số nghiên cứu của lịch sử văn học (sưu tầm, thống kê tư liệu về tác giả, sự nghiệp
sáng tác…).
5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận luận văn có cấu trúc như sau:
Chương1: Bảo Ninh trong đời sống văn học đương đại
Chương 2: Sáng tác của Bảo Ninh – Một cái nhìn mới về hiện thực
Chương 3: Những đổi mới nghệ thuật trong sáng tác tự sự của Bảo Ninh














Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

12
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BẢO NINH TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Những biến chuyển của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta giành được chủ quyền sau
hơn tám mươi năm bị thực dân Pháp đô hộ. Chưa kịp bắt tay vào xây dựng đất nước
thì chúng ta đã phải tiến hành cuộc kháng chiến trường kì gian khổ chống Pháp kéo
dài suốt chín năm. Sau đó lại là cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ và tay sai. Mãi
tới ngày 30 tháng Tư năm 1975, cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm kéo dài
suốt ba mươi năm mới thực sự chấm dứt. Tuy vậy từ năm 1978 đến năm 1979
chúng ta vẫn còn phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây – Nam và
biên giới phía Bắc để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Biết bao xương máu đã đổ xuống,
biết bao trí tuệ, sức người, sức của đã hóa thân cho một dải non sông hòa bình thống
nhất. Số phận nghiệt ngã nào đã biến mảnh đất Việt Nam hiền lành thành “Bãi
chiến trường bốn nghìn năm gươm khua, ngựa hí quân reo” (Theo Nguyễn Thanh
Sơn: Nỗi buồn chiến tranh đến từ đâu, ). Trong hoàn cảnh
chiến tranh kéo dài, con người buộc phải thích nghi với một cuộc sống bất thường.
Văn hóa thời chiến hình thành. Nhãn quan giai cấp, dân tộc, lợi ích của cuộc chiến

đấu trở thành chuẩn mực đo đếm các giá trị. Nhân dân Việt Nam phải hi sinh hạnh
phúc cá nhân vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Sau 1975 nhất là từ những năm 80 trở đi, dân chủ hóa là xu thế lớn của xã
hội. Nó cũng trở thành xu hướng vận động bao trùm của nền văn học. Đặc biệt là
sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nhu cầu đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật đã tạo
cơ sở cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát triển mạnh
mẽ. Dân chủ hóa đã thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện của đời
sống văn học, nhưng bao quát ta vẫn có thể nhận thấy một khuynh hướng vận động
bao trùm chi phối một cách sâu sắc mọi mặt của nền văn học từ tư tưởng, cảm hứng
chủ đạo đến các phương thức nghệ thuật, đó là xu hướng văn học vận động theo
hướng dân chủ hóa, tinh thần nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân.

Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

13

1.1.2. Những đổi mới của văn xuôi từ sau 1975
Quan sát sự vận động của văn học Việt Nam từ sau 1975, chúng ta dễ dàng
nhận thấy lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật có sự biến đổi thật sự mạnh mẽ và sâu sắc.
Nhìn trên những nét lớn có thể thấy tập trung ở những phương diện sau: mở rộng
quan niệm về hiện thực đi liền với đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, đổi
mới nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu.
Giai đoạn 1945 – 1975 với nguyên lý “văn học phản ánh hiện thực” và yêu
cầu quán triệt lí luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, văn học trở nên gắn
bó với đời sống xã hội hơn, theo sát từng biến cố lịch sử, từng bước phát triển của
phong trào cách mạng. Tính hiện thực được đồng nhất với quan niệm lí tưởng về
hiện thực. Hiện thực được lựa chọn là hiện thực chính trị rộng lớn, là những đề tài
lớn như công – nông – binh, là đời sống cách mạng ở những nơi mũi nhọn, là cuộc
sống mới và con người mới.

Từ khoảng đầu những năm 80, cuộc sống thời bình đã thực sự trở lại, con
người hằng ngày phải đối diện với bao nhiêu vấn đề của thực tiễn, của đời thường,
của các quan hệ thế sự, của đời sống riêng tư. Các nhà văn có sự mẫn cảm với cuộc
sống đã không thể bỏ qua cái hiện thực đời thường đó và họ đã nhìn ra nhiều vấn đề
có ý nghĩa, đáng được quan tâm trong đó. Từ đề tài lịch sử dân tộc vốn là đề tài chủ
đạo và chi phối mọi bình diện của hiện thực, văn học đã chuyển sự quan tâm chủ
yếu sang thể tài thế sự và đời tư. Với sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực như
thế, văn xuôi đã vượt qua tình trạng bị lệ thuộc vào đề tài, lệ thuộc vào một cách
nhìn đã được định trước, mở ra khả năng phong phú, vô tận trong sự khám phá và
thể hiện hiện tính muôn mặt, muôn vẻ của thực đời sống. Khi văn chương được giải
phóng khỏi “chủ nghĩa đề tài” thì điều đó vừa là một thuận lợi, vừa là một thách
thức với nhà văn. Họ có thể viết về mọi điều, kể cả những điều trước kia cần phải
kiêng kị, nhưng cái quan trọng lại là ở chỗ nhà văn có phát hiện được điều gì mới,
muốn biểu đạt cái gì của riêng mình trong những cái quen thuộc hay xa lạ với người
đọc. Bài tiểu luận Viết về chiến tranh của Nguyễn Minh Châu (năm 1978), bản “đề
dẫn” của Nguyên Ngọc và bài Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật Việt Nam
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

14
giai đoạn vừa qua của Hoàng Ngọc Hiến (năm 1979) thực chất là sự dự báo những
thay đổi trong quan niệm văn chương, trong đó có vấn đề quan niệm về hiện thực.
Từ những truyện ngắn mang tính thể nghiệm của Nguyễn Minh Châu như Bức
tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Chiếc thuyền ngoài xa, Một lần đối
chứng, v.v., đến các tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời
xa vắng của Lê Lựu, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người của Nguyễn Khải, v.v,
và hàng loạt tác phẩm ra đời năm 1986, đã xuất hiện một cách nhìn hiện thực đa
dạng, nhiều chiều, thể hiện mối quan hệ tự do của nhà văn đối với hiện thực. Không
phải ngẫu nhiên, người ta nói nhiều đến khái niệm “suy ngẫm”, “nghiền ngẫm” về
hiện thực. Hiện thực là cái chưa biết, không thể biết hết, hiện thực phức tạp, cần

khám phá, tìm tòi. Nhà văn lựa chọn hiện thực nào không quan trọng bằng cách
đánh giá của ông ta về hiện thực ấy.
Văn xuôi thời kỳ đổi mới đã đem lại nhiều biến đổi trong nghệ thuật trần
thuật. Văn xuôi từ bỏ sự áp đặt một quan điểm (quan điểm của cộng đồng) được cho
là đúng đắn nhất. Ngày nay, người viết có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau,
chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn
vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình
và để cho các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Sự thay đổi vai kể,
cách đưa truyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc
không theo một trật tự thời gian duy nhất, tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra
được hiệu quả nghệ thuật mới. Trong sự đa dạng về phương thức trần thuật, nhiều
nhà văn, nhà báo, một người chứng kiến, quan sát kể lại câu chuyện về người khác
hoặc kể về chính mình, Nguyễn Khải lại cách tân nghệ thuật trần thuật bằng cách tổ
chức kiểu cấu trúc đối thoại có sự tham gia của nhiều ý thức độc lập qua hệ thống
hình tượng cụ thể (Cha và con và , Khoảnh khắc đang sống, Gặp gỡ cuối năm). Ở
Cha và con và , tuy lập trường của tác giả vẫn chi phối nhân vật, nghĩa là nhân vật
không được nói “tiếng cuối cùng” về mình, nhưng nhiều người đã nhận ra đây là
cuộc “đối thoại giữa lí tưởng tôn giáo và chủ nghĩa xã hội” (Lại Nguyên Ân). Sự lựa
chọn cách sống, quan điểm về đời sống giữa các nhân vật cha già quản hạt, ông thầy
xuất, cha Hòe, cha Thư, v v., ít nhiều cho thấy giá trị của kinh nghiệm cá nhân, tính
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

15
độc lập về tư tưởng của nhân vật. Gặp gỡ cuối năm chưa phải là phức điệu nhưng
cuộc đối thoại quanh bàn tiệc tất niên của ngót chục con người, “bảo hoàng” có, cấp
tiến có, cộng sản có, chống cộng sản có, thiền có, khoa học có, phần nào đã mang
tính đa thanh và người dẫn chuyện đã không còn đứng cao hơn nhân vật nữa. Sau
này với Nguyễn Trí Huân (Chim én bay), Ma Văn Kháng (Đám cưới không có giấy
giá thú), Nguyễn Minh Châu (Chiếc thuyền ngoài xa, Phiên chợ Giát), Nguyễn

Khải (Một cõi nhân gian bé tí, Cái thời lãng mạn, Nhóm bạn thời kháng chiến),
Phạm Thị Hoài (Thiên sứ, Mê lộ, Từ Man Nương đến A.K và những tiểu luận), v.v.,
ý thức đối thoại được triển khai phổ biến theo lối trần thuật từ điểm nhìn của nhân
vật. Trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, thái độ đầy cam chịu của
người đàn bà thuyền chài, hay thói vũ phu hung bạo của chồng bà ta được tác giả
luân phiên đánh giá qua các nhân vật: đứa con trai, đứa con gái, nhà nhiếp ảnh, viên
thẩm phán. Mỗi người đều từ niềm tin riêng mà phán xét.Thật thú vị là tất cả họ đều
nông nổi hơn người đàn bà thất học, thô kệch ấy vì chỉ bà biết rõ rằng cuộc sống
sông nước không thể thiếu bàn tay chèo chống của người đàn ông và đàn bà sống vì
con cái chứ không vì mình. Trong Ăn mày dĩ vãng(Chu Lai), thực trạng thời hậu
chiến với các vấn đề đạo đức và niềm tin được trần thuật qua cách nhìn của Hai
Hùng, Ba Sương, Tám Tính, Ba Thành, Tường, Tuấn và qua những lời bình luận trữ
tình ngoại đề của nhân vật người dẫn chuyện, tạo thành một ấn tượng phức hợp
buồn vui, căm phẫn, tin yêu lẫn lộn. Mỗi điểm nhìn trần thuật gắn liền với một sự
trải nghiệm và như vậy, hiện thực được đánh giá theo nhiều cách. Người đọc tự
nhiên bị lôi cuốn vào “trò chơi” của nhà văn vì anh ta được giành quyền quyết định
sau cùng đối với cái hiện thực mà nhà văn trình bày. Trong số các nhà văn đổi mới,
có lẽ Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp là hai tác giả tạo ra những điểm nhìn trần
thuật thật sự khác biệt. Trong Nỗi buồn chiến tranh, mỗi nhân vật là một ý thức,
một bản ngã “chỉ có thể thâm nhập được bằng đối thoại”, một thái độ tự do đối với
lập trường của tác giả. Kiên được nhiều người xem như phát ngôn trực tiếp của tác
giả nhưng thực ra Kiên chỉ đại diện cho một mình anh, chuỗi kí ức điệp trùng chỉ
nhằm làm sáng tỏ ý thức về bản ngã của anh ta. “Còn hơn là một khuyết tật, trong
Kiên rõ ràng là có mầm bẩm sinh của tội ác, của thói nhẫn tâm, khô rắn, lạnh lùng.
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

16
Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt. Một lương tri không lành. Có lẽ anh lớn lên
chỉ với nhiều nhất là một phần hai nhân cách”[100,123]. Thái độ đối với đời sống

của Kiên không ngừng bị các nhân vật khác phán xét và chính anh cũng tự phán xét.
Bên cạnh Kiên, Phương hay Can hay Sơn – người yêu và những đồng đội của anh
đều là những bản ngã riêng biệt. Ngay cả các nhân vật phụ của tác phẩm (mẹ Kiên,
cha Kên, bố dượng Kiên, người hàng xóm, v v) cũng xuất hiện trong ý thức đối
thoại. Ở Nguyễn Huy Thiệp, vai trò chủ động về tư tưởng của mỗi nhân vật lại
khiến cho tác phẩm luôn là một cấu trúc đa tầng, đa nghĩa, người đọc không thể dễ
dàng tìm được “câu phán” của nhà văn. Bản thân người kể chuyện cũng tỏ ra chẳng
mấy tin vào mình, có khi còn “đứng thấp hơn nhân vật” (Đặng Anh Đào), trong khi
đó mỗi nhân vật đòi quyền bình đẳng bằng “chân lí” và “lẽ phải” riêng của nó. Tính
phức điệu này cùng với một bút pháp biến hóa có thể dao động từ giới hạn của cái
lung linh huyền ảo đến giới hạn của cái nghiệt ngã, trần trụi, từ “mơ mộng” đến
“khắc nghiệt”, khiến cho người đọc phải giật mình xem lại kinh nghiệm nghệ thuật
của mình. Đọc Nguyễn Huy Thiệp nhiều người đã không giấu được niềm thán phục
trước một ngòi bút đầy biến hóa, “tiền văn” không đoán được “hậu văn”. Mỗi chi
tiết đều là “điểm rơi” của tư tưởng, chi tiết nào cũng đầy sức gợi và có khả năng
kích thích đối thoại rất mạnh.
Trong thời kỳ chiến tranh và cách mạng, văn học nhìn con người chủ yếu ở
tư cách con người công dân, con người dân tộc, giai cấp. Điều đó là phù hợp và cần
thiết. Nhưng cũng vì thế mà các bình diện khác, những tư cách khác của con người
thường bị văn học bỏ qua, hoặc nếu có quan tâm thì cũng phải được nhìn nhận theo
hệ quy chiếu của các giá trị cộng đồng, thống nhất với phần căn bản (con người dân
tộc, con người giai cấp). Văn xuôi hôm nay đã tiếp cận con người ở nhiều tư cách,
vị thế và trên nhiều bình diện. Nó đặc biệt quan tâm đến con người như một cá thể,
một thực thể sống, trong đó chứa đựng cả phần nhân loại phổ quát. Từ nhận thức và
quan niệm mới về con người, tất sẽ dẫn tới những đổi thay trong thế giới nhân vật
của văn xuôi.
Trong văn xuôi trước 1975, các nhân vật được nhận diện trước hết theo lập
trường dân tộc và cách mạng, bởi thế dễ dàng xếp họ vào loại chính diện hay phản
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi


17
diện, tích cực hay tiêu cực. Các nhân vật lại được khuôn vào trong những khung
hình của tầng lớp xã hội, giai cấp. Hệ thống nhân vật vì thế thường được phân chia
theo tầng lớp, nghề nghiệp, vị trí xã hội hoặc lứa tuổi, chẳng hạn như nông dân,
công nhân, trí thức, người lính, bà mẹ, người phụ nữ, v.v. Trong văn xuôi thời kỳ
đổi mới, khi đã vượt qua giới hạn chật hẹp và cứng nhắc của cái nhìn con người và
thể hiện nhân vật như trên, người cầm bút đã mở ra sự phong phú, đa dạng dường
như vô tận cho thế giới nhân vật. Rất khó có thể đưa ra một bảng phân loại hay liệt
kê nào có khả năng bao quát được thế giới nhân vật của văn xuôi hiện nay. Nhưng
cũng có thể dễ dàng nhận ra khá nhiều kiểu loại nhân vật mới, vốn chưa có hoặc rất
ít trong văn xuôi trước 1975: nhân vật cô đơn, con người bi kịch, con người lạc thời,
nhân vật tư tưởng, nhân vật kì ảo, v v. Sự phong phú của các cá nhân, như xưa nay
vốn vậy, đòi hỏi phải xem xét nó từ nhiều phía, nhiều “tọa độ”. Xuất hiện con người
“không trùng khít với chính mình”, con người phức tạp, nhiều chiều. Sống với thời
gian hai chiều của Vũ Tú Nam là sự tự phán xét của lương tâm trước hai chiều thời
gian quá khứ và hiện tại. Bức tranh của Nguyễn Minh Châu là con người đối diện
với chính mình, là “tòa án lương tâm” sáng suốt nhất phân xử tư cách con người
trong mối quan hệ với “số đông người” và với “cá nhân” anh thợ cắt tóc. Ở tư cách
thứ nhất, người họa sĩ có lý: “ tôi là nghệ sĩ chứ đâu phải là anh thợ vẽ truyền
thần Công việc của người nghệ sĩ phục vụ cả số đông chứ đâu phải chỉ phục vụ
một người”. Ở tư cách thứ hai, anh ta là kẻ ích kỉ, dối trá: “Vì mục đích phục vụ số
đông của người nghệ sĩ cho nên anh có quyền quên tôi đi hả? Có quyền lừa dối
hả?”. Lời nguyền thuở ấy của Trần Tài dõi theo diễn biến cuộc trả thù kiểu giang hồ
của những tay “anh chị” đã đi đến kết luận: “Con người phức tạp thật, nhiều khi
mình cũng không hiểu hết mình”. Nguyễn Khải triết lý: “Cái thế giới tinh thần của
con người là vô cùng phức tạp vì sự vận động của nó luôn luôn nhắm tới cái thật
cao và thật xa”. Ông ngạc nhiên thấy có người “no ăn mà buồn. Không phải lo nghĩ
mà lại buồn” (Anh hùng bĩ vận), có người “hiền lành là thế, hồn nhiên là thế mà có
ngày sẽ trở thành kẻ sát nhân?” (Đổi đời), v.v. Nhiều nhân vật của ông đã sống đến

quá nửa đời người mà vẫn không học được cách hiểu con người, dù người đó là
những thân yêu nhất, như Chính (Một cõi nhân gian bé tí) dù là một vị thẩm phán
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

18
“có cỡ” nhưng “không hiểu được cái thế giới kì quặc của người già và cũng chẳng
hiểu bao nhiêu cái thế giới luôn luôn biến động của đám trẻ”. Không phải Chính
thiếu hiểu biết mà vì con người quá phức tạp, rắc rối. Chính đã thấy Định luôn sống
trong trạng thái phân thân “ban ngày sống theo cách mình đã chọn nhưng ban đêm
lại phải sống với cách thượng đế đã chọn”, đã biết ông Vũ than thở: “ chả ai hiểu
tôi và tôi cũng không thật hiểu ai”. Theo đuổi những con người “có số phận không
bình thường”, Nguyễn Khải đi đến triết lí: “Vẫn là con người Việt Nam mình mà
gặp thêm một người lại tuồng như buộc mình phải hiểu lại chút ít về con người”
(Hai ông già ở Đồng Tháp Mười). Còn Nguyễn Minh Châu từ tập truyện ngắn
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành trở đi dường như liên tục làm những thử
nghiệm, “đối chứng” về “tính chất kì lạ của con người”. Hạnh, Cơn giông, Sắm vai,
Chiếc thuyền ngoài xa, Dấu vết nghề nghiệp, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam,v v,
đều ít nhiều diễn tả cái phức tạp của đời sống, những giằng xé nội tâm khiến con
người nhiều lúc bị phân thân, biến dạng.
Khi tư duy tiểu thuyết mạnh lên, thay thế tư duy sử thi thì ngôn ngữ văn xuôi
cũng biến đổi theo hướng đó. Khi văn xuôi tiếp cận đời sống ở cự li gần chứ không
phải qua một “khoảng cách sử thi tuyệt đối” (M.Bakhơtin), tiếp cận với thái độ thân
mật suồng sã chứ không phải thái độ tôn kính, thì lệ lời cũng phải thay đổi, từ thứ
ngôn ngữ trang trọng, chuẩn mực, chuyển sang thứ ngôn ngữ đời thường, đậm tính
khẩu ngữ, thông tục. Chưa bao giờ ngôn ngữ văn chương gần với ngôn ngữ sinh
hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ trong văn chương (kể cả thơ, kịch, phim) những
câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần trụi, bụi bặm, dân dã xuất hiện nhiều đến thế.
Không chỉ Nguyễn Huy Thiệp mà cả Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh, Lại Văn
Long, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Chu Lai, v.v. Các nhà văn nữ cũng mạnh dạn thể

nghiệm những thành phần ngôn ngữ mới theo định hướng rút ngắn triệt để khoảng
cách giữa nghệ thuật và dòng chảy xô bồ, ào ạt của đời sống.
Trên đây là những khái quát cơ bản của chúng tôi về tình hình đổi mới trong
văn học Việt Nam từ sau 1975 đặc biệt là từ sau Đổi mới (1986) dựa trên những gợi
ý từ các nghiên cứu của TS.Phạm Xuân Thạch và có sự tham khảo nhiều bài viết
của các nhà khoa học như GS.Hà Minh Đức, GS.Phong Lê, PGS.Bích Thu,
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

19
PGS.Mai Hương, PGS.Vũ Tuấn Anh, PGS.Lê Dục Tú, PGS.Nguyễn Thị Bình,
GS.LÊ Ngọc Trà, PGS.Nguyễn Văn Long, nhà văn Nguyên Ngọc,V.v. Những thay
đổi trong quan niệm về nghệ thuật và sáng tác của các tác giả đương đại đã thu hút
sự quan tâm trực tiếp từ giới nghiên cứu phê bình, và như một lẽ tự nhiên nhất,
nghiên cứu phê bình văn học giai đoạn này đã có nhiều thành tựu góp phần tích cực
vào xu hướng đổi mới nền văn học Việt Nam nói chung.
1.1.3. Những khuynh hướng mới của văn xuôi
1.1.3.1.Khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử kiểu mới
Sự thành công của một loạt các sáng tác tiểu thuyết lịch sử trong đời sống
văn học đương đại đã trở thành đề tài tranh luận của nhiều nhà nghiên cứu phê bình
về các vấn đề như ranh giới của một cuốn sách về lịch sử và một tác phẩm tiểu
thuyết, vai trò của hư cấu, có hay không tính chân thực ở một cuốn tiểu thuyết lịch
sử, v.v. Xung quanh các vấn đề này, giới phê bình cũng như phần đông dư luận đều
cho thấy chính những thay đổi về quan niệm sáng tác khiến các nhà văn đã có cách
cảm và cách thể hiện khác trước về đề tài lịch sử. Các tiểu thuyết gia đương đại đã
đứng ở góc nhìn cá nhân đưa ra các nhân vật lịch sử lên trang sách để từ đó họ tự
bộc lộ tính cách, thể hiện cách nhìn về các vấn đề lịch sử một cách khách quan hơn
thậm chí trái ngược với những suy nghĩ từ trước đến nay về sự kiện và nhân vật lịch
sử.
Quan sát các sáng tác thuộc khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử kiểu mới có

thể nhận thấy “một hiện tượng có tính chất phổ quát: quá trình cá nhân hóa hư cấu”
[83]. Ở đây, nhà văn không chịu sự chi phối và lệ thuộc từ các quan niệm của cộng
đồng mà hoàn toàn đưa ý kiến chủ quan của mình vào trung tâm các sáng tác tự sự.
Trên tinh thần của kịch bản Hội thề đoạt giải A trong Cuộc thi sáng tác kịch bản
phim truyện lịch sử Thăng Long, nhà văn Nguyễn Quang Thân đã viết tiểu thuyết
Hội thề suốt gần bốn năm trời (từ 9 – 2004 đến 3 – 2008). Hội thề đã cho thấy một
cách nhìn, cách quan niệm lịch sử của nhà văn. Nguyễn Trãi được Nguyễn Quang
Thân khắc họa như một điển hình của sỹ phu Bắc Hà, nho nhã trong từng lời ăn
tiếng nói. Trái lại, các tướng lĩnh Lam Sơn, qua sự tái hiện của nhà văn, là những
người mang đậm tính cách võ biền, ít học, thô lỗ. Cuốn tiểu thuyết vẻn vẹn 300
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

20
trang thêm một lần nữa đem đến cho người đọc một cách hình dung về nhân vật lịch
sử đặc biệt là hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Với một sáng tác đầu
tay, tác giả Kiều Thanh Tùng đã chọn thể loại tiểu thuyết lịch sử làm “mảnh đất” để
thể hiện những suy nghĩ riêng của mình trong cách biểu hiện đề tài. Ở Sắc đẹp
khuynh thành, nhà văn chú trọng vào việc miêu tả một loạt các nhân vật lịch sử
trong thời điểm chuyển giao giữa hai triều đại Lý – Trần, đặc biệt là hình ảnh Trần
Thị Thu Ngừ (Trần Thị Dung). Nhân vật lịch sử hiện lên gần gũi với những chi tiết
đời thường hàng ngày, có tính đời tư như việc ăn uống, tắm giặt, v.v., với cách nói
năng mang khẩu ngữ dân giã của người bình thường. Trong xu hướng cách tân, đổi
mới tiểu thuyết lịch sử đương đại, đến với lịch sử bằng cái nhìn mang nặng dấu ấn
của sự hư cấu cá nhân như Sắc đẹp khuynh thành cũng là một hướng tiếp cận lịch
sử hết sức mới mẻ, ít nhiều tạo nên sự thích thú trong tâm lý tiếp nhận của bạn đọc
yêu văn học.
Sự thay đổi trong phương thức tiếp cận đề tài lịch sử của các nhà văn đương
đại đã dẫn tới một loạt những biến đổi trong cấu trúc tiểu thuyết. Ở các tác phẩm
tiểu thuyết lịch sử sáng tác theo khuynh hướng này, cốt truyện tiểu thuyết truyền

thống đã bị phá vỡ bằng các kỹ thuật xáo trộn thời gian tự sự khi nhà văn phối kết
hợp những kỹ thuật này với tuyến nội dung chính trong tác phẩm. Khai thác đề tài
lịch sử nhưng nhà văn không thực hiện thao tác ghi chép lại lịch sử một cách im lìm
bất động. Thông qua sự kiện và nhân vật lịch sử, nhà văn thiếp lập một cái nhìn
hoàn toàn mang tính dấu ấn cá nhân về lịch sử, những bài học lịch sử có liên quan
trực tiếp đến đời sống hôm nay. Và như vậy, lịch sử đã trở thành một phương tiện,
một chất liệu để nhà văn thể hiện những suy tư mang tầm khái quát về cuộc đời và
con người. Cùng với sáng tác của những nhà văn như Nguyễn Xuân Khánh với Hồ
Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn, Hoàng Quốc Hải với bộ sách 4 tập mang tên: Bão
táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân Công chúa và Vương triều sụp đổ,
Ngyễn Mộng Giác với Sông Côn mùa lũ hay Hà Ân với Khúc khải hoàn dang
dở,v.v. thì Giàn thiêu là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất sáng tác theo
khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử kiểu mới. Trong Giàn thiêu, người đọc không bắt
gặp hình mẫu lý tưởng một con người duy nhất trong hình ảnh của những nhân vật
Văn xuôi tự sự của Bảo Ninh trong bối cảnh văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Luận văn thạc sĩ Bùi Thị Hợi

21
lịch sử như Nguyên Phi Ỷ Lan, nhà sư Từ Đạo Hạnh. Đằng sau ánh hào quang của
hình tượng mang tính “ngưỡng vọng” trong tiềm thức nhân dân, những cá nhân lịch
sử hiện lên đa chiều với những mâu thuẫn giằng xé giữa quyền lực và những tham
vọng trần tục nhất. Có thể tìm thấy trong tác phẩm hàng loạt những băn khoăn của
tác giả về thân phận con người, về cái tốt, lẽ thiện và cái ác ở cuộc đời. Qua Giàn
thiêu, nhà văn Võ Thị Hảo còn đồng thời gửi gắm thông điệp về khát vọng tự do và
tình yêu cũng như trách nhiệm của người cầm bút trước thời cuộc.
Đề tài lịch sử đã tạo nên thành công trong nhiều sáng tác của các nhà văn
đương đại. Những sáng tác tiểu thuyết lịch sử trong thời kỳ Đổi mới đã có một sự
thay đổi rõ rệt trong quan niệm sáng tác khi các nhà văn tạo cho mình một sự độc
lập trên trang viết. Nhà văn không làm công việc ghi chép lại lịch sử mà làm một
cuộc khảo sát trong chính thế giới nội tâm của nhân vật để nhận diện dấu ấn lịch sử

hoặc phản chiếu các sự kiện lịch sử qua số phận các nhân vật. Trong dòng chảy của
các sáng tác đương đại, tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác không
chú trọng tái dựng lại một thời kỳ đã qua mà nhằm luận giải một cách nhìn nhận
mới về hình tượng lịch sử. Xây dựng nhân vật người anh hùng áo vải Quang Trung
cùng những chiến công lừng lẫy cũng như khắc họa tâm tư nhân vật trong các mối
quan hệ vợ - chồng, anh – em, thầy – trò,v v, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nhận
diện lại bối cảnh lịch sử, những bước ngoặt của dân tộc vào cuối thế kỷ XVIII. Dấu
ấn của thời đại lịch sử có thể được tìm thấy trên số phận cá nhân lịch sử và thậm chí
ở những con người bình thường nhất. Đây là một điểm đặc sắc mà người đọc có thể
bắt gặp qua các sáng tác tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu thời kỳ này. Những thân phận
nhỏ bé như cô cung nữ Ngạn La trong tác phẩm Giàn thiêu hay một loạt các nhân
vật ở tầng lớp bình dân trong hai tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu thượng ngàn của
nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã mang trên mình những “vết thương”, những “vết
khắc” từ chính những tranh chấp quyền lực chốn cấm cung cũng như các biến động
dữ dội của hoàn cảnh lịch sử.
Giống như nhiều khuynh hướng tiểu thuyết khác ở Việt Nam, từ khi ra đời
đến nay, tiểu thuyết lịch sử đã đi qua một chặng đường dài và có nhiều đóng góp
tích cực vào quá trình phát triển thể loại cũng như yêu cầu đổi mới tiểu thuyết ở thời

×