Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

503 Giải pháp phát triển du lịch sinh thái tỉnh Lâm Đồng đến năm 2015 

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 77 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch nói chung và DLST nói riêng ngày nay đã và đang phát triển
nhanh chóng trong phạm vi nhiều quốc gia trên thế giới, ngày càng thu hút được sự
quan tâm rộng rãi của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đặc biệt trong hai thập kỷ
qua khi mà các nhà máy, các xí nghiệp ngày càng phát triển, dân số không ngừng
gia tăng, đô thị hóa và tập trung dân cư, khu công nghiệp với nhiều nhà máy, khói
bụi giao thông …đang là vấn nạn thì việc tìm về với tự nhiên là nhu cầu tất yếu.
DLST đang có chiều hướng phát triển và trở thành một bộ phận có tốc độ
tăng trưởng mạnh nhất về tỷ trọng trong ngành du lịch. Nơi nào còn giữ nhiều khu
thiên nhiên, có được sự cân bằng sinh thái thì nơi đó sẽ có tiềm năng phát triển tốt
về DLST và thu hút được nguồn du khách lớn, lâu dài và ổn định, từ đó, sẽ mang lại
những lợi ích kinh tế to lớn góp phần làm tăng thu nhập quốc dân, tạo nhiều cơ hội
về việc làm, cải thiện đời sống, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng
đồng dân cư ở các địa phương, nhất là ở những nơi có các khu bảo tồn thiên nhiên,
các cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hóa hấp dẫn.
Nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới, lãnh thổ Việt Nam trải dài trên 15
0

tuyến với ¾ địa hình là đồi núi và cao nguyên, có hơn 3000km bờ biển và hàng
ngàn đảo lớn nhỏ. Việt Nam được đánh giá là nơi có nhiều cảnh quan đặc sắc và
các hệ sinh thái điển hình với nền văn hóa đa dạng của 54 dân tộc anh em. Tính đa
dạng sinh học được đánh giá là cao so với nhiều quốc gia trên thế giới. Theo số liệu
điều tra mới nhất có trên 2000 loài thực vật, trên 550 loài động vật đã được đăng
ký, trong đó có nhiều loại đặc hữu quý hiếm ghi trong sách đỏ của thế giới. Đây
chính là những tiềm năng tài nguyên to lớn và đặc sắc tạo nên sự thuận lợi phát
triển DLST ở Việt Nam nói chung và Lâm Đồng nói riêng.
Tỉnh Lâm Đồng là một địa phương được nhiều người biết đến thông qua
điều kiện khí hậu , cảnh quan môi trường cho phát triển du lịch và du lịch nghỉ
dưỡng. Bên cạnh đó, Lâm Đồng còn có tiềm năng DLST rất lớn nhờ địa hình trải
dài trên 3 cao nguyên Lâm Viên – Di Linh và Bảo Lộc. Trên cao nguyên này, nhiều
đồi núi được hình thành từ rất sớm, đặc biệt khu vực thành phố Đà Lạt có địa hình






cao trên 1000m và có nhiều đỉnh núi cao gần 2000m so với mặt nước biển, khí hậu
mát mẻ, ôn hòa quanh năm và có rất nhiều cảnh đẹp. Các đặc trưng nêu trên là
tiềm năng và thế mạnh của tỉnh Lâm Đồng để phát triển du lịch nói chung và DLST
nói riêng với nhiều loại hình: sinh thái vùng núi cao, sinh thái vùng chuyển tiếp
miền núi và trung du, sinh thái khu rừng bảo tồn thiên nhiên Bidoup Núi Bà và
vườn quốc gia Cát Tiên.
Tuy nhiên, việc đầu tư khai thác các loại hình DLST ở tỉnh Lâm Đồng vẫn
còn nhiều hạn chế. Các điểm du lịch như: núi Voi, Langbian, thác Pongour, thác
Đạmbri, khu du lịch rừng Madagui, khu du lịch Tuyền lâm… cũng mới chỉ dừng lại
ở việc khai thác phục vụ du lịch tự nhiên, du lịch cảnh quan…các điểm du lịch này
đã và đang bắt đầu bộc lộ một số tác động ảnh hưởng xấu đến môi trường cảnh
quan, văn hóa. Nguyên nhân là do: quy mô đầu tư còn nhỏ, thiếu quy hoạch, chưa
đồng bộ, đội ngũ những người làm công tác quản lý chưa có kinh nghiệm và chưa
có đủ những cơ sở lý luận vững chắc về du lịch sinh thái, chưa tiến hành điều tra
khảo sát đánh giá kỹ lưỡng và toàn diện về tài nguyên du lịch tự nhiên cũng như
các điều kiện khác để phát triển du lịch sinh thái.
Vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp để “phát triển DLSTLâm
Đồng đến 2015” và những năm tiếp theo là rất cần thiết .
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: bao gồm những nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực
phát triển DLST của Lâm Đồng như: tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn,
công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nói chung và lĩnh vực du lịch nói riêng,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ nhân viên,
hướng dẫn viên du lịch của Lâm Đồng.
- Phạm vi nghiên cứu: xuất phát từ tính chất và đặc điểm của sản phẩm
DLST tại Lâm Đồng một lĩnh vực hoạt động còn non trẻ và mới mẻ nên đề tài này

chỉ ngừng lại ở giới hạn nghiên cứu nhất định, đó là, nghiên cứu, khảo sát những
tài nguyên thiên nhiên, những yếu tố môi trường tự nhiên, môi trường xã hội có tác
động đến môi trường sinh thái tại Đà Lạt - LâmĐồng hiện nay.




* Phương pháp nghiên cứu:
- Trong quá trình thực hiện luận văn đã sử dụng các phương pháp điều tra
thực địa tại các khu vực có khả năng phát triển DLST, thu thập dữ liệu thứ cấp,
điều tra qua bảng câu hỏi để thăm dò ý kiến của các nhà quản lý hữu quan, khách
du lịch, sinh viên... Từ đó, tiến hành phân tích số liệu qua điều tra, khảo sát để thấy
được những mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội, thách thức của DLST tỉnh Lâm Đồng hiện
nay nhằm đưa ra các giải pháp cụ thể mang tính khả thi trong thời gian tới.
Phát triển DLST đúng nghĩa không chỉ góp phần vào việc phát triển du
lịch bền vững mà còn đóng góp tích cực vào tiến trình phát triển kinh tế – xã hội
của tỉnh Lâm Đồng.
Hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giúp cho các nhà quản
lý du lịch tỉnh Lâm Đồng định ra được chiến lược và các giải pháp để phát triển
DLST một cách có định hướng, đồng thời khai thác có hiệu quả thế mạnh vốn có
của tỉnh là nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn phong phú để phát triển du lịch
bền vững.
Tuy nhiên,điểm hạn chế của luận văn là:thời gian nghiên cứu chưa nhiều,
phạm vi nghiên cứu chưa rộng, báo cáo đề tài không tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô, của các bạn đồng
môn, của các cơ quan ban ngành và của những ai quan tâm đến sự phát triển của
DLST tại Lâm Đồng ./.


-1 -

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH SINH THÁI

1.1 Đại cương về du lịch sinh thái:
1.1.1 Khái niệm về du lịch sinh thái:
Ngày nay, xu hướng chung của toàn thế giới coi du lịch nói chung và DLST
nói riêng như là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, DLST đã và đang trên đà
chuyển mình và đã trở nên phổ biến đối với những người yêu thiên nhiên, xuất phát
từ các trăn trở về môi trường, kinh tế và xã hội, một trong những cách thức để trả nợ
cho môi trường tự nhiên và làm tăng giá trị của các khu bảo tồn thiên nhiên còn lại.
DLST là một khái niệm tương đối mới và đã nhanh chóng thu hút được sự
quan tâm của nhiều người hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đối với một số
người, DLST chỉ đơn giản là sự ghép nối ý nghĩa của 2 khái niệm “du lịch” và “sinh
thái” vốn đã quen thuộc từ lâu. Tuy nhiên, đứng ở góc nhìn rộng hơn, tổng quát hơn
thì một số người quan niệm rằng: DLST là một loại hình du lịch thiên nhiên. Với
cách tiếp cận này, mọi hoạt động của du lịch có liên quan đến thiên nhiên: tắm biển,
leo núi… đều được hiểu là DLST
DLST có thể được biết dưới nhiều tên gọi khác nhau:
- Du lịch thiên nhiên (Natural tourism)
- Du lịch dựa vào thiên nhiên (Natural – bassed tourism)
- Du lịch môi trường (Environimental tourism)
- Du lịch thám hiểm (Adventur tourism)
- Du lịch xanh (Green tourism)
- Du lịch bản xứ (Indigenous tourism)
- Du lịch nhà tranh (Cottage tourism)
- Du lịch bền vững (Sustainble tourism) …
DLST bắt nguồn từ du lịch thiên nhiên và du lịch ngoài trời. Có người quan
niệm DLST là loại hình du lịch có lợi cho sinh thái, ít có những tác động tiêu cực
đến sự tồn tại và phát triển của hệ sinh thái, nơi diễn ra các hoạt động du lịch. Cũng



-2 -
có ý kiến cho rằng: DLST đồng nghĩa với du lịch đạo lý, du lịch có trách nhiệm, du
lịch xanh, du lịch có lợi cho môi trường hay có tính bền vững.

1.1.2 Định nghĩa về DLST của một số tổ chức và các nước trên thế giới:
* Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN: International Union for
Conservation of Nature): DLST là tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi
trường tại các điểm tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc
điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hoặc đang hiện hành, qua đó khuyến khích
hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra và tạo
ra ích lợi cho những người địa phương tham gia tích cực (ceballos-lascurain,1996)
* Hiệp hội DLST thế giới: DLST là du lịch có trách nhiệm đối với các khu
thiên nhiên, nơi môi trường được bảo tồn và lợi ích của nhân dân địa phương được
đảm bảo.
* Hiệp hội du lịch Hoa kỳ: “DLST là du lịch có mục đích với các khu tự
nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm
biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời có cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ
môi trường”
* Hiệp hội du lịch Australia: “DLST là du lịch dựa vào thiên nhiên định
hướng về môi trường tự nhiên và nhân văn, được quản lý một cách bền vững và có
lợi cho sinh thái”
1.1.3 Định nghĩa về DLST của ngành du lịch Việt Nam:
Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của các nhà khoa học quốc
tế, Hội thảo quốc gia về “Xây dựng chiến lược phát triển DLST ở Việt Nam” từ ngày
7 đến ngày 9/9/1999 tại Hà Nội đã đưa ra định nghĩa về DLST ở Việt Nam như sau:
“DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa,
gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền
vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”
Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng: Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, một

mặt góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân,
mặt khác, nó cũng gây ra những “vấn đề”cho môi trường sinh thái – tài nguyên sinh
vật và đa dạng sinh học đã và đang bị đe dọa đến mức báo động, các dạng tài ngyên
môi trường đất, nước, không khí cũng đang trên đà suy thoái và ô nhiễm.


-3 -
Cho đến nay, khái niệm DLST vẫn còn được hiểu dưới nhiều góc độ khác
nhau, với nhiều tên gọi khác nhau. Mặc dù, những tranh luận vẫn còn đang diễn tiến
nhằm tìm ra một định nghĩa chung nhất về DLST, nhưng đa số ý kiến của các
chuyên gia về DLST đều cho rằng: DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên,
hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn và được nuôi dưỡng, quản lý theo hướng bền vững
về mặt sinh thái. DLST dù theo định nghĩa nào chăng nữa thì vẫn phải hội đủ các
yếu tố: Sự quan tâm đến thiên nhiên và môi trường; trách nhiệm với xã hội và cộng
đồng của những người tham gia .
Chính vì vậy, Cứu thiên nhiên bằng cách du lịch hóa vào trong điều kiện
thiên nhiên đó không còn là cách thức mới mẻ đối với các doanh nghiệp lữ hành.
Tuy nhiên, DLST chú trọng vào tài nguyên và nhân công địa phương, đây là một sự
thu hút hấp dẫn đối với các nước đang phát triển. DLST tạo nên những khao khát và
sự thỏa mãn về thiên nhiên, kích thích lòng yêu mến thiên nhiên và từ đó mới thôi
thúc được ý thức bảo tồn và phát triển nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên tự
nhiên, văn hóa và thẩm mỹ.
1.1.4 Những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái:
DLST không chỉ đơn giản là vấn đề thay tên tour tuyến hay tổ chức các tour
đến các khu tự nhiên. Việc tổ chức các tour DLST thực sự không dễ dàng. Muốn có
tour DLST bền vững cần có sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi
trường trong khuôn khổ các nguyên tắc và giá trị đạo đức. Theo Annalisa Koeman
(cố vấn dự án du lịch bền vững) cho rằng để có tour DLST bền vững cần phải thực
hiện 11 nguyên tắc cơ bản sau:
* Nguyên tắc tích cực về môi trường: Tăng cường và khuyến khích trách

nhiệm đạo đức của mọi người đối với môi trường, cụ thể là giáo dục nâng cao hiểu
biết cho du khách về môi trường tự nhiên, tạo ý thức tham gia của du khách vào các
nổ lực bảo tồn.
* Không làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, không những đối với từng
yếu tố mà cả sự cân bằng sinh thái của các yếu tố đó.
* Tập trung chú trọng đến sự cân bằng sinh thái của tổng thể các yếu tố của
môi trường hơn đối với từng yếu tố của tài nguyên.


-4 -
* Du khách chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn
chế của nó hơn là làm nó biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân.
* Đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với
ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, xã hội, văn hóa hay khoa học).
* Khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên nhằm hòa đồng làm tăng sự hiểu biết
hơn là đi tìm cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng.
* Đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng thông qua kinh nghiệm của cả người hướng
dẫn và các thành viên tham gia.
* Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban ngành chức năng: địa phương,
chính quyền, tổ chức đoàn thể, hãng lữ hành và khách du lịch (trước, trong và sau
chuyến đi).
* Dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối
hợp với các ban ngành chức năng.
* Đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các
tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ hoạt động.
*
Thiết lập một khuôn khổ quốc tế đa ngành vì DLST là một hoạt
đ
ộng
mang tính quốc tế.

1.2 Các đặc trưng của du lịch sinh thái:
1.2.1 Các đặc trưng cơ bản:
DLSTbao gồm tất cả các đặc trưng cơ bản của mọi hoạt động du lịch nói
chung là:
- Tính đa ngành: thể hiện ở đối tượng được khai thác để phục vụ du lịch
như: sự hấp dẫn về cảnh quan tự nhiên, giá trị văn hóa lịch sử…Thu nhập xã hội từ
DLST cũng mang lại nhiều nguồn thu cho các ngành kinh tế thông qua các sản phẩm
cung cấp cho khách du lịch như: điện, nước, các sản phẩm từ nông nghiệp, bưu chính
viễn thông, thủ công mỹ nghệ,…
- Tính đa thành phần: biểu hiện ở tính đa dạng trong thành phần khách du
lịch, ở những người phục vụ, ở những cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào
hoạt động du lịch.
- Tính liên vùng: biểu hiện thông qua các tour, tuyến du lịch đến các khu,
điểm du lịch trong một khu vực hay một quốc gia hoặc giữa các quốc gia với nhau.


-5 -
- Tính mùa vụ: biểu hiện ở thời gian diễn ra hoạt động du lịch tập trung cao
trong năm. Tính thời vụ còn thể hiện ở các loại hình du lịch: Du lịch lễ hội, du lịch
nghỉ dưỡng.
- Tính xã hội hóa: thể hiện ở sự thu hút nhiều người, nhiều ngành, nhiều cấp
trong xã hội tham gia trực tiếp và gián tiếp vào hoạt động du lịch.
- Tính đa mục tiêu: biểu hiện những lợi ích đa dạng về bảo tồn thiên nhiên,
cảnh quan, di tích lịch sử – văn hoá, nâng cao chất lượng cuộc sống của người tham
gia hoạt động du lịch, của cộng đồng cư dân địa phương, của khách du lịch; qua đó
mở rộng được sự giao lưu văn hóa, kinh tế và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mọi
thành viên trong xã hội.
DLST còn chứa đựng các đặc trưng riêng bao gồm:
- DLST hướng con người tiếp cận gần hơn với các vùng tự nhiên, các khu
bảo tồn nơi rất nhạy cảm về mặt môi trường. Hoạt động du lịch gây nên những áp

lực lớn đối với môi trường, mà DLST được coi là nhằm mở đường cho sự cân bằng
giữa mục tiêu phát triển du lịch với mục tiêu bảo vệ môi truờng.
- Hoạt động DLST có tác dụng giáo dục con người bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường, qua đó đáp ứng được nhu cầu phát triển bền vững.
- Cộng đồng các cư dân địa phương là những người chủ sở hữu các nguồn
tài nguyên tại địa phương mình. Phát triển DLST cần phải có sự tham gia của cộng
đồng người dân địa phương.

Trong khi có những công ty kinh doanh DLST hoạt động theo nguyên tắc:
cộng tác với các nhà quản lý, các khu bảo tồn thiên nhiên và nhân dân địa phương
với mục đích đóng góp cho sự bảo vệ lâu dài các vùng đất hoang dã và sự phát triển
kinh tế – xã hội ở địa phương.
Qua đó chúng ta có thể thấy rằng DLST được sử dụng với tư cách là một
quan điểm có tính phổ biến của một mô hình phát triển. Trong khi du lịch thiên nhiên
thuần túy chỉ giới hạn trong khuôn khổ khai thác các điều kiện tự nhiên để tạo ra các
sản phẩm, các hoạt động du lịch phục vụ du khách thì DLST là một khái niệm rộng
lớn hơn, tổng hợp hơn nhằm đạt được các mục tiêu ở tầm vĩ mô trong công tác quản
lý Nhà nước và quản lý khai thác kinh doanh du lịch.



-6 -
1.2.2. Tiêu chuẩn thang đo hệ thống du lịch sinh thái:
Hình thành hệ thống tiêu chuẩn DLST là một nhu cầu cần thiết cho hoạt
động DLST. Bởi vì những lý do sau:
- Khách có thể chọn được hãng lữ hành và điều hành tour DLST thích hợp.
- Những ngành quản lý có thể kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ những tiêu chuẩn
của các điểm, khu DLST, hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh doanh DLST.
- Du khách và cộng đồng dân cư điều chỉnh hành vi ứng xử phù hợp với
điểm DLST.

- Những nhà điều hành tour tiếp thị, quảng cáo loại sao hoặc biểu tượng
“xanh” của họ.
Hệ thống tiêu chuẩn có thể được thể hiện dưới biểu tượng “xanh” theo mức
phân loại sao tối thiểu. Thang đo hệ thống DLSTcủa Shore gồm các mức sau:
Mức 0: Mức này đòi hỏi các nhà lữ hành nhìn nhận hoặc có nhìn nhận về sự phá hủy
của hệ thống sinh thái. Đây là bước “ngưỡng cửa nhận thức” ở mức thấp
nhất. Loại hình du lịch tự nhiên thông thường đạt tiêu chuẩn ở mức này.
Mức 1: Mức này đòi hỏi sự hỗ trợ tiền tệ tích cực giữa khách DLST và hệ thống sinh
thái mà họ quan tâm.
Mức 2: Mức này đòi hỏi khách DLST tự tham gia hỗ trợ môi trường. Có biểu hiện
cụ thể: một vài du khách đã tham gia trồng cây, tham gia dọn rác …
Mức 3: Mức này đòi hỏi hệ thống (bao gồm hàng không quốc tế, cơ sở lưu trú và
giao thông tại chỗ) của tour du lịch đặc trưng thuận lợi cho môi trường và
nhận thức của khách du lịch có thể trung lập hoặc tích cực.
Mức 4: Mức này đòi hỏi hiệu quả thực của khách du lịch phải là tích cực và môi
trường nơi du lịch sử dụng công nghệ thích hợp, tiêu thụ năng lượng thấp,
có biện pháp thu hoạch bền vững, sử dụng nông nghiệp hữu cơ, tham gia cá
nhân trong việc khôi phục hệ sinh thái để điều tiết các mặt xấu ảnh hưởng
tới môi trường của hệ thống du lịch.
Mức 5: Mức này trong DLST sẽ là một chuyến đi đến những nơi có hệ thống bảo vệ
môi trường “hoàn hảo”. Biểu hiện của tour DLST ở mức này là: không quảng cáo
trên báo chí không tái sinh được, giao thông đã được xử lý không tác hại đối với môi
trường, các cơ sở lưu trú tại chỗ, các hoạt động của khách tham quan, nhân viên phải


-7 -
không ảnh hưởng đến môi trường, lò sưởi, điều hòa sử dụng bằng năng lượng mặt
trời và ít ảnh hưởng đến môi trường, đồ ăn uống và đồ lưu niệm sẽ được sản xuất
theo cách bền vững. Các sản phẩm đã được sử dụng sẽ được tái sinh.
1.3 Những vấn đề về phát triển DLSTbền vững:

1.3.1 Khái niệm về phát triển bền vững, du lịch bền vững và DLST bền vững:
Theo Hội đồng thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED): “Phát triển
bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của xã hội hiện tại mà không làm tổn
hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Sự phát triển bền vững
về kinh tế – xã hội cần đạt được 3 mục tiêu cơ bản:
- Bền vững về kinh tế;
- Bền vững về tài nguyên và môi trường;
- Bền vững về văn hóa xã hội.
Từ khái niệm phát triển bền vững trên, ta có thể thấy rằng phát triển du lịch
bền vững cũng là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu du lịch hiện tại mà không
làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của các thế hệ tương lai.
Sự phát triển du lịch bền vững cũng cần đạt 3 mục tiêu cơ bản :
-
Bền vững về kinh tế: là sự phát triển ổn định lâu dài của du lịch, tạo ra
nguồn thu đáng kể, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế của xã hội, đem lại lợi
ích cho cộng đồng, đặc biệt là người dân địa phương.
- Bền vững về tài nguyên và môi trường: là việc sử dụng các tài nguyên
không vượt quá khả năng phục hồi của nó, sao cho đáp ứng nhu cầu phát triển hiện
tại song không làm suy yếu khả năng tái tạo trong tương lai để đáp ứng được nhu cầu
của thế hệ mai sau.
- Bền vững về văn hóa xã hội là: việc khai thác đáp ứng nhu cầu phát triển
du lịch hiện tại không làm tổn hại, suy thoái các giá trị văn hóa truyền thống để lại
cho các thế hệ tiếp theo.
Như vậy, khi nói tới DLST người ta muốn nhấn mạnh sự phát triển du lịch
phải gắn với việc bảo tồn, gìn giữ và phát triển tài nguyên – môi trường – Thiên
nhiên và nhân văn thông qua sự phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của cộng đồng
dân cư địa phương. Vì vậy, nhiều người cho rằng phát triển DLST thì tương đương
với phát triển du lịch bền vững. Qua phân tích trên ta thấy, phát triển DLST chỉ là



-8 -
điều kiện cần chứ chưa đủ để phát triển du lịch bền vững. Để phát triển DLST bền
vững cũng cần phải đạt 3 mục tiêu cơ bản: Bền vững về kinh tế - Bền vững về tài
nguyên và môi trường - Bền vững về văn hóa xã hội. Để thực hiện phát triển DLST
bền vững cần phải thực hiện các nguyên tắc của DLST bền vững.
1.3.2 Các nguyên tắc cơ bản của DLST bền vững:

CÁC MỤC TIÊU XÃ HỘI

- Lợi ích cộng đồng
- Sự tham gia kế hoạch
hóa, giáo dục về

việc
làm.

CÁC MỤC TIÊU
KINH TẾ

- Lợi ích kinh tế của
người dân.
- Lợi ích của doanh
nghiệp, của các ngành




CÁC MỤC TIÊU MÔI TRƯỜNG

- Không lám cạn kiệt nguồn lực

- Thừa nhận giá trị của nguồn
tài nguyện
DLST
bền vững
Hình 1.1 : Mô hình của
Pamela A.Wigh về các nguyên tắc và giá
trị DLST bền vững

















Theo Pamela A.Wigh đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng phát
triển DLST bền vững như sau:
- Không làm suy giảm các nguồn lực và phải được phát triển theo cách có
lợi cho môi trường.
- Đưa ra những kinh nghiệm mới cho du khách.
- Có tính giáo dục đối với tất cả các thành phần tham gia như: cộng đồng địa

phương, chính quyền, các tổ chức phi chính phủ, ngành du lịch và du khách trong
các giai đoạn trước, trong và sau chuyến du lịch.


-9 -
- Nâng cao nhận thức của các thành phần tham gia về giá trị thực sự các
nguồn lực.
- Làm cho mỗi người nhận thức được khả năng giới hạn của nguồn lực về
mặt lâu dài.
- Nâng cao hiểu biết và phối hợp giữa các thành phần tham gia như: chính
quyền, tổ chức phi chính phủ, ngành du lịch, các nhà khoa học và người bản địa
trước và trong quá trình hoạt động.
- Nâng cao trách nhiệm và hành vi đạo đức đối với môi trường tự nhiên và
văn hóa của tất cả những người tham gia.
- Mang lại lợi ích cho nguồn lực, cộng đồng địa phương và cả ngành du lịch.
- Những hoạt động sinh thái phải đảm bảo những nguyên tắc đạo đức cơ bản
để áp dụng không những cho nguồn lực bên ngoài như: nguồn lực tự nhiên, nguồn
lực văn hóa mà còn được áp dụng cho cả hoạt động nội tại của môi trường sinh thái
và ngành du lịch.
Mô hình các nguyên tắc và giá trị DLST bền vững được Pamela A.Wigh
xây dựng, trong đó 3 nhóm mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường được coi là có
tầm quan trọng như nhau, phải được giải quyết một cách cân đối để đạt được sự phát
triển bền vững.
1.3.3 Những yêu cầu về tổ chức hoạt động DLST bền vững:
* Khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lý:
Bởi vì, tài nguyên và môi trường không phải là “hàng hóa cho không” mà
phải tính vào chi phí đầu vào của sản phẩm du lịch. Do đó cần có nguồn đầu tư cần
thiết cho việc bảo tồn và tái tạo tài nguyên, kiểm soát và ngăn chặn sự xuống cấp của
môi trường. Một trong những biện pháp đó là khai thác nguồn tài nguyên hợp lý và
duy trì trong giới hạn cho phép “sức chứa” đã được xác định.

Khái niệm “sức chứa” được hiểu đưới nhiều khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm
lý học và xã hội.
- Dưới góc độ vật lý: sức chứa có thể được hiểu là số lượng khách tối đa mà
không gian của điểm du lịch có thể tiếp nhận.


- 10 -
Hệ sinh thái
Taøi nguyeân
Môi trường
Cảnh quan
Con người
Sinh thái học
- Về khía cạnh sinh học: sức chứa sinh thái tự nhiên được hiểu là giới hạn về
lượng khách đến một khu vực mà nếu vượt quá sẽ xuất hiện các tác động sinh thái do
hoạt động của du khách và các tiện nghi mà họ sử dụng ảnh hưởng tới môi trường.
- Về khía cạnh tâm lý: sức chứa được hiểu là giới hạn lượng khách mà nếu
vượt quá, du khách sẽ cảm thấy hoạt động của họ bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của du
khách khác. Hay nói cách khác, mức độ thỏa mãn của du khách bị giảm xuống dưới
mức bình thường do tình trạng quá tải.
- Về khía cạnh xã hội: sức chứa là giới hạn mà tại đó bắt đầu xuất hiện
những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch và khách du lịch đến đời sống kinh tế,
văn hóa – xã hội của khu vực.
Khách sạn
Hướng dẫn
Nhà hàng
Tổ chức
Hội nghị
DLST
Du lịch học

Hình 1.2: DLST được tạo thành bởi sự thống nhất và bổ sung của
du lịch học về DLST
* Hạn chế việc sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải:
Việc khai thác sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát được lượng
chất thải, lượng chất thải lớn hơn khả năng hấp thụ chất thải của tự nhiên từ hoạt
động du lịch sẽ góp phần làm suy thoái môi trường. Để hạn chế chất thải cần thực
hiện biện pháp như: đảm bảo sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên, khuyến khích sử
dụng công nghệ mới, có trách nhiệm phục hồi các tổn thất về tài nguyên, phát triển
trên cơ sở quy hoạch nhằm hạn chế chất thải ra môi trường.
* Phát triển gắn liền với việc bảo tồn tính đa dạng:
Tính đa dạng về thiên nhiên, văn hóa là nhân tố đặc biệt quan trọng tạo nên
sức hấp dẫn của du lịch thỏa mãn nhu cầu đa dạng của du khách, tăng sự phong phú
về sản phẩm du lịch. Để bảo tồn tính đa dạng thực hiện các biện pháp sau: không phá
hủy tính đa dạng sinh thái tự nhiên, khuyến khích đa dạng kinh tế – xã hội, không
khuyến khích thay thế ngành nghề truyền thống bằng một nghề chuyên môn hóa
phục vụ du lịch, chia sẻ lợi ích thu được góp phần vào việc bảo tồn tính đa dạng
thiên nhiên, sinh thái, văn hóa.


- 11 -
* Phát triển DLST phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội:
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao, vì vậy
mọi phương tiện phát triển kinh tế – xã hội cần tiến hành đánh giá tác động môi
trường nhằm hạn chế các tác động tiêu cực đến tài nguyên và môi trường DLST.
Tính toán được các lợi ích cũng như những bất lợi của việc quy hoạch tổng thể tác
động tới tài nguyên và môi trường du lịch. Tài nguyên của một đất nước thì hữu hạn,
vì vậy khi quy hoạch cần phải tính toán tối ưu sử dụng tài nguyên cho DLST hoặc
cho ngành kinh tế khác.
* Chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương:

Nếu người dân địa phương khó khăn về kinh tế, kém phát triển thì họ sẽ
phải khai thác tối đa các tiềm năng về tài nguyên, đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài
nguyên và tổn hại đến môi trường. Chính vì vậy đây là nguyên tắc quan trọng trong
phát triển DLST bền vững. Việc chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương thể hiện
qua hoạt động DLST mang lại thu nhập, việc làm cho dân cư địa phương, chi phí
môi trường được trích đầy đủ cho việc bảo tồn và phát triển môi trường.
* Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương:
Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch không chỉ
giúp họ tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống mà còn làm cho họ có trách nhiệm
hơn với tài nguyên, môi trường du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, góp
phần đối với sự phát triển DLST bền vững.
* Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và
các đối tượng có liên quan:
Việc thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương
bao hàm việc trao đổi thông tin, ý kiến, đánh giá và hành động dựa vào kỹ năng, kiến
thức và các nguồn lực của địa phương. Nếu không tính toán thấu đáo, không quan
tâm đến cộng đồng địa phương, nhiều trường hợp nảy sinh mâu thuẫn thậm chí đối
kháng lợi ích của cộng đồng địa phương với tổ chức đầu tư. Kết quả sự phát triển của
dự án không thuận lợi.
* Chú trọng việc đào tạo, nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường:
Sự phát triển bền vững không chỉ yêu cầu ở đội ngũ cán bộ nhân viên,
những người thực hiện phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn, mà còn không ngừng


- 12 -
nâng cao nhận thức đúng đắn về tính cần thiết của việc bảo vệ tài nguyên và môi
trường sinh thái cho cộng đồng dân cư và xã hội.
* Tăng cường tiếp thị một cách có trách nhiệm:
Chiến lược tiếp thị đối với DLST bền vững được xác định dựa vào việc
đánh giá, xác định và luôn rà soát khả năng cung của nguồn tài nguyên tự nhiên và

nhân văn, cũng như sự cân đối các sản phẩm du lịch. Cung cấp đầy đủ thông tin cho
du khách về việc cần tôn trọng những tài nguyên du lịch họ sẽ tới.
* Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu:
Việc thường xuyên cập nhật các thông tin, nghiên cứu và phân tích tình hình
hoạt động DLST, không những đảm bảo hiệu quả của hoạt động kinh doanh mà còn
đảm bảo phát triển bền vững trong mối quan hệ với việc bảo vệ tài nguyên và môi
trường.
1.3.4 Các điều kiện tiên quyết hình thành hệ thống DLST:
* Triển khai thực hiện việc bảo tồn thiên nhiên tại điểm mà du khách tới:
Để thực hiện DLST bền vững, điều kiện tiên quyết là tiến hành các bước
một cách hợp lý để tránh sự tác động hủy hoại đến môi trường hoặc làm suy thoái
môi trường sinh thái của điểm tới thăm. Từ đó, thấy sự tương quan giữa DLST, du
lịch văn hoá, du lịch lịch sử và các loai hình du lịch khác là sự tương tác, hỗ trợ lẫn
nhau không thể tách rời, theo mô hình sau:

Sinh thái môi
trường học
Du lịch văn hóa, lịch sử
Các loại hình du lịch khác
(du lịch, giải trí …)
Hình 1.3: Tương quan giữa DLST, du lịch văn hóa, du lịch lịch sử và
các loại hình du lịch khác.










* Hướng dẫn viên am hiểu về địa phương:


- 13 -
Các chương trình DLST cần các hướng dẫn viên có thể phiên dịch và giảng
giải về môi trường thiên nhiên và văn hóa địa phương của vùng để làm tăng thêm
kiến thức cho khách tham quan.
Những người thích hợp cho công việc này là cư dân địa phương hoặc những
người đã sống ở đó một thời gian. Tuy nhiên, họ phải được đào tạo thì mới thực hiện
được vai trò hướng dẫn viên. Các hướng dẫn viên giữ vai trò, vị trí quan trọng trong
phát triển DLST bền vững và họ phải có được quyền lợi và trách nhiệm tương xứng
với vai trò của họ.
* Giới hạn về việc sử dụng đất đai:
Thiết lập khả năng chịu đựng của vùng là điều quan trọng để giảm đến mức
tối thiểu tác động đến thiên nhiên.
Muốn vây, cần phải nhận định rõ ràng các vùng, các khu vực theo định
hướng khai thác, bảo vệ như: vùng sử dụng, vùng sử dụng hạn chế và vùng cấm sử
dụng theo đặc điểm của khu vực và các yêu cầu bảo vệ tài nguyên tự nhiên ở các
điểm DLST.
* Các chương trình hoạt động DLST được thiết lập dựa trên tài nguyên thiên
nhiên, văn hóa của khu vực:
Các chương trình hoạt động cũng cần được lập ra bởi các hướng dẫn viên
địa phương, những người có kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm về tài nguyên thiên
nhiên xung quanh họ và lối sống của cư dân địa phương đã có tiếp xúc lâu năm với
những tài nguyên này.
1.4 Kinh nghiệm phát triển DLSTcủa một số nước ở khu vực Mỹ La
Tinh và Việt Nam trong thời gian qua:
1.4.1 Kinh nghiệm phát triển DLST của một số nước ở khu vực Mỹ La


Tinh:
Những năm gần đây, nhiều nước ở khu vực Mỹ La Tinh dấy lên phong trào
phát triển DLST kết hợp bảo vệ môi trường thiên nhiên làm cho ngành du lịch ở khu
vực này phát triển mạnh mẽ. Theo tài liệu công bố gần đây của Uỷ ban kinh tế Mỹ
La Tinh và Hiệp hội du lịch thế giới, từ năm 2000 đến nay số khách đi DLST ở
những khu bảo tồn thiên nhiên nổi tiếng thế giới như: khu sinh thái tự nhiên A-Ma -
Dôn (Braxin), rừng nguyên thủy ở Cô-xta-Ri-Ca, Vê-Nê-xu-ê-La, Pa-Na-Ma…tăng


- 14 -
lên gấp ba lần so với trước. Trung bình thu nhập về du lịch ở khu vực này mỗi năm
tăng lên 10% đến 30%.
Mê-Hy-Cô là nước có ngành du lịch phát triển ở khu vực Mỹ La Tinh. Chính
phủ nước này tích cực đầu tư phát triển một số khu BTTN, bảo vệ sinh thái để thúc
đẩy DLST phát triển. Năm 2006, số khách đến du lịch ở KBTTN “Bướm chúa” ở
bang Mi-Chi-a-Can lên tới 275 nghìn lượt người, tăng gấp 12 lần so với năm 2000;
KBTTN này trở thành một khu DLST nổi tiếng của Mê-hy-Cô. Năm 2006 thu nhập
du lịch của Mê-hê-Cô đạt 13tỷ USD.
Cô-xta- Ri-Ca là một quốc gia nhỏ ở Mỹ La Tinh, diện tích vào khoảng 50
nghìn km2, nhưng rừng cỏ và đồng cỏ lại chiếm tới 71% diện tích của cả nước. Rừng
ở Cô-xta- Ri-Ca đã bảo vệ được 5% số loại động vật trên thế giới. Cô-xta- Ri-Ca xây
dựng trên 20 khu bảo vệ sinh thái, bảo vệ thiên nhiên và công viên quốc gia trong cả
nước. Ngành du lịch của nước này đưa ra rất nhiều chương trình DLST như: “ Du
lịch rừng nhiệt đới”, “ du lịch thế giới của loài bướm”... Hiện nay, số khách đến Cô-
xta- Ri-Ca thưởng ngoạn du lịch sinh thái đạt hơn một triêu rưỡi lượt người, thu nhập
du lịch hằng năm đạt hơn một tỷ USD, chiếm 10% GDP của nước này.
1.4.2Kinh nghiệm phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam trong thời gian qua:
Số lượng khách DLST ở Việt Nam trong những năm gần đây gia tăng nhanh
chóng. Nếu coi du khách đến các điểm du lịch có ưu thế nổi trội về môi trường tự
nhiên là khách DLST thì con số này ước tính chiếm khoảng 30% tổng lượng khách

quốc tế và gần 50% lượng khách du lịch nội địa.
Số liệu thống kê về lượng khách du lịch được thực hiện ở một số vườn quốc gia
như: Cát Bà, Cúc Phương, Ba Vì, Bạch Mã và các khu bảo tồn thiên nhiên cho thấy
xu hướng này. Riêng năm 2006 tổng lượng khách tới các điểm này khoảng
1.840.000 lượt người.
Khách nội địa đi du lịch chủ yếu dựa vào thiên nhiên nhiều hơn là DLST, bởi
thời gian cho các chuyến DLST của khách nội địa thường ngắn ngày. Mức chi tiêu
của du khách ít. Khách DLST nội địa có thời gian lưu trú trung bình từ 1 đến 3 ngày.
Tại các VQG, khách sử dụng các cơ sở lưu trú trung bình như nhà sàn và chi cho lưu
trú từ 60.000 đ đến 150.000 đ. Do vậy, nếu như ở các nước phát triển, khách DLST
là loại khách du lịch chi trả nhiều cho các chuyến đi của mình, thì khách du lịch ở


- 15 -
nước ta chi trả các khu dịch vụ, vui chơi giải trí, hay các khu nghỉ mát nhiều hơn so
với DLST.Cũng bởi nguyên do trên, khách du lịch nội địa chưa có ý thức cao về giữ
gìn môi trường, nên sự đóng góp còn hạn chế.

Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam với mục đích ban đầu từ DLST hầu như
chưa có. Song các kết quả điều tra cho thấy khuynh hướng tham gia vào các hoạt
động DLST của khách quốc tế rất cao. Khách DLST quốc tế có khả năng chi trả cao
hơn rất nhiều so với khách du lịch nội địa. Khách quốc tế tham gia hoạt động DLST
ở Việt Nam có khả năng chi trả 500 – 2.000 USD cho một chuyến đi du lịch. Thời
gian lưu trú trung bình của họ từ 17 tới 25 ngày và có nhu cầu kết hợp nhiều điểm du
lịch trong cùng một chuyến.
Kết luận chương 1:
Một số hãng lữ hành thường đồng nhất du lịch xanh với DLST. Thực ra,
những chuyến du lịch như vậy chỉ là những chuyến du lịch về với thiên nhiên. DLST
là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa gắn với giáo dục môi
trường có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích

cực của cộng đồng địa phương.
DLST không đơn thuần thay tên tour, tuyến hay tổ chức các tour đến các khu
tự nhiên. Để trở thành DLST thực thụ, chúng ta chúng ta cần thực hiện những
nguyên tắc, tiêu chuẩn, phạm vi, mức độ phát triển và có những bước đi thích hợp.
Thị trường DLST hiện nay phát triển mạnh mẽ. Song vấn đề trọng tâm cho việc
phát triển DLST bền vững là sự kiểm soát, hạn chế, những nguyên tắc xử lý và thực
hiện .Mặc dù, phát triển DLST bền vững đòi hỏi sự ý thức trách nhiệm cao của các
thành phần tham gia. Tuy nhiên, phát triển DLST đã thành công một cách nhanh
chóng ở một số nước Châu Mỹ La Tinh. Sự thành công này minh chứng rằng: ngày
nay, nhu cầu hưởng thụ và ý thức trách nhiệm bảo tồn và phát triển tài nguyên du
lịch của du khách rất cao.

DLST đang có chiều hướng phát triển và trở thành một bộ phận có tốc độ tăng
trưởng mạnh nhất về tỷ trọng trong ngành du lịch. Nơi nào còn giữ nhiều khu thiên
nhiên, có được sự cân bằng sinh thái thì nơi đó sẽ có tiềm năng phát triển tốt về
DLST và thu hút được nguồn du khách lớn, lâu dài và ổn định, từ đó, sẽ mang lại
những lợi ích kinh tế to lớn góp phần làm tăng thu nhập quốc dân, tạo nhiều cơ hội


- 16 -
về việc làm, cải thiện đời sống, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng
đồng dân cư ở các địa phương, nhất là ở những nơi có các khu bảo tồn thiên nhiên,
các cảnh quan thiên nhiên và di tích văn hóa hấp dẫn.
DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn
và được nuôi dưỡng, quản lý theo hướng bền vững về mặt sinh thái. DLST theo định
nghĩa nào chăng nữa thì vẫn phải hội đủ các yếu tố: Sự quan tâm đến thiên nhiên và
môi trường; trách nhiệm với xã hội và cộng đồng của những người tham gia. DLST
chú trọng vào tài nguyên và nhân công địa phương, tạo nên những khao khát và sự
thỏa mãn về thiên nhiên, kích thích lòng yêu mến thiên nhiên và từ đó mới thôi thúc
được ý thức bảo tồn và phát triển nhằm ngăn ngừa các tác động tiêu cực lên môi

trường tự nhiên.






















- 17 -
CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG VÀ HIỆN TRẠNG DU LỊCH
SINH THÁI TỈNH LÂM ĐỒNG

Công nghệ du lịch chủ yếu dựa vào những nguồn tài nguyên thiên nhiên,
những di tích văn hoá, lịch sử…Để thu hút du khách, người ta phải thiết kế những

dịch vụ du lịch ở những nơi có khí hậu thuận lợi, có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo, có giá
trị nhân văn thu hút khách du lịch.
Như vậy, sản phẩm du lịch có thể biểu diễn bằng công thức:
Sản phẩm du lịch = tài nguyên du lịch + các dịch vụ du lịch.
Tài nguyên du lịch nếu không được đầu tư khai thác cho lĩnh vực du lịch thì
tài nguyên đó cũng đang nằm ở dạng tài nguyên tiềm năng về du lịch. Ngược lại, nếu
đầu tư vào những nơi không có tiềm năng du lịch thì đầu tư đó hiệu quả không cao
hoặc lãng phí. Vì vậy để phát triển DLST Lâm Đồng theo đúng định hướng và hiệu
quả chúng ta cần khái quát chung về đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của
Lâm Đồng cũng như đấnh giá đầy đủ về tiềm năng phát triển và thực trạng về môi
trường, hoạt động của DLST tại Lâm Đồng hiện nay.
2.1 Khái quát chung về đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội
của Lâm Đồng:
2.1.1 Vị trí địa lý và các điều kiện tự nhiên:
2.1.1.1 Vị trí địa lý:
Lâm Đồng là một tỉnh miền núi nằm ở phía Nam Tây Nguyên, có diện tích
là 9.762,2km
2
. Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước và Đồng Nai, phía Đông
Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Đắc Lắc. Lâm Đồng nằm
giữa 3 vùng lãnh thổ có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế.
Lâm Đồng là đầu nguồn của 7 hệ thống sông suối chính như hệ thống sông
Đa Nhim chảy về Ninh Thuận, hệ thống sông Krông Nô chảy về Sêrêpok, hệ thống
sông Đồng Nai chảy về Đông Nam Bộ… Thiên nhiên dành cho Lâm Đồng những
tiềm năng thủy điện to lớn và những cảnh quan du lịch đặc thù vô cùng quý giá.


- 18 -
Những điều kiện này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội
của tỉnh nói chung và du lịch nói riêng, mà đặc biệt là du lịch sinh thái.

2.1.1.2 Địa hình:
Tỉnh Lâm Đồng có độ cao trung bình 800m - 1.000m so với mặt nước biển.
Địa hình Lâm Đồng xen kẽ giữa núi cao, bình nguyên và thung lũng, có nhiều đứt
gãy và bề mặt địa hình phân bổ theo tầng lớp, có độ cao chênh lệch 400 – 500m và
nghiêng dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Có thể nói địa hình Lâm Đồng tương đối
phức tạp, đó là yếu tố quyết định đặc điểm dòng chảy của các hệ thống sông suối, tạo
ra lắm thác nhiều ghềnh, làm nên những thắng cảnh du lịch nổi tiếng và tạo ra tiềm
năng thủy điện khá lớn với khoảng 900.000KW. Tuy nhiên địa hình như vậy cũng
làm hạn chế đến việc phát triển giao thông, làm hạn chế tài nguyên nước mặt để phục
vụ đời sống và sản xuất của nhân dân trong tỉnh.
2.1.1.3 Khí hậu:
]Lâm Đồng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, do ảnh hưởng
của độ cao địa hình và vị trí địa lý nên khí hậu có những đặc điểm đặc biệt là: mát
mẻ quanh năm, mưa nhiều, có mùa khô, mùa mưa rõ ràng, lượng bốc hơi thấp.

Bảng 2.1: Một số yếu tố khí hậu ở Lâm Đồng (
0
C)
Tháng
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 TB
Nhiệt độ (C)
16.4 17.4 18.3 19.2 19.7 19.4 18.9 18.9 18.8 18.4 17.6 16.7 18.3
Lượng mưa(mm)
7.5 22.9 50.5 152.1 224.4 182.7 223.0 209.2 290.2 251.2 86.9 28.9 172.8
(Dự báo của TTDR -2005)

- Về nhiệt độ: Lâm Đồng có một số đặc điểm nổi bật sau:
+ Ở những vùng độ cao trên 800m, nhiệt độ trung bình cả năm từ 20
0
C –

22
0
C. Những vùng có độ cao trên 1000m thời tiết mát mẻ quanh năm, điển hình là
khu vực thành phố Đà Lạt nhiệt độ trung bình từ 18
0
C – 20
0
C.
+ Độ cao địa hình càng giảm, nhiệt độ trung bình hàng năm càng tăng
chẳng hạn như: tại thành phố Đà Lạt nhiệt độ trung bình năm là 18
0
C, nhưng khi
xuống tới Cát Tiên nhiệt độ trung bình năm là 26
0
C, chênh lệch khoảng 6
0
C – 8
0
C,
chính điều này đã tạo các vùng sinh thái đa dạng và phong phú.
Khí hậu của Lâm Đồng rất phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển các loài
cây trồng có nguồn gốc á nhiệt đới và ôn đới, góp phần quan trọng vào việc tạo ra


- 19 -
những cây rừng, cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, nhiều vùng trồng rau, hoa,
cây ăn trái rất độc đáo mà chỉ có được ở Lâm Đồng. Bên cạnh đó thời tiết Lâm Đồng
còn là một yếu tố quan trọng là tạo ra những tiềm năng du lịch to lớn và có tính đặc
thù riêng biệt. Tuy nhiên thời tiết của Lâm Đồng cũng gây ra một số khó khăn nhất
định làm ảnh hưởng đến lợi thế phát huy của du lịch như: có những mùa mưa tầm tã

suốt ngày đêm, các điểm du lịch không có được những khu vui chơi, giải trí cho du
khách khi trời mưa, nên du khách cảm thấy nhàm chán…
2.1.1.4 Thổ nhưỡng:
Theo số liệu thống kê đất năm 2006, Lâm Đồng hiện có 7 – 8 loại đất
chính, trong đó có 3 loại cần quan tâm cho sự phát triển tài nguyên là: nhóm đất phù
sa, nhóm đất Feralit đỏ vàng và nhóm đất nâu trên nền bazan. Từ đó, đã tạo nên sự
phân bố khác nhau của hệ thống động thực vật rừng và các vùng canh tác, kinh
doanh rừng khác nhau của Lâm Đồng. Nhiều diện tích đất có thổ nhưỡng phù hợp
với việc sinh trưởng phát triển của rau, hoa quả đặc sản, hoặc tập đoàn những cây
công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế như: cà phê, chè, điều, dâu tằm, tiêu… và
được phân bố khá tập trung. Đây cũng là điều kiện thuận lợi giúp Lâm Đồng phát
triển DLST một cách mạnh mẽ.
2.1.1.5 Chế độ thủy văn:
Lâm Đồng là một tỉnh có hệ thống sông suối nhiều, tổng diện tích sông suối
gần 15.600ha. Sông suối Lâm Đồng nhìn chung có bậc thềm hẹp, dốc, nhiều thác
ghềnh, dòng chảy mạnh, không đều giữa các mùa trong năm. Nhờ vậy, đã tạo nên hệ
thống thác, ghềnh đa dạng, phong phú có thể khai thác phục vụ du lịch như: thác
Đatanla, thác Đạm bri, thác gouga…
Nguồn nước ngầm của Lâm Đồng cũng rất phong phú, có ở hầu hết các
vùng lãnh thổ, trữ luợng lớn, có thể khai thác đáp ứng nhu cầu của sản xuất, kinh
doanh du lịch và phục vụ đời sống dân cư trên một phạm vi rộng lớn.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế – văn hóa – xã hội:
Theo số liệu của cục thống kê tỉnh Lâm Đồng công bố năm 2006: Kinh tế
tỉnh Lâm Đồng đã đạt được những thành tích đáng kể. Tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm giai đoạn 1996 – 2002 là 12,2%, giai đoạn 2002 – 2006 là 14,2%. Tốc độ
tăng trưởng trên cao hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân cả nước (cùng kỳ)


- 20 -
là7%. Trong 5 năm trở lại đây, kinh tế tỉnh Lâm Đồng đi dần vào thế ổn định, năng

lực sản xuất và cơ sở hạ tầng được tăng cường, kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
tiếp tục phát triển, hoạt động văn hóa – xã hội có chuyển biến tích cực tạo điều kiện
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà.
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội Lâm Đồng 2000 - 2006
Năm
Tổng số
(lượt khách)
Doanh thu
(tỷ đồng)
Doanh thu xã hội
(tỷ đồng)
% Tăng trưởng so
với năm trước
2000
700.000 197 355 14,5
2001
803.000 240 482 22,0
2002
905.000 378 634 57,5
2003
1.150.000 430 920 13,8
2004
1.350.000 552 1215 28,4
2005
1.560.900 570 1405 32,6
2006
1.848.000 771 1660 35,2
(Nguồn: Sở Du lịch - Thương mại Lâm Đồng)
Nhận xét: Doanh thu từ các dịch vụ du lịch tăng trưởng ổn định. Tuy nhiên,
thực tế cơ cấu thu nhập chủ yếu là từ dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 65 - 75%

tổng doanh thu). Doanh thu từ các dịch vụ du lịch khác như bán hàng lưu niệm, vận
chuyển, đổi tiền, bưu chính, vui chơi giải trí ...ở mức khiêm tốn (từ 25% - 35%).
Đây là một tồn tại cần khắc phục trong hoạt động kinh doanh du lịch của Lâm Đồng.
Theo điều tra thăm dò ý kiến của khách du lịch tại một số điểm danh lam thắng cảnh
và khách sạn, cơ cấu chi tiêu trung bình của một khách du lịch quốc tế chi 40
USD/ngày trong đó 23 USD cho dịch vụ lưu trú, 12 USD cho ăn uống, mua sắm...
Khách du lịch nội địa chi 400.000 đồng/ngày trong đó 250.000 đồng cho lưu trú,
70.000 đồng cho ăn uống, còn lại là chi khác...
- Về dân cư và dân tộc học: đến hết năm 2006 dân số Lâm Đồng là
1.697.754 người, trong đó người Kinh chiếm khoảng 77%, còn 33% là các dân tộc ít
người thuộc nhiều miền trong cả nước với nhiều phong tục tập quán văn hóa khá đặc
sắc. Đáng kể nhất là của nhóm dân tộc gốc bản địa như: Mạ, K'ho, Churu…Đây
cũng là điểm cần lưu ý để khai thác, tổ chức các tour DLST cho du khách.
Về di tích lịch sử – văn hóa và khảo cổ: cho đến nay theo số liệu thống kê
của sở du lịch- thương mại tỉnh Lâm Đồng hiện có khoảng gần 100 danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử – văn hóa. Như vậy, cứ bình quân 100km
2
có 1 di tích, mật độ
này so với cả nước còn thấp (cả nước bình quân 2,2 di tích/100km
2
). Tuy nhiên, so


- 21 -
với Tây Nguyên (Gia Lai, Kom Tum: 0,3; Đắc Lắc: 0,5) thì mật độ di tích ở Lâm
Đồng vẫn cao hơn. Những di tích có giá trị là: khu di chỉ khảo cổ Cát Tiên ngang
tầm với các di tích cùng thời như Angkor ở Campuchia, Barabudua ở Indonexia, khu
mộ cổ dân tộc Mạ ở Đại Lào,…
- Về các công trình kiến trúc có giá trị: hiện nay trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
có rất nhiều các công trình kiến trúc có giá trị. Đó là những công trình được xây

dựng vào thời kỳ nữa đầu thế kỷ XX rất độc đáo và có sức hấp dẫn thu hút du khách
(Bảng 2.3).
Bảng 2.3: Những di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc có giá trị du lịch
TT Tên di tích Vị trí Nội dung, loại hình
01 Thánh địa Cát Tiên Xã Đồng Nai
Kiến trúc tôn giáo
Bàlamôn
02 Khu mộ cổ người Mạ Xã Đại Lào Mộ cổ dân tộc Mạ
03 Chùa Linh Sơn TP Đà Lạt Kiến trúc tôn giáo
04 Chùa Linh Quang TP Đà Lạt Kiến trúc tôn giáo
05 Nhà thờ Chánh Tòa TP Đà Lạt Kiến trúc tôn giáo
06 Nhà thờ Domain de Marie TP Đà Lạt Kiến trúc tôn giáo
07 Biệt điện số I TP Đà Lạt Kiến trúc cũ
08 Biệt điện số II (Dinh toàn quyền Pháp cũ)TP Đà Lạt Kiến trúc cũ
09 Biệt điện số III (Dinh Vua Bảo Đại) TP Đà Lạt Kiến trúc cũ
10 Tu viện dòng Chúa cứu thế TP Đà Lạt Kiến trúc tôn giáo
11 Lăng Nguyễn Hữu Hào (Cha vợ Bảo Đại) TP Đà Lạt Kiến trúc tôn giáo
(Nguồn: ITDR)
Nhận xét: Lâm Đồng không phải chỉ có những điểm du lịch nêu trên, mà
còn rất nhiều các danh lam thắng cảnh, khu bảo tồn thiên nhiên Bidoup Núi Bà và
vườn quốc gia Cát Tiên… Tất cả, đang là điểm thu hút khách du lịch trong và ngoài
nước đến với Lâm Đồng hiện nay.
- Về lễ hội văn hóa dân gian: do ở Lâm Đồng có nhiều dân tộc khác nhau cư
trú, mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa riêng, tất cả hợp lại thành một kho tàng văn
hóa dân gian hết sức đặc sắc và độc đáo có giá trị phục vụ du lịch. Tiêu biểu là: lễ
hội cồng chiêng, lễ hội đâm trâu, lễ hội hoa…
- Về các ngành nghề truyền thống: Lâm Đồng cũng là nơi có nhiều ngành
nghề truyền thống có giá trị phục vụ khách du lịch như: đan len, thêu tay trên vải,
chạm tranh mỹ nghệ, dệt thổ cẩm, cưa lộng, rèn công cụ, làm gốm bằng tay…tạo ra
nhiều loại sản phẩm lưu niệm có giá trị cao.



- 22 -
Tất cả những đặc điểm về kinh tế-xã hội nêu trên sẽ được xem xét trong quá
trình đánh giá hiện trạng phát triển DLST tỉnh Lâm Đồng sau này.

2.2 Tiềm năng phát triển DLSTĐà Lạt –Lâm Đồng:
2.2.1 Tiềm năng về tài nguyên tự nhiên:
Lâm Đồng là một trong những vùng còn nhiều diện tích rừng tự nhiên so
với các tỉnh trong cả nước. Tính đến nay, tổng diện tích đất có rừng là 618.536,82ha
(độ che phủ 64,8%) chiếm 63,26% diện tích tự nhiên (976.220ha), trong đó rừng tự
nhiên có 591.209,87ha, chiếm 95,6% diện tích đất có rừng, rừng trồng 27.326,95ha,
chiếm 4,4%. Với điều kiện tự nhiên về khí hậu, thổ nhưỡng đã tạo cho rừng Lâm
Đồng có nhiều tài nguyên quý về động vật và thực vật.
* Tài nguyên thực vật, thảm thực vật và các loài gen quý hiếm:
Theo số liệu thống kê năm 2006 của Chi cục Kiểm lâm Lâm Đồng, rừng
Lâm Đồng thuộc Tây Nguyên là một vùng có tài nguyên sinh vật phong phú nhất ở
Việt Nam. Hầu hết các kiểu rừng, các loài sinh vật Tây Nguyên đều có mặt ở Lâm
Đồng. Chính các quần cư sinh vật này đã tạo nên các hệ sinh thái đặc trưng cho từng
khu vực ở Lâm Đồng và có liên quan chặt chẽ với toàn khu vực Tây Nguyên gồm:
ĐăkLăk – Gia Lai – Kom Tum – Lâm Đồng. Trong đó, đáng kể nhất là khu bảo tồn
thiên nhiên Bidoup Núi Bà, vườn quốc gia Cát Tiên có tính đa dạng sinh học cao,
giàu loài đặc hữu của Đông Dương và của Việt Nam.
Bên cạnh đó, đã thống kê được 246 loài của 71 chi, có nhiều loài cho hoa
đẹp và quý kể cả địa lan và lan ký sinh, 9 loài Đỗ Quyên, 5 loài Thu Hải Đường và
các nguồn gien quý hiếm khác. Đã thống kê được 121 loài cây thuốc, 14 loài cho
nhựa, 28 loài là nguồn kho gien dồi dào, phong phú và đặc hữu.
- Tài nguyên cây thuốc: Theo phát hiện sơ bộ có 425 loài cây thuốc thuộc
125 họ có thể sử dụng làm cây thuốc chữa bệnh từ thân gỗ như Thông Đỏ đến cây
thân thảo như Lan Gấm và các loại nấm Linh Chi… Các loại cây có trữ lượng khá

lớn như: Vàng Đắng, Sa Nhân, Mã Tiền, Lông Cu Ly và các loại cây thuốc thuộc họ
Ngũ Da Bì, Bạch Truật, Ô Rô...Tài nguyên về những cây thuốc này rất quý, không
phải nơi nào cũng có được, nên trong quá trình xây dựng các mô hình du lịch nghĩ

×