Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Kinh nghiệm lý luận và thực tiễn về ký chân dung qua chuyên mục Người đương thời của Đài Truyền hình Việt Nam (2001 - 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 146 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG


TRƯƠNG THỊ DIỆU THUÝ


KINH NGHIỆM LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
KÝ CHÂN DUNG QUA CHUYÊN MỤC
NGƯỜI ĐƯƠNG THỜI CỦA ĐÀI TRUYỀN HÌNH
VIỆT NAM (2001 – 2006)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ

CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN THỊ MINH THÁI


HÀ NỘI - 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang
CHƢƠNG 1: KÝ CHÂN DUNG BÁO IN – CƠ SỞ VĂN BẢN CỦA
KÝ CHÂN DUNG TRUYỀN HÌNH
1.1. Ký báo chí trong hệ thống thể loại báo chí 10
1.2. Ký chân dung báo chí - bộ phận quan trọng của thể loại Ký báo chí: 15
1.2.1 . Ký chân dung báo chí là gì? 15


1.2.2. Ký chân dung báo chí hình thành và phát triển như thế nào? 17
1.3. Ký chân dung báo in - cơ sở văn bản của Ký chân dung truyền hình:.21
1.3.1. Ký chân dung báo in và những đặc điểm nổi trội: 21
1.3.2. Ký chân dung báo in là cơ sở văn bản của Ký chân dung truyền hình:.26
Tiểu kết chƣơng 1: 35

CHƢƠNG 2: CHUYÊN MỤC NGƢỜI ĐƢƠNG THỜI - MỘT THÀNH
CÔNG VỀ KÝ CHÂN DUNG TRUYỀN HÌNH
2.1. Tổng quan về chuyên mục Ngƣời đƣơng thời 37
2.1.1. Người đương thời ra đời trong không khí đổi mới của Đài THVN: 37
2.1.2. Sự phát triển của chuyên mục Người đương thời 39
2.1.3. Tiêu chí của chuyên mục Người đương thời 42
2.1.4. Mục đích xây dựng chuyên mục Người đương thời 43
2.1.5. Tên gọi chuyên mục Người đương thời 45
2.1.6. Đối tượng khán giả của chuyên mục Người đương thời 46
2.2. Nội dung cốt lõi và thành công của 30 chƣơng trình Ngƣời đƣơng thời
tiêu biểu từ năm 2001 – 2006 48
2.2.1. Nội dung cốt lõi của 30 chương trình Người đương thời 49
2.3. Thành công của chuyên mục Ngƣời đƣơng thời 76
2.3.1 Tìm kiếm và lựa chọn đề tài: 76
2.3.2. Tìm kiếm và lựa chọn nhân vật: 81
2.3.3. Xây dựng kịch bản: 83
2.3.4. Người dẫn chương trình: 84
2.4. Thành công về mỹ học hình ảnh của Ký chân dung truyền hình Ngƣời
đƣơng thời 88
2.4.1. Một số vấn đề cơ bản về mỹ học hình ảnh của báo hình: 88
2.4.2. Mỹ học hình ảnh của Ký chân dung truyền hình Người đương thời 90
Tiểu kết chƣơng 2: 106

CHƢƠNG 3: XÂY DỰNG THƢƠNG HIỆU NGƢỜI ĐƢƠNG THỜI: BÀI

HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP TỪ GÓC NHÌN PR
3.1.Bài học kinh nghiệm từ việc xây dựng thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời:.110
3.1.1. Nhân vật - mấu chốt tạo nên thành công thương hiệu Người đương thời 110
3.1.2. Thương hiệu Người đương thời gắn liền với chất lượng chương trình 112
3.1.3. Nghệ thuật sử dụng con người trong êkíp chương trình 117
3.1.4. Công tác tạo dựng, duy trì và quảng bá thương hiệu Người đương thời 124
3.2. Giải pháp duy trì và phát triển thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời 127
3.2.1. Nâng cao chất lượng và giá trị thông tin - cốt lõi của việc phát triển bền
vững thương hiệu 127
3.2.2. Coi công tác quảng bá là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên 131
3.2.3. Luôn tạo mối quan hệ gắn bó lâu dài giữa chương trình và khán giả 132
Tiểu kết chƣơng 3: 133

KẾT LUẬN: 134
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 138



1
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại,
người thầy, người cha kính yêu của dân tộc Việt Nam từng nói: “Mỗi người
tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”. Người tốt - đó
chính là bộ phận tinh tuý nhất của xã hội. Không chỉ ở Việt Nam mà ở bất kỳ
quốc gia, dân tộc, vùng đất, thời đại nào, trong cuộc vận hành văn hoá của
mình, cũng đều tồn tại những con người tiêu biểu, tiên tiến. Họ là kết tinh,
niềm tự hào của dân tộc mình. Họ trở thành những hình mẫu, tấm gương điển
hình trong xã hội.
Từ lâu, người tốt đã trở thành đề tài, nhân vật trong các tác phẩm văn

học nghệ thuật. Rất nhiều bức tranh, bản nhạc, pho tượng, tiểu thuyết, truyện
ngắn, đều lấy nguồn cảm hứng từ những Người tốt - Việc tốt có thật trong
đời sống.
Ở Việt Nam, việc thông tin, phản ánh về những tấm
gương tiêu biểu trên mọi lĩnh vực đã có truyền thống từ xa xưa. Trước đây,
giai cấp phong kiến thống trị thường đưa ra những hình mẫu để khuyến khích
nhân dân làm theo. Đó là những câu chuyện kể về những chuẩn mực trong
các quan hệ gia đình và xã hội như: “tam cương ngũ thường”, “tam tòng tứ
đức” Trong xã hội phong kiến Trung Hoa và Việt Nam nhiều thế kỷ trước
lưu truyền sách “Nhị thập tứ hiếu” (nêu gương 24 người con hiếu nghĩa nổi
tiếng trong thiên hạ). Thời nhà Nguyễn còn có sắc phong “Tiết hạnh khả

2
phong” cho những người phụ nữ mất chồng sớm mà không tái giá. Người
nông dân chân lấm tay bùn cũng tìm ra những hình mẫu thể hiện mơ ước của
mình như hình ảnh cô Tấm, chàng Thạch Sanh, ông Trạng, ông Nghè, Như
vậy, việc phản ánh những hình mẫu lý tưởng là một trong những nhu cầu tinh
thần có tính quy luật của con người trong xã hội, và nhu cầu này xuất hiện từ
lâu trước khi báo chí ra đời. [5, 126].
Sau này, khi Việt Nam bước sang trang sử mới, để tiếp nối truyền
thống tốt đẹp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ những tác động tích cực
của việc nêu gương Người tốt - Việc tốt trong phong trào cách mạng toàn dân
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nói:
“Lấy gương người tốt trong quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên để
giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục quần
chúng rất sinh động và có sức thuyết phục lớn” [13, 12].
Về thuật ngữ, cụm từ “Người tốt - Việc tốt” bao hàm ba ý nghĩa khác
nhau: Một là, cụm từ này chỉ một chủ đề, đề tài tuyên truyền; Hai là, cụm từ
này chỉ một chuyên mục khá phổ biến trên báo chí Việt Nam; Ba là, cụm từ
này chỉ một dạng bài thuộc thể loại Ký chân dung [ 5, 142]. Trong khuôn khổ

luận văn này, chúng tôi sử dụng cụm từ “Người tốt - Việc tốt” với ý nghĩa thứ
ba.
Có thể nói trong nhiều thập kỷ qua, dạng bài Người tốt - Việc tốt đã
có những đóng góp quan trọng trong việc tuyên truyền, cổ vũ mọi tầng lớp
nhân dân hăng hái thi đua trong các phong trào cách mạng đấu tranh thống
nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH. Ngày nay, dạng bài Người tốt - Việc tốt
xuất hiện khá thường xuyên trên nhiều tờ báo in, báo nói, báo hình và báo
điện tử. Ví dụ: báo Lao động có mục: Cảnh đời, Nhân vật, Thời gian tạo nên
giá trị; Báo Thanh niên có mục: Thanh niên & Cuộc sống, Gặp gỡ đầu tuần;
Báo Sinh viên Việt Nam có mục: Thủ lĩnh số, Khách mời trong tuần, Câu

3
chuyện doanh nhân; Báo An ninh thế giới có mục: Tin tức-Sự kiện-Nhân vật,
Thủ lĩnh cảnh sát – An ninh các nước, Tình báo qua các thời đại; Báo Tiền
phong có mục: Gặp gỡ chủ nhật, Câu chuyện doanh nhân;
Trên các kênh truyền hình của nhiều đài truyền hình ở nước ta, dạng
bài Người tốt - Việc tốt xuất hiện khá nhiều, đan xen trong nhiều chuyên mục
truyền hình. Đài TH TPHCM có chuyên mục: Trò chuyện cuối tuần, Bé khoẻ
bé ngoan, Chân dung nhà vô địch; Đài truyền hình kỹ thuật số VTC có
chuyên mục: Chuyện doanh nhân, Sao online, Doanh nhân cuối tuần, Chat
với 8X; Và đặc biệt, Đài THVN có hàng loạt các chuyên mục: Người đương
thời, Văn hoá- Sự kiện-Nhân vật, Trò chuyện với người nổi tiếng, Tác giả -
tác phẩm, Người xây tổ ấm, Gõ cửa ngày mới,
Trong đó, Người đương thời được nhìn nhận là một trong những tác
phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt có thương hiệu tốt nhất. Những chân
dung được khắc hoạ trong Người đương thời có tác động mạnh mẽ đến công
chúng. Chính thức phát sóng năm 2001, tính đến nay, Người đương thời mới
tồn tại được 7 năm nhưng sức ảnh hưởng và lan toả của nó trong xã hội rất
lớn. Sau mỗi lần phát sóng, những người làm chương trình nhận được rất
nhiều hồi âm của công chúng nghe nhìn (bằng điện thoại, thư giấy, thư điện tử

email, ).
Tuy vậy, cũng có nhiều luồng ý kiến khác nhau đánh giá về Người
đương thời: tên gọi chuyên mục, một vài chương trình cụ thể, nội dung, mỹ
học hình ảnh, (điều này sẽ được trình bày kỹ hơn ở Chương 2 của Luận
văn)
Về cách thức thể hiện, Người đương thời lựa chọn cách đối thoại
giữa MC với nhân vật. Điều này cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tìm hiểu: đối
thoại như thế nào để có được thông tin tốt nhất; đối thoại cách gì để nêu bật
được phẩm chất của nhân vật giúp khán giả chỉ qua chương trình cũng có thể

4
hiểu được con người, tính cách, việc làm của nhân vật ấy; đối thoại như thế
nào để tạo nên một cuộc trò chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn;…Thực tế
không phải cuộc đối thoại nào cũng đạt tiêu chuẩn, trong cuộc đối thoại còn
tồn tại khá những lỗi giao tiếp, lỗi văn hoá,…Và qua tìm hiểu chuyên mục
Người đương thời, chúng tôi mong muốn rút ra những kinh nghiệm tích cực
góp phần nâng cao hiệu quả đối thoại của MC và nhân vật trên truyền hình
nói riêng cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng nói chung.
Việc nghiên cứu chuyên mục Người đương thời với tư cách là một hệ
thống các tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên truyền hình cũng
phần nào đóng góp những kinh nghiệm lý luận và thực tiễn về thể loại Ký
chân dung - một thể loại không thể thiếu của các nền báo chí.
Về cá nhân người làm luận văn, Người đương thời là một chuyên
mục để lại ấn tượng rất sâu sắc. Với tư cách khán giả xem truyền hình, gần 60
phút của chuyên mục là những giây phút người xem được hoà cùng số phận
của nhân vật, bị cuốn vào những đam mê cháy bỏng, ý chí và nghị lực phi
thường của con người để rồi sung sướng thán phục và âm thầm rút ra cho
mình nhiều bài học quý giá trong cuộc sống. Với tư cách nhà báo, tham gia
trực tiếp vào ê kíp sản xuất, tác giả luận văn hiểu rõ việc xây dựng một
chuyên mục Người tốt - Việc tốt nói riêng, quy trình sản xuất một chương

trình truyền hình nói chung, thấm thía hết sự say mê tìm tòi, đổi mới không
ngừng trong nội dung cũng như trong cách thức thể hiện chương trình của các
PV, BTV. Đây cũng là lý do thôi thúc tác giả luận văn nghiên cứu một cách
nghiêm túc và đầy hứng khởi để hoàn thành đề tài này.
Như vậy, với đóng góp đặc sắc của Người đương thời trong hệ thống
các tác phẩm Ký chân dung, với vị trí được khẳng định trong hệ thống các
chuyên mục của Đài THVN, với những ấn tượng khó phai trong lòng công
chúng; với nội dung và cách thức thể hiện riêng biệt, độc đáo, việc nghiên cứu

5
chuyên mục Người đương thời có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc về thể
loại Ký chân dung trên truyền hình, rất khác biệt với ký chân dung báo in, báo
nói, báo điện tử.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài:
“Kinh nghiệm lý luận và thực tiễn về ký chân dung qua chuyên
mục Ngƣời đƣơng thời của Đài THVN (2001 – 2006)”.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Đây là đề tài lần đầu tiên được nghiên cứu trong khuôn khổ một luận
văn thạc sỹ khoa học báo chí. Tuy nhiên, đã có một số công trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài này như:
1/ Bùi Thị Thuỷ, Phim tài liệu chân dung truyền hình (TFS) – Đài Truyền
hình thành phố Hồ Chí Minh (khảo sát qua hàng phim truyền hình (TFS) –
Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh từ 1991 đến 2006), Luận văn thạc sỹ
khoa Báo Chí - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Tp.Hồ Chí
Minh, 2006.
2/ Tạ Thị Minh Phương, Phân tích hoạt động sáng tạo chương trình gặp gỡ
truyền hình, Khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành truyền hình, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2002.
3/ Lê Thanh Tùng, Kỹ năng phỏng vấn trong chương trình “Người đương

thời” (khảo sát từ đầu năm 2001 đến 2002), Khoá luận tốt nghiệp chuyên
ngành truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, 2002.
4/ Trần Thị Thanh Nga, Vấn đề quan hệ công chúng trong chương trình
Người đương thời, Khoá luận tốt nghiệp ngành Báo chí, Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006.
5/ Hoàng Việt Tân, Mỹ học của hình ảnh trên báo hình qua một số chương
trình ca nhạc của Ban Văn nghệ - Đài THVN, Khoá luận tốt nghiệp ngành

6
Báo chí, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội, 2007.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chuyên mục Người đương thời
phát sóng trên kênh VTV1 của Đài THVN từ năm 2001 đến năm 2006 với 30
chương trình tiêu biểu nhất.
Để phục vụ cho đối tượng nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành tìm
hiểu và so sánh tác phẩm Ký chân dung ở các loại hình báo chí khác:
- Một số tác phẩm Ký chân dung truyền hình tương tự Người đương thời.
- Một số phim tài liệu chân dung của Đài THVN, Đài TH TPHCM.
- Một số tác phẩm Ký chân dung báo in.
- Những nhân vật trong chuyên mục Người đương thời và những nhân chứng
liên quan.
- Khán giả của Người đương thời.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chọn nghiên cứu 30 chương trình tiêu biểu nhất trong số 254
chương trình Người đương thời đã phát sóng trong 6 năm (từ năm 2001 đến
năm 2006) .


4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích nghiên cứu:
- Đưa ra giải pháp góp phần tăng cường hiệu quả của chuyên mục
Người đương thời nhằm thoả mãn nhu cầu XEM và KHÁM PHÁ của khán
giả.

7
- Từ việc nghiên cứu chuyên mục Người đương thời, tác giả luận văn
muốn tìm ra cách thức thực hiện một tác phẩm Ký chân dung truyền hình đạt
chất lượng cao và tác động sâu sắc đến công chúng nghe nhìn.
- Tác giả luận văn mong muốn cung cấp một số kiến thức nhất định
về Ký chân dung truyền hình (lý luận và thực tiễn) cho sinh viên ở các cơ sở
đào tạo nghề truyền hình trên cả nước.
- Luận văn mong muốn hiểu được nhu cầu nghe - nhìn của công
chúng về chuyên mục Người đương thời để đáp ứng nhu cầu này ngày càng
tốt hơn.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Qua phân tích, nghiên cứu, luận văn đánh giá điểm độc đáo riêng
biệt của 30 chương trình Người đương thời tiêu biểu để đúc rút những kinh
nghiệm lý luận, thực tiễn cũng như bài học kinh nghiệm và giải pháp xây
dựng thành công thương hiệu của Ký chân dung truyền hình Người đương
thời.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên đường lối, chính sách, quan điểm
của Đảng, Nhà nước Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ của báo chí, đồng thời
kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã được
công bố.

* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn dựa trên phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lô-gic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp, điều tra xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực

8
tiễn. Vì nghiên cứu theo phương pháp này, đề tài không chỉ dựa trên cơ sở lý
luận và thực tiễn báo chí đã được học trong chương trình đào tạo Đại học và
Cao học của khoa Báo chí, không chỉ dựa trên những vấn đề đặc trưng thể
loại và phương pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, liên ngành, đối chiếu,
so sánh,…mà còn tìm hiểu, nghiên cứu chính trong thực tiễn các đài truyền
hình - cơ quan chức năng sản xuất ra các tác phẩm truyền hình và công chúng
- những người trực tiếp được thừa hưởng những giá trị do những tác phẩm Ký
chân dung mang lại.
Luận văn thực hiện phương pháp điều tra xã hội học đối với công
chúng nghe nhìn của Người đương thời, thu thập, nghiên cứu, đối chiếu, so
sánh, tổng hợp ý kiến để góp phần nâng cao chất lượng của chuyên mục
Người đương thời nói riêng cũng như các tác phẩm truyền hình nói chung.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
* Ý nghĩa khoa học:
Luận văn đã cung cấp một số lý luận về báo hình: đặc trưng, quy trình
sản xuất chương trình truyền hình, Luận văn cũng chỉ ra cách thức xây dựng
tác phẩm Ký chân dung truyền hình.
Luận văn đã giúp những người quan tâm đến chuyên mục Người
đương thời hiểu thêm về sự ra đời, nội dung, cách thức thực hiện, ý nghĩa xã
hội, những thành công, hạn chế,
Việc nghiên cứu những thành công của Người đương thời sẽ là cơ sở
cho sinh viên báo chí tìm hiểu sâu hơn về đặc điểm, tính chất của thể loại Ký
chân dung truyền hình.

* Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn đã chỉ ra quá trình tác nghiệp của PV, BTV, MC, trong
việc tổ chức cụ thể những tác phẩm Ký chân dung truyền hình

9
Luận văn đã điều tra xã hội học về nhu cầu của công chúng nghe nhìn
để phần nào đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đó trong tương lai.
Luận văn đã đề xuất một số giải pháp tích cực, mới mẻ từ góc nhìn
PR để nâng cao chất lượng chuyên mục Người đương thời, hiệu quả của tác
phẩm Ký chân dung truyền hình và sự thành công về thương hiệu của các
chương trình truyền hình.

7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
luận văn bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Ký chân dung báo in – cơ sở văn bản của Ký chân dung
truyền hình
Chƣơng 2: Chuyên mục Ngƣời đƣơng thời - một thành công về Ký chân
dung truyền hình
Chƣơng 3: Xây dựng thƣơng hiệu Ngƣời đƣơng thời: bài học kinh
nghiệm và giải pháp từ góc nhìn PR





















10
CHƢƠNG 1
KÝ CHÂN DUNG BÁO IN – CƠ SỞ
VĂN BẢN CỦA KÝ CHÂN DUNG TRUYỀN HÌNH

1.1. Ký báo chí trong hệ thống thể loại báo chí:
Để có cái nhìn toàn diện, chúng tôi đặt Ký báo chí trong mối quan
hệ với toàn bộ hệ thống thể loại báo chí.
Thể loại báo chí là một trong những hiện tượng rất phức tạp của hoạt
động báo chí và hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Đối với
công chúng, họ quan tâm nhiều đến chất lượng tin bài, hiệu quả tác động của
tin bài đó, họ không mấy quan tâm đến vấn đề thể loại của bài báo. Tuy nhiên,
đã là nhà báo chuyên nghiệp cũng như muốn tìm hiểu về một vấn đề thuộc về
hoạt động báo chí thì chắc chắn phải có những hiểu biết về thể loại báo chí.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô (năm 1985) thì “Thể loại là
khái quát hoá những đặc tính của một nhóm lớn các tác phẩm có cùng thuộc
tính về nội dung, hình thức, cách thể hiện tác phẩm của một thời đại, một giai
đoạn, một dân tộc hay một nền nghệ thuật thế giới”. [2, 10]
Từ điển tiếng Việt (năm 1992) coi thể loại là “ khuôn khổ, lối viết và

hình thức viết” [2, 10]
Tác giả Đinh Hường, trong bài Một số vấn đề thể loại báo chí quan
niệm: “Thể loại báo chí là hình thức biểu hiện cơ bản thống nhất và tương đối
ổn định của các bài báo, được phân chia theo phương thức phản ánh hiện
thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác để chuyển tải nội dung mang
tính chính trị - tư tưởng nhất định” [10, 402].
Tác giả Đức Dũng trong cuốn Các thể ký báo chí nhấn mạnh rằng:
“Thể loại báo chí là cách thức tổ chức tác phẩm, một kiểu tái hiện đời sống

11
hiện thực, một phạm vi nội dung xác định ứng với một hình thức tương đối ổn
định” [5, 61].
Các thể loại báo chí ra đời, hình thành và phát triển gắn chặt với
những hoàn cảnh lịch sử nhất định.
Khi đất nước còn chiến tranh, một số thể loại chiếm vị trí độc tôn trên
báo chí. Ví như thể loại Tin với những tin tức nóng bỏng hàng ngày hàng giờ
về tình hình chiến sự được truyền tới từng làng xóm, từng gia đình. Thể loại
Bình luận, Xã luận, Chuyên luận với ngôn từ đanh thép, lập luận sắc sảo,
chứng cớ rõ ràng đã thuyết phục công chúng tin tưởng hoàn toàn vào sự
nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất Tổ quốc và xây dựng CNXH.
Ngày nay, khi đất nước đã hoàn toàn yên tiếng súng, tình hình chính
trị, kinh tế đất nước đang dần ổn định và phát triển, người dân tập trung chăm
lo sản xuất, làm giàu, báo chí - phương tiện phản ánh cuộc sống cũng vì thế
có điều kiện phát triển hơn. Các tin bài ngày càng phong phú, đa dạng. Các
thể loại báo chí cũng không ngừng vận động, biến đổi. Phù hợp với sự phát
triển chung của báo chí, một vài thể loại mất đi (thể văn đả kích, châm biếm,
biếm hoạ chân dung chính trị, ), thay vào đó là sự xuất hiện của hàng loạt
các thể loại,dạng bài mới (đối thoại trực tuyến, nhật ký cá nhân blog, ). Các
thể loại, dạng bài này cũng được phân chia thành từng nhóm phù hợp với sự
kiện, vấn đề, nhân vật cũng như ý định, mục đích của người thể hiện hoặc cơ

quan báo chí, thậm chí phù hợp với lối nghĩ, phong tục tập quán của từng dân
tộc, quốc gia. Chính điều này đã tạo nên sự phong phú về cách hiểu, các phân
chia các thể loại báo chí của nhiều nền báo chí trên thế giới.
Theo PGS. TS Đinh Hường, các thể loại báo chí hiện nay được phân
chia làm 3 nhóm sau:
- Nhóm các thể loại báo chí thông tấn (gồm Tin, Phỏng vấn, Tường
thuật) với tính trội của nhóm là thông tin sự kiện có yếu tố bình luận mức độ.

12
- Nhóm các thể loại báo chí chính luận (gồm Xã luận, Bình luận,
Chuyên luận, Điều tra, Bài phê bình, ) với tính trội của nhóm là thông tin lý
lẽ.
- Nhóm các thể loại báo chí chính luận - nghệ thuật (gồm Phóng sự
báo chí, Ký báo chí, Tiểu phẩm báo chí, Câu chuyện báo chí, Ghi nhanh, )
với tính trội của nhóm là thông tin sự kiện, lý lẽ và thẩm mỹ.
Việc phân chia các thể loại báo chí theo ba nhóm như trên chủ yếu
dựa vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại. Cách phân chia này cũng chỉ
mang tính tương đối bởi các thể loại luôn có sự giao thoa, chuyển hoá, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. C.Mác đã nói rằng: “cũng như cuộc sống, báo chí luôn
nằm trong sự vận động, phát triển và không bao giờ có kết thúc” [4, 18]
Với tư cách là một thể loại thuộc nhóm thể loại chính luận - nghệ
thuật, Ký báo chí mang những đặc điểm chung nhất của nhóm. Đó là sự kết
hợp giữa yếu tố chính luận của báo chí (tư liệu, số liệu, sự kiện, nhân vật có
thật, chất lý luận, hùng biện, ) với các yếu tố của văn học nghệ thuật (ngôn
ngữ, hình ảnh, cảm xúc, thái độ, các thủ pháp so sánh, ) giúp tác phẩm vừa
thuyết phục công chúng vừa sinh động, mềm mại, hấp dẫn.
Ký báo chí đã tạo ra một “không gian sáng tạo giúp tác giả có thể
thông tin thời sự một cách sinh động, hấp dẫn”. Một điểm đặc biệt của Ký báo
chí là sự xuất hiện của cái Tôi trần thuật - tác giả - nhân chứng. Chính điểm
này đã giúp Ký báo chí có nhiều lợi thế hơn các thể loại báo chí khác trong

việc phản ánh hiện thực. Không chỉ là người thông tin khách quan, “tác giả
còn có quyền độc thoại, đối thoại với công chúng với tư cách là một nhân
chứng bình đẳng đối với cả nhân vật được phản ánh và những người tiếp nhận
sự phản ánh đó”.
Ngoài những đặc điểm bao trùm của nhóm các thể loại chính luận -
nghệ thuật trên, Ký báo chí có những nét đặc trưng riêng biệt đó là:

13
Thứ nhất, Ký báo chí phản ánh sự thật (thời sự, điển hình, ) thông
qua cái Tôi trần thuật - nhân chứng khách quan.
Thứ hai, Ký báo chí có kết cấu co giãn linh hoạt, bút pháp giàu chất
văn học trong việc phản ánh và thẩm định hiện thực.
Thứ ba, ngôn ngữ của Ký báo chí vừa là ngôn ngữ thông tin thời sự,
đồng thời giàu hình ảnh, có khả năng biểu cảm cao.
Do có sự tương đồng nên trong một thời gian dài tồn tại nhiều tranh
luận về Ký văn học và Ký báo chí. Việc phân biệt giữa Ký văn học và Ký báo
chí là việc làm cần thiết. Điều này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thể loại
Ký báo chí.
* Phân biệt Ký văn học và Ký báo chí:
Sự tương đồng giữa Ký văn học và Ký báo chí có thể được xác định ở
những điểm sau:
1/ Ký văn học và Ký báo chí đều viết về những người thật việc thật
trong cuộc sống. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn và thuyết phục của
Ký văn học và Ký báo chí.
2/ Ký văn học và Ký báo chí đều sử dụng bút pháp, ngôn ngữ giàu
chất văn học trong việc phản ánh hiện thực. Bởi thế Ký văn học và Ký báo chí
đều mang đến cho công chúng cái nhìn hiện thực rất tươi mới, sinh động, hấp
dẫn.
Tuy nhiên một loại xuất phát từ văn học (Ký văn học), một loại xuất
phát từ báo chí (Ký báo chí) với những đặc điểm rất khác nhau do đó giữa Ký

văn học và Ký báo chí có sự phân biệt cơ bản sau đây:





14
Tiêu chí
phân biệt
Ký văn học
Ký báo chí
Mục đích
- Xây dựng những hình tượng nghệ
thuật.
- Tác giả luôn có xu hướng muốn
vĩnh viễn hoá tác phẩm của mình.
- Phản ánh những con
người thật bằng xương
bằng thịt.
- Các tác phẩm mang
tính thời điểm và có giá
trị về tính thời sự.
Phương thức
phản ánh hiện
thực
- Tái hiện cuộc sống thông qua
những cảm xúc thẩm mỹ.
- Phản ánh hiện thực với
độ chính xác tối đa và
lập luận xuất phát từ lô

gíc của sự thật.
Chủ thể
- Cái Tôi thẩm mỹ
- Cái Tôi trần thuật -
nhân chứng khách quan,
tỉnh táo, lý trí.
Tính thời sự
- Không yêu cầu quá cao về tính
thời sự.
- Yêu cầu gắt gao về tính
thời sự.
Bút pháp
- Sử dụng tổng hợp nhiều cách thức
của văn học để tạo ra một giọng
điệu phong phú, sinh động.
- Thủ pháp hư cấu: lựa chọn, sắp
xếp, tổ chức các tư liệu, chi tiết, dữ
kiện + có sáng tạo thêm chi tiết mới
để thể hiện rõ bản chất sự việc, con
người hơn và tăng tính hấp dẫn.
- Thường sử dụng hồi tưởng hay trí
tưởng tượng để tái tạo hiện thực.
- Không chấp nhận hư
cấu dưới bất kỳ một hình
thức nào.
- Chấp nhận cảm xúc
nhưng phải là cảm xúc
trước sự thật để phản ánh
sự thật.


15
1.2. Ký chân dung báo chí - bộ phận quan trọng của thể loại Ký
báo chí:
1.2.1 . Ký chân dung báo chí là gì?
Trong các tài liệu hiện có về Ký chân dung, Ký chân dung được định
nghĩa là “một thể loại thuộc thể ký báo chí có đối tượng phản ánh là những
con người hay một tập thể người có thật, được coi là tiêu biểu vào những thời
điểm nhất định, đáp ứng yêu cầu thông tin thời sự. Đó là những con người hay
tập thể người có hành động, việc làm hoặc suy nghĩ nội tâm đáp ứng nhu cầu
thông tin của công chúng. Ký chân dung có kết cấu linh hoạt và bút pháp giàu
chất văn học” [8, 84].
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy có một số điểm đáng lưu ý:
Một là, đối tượng phản ánh trong Ký chân dung là con người. Về số
lượng, đối tượng phản ánh này có thể là một người hoặc một tập thể người.
Nhưng điều quan trọng hơn đây là những con người có thật, tiêu biểu, điển
hình trong những thời điểm nhất định. Trong tác phẩm, những con người này
luôn gắn với những việc làm, hành động, sự kiện cụ thể trong những hoàn
cảnh cụ thể, điển hình. Qua đó phẩm chất của nhân vật được bộc lộ một cách
rõ nét, chân thực, sâu sắc nhất. Con người trong ký chân dung là con người
hành động.
Hai là, đặc tả được coi là bút pháp chủ yếu trong Ký chân dung. Mặc
dù không phải là bút pháp duy nhất trong một tác phẩm Ký chân dung nhưng
đặc tả là bút pháp cơ bản, quan trọng nhất, được sử dụng nhiều nhất và phát
huy tác dụng rõ rệt nhất. Đối tượng phản ánh của Ký chân dung là những con
người có thật trong cuộc sống với những nét tiêu biểu, điển hình cho một vấn
đề hoặc một khía cạnh nào đó. Những con người này luôn gắn với những hoạt
động, hành động, sự việc cụ thể - đây chính là bối cảnh để con người đó bộc
lộ những phẩm chất, cá tính, suy nghĩ của mình. Trong khuôn khổ có hạn của

16

bài báo (đối với báo viết) hoặc thời lượng phát sóng (đối với phát thanh,
truyền hình) thì việc phác hoạ, làm nổi bật hình ảnh một con người rất cần
đến việc lựa chọn những chi tiết điển hình, đắt giá, những việc làm, hành
động tiêu biểu, gây ấn tượng nhất trong những hoàn cảnh, bối cảnh cụ thể,
điển hình. Đó là khi bút pháp đặc tả phát huy tác dụng. Nếu không có bút
pháp này, tác phẩm Ký chân dung báo chí sẽ trở nên lan man, dài dòng, không
có điểm nhấn. Nhân vật trong tác phẩm Ký đó cũng theo đó mà nhạt nhoà,
chìm lấp trong vô vàn con người khác. Điều đó cũng có nghĩa là tác phẩm Ký
chân dung đó đã thất bại.
Ba là, những tác phẩm Ký chân dung có rất nhiều giọng điệu khác
nhau: khi nghiêm túc, hào sảng, đĩnh đạc; khi hài hước nhẹ nhàng, khi châm
biếm sâu cay, Những sắc thái này phụ thuộc vào nhân vật được nhắc tới là ai
với hoạt động gì, phụ thuộc vào khả năng của nhà báo cũng như mục đích
thông tin mà nhà báo muốn gửi tới công chúng. Thái độ thẩm định của tác giả
được đặc biệt coi trọng. Vì thế, tác giả Đức Dũng trong cuốn sách Các thể ký
báo chí đã định nghĩa về Ký chân dung như sau: “Ký chân dung là một thể ký
báo chí mà đối tượng phản ánh là những con người thật, tiêu biểu cho một vấn
đề hoặc một khía cạnh nào đó mang tính thời sự, gắn với những hành động,
việc làm cụ thể trong những tình huống hoặc hoàn cảnh điển hình với bút
pháp đặc tả và thái độ thẩm định dứt khoát của tác giả” [5, 154]. Thái độ thẩm
định này của nhà báo bộc lộ qua nhiều yếu tố trong tác phẩm như: giọng điệu,
cách lựa chọn, sắp xếp, nhấn mạnh chi tiết, lời bình trực tiếp của tác giả, sự
liên tưởng, so sánh, đặt nhân vật trong mối tương quan với những người xung
quanh và với môi trường.
Bốn là, đối tượng được phản ánh trong Ký chân dung không chỉ được
khắc hoạ về diện mạo, hành động, suy nghĩ mà còn được nhấn mạnh ở bề dày

17
và chiều sâu. Tác giả có thể lục tìm lại quá khứ và rất nhiều mối quan hệ xung
quanh nhân vật để minh chứng cho phẩm chất của đối tượng được phản ánh.

Năm là, trong Ký chân dung không chấp nhận những con người có
nhiều mặt đối lập mâu thuẫn nhau, điều mà trong chân dung văn học vẫn
thường thấy.
Với những đặc điểm của mình, Ký chân dung báo chí có nhiều yếu tố
phân biệt với chân dung văn học và một số thể loại khác cùng nhóm thể loại
chính luận - nghệ thuật.
Khác với chân dung văn học, Ký chân dung báo chí không bó hẹp về
phạm vi đối tượng phản ánh ở những con người nổi tiếng mà chấp nhận một
đối tượng rộng rãi hơn, đa dạng hơn. Đó là những con người, những tập thể
người được coi là tiêu biểu, gắn với một bối cảnh cụ thể nào đó đáp ứng yêu
cầu tuyên truyền thời sự. Hơn nữa, đối tượng của tác phẩm Ký chân dung báo
chí thường có những hành động, việc làm suy nghĩ gắn liền với yêu cầu thời
sự. Tuy nhiên yêu cầu thời sự trong tác phẩm Ký chân dung không gấp gáp,
cập nhật như đối với tin hay ghi nhanh. Thời sự của Ký chân dung là thời sự
của từng giai đoạn, từng thời kỳ có một khoảng thời gian tương đối dài. Đó
cũng là điểm nhận dạng Ký chân dung giữa các thể loại báo chí khác.
1.2.2. Ký chân dung báo chí hình thành và phát triển nhƣ thế nào?
Do những hạn chế về tư liệu, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa thể xác
định chính xác thể Ký chân dung báo chí đã xuất hiện lần đầu tiên ở tờ báo
nào. Tuy nhiên theo các tài liệu nghiên cứu văn học, từ những năm hoạt động
ở nước ngoài, nhà báo cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều tác phẩm
thuộc Ký báo chí, trong đó có nhiều bài là Ký chân dung.
Trong các tác phẩm Ký chân dung của Người, hình ảnh con người
hiện lên rất phong phú, đa dạng, thuộc mọi tầng lớp, từ những tên thực dân
tàn ác, vô nhân tính, bỉ ổi, tàn nhẫn đến những con người nô lệ khốn khổ, bị

18
áp bức, chà đạp ở mọi nơi trên thế giới. Hình ảnh nào hiện lên cũng chân
thực, sinh động với ngòi bút khi thì cười cợt, châm biếm, đả kích, khi thì đầy
thương yêu, đồng cảm.

Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, dưới ngòi
bút sắc sảo, già dặn của mình, Nguyễn Ái Quốc đã khắc hoạ bộ mặt bỉ ổi, tàn
nhẫn của những tên quan toàn quyền, thống đốc như Méclanh, Phuốc, Cácbi,
Lơme, Bên cạnh đó, chân dung những cảnh đời nô lệ cũng hiện lên rõ mồn
một với ngòi bút đồng cảm xót xa, đó là những người bị dội nước sôi, những
người bị mổ bụng, moi gan, những người bị đánh đập hoặc bị hãm hiếp, Đó
là những bằng chứng chân thực nhất, sống động nhất về bản chất tàn ác, man
rợ, vô nhân tính của bọn thực dân và bè lũ tay sai.
Sau này, khi cách mạng Việt Nam phát triển mạnh mẽ, lôi kéo được
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, báo chí cũng góp phần không nhỏ
và trở thành lực lượng tiên phong, trở thành vũ khí chiến đấu lợi hại trong
công tác tuyên truyền, cổ động đường lối chính sách của Đảng, tập hợp nhân
dân dưới lá cờ do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Và một trong những thể loại báo
chí được sử dụng phổ biến nhất trong thời gian này chính là thể Ký chân
dung. Ở thời kỳ này, các thể loại báo chí có sự giao thoa. Ký chân dung cũng
thường xuất hiện xen kẽ trong các thể loại khác, đặc biệt là trong Phóng sự.
Con người hiện lên trong các tác phẩm Ký chân dung thời kỳ này có ba dạng:

19
1/ Chân dung của bọn người thuộc tầng lớp “ăn trên ngồi trốc”, bao
gồm bọn thực dân, bè lũ quan lại tay sai và hình ảnh của những me Tây lúc
nào cũng ăn ngon mặc đẹp, quần áo lụa là.
2/ Đối lập với sự ăn chơi, xa hoa, tàn nhẫn trên là hình ảnh những con
người lầm than, dưới đáy xã hội đang tìm đủ mọi cách để tồn tại trong xã hội
thối nát này, thậm chí cả những con người bị tha hoá, lưu manh hoá, phải
dùng đủ các thủ đoạn lừa lọc để sống. Những cảnh đời, những số phận ấy cứ
mồn một hiện lên trong hàng loạt các bài Ký chân dung của các nhà báo, nhà
văn hiện thực như Hải Triều, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, với
hàng loạt các tác phẩm như: Việc làng, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô,
Làm đĩ, Một huyện ăn Tết,

3/ Bên cạnh đó, hình ảnh của cách mạng, hình ảnh của những người
dân quân, chiến sỹ, hình ảnh của những em bé, phụ nữ cam đảm, quyết tâm
vùng lên đi theo cách mạng cũng được khắc hoạ trong các bài báo thuộc dòng
báo chí cách mạng. Các tác giả thường xuất hiện là Nguyễn Ái Quốc (với
nhiều bút danh khác nhau), Qua Ninh (bút danh của đồng chí Trường Chinh),
Vân Đình (bút danh của đồng chí Võ Nguyên Giáp) Nhà hoạt động chính trị,
nhà báo, nhà văn hoá Nguyễn Văn Nguyễn từ năm 1936 đã có những bài Ký
chân dung sâu sắc, đậm nét về những nữ đồng chí với những mối tình cảm
động, về một bé trai bán hột vịt lộn, về cô bé bán chè - những lao động trẻ thơ
khao khát có được cuộc sống ấm no. Ông còn có những tác phẩm Ký chân
dung về những người tù ở khám lớn Sài Gòn hay Côn Đảo với cách viết rất
sinh động, sắc sảo.
Trong số các nhà báo cách mạng, Bác Hồ là người đặc biệt quan tâm
đến việc khắc hoạ chân dung con người, nhất là việc nêu gương Người tốt -
Việc tốt. Ngay từ năm 1946, Người đã viết nhiều bài cho báo Cứu Quốc và
căn dặn “ mỗi ngày nên đăng một cái “bảng vàng” kể về một việc oanh liệt

20
trong cuộc kháng chiến, ,chừng 15, 20 dòng đóng khung” [35]. Bác cũng là
tác giả của nhiều bài Ký chân dung về những tấm gương đáng noi theo trong
kháng chiến như: Anh hùng Lý Tự Trọng, Thanh niên kiểu mẫu, Võ Thị Sáu,
Nhớ ơn các chiến sỹ anh hùng,
Có thể nói trong nhiều thập kỷ qua, thể Ký chân dung mà dạng bài
xung kích của nó là Người tốt - Việc tốt đã có những đóng góp quan trọng
thiết thực cổ vũ và khuyến khích thanh niên ra chiến trường chống Mỹ, cứu
nước; động viên nhân dân ta ra sức thi đua xây dựng miền Bắc vững mạnh,
làm hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đó là các phong trào
Thanh niên xung kích, Ba sẵn sàng, Ba đảm đang, Ba nhất, Hai giỏi, Dạy tốt,
học tốt, Khi phong trào phát triển, Bác phấn khởi khen ngợi: “Mỗi người tốt
là một bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp. Phải làm sao cho mỗi

bông hoa đã đẹp, lại đẹp hơn để rừng hoa dân tộc càng thêm đẹp”.
Hiện nay, khi đất nước đổi mới được hơn 20 năm, Việt Nam đã gia
nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, cả dân tộc đang hoà mình với thế
giới, cuộc sống nhân dân đang thay đổi từng ngày, đời sống báo chí vì thế
cũng có sự chuyển mình, phát triển theo chiều hướng năng động hơn, thông
tin phong phú, đa dạng, đa chiều hơn. Ngoài việc nhanh nhạy nắm bắt những
thông tin “nóng”, những sự kiện đang được công chúng quan tâm, các bài Ký
chân dung trên báo chí cũng thiên về cách phản ánh hình ảnh con người rất
khách quan, chân thực với phong cách giản dị, mộc mạc khiến công chúng
nhìn vào đó tự rút ra cho mình những suy ngẫm, bài học, kinh nghiệm cho
bản thân. Lối viết chân dung đao to búa lớn, thiên về răn dạy với những lời lẽ
hùng hồn mang tính định hướng rõ rệt của giai đoạn trước đã không còn phù
hợp với giai đoạn mới này. Ở thể loại Ký chân dung, ngoài những bài viết
Người tốt - Việc tốt quen thuộc còn xuất hiện nhiều bài viết về những chân
dung “đen”, “người xấu việc xấu” tuy nhiên những bài viết Người tốt - Việc

21
tốt vẫn chiếm ưu thế. Trong khuôn khổ của luận văn này, chúng tôi tập trung
tìm hiểu về Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên báo chí.
Mặc dù vẫn lựa chọn đối tượng phản ánh là những con người với việc
làm tiêu biểu trong từng giai đoạn nhất định với bút pháp đặc tả là chủ yếu
nhưng những tác phẩm Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên các phương
tiện thông tin đại chúng khác nhau lại mang những đặc điểm riêng biệt phù
hợp với từng loại hình báo chí. Ở luận văn này, chúng tôi tập trung tìm hiểu
Ký chân dung Người tốt - Việc tốt trên hai loại hình báo chí tiêu biểu: báo in
và báo hình để khẳng định: Ký chân dung báo in là cơ sở văn bản của Ký
chân dung truyền hình.

1.3. Ký chân dung báo in - cơ sở văn bản của Ký chân dung
truyền hình:

1.3.1. Ký chân dung báo in và những đặc điểm nổi trội:
Là loại hình phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện đầu tiên, báo
in đã sớm mang trong mình những đặc điểm cơ bản nhất, chung nhất của báo
chí. Vì thế Ký chân dung báo in được coi là gần nhất với những lý luận về thể
loại Ký chân dung và trở thành cơ sở cho Ký chân dung trên các loại hình báo
chí xuất hiện sau này.
Thực tế trong nhiều năm qua, những thành quả to lớn mà chúng ta đã
giành được trong công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc luôn gắn liền với
việc tổ chức có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước trên phạm vi cả nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của phong trào thi đua yêu nước trong toàn
dân và việc nêu gương Người tốt - Việc tốt, thực hiện theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã đề ra
những chủ trương củng cố, tăng cường và đổi mới công tác thi đua khen
thưởng nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.

22
Bộ Chính trị đã yêu cầu các cấp uỷ Đảng, các đảng đoàn, Ban cán sự Đảng,
Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đặc biệt là các cơ quan báo chí phải tập
trung làm tốt nhiệm vụ này, coi đây là công tác then chốt trong quá trình hoạt
động báo chí.
Trong phong trào thi đua yêu nước, báo chí đã góp tiếng nói không
nhỏ giúp tổ chức, thông tin, truyền bá những tấm gương Người tốt - Việc tốt
sâu rộng khắp trong cả nước. Rất nhiều tờ báo, tạp chí đều có những tác phẩm
Ký chân dung Người tốt - Việc tốt khen ngợi các tập thể và cá nhân có nhiều
thành tích đóng góp cho xã hội. Có thể điểm qua một số tờ báo, tạp chí ở Việt
Nam hiện nay với những chuyên mục Người tốt - Việc tốt như sau:
- Báo Nhân dân có các chuyên mục: Những tấm gương bình dị mà cao quý,
Nhân vật hàng tháng, Nguồn lực trẻ,,
- Báo Lao động (số ra hàng ngày) có các chuyên mục: Đền ơn đáp nghĩa, Tấm
lòng vàng, Cảnh đời, Nhân vật,

- Báo Lao động (số cuối tuần) có các chuyên mục: Văn hoá- Văn nghệ, Thời
gian tạo nên giá trị,
- Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh (số ra hàng ngày ) có các chuyên mục:
Theo gương Bác, Góc phố đời người, Nhịp sống trẻ,
- Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh ( số cuối tuần) có các chuyên mục:
Nhịp sống trẻ, Người đương thời, Giáo dục, Điện ảnh, Văn hoá,
- Báo Thanh niên có các chuyên mục: Thanh niên&Cuộc sống, Gặp gỡ đầu
tuần, Nhân vật, Tiếp cận,…
- Báo Tiền Phong có các chuyên mục: Chuyện riêng người nổi tiếng, Gặp gỡ
chủ nhât, Câu chuyện doanh nhân,
- Báo Thể thao văn hoá có các chuyên mục: Trò chuyện cuối tuần, Phỏng vấn
cầu thủ,

×