Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Hiện đại hóa quân sự Trung Quốc hai mươi năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 117 trang )


4
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






LÊ THỊ TUYẾT MAI






HIỆN ĐẠI HOÁ QUÂN SỰ TRUNG QUỐC
HAI MƯƠI NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI





LUẬN VĂN THẠC SĨ





Chuyên ngành: Châu Á học








HÀ NỘI - 2010



5
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







LÊ THỊ TUYẾT MAI





HIỆN ĐẠI HOÁ QUÂN SỰ TRUNG QUỐC
HAI MƯƠI NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI






LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH CHÂU Á HỌC
Mã số: 60.31.50




Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Đỗ Minh Cao






HÀ NỘI - 2010

6
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 4
Chương 1: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI HÓA
QUÂN SỰ TRUNG QUỐC 12
1.1. Những yếu tố chi phối đến tiến trình hiện đại hóa quân sự của trung
quốc 12
1.2. Khái quát tiến trình hiện đại hóa quân sự của trung quốc đến năm
1991 24
1.3. Quá trình phát triển tư tưởng hiện đại hoá quân sự của các thế hệ lãnh
đạo gần đây 32

Chương 2: HIỆN ĐẠI HÓA QUÂN SỰ CỦA TRUNG QUỐC TỪ NĂM
1991 ĐẾN NAY 42
2.1. Bối cảnh của tiến trình hiện đại hóa quốc phòng trung quốc từ năm
1991 đến nay 42
2.2. Những bước phát triển mới về tiềm lực quân sự của trung quốc 49
Chương 3: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN QUÂN SỰ CỦA TRUNG QUỐC
ĐẾN NĂM 2020 VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ẢNH HƯỞNG
ĐỐI VỚI THẾ GIỚI, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM 78
3.1. Xu hướng phát triển tiềm lực quân sự của trung quốc đến năm 2020 78
3.2. Tác động của sự phát triển tiềm lực quân sự trung quốc đối với thế
giới, khu vực và việt nam 103
KẾT LUẬN 110


4
LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Thời gian gần đây, TQ đang “trỗi dậy” mạnh mẽ, kinh tế phát triển
nhanh liên tục, sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng được tăng cường, ảnh
hưởng quốc tế ngày càng được mở rộng, trở thành một thế lực mới trong cán
cân quyền lực quốc tế. Có được những thành tựu đó phải kể đến công cuộc cải
cách mở cửa mà TQ đã theo đuổi hơn 30 năm qua. Để tiếp tục công cuộc cải
cách mở cửa do Đặng Tiểu Bình khởi xướng, TQ đã đang và sẽ tiến hành
“Bốn hiện đại hoá”, là những bộ phận cấu thành sức mạnh tổng hợp quốc gia
của mình. Hiện đại hoá quân sự là công cuộc khó khăn phức tạp, tuy nhiên,
trong lĩnh vực này, TQ đã đạt được những thành tựu nhất định. Hiện nay, về
sức mạnh quân sự, TQ được đánh giá là một trong số những quốc gia hàng
đầu thế giới.
Việt Nam và TQ là hai nước láng giềng có quan hệ truyền thống lâu đời.

Thời gian gần đây, với sự nỗ lực của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai
nước, quan hệ Việt – Trung đã có bước phát triển vượt bậc, quan hệ “đối tác
hợp tác chiến lược toàn diện” trên cơ sở “phương châm 16 chữ” và “tinh thần
4 tốt” ngày càng đi vào chiều sâu, mang lại lợi ích thiết thực cho hai nước.
Quan hệ quốc phòng hai nước cũng có những bước phát triển cần ghi nhận.
Thêm vào đó, sự tương đồng về thể chế chính trị cũng như việc cả hai nước
Việt Nam và TQ cùng lựa chọn con đường phát triển chủ nghĩa xã hội như
hiện nay cũng làm cho mối quan hệ giữa hai quốc gia trở nên đặc biệt. Theo
đó, những bước phát triển của TQ luôn có giá trị tham khảo lớn đối với Việt
Nam.
Nghiên cứu đề tài “Hiện đại hoá quân sự Trung Quốc 20 năm đầu thế
kỷ 21” nhằm đưa ra được bức tranh tương đối hoàn thiện về hiện đại hoá quân

5
sự của TQ trong những năm đầu thế kỷ 21, cũng như thấy được những ảnh
hưởng nhiều chiều của công cuộc này đối với tình hình an ninh trong khu vực
nói riêng và trên thế giới nói chung. Qua một số bài học được và chưa được
của công cuộc hiện đại hoá quân sự của TQ, những nước có quan hệ với nước
này có thể có những bước đi phù hợp trong quan hệ với TQ trong thời kỳ
ngắn, trung và dài hạn trong đó có Việt Nam. Đồng thời, phát huy những bài
học tích cực trong xây dựng lực lượng quân sự hiện đại, đặc biệt trong công
nghiệp quốc phòng “kép” – “quân sự - dân sự”, giúp một số nước, trong đó có
Việt Nam tăng cường hiệu quả của chính sách và việc thực hiện đường lối kết
hợp quân, dân thúc đẩy phát triển chung của đất nước. Đề tài hoàn thành có
thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nhận diện TQ nói chung, tài liệu
tham khảo giảng dậy về TQ hiện đại tại các trường đại học Việt Nam, đặc biệt
là các trường quân sự.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
TQ hiện đại hoá toàn diện thành công là một hiện tượng được giới
nghiên cứu quốc tế, trong nước đặc biệt quan tâm từ cuối thế kỷ 20 cho đến

nay. Từng mặt của bốn hiện đại hoá, toàn diện bốn hiện đại hoá đều là những
vấn đề khiến thế giới nghiên cứu mổ xẻ, bàn luận và đưa ra những kết luận,
tổng kết đủ loại như “mô hình TQ”, “bài học TQ”. Chính vì vậy, vấn đề hiện
đại hoá quân sự của TQ được nhiều chuyên gia, học giả nghiên cứu và bàn
luận.
Ở nước ngoài, đặc biệt là Mỹ và phương Tây có nhiều công trình nghiên
cứu quy mô. Trong hệ thống các tác phẩm nghiên cứu về hiện đại hoá quân sự
TQ viết bằng tiếng Anh, có thể kể tên những tác phẩm như “Cuộc cách mạng
về học thuyết quân sự của Trung Quốc" của James C.Mulvenon và David
M.Finkelstein (quan chức Mỹ), từ những thông tin thu thập được, hai tác giả
đã phân tích và tập trung phản ánh về chiến lược và học thuyết tác chiến chiến

6
dịch mới của quân đội TQ những năm đầu thế kỷ 21, đồng thời phản ánh
những đánh giá quan trọng của hai tác giả về nguyên nhân, mục tiêu, phương
hướng, nguyên tắc của việc chuyển đổi chiến lược và học thuyết quân sự của
TQ; chỉ ra ảnh hưởng của quá trình chuyển đổi này đối với các nước trong
khu vực và các cường quốc lớn. Bộ Quốc phòng Mỹ hàng năm đều đưa ra
“Báo cáo Sức mạnh quốc phòng của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa”, trong
đó nêu ra những vấn đề mới, những phát triển mới về mặt vũ khí trang bị, học
thuyết quân sự, ngân sách quốc phòng của TQ qua từng năm, đưa ra những
ảnh hưởng của sức mạnh quốc phòng TQ tới thế giới, khu vực.
Ở trong nước TQ, làn sóng nghiên cứu về quá trình hiện đại hoá quân sự
của TQ và chỉ ra những bài học kinh nghiệm của quá trình này cũng lan toả
trong giới học giả quân sự cũng như dân sự. Có thể kể đến một số tác phẩm
như "Suy ngẫm triết học về cuộc cải cách quân sự màu sắc Trung Quốc" của
Hứa Chí Công chủ biên do Nhà xuất bản Quân giải phóng TQ phát hành năm
2008, trong đó chủ yếu tập trung bàn về sự phát triển tư tưởng cải cách quân
sự gắn với yếu tố triết học và nâng cao khả năng tư duy chiến lược để thúc
đẩy có hiệu quả quá trình hiện đại hoá quân sự. Trong ấn phẩm “Chiến lược

quốc tế và cuộc cải cách quân sự mới” của Hùng Quang Khải (nguyên Phó
Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân TQ) xuất bản năm 2003,
tác giả đã dành trọn Phần II bàn về chính sách quốc phòng của TQ những năm
đầu thế kỷ 21 và yêu cầu xây dựng quân đội phù hợp với xu thế an ninh quốc
tế.
Ở Đài Loan, các học giả Đài Loan cũng dày công nghiên cứu về quá
trình hiện đại hoá quân sự của TQ và đề xuất các biện pháp đối phó trong
chiến tranh tương lai. Có thể kể đến “Tìm hiểu sức mạnh quân sự TQ thế kỷ
21: đi theo con đường đánh thắng cuộc chiến tranh công nghệ cao” của tác
giả Trần Mạnh Hào xuất bản năm 2000. Tác giả dành 3 chương đầu của cuốn

7
sách lý giải tại sao TQ hiện đại hoá quân sự và sức mạnh quân sự của TQ
trong thế kỷ 21 sẽ đạt được tới mức nào. Chương 4, tác giả đặt tưởng định về
một số cuộc chiến mà TQ sẽ tham gia và đưa ra những đối sách của quân đội
TQ. Tác giả kết thúc công trình nghiên cứu của mình bằng những suy ngẫm
của mình về ngoại giao phòng ngự và an ninh khu vực. Trong ấn phẩm “Hiện
đại hoá quân sự TQ: lộ trình, thách thức và triển vọng” của David
Shambaugh phát hành năm 2004, tác giả đã giúp người đọc hiểu được tầm
quan trọng và tính phức tạp của quân đội TQ, hiểu được thực chất việc cùng
tồn tại như là một tất yếu của Mỹ và các quốc gia láng giềng ở khu vực Đông
Á và Nam Á của TQ với quân đội TQ hùng mạnh. Đồng thời, tác giả cũng
phần nào lý giải các vấn đề mọi người hoài nghi về quân đội TQ như hiện đại
hoá với nhịp độ ra sao, sử dụng sức mạnh quân sự mới như thế nào
Tình hình nghiên cứu hiện đại hoá của quân đội TQ ở Việt Nam cũng rất
sôi nổi. Có rất nhiều các bài viết ở góc độ nghiên cứu một vấn đề, một mặt
của quá trình hiện đại hoá và cũng có những ấn phẩm nghiên cứu quá trình
hiện đại hoá quân sự TQ ở các giai đoạn khác nhau hoặc lồng ghép hiện đại
hoá quân sự trong các vấn đề khác lớn hơn. Hàng năm, Viện nghiên cứu TQ
thường xuất bản cuốn sách toàn diện về các mặt của TQ, trong đó bao giờ

cũng có mảng an ninh, quốc phòng, viết về những phát triển mới về lý luận
quân sự, trang bị vũ khí, hoạt động đối ngoại quốc phòng nổi bật trong năm.
Một số bài viết của các tác giả trong quân đội Việt Nam nghiên cứu về quân
sự TQ có thể kể đến như “Chính sách quốc phòng và Phương châm chiến
lược quân sự của TQ” của Đại tá - Thạc sỹ Nguyễn Ngọc Điệp (2009) trên
báo Biên phòng online ngày 28.10.2009, hay các bài nghiên cứu của các tác
giả ngoài quân đội như bài “Cương lĩnh quân sự TQ trong thời đại mới” của
Thanh Hà trên Bản tin VIT (2009), bài “Thử bàn về sức mạnh của TQ” của
Nguyễn Hải Hoành trên Bản tin VIT Online ngày 08.7.2010 Các bài viết

8
của các tác giả đều tập trung làm rõ một số những điểm mới cơ bản về sức
mạnh quân sự của TQ trong giai đoạn hiện nay và việc bố trí, sử dụng lực
lượng của TQ trong thực hiện chiến lược Hải Dương Xanh, chiến lược “phát
triển hoà bình”. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện đại hoá quân sự của TQ ở Việt
Nam vấp phải một khó khăn đó là dữ liệu của TQ và phương Tây công bố rất
khác nhau và cho đến tận năm 2002, TQ thực sự mới có những công bố chính
thức về chính sách và số liệu.
Ngoài ra, các nhà xuất bản trong nước cũng xuất bản nhiều tài liệu biên
dịch từ các cuốn sách do nước ngoài ấn hành có liên quan đến TQ và vấn đề
hiện đại hoá quân sự của họ, đặc biệt là những cuốn sách do các học giả TQ,
Đài Loan, Mỹ và phương Tây phát hành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hiện đại hóa quân sự của TQ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong 20 năm đầu của thế kỷ 21
và dự báo xu hướng phát triển những năm tiếp theo.
Phân kỳ trong nghiên cứu TQ tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu để có các
kiểu phân kỳ khác nhau, nghiên cứu về kinh tế - xã hội có thể phân kỳ theo kế
hoạch 5 năm một lần của ĐCS TQ, hoặc có thể phân kỳ theo các kỳ đại hội

ĐCS TQ, nghiên cứu về quan hệ quốc tế của TQ với các nước có thể phân kỳ
theo cách lựa chọn mốc từ cải cách mở cửa đến nay (từ năm 1978 đến nay)
hoặc từ những mốc có những dấu ấn đặc biệt giữa hai nước. Cũng có thể áp
dụng tất cả các dạng phân kỳ này cho một lĩnh vực nghiên cứu cụ thể. Tuy
nhiên, tác giả luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu hiện đại hoá quân sự của
TQ trong 20 năm đầu thế kỷ 21 và lựa chọn làm sáng tỏ quá trình hiện đại hoá
quân sự từ năm 1991 đến nay bởi một số lý do: thứ nhất, tình hình thế giới,
khu vực có nhiều biến chuyển sau sự sụp đổ của Liên Xô; thứ hai, hình thái

9
chiến tranh trên thế giới có những đổi mới (sự xuất hiện hình thái chiến tranh
cục bộ trong điều kiện công nghệ cao hiện đại); thứ ba, TQ đẩy mạnh hơn nữa
quá trình cải cách mở cửa, thu được nhiều thành tựu đáng kể và cuối cùng là
“thập kỷ 1990 là thời kỳ PLA bắt đầu thực hiện hàng loạt cuộc cải cách với
mục tiêu nâng lực lượng vũ trang tương lai của TQ lên thành một lực lượng
chuyên nghiệp hơn và có năng lực tác chiến hơn” [33,tr.15] “PLA thực hiện
chương trình cải cách và hiện đại hoá sâu sắc hơn, phạm vi bao trùm lên toàn
bộ các khía cạnh hoạt động (phát triển khái niệm tác chiến mới và kỹ thuật
tiến hành chiến tranh; hiện đại hoá vũ khí, công tác tuyển quân, giữ và quản lý
quân, huấn luyện, điều chỉnh cơ cấu lực lượng ) và qui mô được đo bằng
bước ‘nhảy vọt’ về trí tuệ, khả năng chuyên nghiệp và về khái niệm phải gạt
sang một bên những quyền lợi cục bộ lâu đời cũng như những tư duy thiển
cận để đưa quân đội TQ tiến vào thế kỷ 21.” [33,tr.17]
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn sử liệu
Đề tài thuộc lĩnh vực quân sự, mang tính bao quát cao do vậy những
phương pháp nghiên cứu sau đây đã được áp dụng:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: để có cái nhìn chung toàn diện về
bức tranh hiện đại hóa quân sự tại TQ.
- Phương pháp lịch sử: Để những sự kiện diễn ra theo trình tự đem lại sự
rõ ràng, rành mạch cho độc giả.

- Phương pháp thống kê: Sẽ có những con số thống kê nhấn mạnh sự
phát triển của những vấn đề, nhân tố thuộc đề tài.
- Phương pháp dự báo: dự báo (forecasting, projection, prognosis) cao
hơn dự đoán (guessing, predicting, crystal ball gazing) bởi dự báo sử dụng
những cứ liệu khoa học thay vì chỉ phỏng đoán (kết quả) một cách cảm tính
để Việt Nam có được những đối sách phù hợp hơn với tình hình mới trong
lĩnh vực quân sự của TQ.

10
Nguồn sử liệu: tác giả có sử dụng một số các tài liệu và sử liệu chính
phục vụ cho quá trình nghiên cứu là các văn kiện Đại hội ĐCS TQ khoá 16 và
17; các bài phát biểu của lãnh đạo Đảng, nhà nước và các tướng lĩnh quân đội
TQ, các sách trắng quốc phòng TQ.
5. Cấu trúc của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Quá trình phát triển tư tưởng hiện đại hoá quân sự của
Trung Quốc. Chương này được bố cục làm ba phần: Những vấn đề chi phối
đến hiện đại hoá quân sự TQ, quá trình hiện đại hoá quân sự TQ đến năm
1991 và quá trình phát triển tư tưởng hiện đại hoá quân sự của các thế hệ lãnh
đạo TQ. Chương này tập trung nêu khái lược về những yếu tố tác động đến
quá trình hiện đại hoá quân sự TQ và quá trình hiện đại hoá từ thời cổ đại đến
năm 1991, đặc biệt là sự phát triển tư duy hiện đại hoá quân đội của người
đứng đầu đất nước, đứng đầu quân uỷ trung ương - yếu tố tác động sâu sắc
nhất nhưng cũng cụ thể nhất đến tiến trình hiện đại hoá quân sự.
Chương 2: Hiện đại hoá quân sự Trung Quốc từ năm 1991 đến nay. Nội
dung chủ yếu của chương này là phân tích làm rõ những bước phát triển mới
về tiềm lực quân sự của TQ có ảnh hưởng đến thế giới, khu vực.
Chương 3: Xu hướng phát triển quân sự của Trung Quốc đến năm 2020
và những tác động ảnh hưởng đối với thế giới, khu vực và Việt Nam. Trong
chương này đưa ra một số dự báo về phát triển tiềm lực quân sự TQ 20 năm

đầu thế kỷ 21 và ảnh hưởng tới thế giới, khu vực và Việt Nam. Đồng thời, nêu
ảnh hưởng, một số kinh nghiệm và bài học của hiện đại hóa quân sự của TQ
đối với Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu tham khảo gồm các ấn phẩm, tài
liệu, tạp chí trong và ngoài nước liên quan đến vấn đề cải cách quân sự trên
thế giới, cải cách quân sự của TQ, cải cách học thuyết quân sự của TQ

11
Chương 1
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI HÓA QUÂN SỰ
TRUNG QUỐC

1.1. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI ĐẾN TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA
QUÂN SỰ CỦA TRUNG QUỐC
1.1.1. Yếu tố bên ngoài – làn sóng cải cách quân sự trên thế giới
Sự phát triển của TQ không tách rời thế giới. Hiện đại hóa quân đội TQ
cũng không nằm ngoài trào lưu cải cách quân sự thế giới. Từ những năm 60,
70 của thế kỷ 20, cùng với việc ứng dụng rộng rãi cuộc cách mạng công nghệ
mới vào lĩnh vực quân sự, lĩnh vực quân sự thế giới đã có một cuộc cải cách
sâu sắc – từ chiến tranh cơ giới hóa từng bước chuyển sang chiến tranh thông
tin hóa. Có thể nói, đây là một cuộc cách mạng thực sự về chiến tranh, là một
cuộc cải cách sâu sắc, rộng rãi mà tới nay vẫn chưa kết thúc trong lịch sử
quân sự nhân loại.
(1) Cuộc cải cách quân sự trên thế giới là một cuộc cải cách xuyên thế
kỷ, ảnh hưởng sâu rộng tới các nước trong đó có Trung Quốc
Alvin Toffler - học giả người Mỹ chia sự phát triển của xã hội loài người
thành ba giai đoạn xã hội nông nghiệp, xã hội công nghiệp và xã hội thông tin,
tương ứng với đó, lĩnh vực quân sự của loài người cũng trải qua một số giai
đoạn mang tính lịch sử - chiến tranh bằng vũ khí lạnh, chiến tranh bằng vũ khí
nóng, chiến tranh cơ giới hóa và chiến tranh thông tin.

Khoảng 2000 năm trước Công nguyên, người châu Á dẫn đầu trong
việc chế tạo vũ khí lạnh và sử dụng vào chiến tranh. Thời kỳ từ Thương, Hán
tới Tống, Nguyên, TQ dẫn đầu trong việc chế tạo vũ khí bằng sắt và sử dụng
trong chiến tranh. Thế kỷ 10 sau Công nguyên, lần đầu tiên người TQ phát
minh ra thuốc nổ, đồng thời dẫn đầu thế giới chế tạo ra các loại vũ khí như

12
hỏa tiễn, súng… Sau khi thuốc nổ đến phương Tây, người phương Tây dẫn
đầu trong việc kết hợp thuốc nổ với công nghiệp chế tạo cơ khí khiến cho
súng, đạn dần trở thành binh khí chủ chiến mới, chiến tranh bằng vũ khí nóng
súng đạn dần bước vào giai đoạn hoàn thiện. Việc sử dụng vũ khí nóng ở TQ
đã kéo dài 9 thế kỷ từ Bắc Tống tới Nam Tống, triều Nguyên, Minh tới cuộc
chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất triều Thanh (năm 1840). Còn người
phương Tây cũng sử dụng vũ khí nóng kéo dài hơn 600 năm từ thế kỷ 14 sau
công nguyên đến thế kỷ 19. Bắt đầu từ giữa thế kỷ 18, châu Âu nổ ra cuộc
cách mạng công nghiệp, đẩy nhanh tiến trình phát triển của xã hội. Bước vào
thế kỷ 19, lần lượt ra đời động cơ đốt trong, vô tuyến điện… cùng với thời đại
công nghiệp của xã hội phương Tây, chiến tranh cũng dần đi tới giai đoạn cơ
giới hóa. Đặc biệt trải qua hai cuộc đại chiến thế giới, chiến tranh cơ giới hóa
trở thành hình thái chiến tranh điển hình.
Bắt đầu từ thập kỷ 60, 70 của thế kỷ 20, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của cuộc cách mạng công nghệ mới với công nghệ thông tin là cốt lõi, xã
hội loài người dần chuyển từ thời đại công nghiệp sang thời đại thông tin.
Tương ứng, một cuộc cải cách quân sự mới cũng bắt đầu trong lĩnh vực quân
sự thế giới. Cuộc cải cách quân sự thế giới đã trải qua quá trình 30 năm đến
nay vẫn chưa kết thúc, hiện nay đã bước vào một giai đoạn thực chất mới.
Mười năm thai nghén của cuộc cách mạng quân sự là khoảng thời gian
từ khi xuất hiện “bom thông minh” sau chiến tranh Việt Nam cho tới cuối
những năm 70 của thế kỷ 20. Những nước phát triển như Mỹ ngày càng coi
trọng nghiên cứu chế tạo loại vũ khí dẫn đường chính xác này. Đồng thời, Mỹ

cũng tập trung nghiên cứu chế tạo hệ thống chỉ huy tự động hóa C
3
I (chỉ huy,
kiểm soát, thông tin liên lạc và tình báo), những năm 70 về cơ bản đã thực
hiện tự động hóa chỉ huy. Như vậy, phát triển vũ khí dẫn đường thông minh

13
và hệ thống tự động hóa chỉ huy là trụ cột công nghệ vật chất cơ bản nhất để
thai nghén cuộc cải cách quân sự mới.
Mười năm đặt nền móng là khoảng thời gian từ khi đưa ra “Dự báo
Ogarkov” tới cuối những năm 80. Năm 1979, Tổng tham mưu trưởng Liên Xô
cũ đã nhìn thấy những đổi mới bất ngờ xảy ra trong lĩnh vực quân sự, dự báo
sự xuất hiện công nghệ tiên tiến tất sẽ dẫn đến “cuộc cách mạng công nghệ
quân sự mới”. Ông chỉ rõ, công nghệ thông tin với máy tính điện tử là cốt lõi
phát triển nhanh chóng, vũ khí dẫn đường chính xác ra đời số lượng lớn, tất
yếu sẽ phá vỡ mô hình phát triển cũ của quân đội, thúc đẩy nổ ra cuộc cải
cách mới về quân sự. “Dự báo Ogarkov” gây được sự chú ý trong lĩnh vực
quân sự thế giới, nghiên cứu chế tạo công nghệ mới dần hình thành làn sóng
ảnh hưởng tới sự phát triển quân sự. Đặc biệt Mỹ đã hình thành Ủy ban
chuyên nghiên cứu và đánh giá vấn đề cải cách quân sự mới mà “Dự báo
Ogarkov” nêu ra. Quân đội Mỹ đã nghiên cứu đưa ra lý luận mới tác chiến
“nhất thể trên không và mặt đất”, tích cực phát triển nhiều hệ thống vũ khí
thông tin hóa như tên lửa “Patriot”, máy bay trực thăng “Apache”, hệ thống
liên hợp theo dõi và tấn công mục tiêu, đồng thời cải cách biên chế quân đội
tương ứng. Thời kỳ này, cải cách quân sự mới trên phạm vi toàn thế giới bước
đầu lộ rõ.
Mười năm phát triển là chỉ khoảng thời gian từ khi nổ ra chiến tranh
vùng Vịnh tới cuối thập kỷ 90. Năm 1990, chiến tranh vùng Vịnh lần thứ
nhất nổ ra, vũ khí công nghệ cao mới được sử dụng với số lượng lớn, một loạt
phương pháp tác chiến công nghệ cao như chiến tranh điện tử, chiến tranh

thông tin, tấn công trên không và tấn công chính xác tầm xa… đã phản ánh
những thay đổi cơ bản trong phương thức tác chiến và hình thái chiến tranh,
có ý nghĩa vượt thời đại. Thượng tướng Lục quân Mỹ Henry nói “Chúng ta đã
nhìn thấy cuộc cải cách quân sự mới trong chiến tranh vùng Vịnh”.[23, tr.64]

14
Sau chiến tranh vùng Vịnh, cuộc cải cách quân sự mới phát triển nhanh chóng
ở Mỹ. Trải qua chiến tranh Côsôvô, chiến tranh Apganistan, chiến tranh Irac,
cải cách quân sự mới trên thế giới bước vào một giai đoạn thay đổi thực chất.
Mỹ vượt xa các nước khác hình thành ưu thế quân sự tuyệt đối, tuy nhiên vẫn
không ngừng đẩy mạnh đầu tư, đẩy nhanh sự thay đổi toàn diện của quân đội.
Quân đội Mỹ đang phát triển khả năng tấn công chính xác tầm xa toàn cầu,
đồng thời đang thực hiện kế hoạch “hệ thống tác chiến tương lai”. “Hệ thống
tác chiến tương lai” được tạo bởi nhiều hệ thống như xe mặt đất có người lái
và không người lái, vật thể bay không người lái và C
4
ISR (chỉ huy, kiểm soát,
thông tin liên lạc, máy tính và tình báo), khi hình thành khả năng tác chiến
thực thì khả năng tác chiến phi tiếp xúc nhanh và mang tính quyết định của
quân đội Mỹ sẽ nâng cao lên trình độ mới. Thứ hai, các quốc gia và khu vực
khác trên thế giới cũng đẩy nhanh xây dựng thông tin hóa. Nga đã đưa ra mục
tiêu tổng quát xây dựng quân đội chính quy hóa, hiện đại hóa và chuyên
nghiệp hóa, nêu rõ tỉ trọng trang bị vũ khí hiện đại hóa của quân đội Nga sẽ
chiếm 35% vào năm 2010 và tới năm 2015 đạt 45%. Quân đội các nước như
Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc và quân đội Đài Loan đều đẩy nhanh xây dựng
thông tin hóa.[23,tr.132]
Có thể thấy, cải cách quân sự mới trên thế giới đang phát triển nhanh, có
ảnh hưởng tới toàn cầu, tới tất cả các quốc gia và TQ không thể nằm ngoài
vòng xoáy đó.
(2) Diện mạo chiến tranh thay đổi khiến TQ phải thay đổi để theo kịp

Sự thúc đẩy của cải cách quân sự mới trên thế giới khiến diện mạo chiến
tranh hiện đại đã có một loạt thay đổi mang tính cách mạng như trang bị vũ
khí xuất hiện xu thế thông tin hóa, nhất thể hóa, các loại trang bị vũ khí liên
kết thành một chỉnh thể hữu cơ; tấn công tầm xa được tăng cường, độ chính
xác được nâng cao chưa từng thấy, khả năng sát thương tăng gấp bội phần; tác

15
chiến tung thâm toàn diện, tác chiến phi chiến tuyến… dần trở thành phương
thức giao chiến cơ bản của chiến tranh hiện đại.
Trang bị vũ khí thông tin hóa từng bước trở thành yếu tố quan trọng
trong khả năng tác chiến của quân đội, xây dựng quân đội thông tin hóa trở
thành mục tiêu của quân đội các quốc gia chủ yếu trên thế giới. Cùng với sự
phát triển mạnh mẽ của các quần thể công nghệ cao mới với công nghệ thông
tin là cốt lõi và ứng dụng rộng rãi của những công nghệ này vào lĩnh vực quân
sự, mức độ thông tin hóa trang bị vũ khí ngày càng cao. Một số cuộc chiến
tranh cục bộ gần đây cho thấy, trang bị vũ khí thông tin hóa phát huy vai trò
rất quan trọng trong chiến tranh, ảnh hưởng lớn tới kết cục chiến tranh. Quân
đội các quốc gia chủ yếu đẩy mạnh nhịp độ xây dựng trang bị vũ khí thông tin
hóa, triển khai một vòng cạnh tranh mới xoay quanh việc xây dựng đội quân
thông tin hóa. Trong cuộc cạnh tranh này, quân đội Mỹ đi tiên phong. Đầu tư
của BQP Mỹ lớn, tập trung xây dựng một đội quân toàn cầu có hệ thống
C
4
ISR, để nâng cao hơn nữa trình độ thông tin hóa quyết sách chỉ huy. Hiện
nay, 53% trang bị vũ khí Lục quân Mỹ đã thực hiện thông tin hóa, trang bị
thông tin hóa của Hải quân và Không quân đạt tới 70%. Trang bị thế hệ đầu
tiên của quân đội Mỹ đã đào thải toàn bộ; tỉ lệ trang bị chủ chiến thế hệ thứ ba
của Hải quân và Không quân là trên 90%, Lục quân là 52%; trang bị thế hệ
thứ 4 và thứ 5 cũng đang trong giai đoạn phát triển tích cực. Nội hàm hiện đại
hóa quân đội của Mỹ đã thay đổi sâu sắc.

Cơ cấu tổ chức quân đội dần đi theo mô hình nhỏ gọn, đa năng hóa.
Biên chế tổ chức khoa học là khâu then chốt thực hiện kết hợp yếu tố trang bị
vũ khí với con người. Cải cách quân sự mới lấy công nghệ thông tin là cốt lõi
và nền tảng sẽ dẫn đến những thay đổi về cơ cấu tổ chức quân đội. Xu thế
phát triển cơ cấu tổ chức quân đội tương lai đã lộ ra những đặc trưng sơ khai.
Một là quy mô quân đội thu nhỏ, nổi bật là nâng cao chất lượng; hai là cơ chế

16
tác chiến phát triển từ cơ cấu dạng thẳng đứng hình “cây” trước đây sang cơ
cấu mặt phẳng dạng “mạng”; ba là biên chế lực lượng theo xu thế nhất thể hóa,
đa năng hóa và nhỏ gọn; bốn là cơ chế bảo đảm hậu cần của quân đội phát
triển theo hướng nhất thể hóa quân sự với dân sự, bảo đảm liên hợp; năm là
cơ chế quản lý trang bị vũ khí phát triển theo hướng cơ chế quản lý tập trung
thống nhất cao độ.
“Tác chiến tiếp xúc” và “tác chiến phi tiếp xúc” được vận dụng linh
hoạt, các dạng thức chiến tranh phát triển theo hướng đa nguyên hóa. Trong
chiến tranh thời đại thông tin, do sự phát triển cao của công nghệ quân sự, các
dạng thức tác chiến càng linh hoạt: có thể lấy tác chiến mặt đất là chủ đạo, tấn
công và chiếm lĩnh lãnh thổ hoặc yếu địa chiến lược nào đó của đối phương;
cũng có thể lấy tấn công tầm xa trên không là chủ, phá hủy các mục tiêu chiến
lược quan trọng của đối phương để uy hiếp đối phương ép đối phương đầu
hàng. Các dạng thức chiến tranh và phương thức tác chiến của quân đội đã
xuất hiện các hình thái đa nguyên như “tiếp xúc” và “phi tiếp xúc”. Trong
chiến tranh Chesnia, quân đội Nga đã sử dụng phương thức tác chiến “tiếp
xúc” tiêu chuẩn, sử dụng số lượng lớn lực lượng mặt đất. Trong chiến tranh
Irac, liên quân Anh – Mỹ với mục tiêu tác chiến chiếm lĩnh Batda lật đổ chính
quyền Saddam Hussein, đã đưa lực lượng tác chiến mặt đất vào, triển khai tác
chiến mặt đất ở khu vực rộng lớn với quân đội Irac. Thực tiễn chiến tranh cho
thấy, sử dụng phương pháp nào, dạng thức nào do mục tiêu chiến tranh quyết
định. Đồng thời cũng có thể thấy, cùng với sự phát triển của quần thể công

nghệ cao với công nghệ thông tin là chủ đạo, “tác chiến phi tiếp xúc” không
chỉ là phối hợp các mặt quan trọng của “tác chiến tiếp xúc”, hơn nữa đã từng
bước phát triển thành một kiểu tác chiến độc lập. Dưới tác dụng của công
nghệ quân sự cao mới, các bước như tình báo trinh sát, định vị mục tiêu, chỉ
huy kiểm soát tới đánh giá hiệu quả đều có thể làm rất chính xác. Hệ thống

17
trinh sát công nghệ cao toàn phương vị, trong mọi điều kiện thời tiết và các
dải tần có thể cung cấp các dữ liệu đáng tin cậy về tình hình chiến trường toàn
diện, kịp thời cho người chỉ huy. Hệ thống định vị dẫn đường toàn cầu hiện
đại có thể tự động hiển thị tọa độ ba chiều của mục tiêu, tốc độ vận động và
thời gian chính xác, cung cấp thông tin định vị với độ chính xác cao. Dưới sự
giúp đỡ của hệ thống C
4
ISR, độ bắn trúng của vũ khí dẫn đường chính xác
không ngừng nâng lên, từ đó khiến tấn công chính xác tầm xa ngoài khu vực
phòng ngự “phi tiếp xúc” trở thành phương thức tác chiến tương đối thông
thường.
Diễn biến chiến tranh là sự đối kháng giữa hệ thống và hệ thống, vũ trụ
trở thành điểm cao chiến lược mới trong cạnh tranh quân sự quốc tế. Trong
chiến tranh thời đại thông tin, nếu không có sự vận hành hiệu quả của hệ
thống tác chiến thông tin hóa thì trang bị vũ khí hiện đại cũng khó phát huy
tác dụng. Do đó, quân đội các nước phát triển phương Tây đều tập trung vào
xây dựng hệ thống tác chiến, không ngừng sử dụng công nghệ số hóa để nhất
thể các lực lượng tác chiến với các loại vũ khí trang bị, nỗ lực xây dựng hệ
thống tác chiến liên hợp ba quân, hệ thống tác chiến liên hợp giữa các lực
lượng tác chiến và hệ thống tác chiến liên hợp giữa các đơn nguyên tác chiến.
Trong tương lai gần, trang bị công nghệ số hóa sẽ trở thành nền tảng vật chất
khách quan của đối kháng hệ thống, lực lượng số hóa sẽ trở thành chủ thể của
đối kháng hệ thống. Quân đội Mỹ đã khởi động xây dựng chiến trường số hóa.

Anh, Pháp, Đức cũng đã xây dựng lực lượng số hóa, tập trung triển khai hệ
thống quản lý chiến trường và hệ thống chỉ huy kiểm soát chiến trường để
nhanh chóng thực hiện hệ thống hóa các yếu tố tác chiến. Không gian tác
chiến không chỉ hạn chế ở khu vực giao chiến trực tiếp, mà mở rộng ra các
lĩnh vực trên đất liền, trên biển, trên không, vũ trụ, lộ rõ xu thế phát triển tác
chiến toàn phương vị, thăm dò toàn cầu và vươn ra toàn cầu. Đặc biệt, cùng

18
với sự phát triển của vũ khí vũ trụ, không gian bên ngoài không chỉ là nơi bảo
đảm tác chiến trinh sát, báo động, dẫn đường và định vị cho chiến trường mặt
đất, trên biển và trên không, mà còn trở thành lĩnh vực quan trọng để đôi bên
giao chiến. Các nước như Mỹ, Nga… đều tích cực phát triển lực lượng hàng
không vũ trụ quân sự. Bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của các nước trên thế
giới, Mỹ kiên quyết phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia và hệ
thống phòng thủ tên lửa chiến trường, tập trung nghiên cứu và khai thác vũ
khí vệ tinh và các trạm không gian, muốn làm bá chủ không gian vũ trụ,
không ngừng diễn tập mô phỏng tác chiến không gian, đưa ra ý tưởng thành
lập “Phòng tác chiến vũ trụ” trong Bộ Không quân, thành lập trường đào tạo
tác chiến không gian mới và dành 50 tỉ USD để phát triển vũ khí không gian.
Tóm lại, cải cách quân sự mới trên thế giới đã làm cho diện mạo chiến
tranh hiện nay có những thay đổi sâu sắc. TQ xác định “không hiểu xu thế
phát triển của cải cách quân sự mới trên thế giới thì không hiểu được chiến
tranh hiện đại dẫn tới không thể chỉ huy được chiến tranh hiện đại. Chính vì
vậy, TQ kiên quyết thực hiện thành công các mục tiêu hiện đại hoá PLA”.
[18,tr.49]
(3) Cuộc cải cách quân sự mới vừa là thách thức cũng là cơ hội cho TQ
Trải qua mấy chục năm xây dựng đất nước, đặc biệt là sau hơn 30 năm
cải cách mở cửa, TQ đang ở vào giai đoạn lịch sử quan trọng coi phát triển là
nhiệm vụ hàng đầu, thông qua phát triển để nâng cao đời sống nhân dân, nâng
cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. Tương ứng với giai đoạn phát triển này,

về tổng thể quân sự TQ vẫn ở vào giai đoạn cơ giới hóa và bán cơ giới hóa,
chưa tương xứng với yêu cầu đánh thắng cuộc chiến tranh cục bộ thông tin
hóa, quốc phòng và quân đội đang ở vào giai đoạn phát triển lấy xây dựng
hiện đại hóa là trọng tâm, đi theo con đường tinh luyện lực lượng mang màu
sắc TQ. Đối diện với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cải cách quân sự mới

19
trên thế giới, một mặt nếu TQ nhìn thiển cận, hành động chậm chạp, không
tích cực thúc đẩy hiện đại hoá quân sự trong nước sẽ bị làn sóng phát triển
quân sự thế giới bỏ lại đằng sau, rơi vào cục diện bị động; mặt khác, nếu TQ
mù quáng chạy theo, rất có thể kéo tụt nền kinh tế quốc dân, ảnh hưởng đến
chiến lược phát triển đất nước.
Tuy nhiên, cải cách quân sự mới trên thế giới lại là một thời cơ lịch sử
hiếm có để TQ bắt kịp trình độ tiên tiến trên thế giới. Trước tiên, so với xã hội
công nghiệp, những yêu cầu tích lũy của xã hội thông tin tương đối thấp. Rất
nhiều nhà khoa học cho rằng, so sánh với chuyển đổi mô hình thời kỳ trước,
những yếu tố cơ bản hình thành xã hội thông tin là coi các công nghệ như
công nghệ máy tính, công nghệ mạng, công nghệ thông tin … là cốt lõi, đối
với những yêu cầu cơ bản tích lũy vốn có của thời đại công nghiệp thì chúng
không quá cao. Học giả tương lai nổi tiếng của Mỹ Alvin Toffler cho rằng,
yêu cầu tích lũy của thời đại thông tin đối với thời đại công nghiệp chỉ chiếm
30%, rất nhiều quốc gia lạc hậu ở thời đại công nghiệp có thể lợi dụng thời cơ
chuyển đổi mô hình thời đại, tiến sang thời đại thông tin. Bộ Quốc phòng Mỹ
từng tiến hành một cuộc điều tra phạm vi lớn, kết quả cho thấy: có 100 quốc
gia trên thế giới có điều kiện đẩy nhanh xây dựng thông tin hóa, từ đó có khả
năng thực tế và khả năng tiềm tàng tiến hành tác chiến thông tin. Thứ hai,
phạm vi ứng dụng công nghệ thông tin rộng, ở trình độ tương đương nhau,
giữa các nước trên thế giới có thể sử dụng và cùng hưởng thành quả công
nghệ thông tin tương đối hiện đại. Mặc dù các nước phương Tây đứng đầu là
Mỹ kiểm soát công nghệ thông tin, tuy nhiên nếu kiểm soát quá nhiều sẽ ảnh

hưởng tới sự phát triển của ngành và công nghệ thông tin của chính bản thân
mình. Công nghệ thông tin có tính minh bạch và tính rộng rãi không thể ngăn
cản khiến các nước đang phát triển có thể có được công nghệ thông tin tương
đối dễ dàng.

20
Điều cần nhìn nhận là, các thành tựu lịch sử trong xây dựng quân đội
và quốc phòng của TQ đã đặt nền tảng vật chất kỹ thuật nhất định cho hiện
đại hoá quân sự TQ. Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập không lâu,
Mao Trạch Đông đã nêu ra “phải nỗ lực xây dựng một quân giải phóng hiện
đại hóa, đồng thời lãnh đạo toàn quân nỗ lực không ngừng vì mục tiêu
đó”.[2,tr.27] Qua quá trình xây dựng, quốc phòng và quân đội đã có được
những nền tảng nhất định. Một là, đặt được cơ sở kỹ thuật không gian ngoài
vũ trụ. Qua mấy chục năm xây dựng và tích lũy cơ sở vật chất kỹ thuật, TQ
hôm nay đã trở thành cường quốc vũ trụ thứ ba trên thế giới sau Mỹ, Nga,
chiếm vị trí quan trọng về phương diện sử dụng và khai thác không gian ngoài
vũ trụ, cung cấp điều kiện cơ sở quan trọng để hiện đại hoá theo thời đại chiến
tranh thông tin. Hai là, đã đặt nền tảng cho khả năng về tên lửa hạt nhân và
tên lửa thông thường. Khả năng thực chiến và uy hiếp của tên lửa hạt nhân
chiến lược và tên lửa thông thường là nội dung quan trọng của đấu tranh quân
sự hiện đại và chiến tranh hiện đại. Bằng những chỉ đạo của quyết sách chiến
lược đúng đắn, công nghệ tên lửa của TQ khởi đầu tương đối sớm, đồng thời
theo kịp trình độ hiện đại trên thế giới, mấy chục năm trở lại đây đã gặt hái
được thành tựu to lớn. Trong chiến tranh thông tin hóa thời gian tới, khả năng
tấn công thông thường tương đối mạnh là biện pháp thực chiến quan trọng
của TQ. Ba là, đã đặt được nền tảng công nghệ thông tin và những công nghệ
có liên quan. Từ cuối thập kỷ 50 của thế kỷ 20, TQ đã bắt đầu bước vào lĩnh
vực máy tính điện tử và đạt được kết quả ban đầu, sau đó, lĩnh vực này bị
ngừng lại do nhiều nguyên nhân lịch sử. Sau thập kỷ 80, dưới sự cổ súy của
Đặng Tiểu Bình, nhà nước đã khởi động kế hoạch “863” có ý nghĩa chiến

lược lớn, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các quần thể công nghệ cao
mới với công nghệ thông tin là cốt lõi. Hiện nay, công nghệ thông tin của TQ
đã đạt được mức độ tương đối, thu hẹp khoảng cách với trình độ hiện đại của

21
thế giới. Đặc biệt là mấy năm gần đây, TQ đã đạt được một loạt các đột phá
lớn về công nghệ máy điện toán. Ngoài ra, ở các lĩnh vực có liên quan đến
chiến tranh tương lai như vật lý ứng dụng, công nghệ vật liệu mới, công nghệ
năng lượng, công nghệ sinh học, khoảng cách của TQ với các quốc gia phát
triển phương Tây rất hẹp. Nguồn lực con người dành cho các lĩnh vực có liên
quan đến công nghệ thông tin quân sự tương đối dồi dào và đang tiếp tục phát
triển mạnh mẽ. Bốn là, đã đặt nền tảng hệ thống công nghiệp quốc phòng
hoàn thiện. Cơ sở vật chất thời kỳ nước TQ thành lập kém xa các nước
phương Tây, công nghiệp quốc phòng của TQ chỉ là con số 0. Qua mấy chục
năm xây dựng, TQ đã có hệ thống công nghiệp quốc phòng quy mô tương đối,
kết cấu khoa học, phân bố hợp lý và có khả năng sáng tạo tự chủ tương đối
mạnh. Đây là điều kiện vật chất kỹ thuật đáng tin cậy và lực lượng trụ cột
không thể thiếu trong xây dựng quân đội cơ giới hóa và thông tin hóa.
1.1.2. Yếu tố nội tại của TQ – phù hợp với tư duy nước lớn của TQ
(1) Sức mạnh quân sự bảo đảm cho mục tiêu kinh tế - xã hội của nước lớn
Thế kỷ mới, giai đoạn mới, Đại hội Đảng lần thứ 16 đã đưa ra mục tiêu
phấn đấu xây dựng xã hội “khá giả” toàn diện. Thực hiện mục tiêu này, một
mặt phải bảo đảm sự phát triển nhanh chóng liên tục của kinh tế xã hội, tranh
thủ vượt qua một nấc thang dài vài năm; một mặt phải bảo đảm sự phát triển
hài hoà giữa xây dựng kinh tế và xây dựng quốc phòng, tích cực thúc đẩy cải
cách quân sự để phát triển nhảy vọt trong xây dựng hiện đại hoá quân đội và
quốc phòng, từ đó bảo đảm an ninh cho việc xây dựng xã hội “khá giả” toàn
diện. Như Chủ tịch Hồ Cẩm Đào từng nói: “Tích cực thúc đẩy cải cách quân
sự là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong xây dựng hiện đại hoá quân
đội, có thể hoàn thành thắng lợi được nhiệm vụ chiến lược này không liên

quan đến toàn cục việc xây dựng quân đội và quốc phòng, liên quan đến việc

22
thống nhất an ninh quốc gia, liên quan đến việc phấn đấu thực hiện mục tiêu
xây dựng xã hội “khá giả” toàn diện.”[12,tr.102]
Xây dựng xã hội khá giả toàn diện cần một môi trường an toàn, tiêu
chuẩn an toàn ở đây không chỉ là hoà bình. Hai mươi năm tới, TQ có thể tiếp
tục thời kỳ hoà bình, nhưng tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ không an toàn. Vai trò
của sức mạnh quân sự trong các công việc quốc tế ngày càng nâng cao, quân
đội TQ sẽ đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong việc giữ ổn định
khu vực, duy trì hoà bình thế giới và chống lại chủ nghĩa bá quyền. Các
phong trào ly khai sẽ xảy ra không ngừng theo sự thay đổi môi trường trong
nước và quốc tế, các hoạt động của “chủ nghĩa khủng bố” không loại bỏ được
mà còn có khả năng quốc tế hoá và tăng cường hơn, đặc biệt khi các thế lực
thù địch trong và ngoài nước cấu kết với nhau sẽ uy hiếp nghiêm trọng tới TQ.
Nhiệm vụ “phòng ngừa bên ngoài” “ổn định bên trong” của TQ càng nặng nề.
Ngoài ra, cùng với việc đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới,
mâu thuẫn phát triển không cân bằng của thế giới cũng nguy kịch thêm. Lịch
sử phát triển kinh tế thế giới cho thấy, kinh tế càng phát triển, an ninh quốc
gia càng dễ bị đe doạ. Bởi vì, kinh tế phát triển không ngừng, hai yếu tố lớn
(thị trường và vốn) trực tiếp ảnh hưởng tới nền kinh tế sẽ vấp phải thách thức
và đe doạ không ngừng. Khi những thách thức và đe doạ này đạt tới mức độ
nhất định sẽ có thể xảy ra xung đột quân sự. Một đất nước nếu không có sức
mạnh quân sự hùng mạnh thực sự sẽ không thể bảo vệ hiệu quả an ninh và lợi
ích quốc gia dưới sự uy hiếp của chủ nghĩa bá quyền và uy hiếp chính trị
cường quyền. Sự phát triển của kinh tế TQ và tham gia sâu hơn vào tiến trình
quốc tế hoá, lợi ích kinh tế của TQ không ngừng được mở rộng, phạm vi phải
bảo đảm an ninh cũng mở rộng theo đó. Không ngừng nâng cao năng lực
chiến lược của quân đội TQ đã trở thành một vấn đề quan trọng mới trong xây


23
dựng quân đội. Muốn nâng cao khả năng chiến lược của quân đội thì phải tích
cực thúc đẩy hiện đại hoá quân đội.
Ngoài ra, vấn đề thống nhất Đài Loan cũng là một mục tiêu mà chính
phủ TQ đang tiếp tục theo đuổi. Bên cạnh việc sử dụng các biện pháp ngoại
giao, chính trị, kinh tế thì TQ cũng không từ bỏ việc sử dụng vũ lực để thống
nhất tổ quốc. Chính vì vậy, hiện đại hoá quân sự TQ được chính phủ TQ coi
là một biện pháp cần thiết để sẵn sàng trong giải quyết vấn đề Đài Loan.
(2) Hiện đại hoá quân sự là yêu cầu của quân đội trong thời đại mới
Sứ mệnh của quân đội cũng phát triển theo sự phát triển của lịch sử.
Bước vào thế kỷ mới, giai đoạn mới, môi trường trong nước và quốc tế có
những thay đổi lớn, sứ mệnh lịch sử của quân đội TQ cũng có những nội dung
mới. Ngày 13 tháng 3 năm 2005, phát biểu tại hội nghị toàn thể đoàn đại biểu
Quân giải phóng tham gia kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá 10 của TQ, Hồ Cẩm
Đào nói, yêu cầu quân đội tập trung sức mạnh và ý chí của toàn quân để thực
hiện sứ mệnh lịch sử của quân đội trong thế kỷ mới, giai đoạn mới, đó là:
“Bảo đảm là sức mạnh quan trọng để ĐCS củng cố địa vị cầm quyền, bảo
đảm an ninh vững chắc duy trì thời cơ chiến lược quan trọng phát triển đất
nước, giúp đỡ có hiệu quả duy trì lợi ích quốc gia, phát huy vai trò quan trọng
gìn giữ hoà bình thế giới và sự phát triển chung. Đương nhiên, thực hiện tốt
sứ mệnh lịch sử mới này, quân đội phải không ngừng nâng cao khả năng đánh
thắng và giữ nguyên bản chất, phải tích cực thúc đẩy hiện đại hoá quân đội để
quân đội TQ trở thành quân đội cách mạng chính quy hoá, hiện đại hoá có sức
chiến đấu hùng mạnh, tương xứng với địa vị cường quốc.”
Xem xét những thay đổi phát triển của tình hình trong và ngoài nước,
20 năm đầu thế kỷ 21 là thời cơ chiến lược quan trọng để TQ phát triển. TQ
phải nắm được thời cơ hiếm có này đẩy nhanh phát triển. Nhưng cũng phải
thấy rằng, những yếu tố ảnh hưởng và gây nhiễu thời cơ chiến lược còn rất

24

nhiều như tranh chấp lợi ích lãnh hải, biển và tranh chấp lãnh thổ rất phức tạp
giữa TQ với một số nước xung quanh, các thế lực đòi “Đài Loan độc lập”;
phong trào của chủ nghĩa ly khai và sự tấn công của các vấn đề xã hội phức
tạp… Phải đề phòng và loại bỏ những ảnh hưởng của các yếu tố bất lợi này,
chống lại sự xâm lược của bên ngoài, bảo đảm biên giới, không phận và lãnh
hải của TQ không bị xâm phạm, có lực lượng hùng mạnh và đáng tin cậy
phản đối và ngăn chặn các thế lực của chủ nghĩa ly khai “Đài Loan độc lập”,
bảo đảm quốc gia thống nhất và ổn định, phải tích cực thúc đẩy hiện đại hoá
quân đội.
Tóm lại, hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc là nhu cầu xuất phát từ
các yếu tố chi phối bên ngoài và các yếu tố nội tại trong lòng Trung Quốc.
Trung Quốc hiện đại hoá quân sự để bắt kịp với tốc độ phát triển quân sự thế
giới, để đảm bảo sức mạnh tổng hợp quốc gia và đối phó với các thách thức
an ninh phi truyền thống đang ngày càng gia tăng trong xã hội hiện đại. Hiện
đại hoá quân sự là phương tiện để đảm bảo thành công các mục tiêu hiện đại
hoá kinh tế và khoa học kỹ thuật khác. Ngoài ra, hiện đại hoá quân sự nhằm
đảm bảo quyền sử dụng sức mạnh đó để bảo vệ các thành quả của cải cách.
Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng nước lớn của Trung Quốc.
1.2. KHÁI QUÁT TIẾN TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA QUÂN SỰ CỦA
TRUNG QUỐC ĐẾN NĂM 1991
Lịch sử và tương lai thống nhất với nhau. Không hiểu lịch sử không thể
tổng kết và rút ra những bài học kinh nghiệm từ lịch sử, cũng không thể nắm
bắt chính xác thực tiễn, có tương lai. Nhìn lại những cuộc cải cách quân sự
trước đây, khi TQ nắm chắc cơ hội lịch sử cũng đứng vào tốp đầu thế giới;
khi đánh mất thời cơ chiến lược thì đất nước và nhân dân rơi vào khó khăn.
1.2.1. Tiến trình hiện đại hoá quân sự trong lịch sử cổ đại TQ

25
Lịch sử chiến tranh của nhân loại cũng lâu đời như lịch sử văn minh của
nhân loại và có những bước tiến hoá từ thấp đến cao. Khoảng 2000 năm trước

Công nguyên, người châu Á dẫn đầu việc chế tạo ra các vũ khí lạnh, đồng
thời sử dụng trong chiến tranh, thực hiện cuộc cánh mạng lần thứ nhất trong
lịch sử quân sự. Thời kỳ vũ khí lạnh, lúc đầu chỉ có bộ binh. Khoảng 400 năm
trước Công nguyên xuất hiện kỵ binh. Trong điều kiện thời đó, kỵ binh là lực
lượng có khả năng tấn công lớn nhất và khả năng cơ động nhanh và xa, do đó
Anghen đã nói kỵ binh là binh chủng có ý nghĩa quyết định. Ai có đội kỵ binh
hùng mạnh, người đó sẽ có sức mạnh quân sự lớn nhất.
Trên đất Hoa Hạ, đội kỵ binh sớm nhất xuất hiện ở Hung Nô vùng
Ngoại Mông thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên (thời Chiến quốc). Năm 302
trước Công nguyên, vua nước Triệu ở phía Bắc TQ Vũ Linh Vương đã thực
hiện cải cách quân sự, lần đầu tiên tập trung xây dựng kỵ binh trong dân tộc
Hoa Hạ, trở thành đối thủ mạnh nhất của nước Tần trong sự nghiệp thống
nhất TQ.
Sau khi Tần sụp đổ đến triều Hán, hệ thống quốc phòng của triều Hán
cơ bản dựa theo triều Tần, phòng thủ với bên ngoài chủ yếu là chống lại sự
tấn công của Hung Nô – dân du mục phương bắc. Kể từ thế kỷ 2 trước Công
nguyên, triều Hán và Hung Nô chiến tranh liên miên, một trận đánh quy mô
lớn nhất là dùng 140.000 kỵ binh, còn dùng 100.000 con ngựa vận chuyển, là
một trong những trận chiến kỵ binh lớn nhất trong lịch sử cổ đại trên thế giới.
Sau hàng trăm năm chiến đấu, triều Hán đã đánh bại được Hung Nô, khiến
một phần quân quy hàng, một phần chạy theo phương Tây. Sự kiện này cho
thấy, triều Hán thời đó có quân đội lớn mạnh nhất trên thế giới. Triều Hán đã
xây dựng được đội kỵ binh hùng mạnh và đánh bại Hung Nô, bảo vệ sự phát
triển kinh tế nông nghiệp, làm cho TQ cổ đại bước vào một thời kỳ hoàng kim,
phát triển lớn mạnh lần thứ nhất.

×