Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Báo chí với việc hình thành và định hướng dư luận xã hội cho nhân dân thủ đô Khảo sát qua các báo Hà Nội mới, Lao động, Thanh niên từ năm 2002 đến năm 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 104 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Trƣờng đại học khoa học xã hội và nhân văn

  




LƯU THỊ THANH HỒNG


Báo chí với việc hình thành và định hướng
dư luận xã hội cho nhân dân thủ đô


Chuyên ngành:
BÁO CHÍ HỌC

Mã số : 5. 04. 30


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ



Người hướng dẫn khoa học:
Tiến sỹ Đinh Văn Hường
















Hà Nội - 2005
M
M


C
C


L
L


C
C





Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 4
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 5
4. Mục đích nghiên cứu 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
6. Phương pháp nghiên cứu 7
7. Kết cấu của luận văn 8

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DƢ LUẬN XÃ HỘI 9
1.1. Khái niệm, định nghĩa dư luận xã hội 9
1.2. Sự hình thành và phát triển của dư luận xã hội 19
1.3. Cơ sở khoa học của nghiên cứu, nắm bắt và phân tích dư
luận xã hội 22
1.4. Sử dụng các kết quả nghiên cứu dư luận xã hội trong công tác
lãnh đạo và quản lý đất nước. 26

CHƢƠNG II : VAI TRÒ HÌNH THÀNH VÀ ĐỊNH HƢỚNG DƢ LUẬN XÃ
HỘI CỦA BÁO CHÍ CHO NHÂN DÂN THỦ ĐÔ 34
2.1. Hệ thống truyền thông đại chúng có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành và định hướng dư luận xã hội cho nhân dân 34
2.2. Nội dung hình thành và định hướng dư luận xã hội của báo chí
cho nhân dân thủ đô .40
2.3. Hiệu quả của dư luận xã hội đối với công tác lãnh đạo, quản lý
của thành phố 75
2.4. Khó khăn, hạn chế trong công tác hình thành, định hướng dư
luận xã hội của báo chí 81

CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG VÀ

HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ ĐỊNH
HƢỚNG DƢ LUẬN XÃ HỘI CHO NHÂN DÂN THỦ ĐÔ 85
3.1. Những giải pháp đối với các cơ quan báo chí 85
3.2. Những giải pháp đối với các cơ quan lãnh đạo và quản lý 90
3.3. Sự phản hồi và tham gia của bạn đọc đối với thông tin báo chí 95

KẾT LUẬN. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢ0 .101
1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài.
Ngày nay, do sự bùng nổ mạnh mẽ của các phƣơng tiện thông tin
hiện đại, nguồn lực con ngƣời đƣợc phát huy ngày càng nhiều, đòi hỏi
quản lý xã hội phải thật sự khoa học mới đảm bảo hiệu quả cao (ở một
quốc gia, ở từng địa phƣơng, từng ngành, từng đơn vị ). Nắm bắt và định
hƣớng dƣ luận xã hội trở thành một phƣơng pháp quan trọng của hệ thống
chính trị, đặc biệt là Nhà nƣớc.
Dƣ luận xã hội là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá
của các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tƣợng thể
hiện lợi ích cấp bách trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. ý nghĩa
của việc nghiên cứu dƣ luận xã hội đƣợc khẳng định: là công cụ để mở
rộng quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân chủ; tăng cƣờng mối
quan hệ với Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân; thực hiện quản lý xã hội trên cơ
sở khoa học.
Dƣ luận xã hội đƣợc phát hiện bằng các phƣơng pháp xã hội học
nhƣ: trƣng cầu ý kiến bằng câu hỏi, phân tích tƣ liệu của báo chí, các báo
cáo, phản ánh của các cấp
Hệ thống thông tin đại chúng có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc hình thành, định hƣớng và thể hiện dƣ luận xã hội. Vai trò ấy đƣợc

biểu hiện là phƣơng tiện của các thiết chế xã hội nhằm bảo đảm phổ biến
thông tin quy mô đại chúng (các luật, nghị định, quyết định, các vấn đề
kinh tế, xã hội ); và diễn đàn toàn dân tập hợp các tƣ tƣởng, ý kiến, kinh
nghiệm của quần chúng, hình thành các chuẩn mực đạo đức và định
hƣớng giá trị phù hợp với các mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi
mới.
2

Báo chí Trung ƣơng và Hà Nội, từ ý nghĩa trên, có vai trò to lớn
trong việc nắm bắt, hình thành và định hƣớng dƣ luận xã hội trên địa bàn
Hà Nội. Đây là một kênh đặc biệt quan trọng giúp Đảng và chính quyền
thành phố trong quản lý kinh tế – xã hội ở thủ đô đạt hiệu quả cao; đồng
thời qua đó, chính báo chí lại cung cấp cho nhân dân những thông tin toàn
diện, chính xác và bổ ích thông qua định hƣớng đúng dƣ luận xã hội.
Khảo sát qua các báo Hà Nội mới, Lao động, Thanh niên giai đoạn
2002 - 2004, đề tài luận văn minh chứng đƣợc vai trò của báo chí trong
việc hình thành và định hƣớng dƣ luận xã hội trên các mặt chủ yếu của
đời sống xã hội thủ đô.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng nhƣ vậy, nên tôi chọn vấn đề "Báo
chí với việc hình thành và định hƣớng dƣ luận xã hội cho nhân dân thủ
đô" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Về vai trò và chức năng của báo chí đối với việc hình thành và định
hƣớng dƣ luận xã hội, đã có một số khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ,
tiến sĩ và các công trình nghiên cứu khoa học trong và ngoài trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn thực hiện. Ở các khoá luận tốt nghiệp và
luận văn thạc sĩ về đề tài này, vai trò của báo chí trong việc hình thành và
định hƣớng dƣ luận xã hội đã đƣợc nêu rõ, khẳng định bằng thực tế công
tác tuyên truyền của một số cơ quan báo chí trên địa bàn Hà Nội và cả
nƣớc. Trong một số luận văn tiến sĩ và công trình nghiên cứu khoa học

cấp nhà nƣớc thực hiện tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Trung tâm nghiên cứu dƣ luận xã hội - Ban Tƣ tƣởng văn hóa Trung
ƣơng, vấn đề này đƣợc đề cập một cách bao quát và toàn diện, đồng thời
gắn với một hoặc nhiều vấn đề nóng hổi của đời sống chính trị, kinh tế, xã
3

hội, văn hóa của đất nƣớc trong thời kỳ đối mới để làm rõ vai trò này.
Nhiều kết quả điều tra xã hội học đã đƣợc đƣa vào đề tài để chứng minh
và tăng sức thuyết phục của đề tài. Từ những phân tích cụ thể và số liệu
điều tra, các đề tài này đã chỉ ra những phƣơng pháp tiến hành điều tra xã
hội học, thu thập và xử lý dƣ luận xã hội, tăng cƣờng hiệu quả của các cơ
quan báo chí và các ban ngành chức năng trong việc hình thành và định
hƣớng dƣ luận xã hội, phục vụ đắc lực cho công tác tuyên truyền về một
nhiệm vụ, lĩnh vực cụ thể mà đề tài đề cập nói riêng và nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội của đất nƣớc nói chung.
Kế thừa và học hỏi những kiến thức cơ bản trong nghiên cứu dƣ
luận xã hội ở những đề tài nói trên, luận văn này khẳng định lại một số
vấn đề lý luận chung về dƣ luận xã hội, đi sâu vào nghiên cứu, khảo sát
những vấn đề đƣợc phản ánh đậm nét trên một số tê báo của Trung ƣơng
và Hà Nội, phân tích vai trò của báo chí trong việc hình thành và định
hƣớng dƣ luận xã hội cho nhân dân thủ đô trong ba năm từ 2002 - 2004,
từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác
này. Nét mới của luận văn này là đề cập tới những vấn đề cụ thể, thiết
thực đối với cuộc sống của nhân dân thủ đô, đƣợc lãnh đạo thành phố
quan tâm, đƣợc các tầng lớp nhân dân thủ đô dành nhiều sự quan tâm,
hƣởng ứng, gắn với những nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ và chính quyền
thành phố trong giai đoạn mới. Toàn bộ nội dung nghiên cứu gắn bó chặt
chẽ và nhằm phục vụ thiết thực cho công tác quản lý, lãnh đạo và chỉ đạo
của thành phố, gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa ở thủ
đô trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
4

Việc nghiên cứu đề tài này góp phần tổng hợp những vấn đề lý luận
cơ bản về dƣ luận xã hội và vai trò hình thành, định hƣớng dƣ luận xã hội
của báo chí từ các nguồn tƣ liệu trong nƣớc và thế giới, trong đó nhấn
mạnh vai trò này đối với đời sống của nhân dân thủ đô.
Qua việc nghiên cứu lý luận về dƣ luận xã hội và đặc biệt khảo sát
một số tờ báo Trung ƣơng và Hà Nội, luận văn nhằm đƣa ra những quan
niệm, nguyên tắc, phƣơng pháp tiến hành nắm bắt, hình thành và định
hƣớng dƣ luận xã hội qua kênh thông tin đại chúng, phục vụ cho lãnh đạo
– quản lý và công tác tƣ tƣởng ở thủ đô.
Đề tài là tài liệu tham khảo góp phần vào hệ thống tƣ liệu khoa học
chung về báo chí – truyền thông, nhằm phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy, học tập về báo chí hiện nay.
Đề tài cũng là tài liệu tham khảo rộng rãi cho các cơ quan chỉ đạo
và quản lý báo chí, các tòa soạn báo và những ai quan tâm đến lĩnh vực
này.
4. Mục đích nghiên cứu:
- Đề tài nhằm tổng hợp và xác định những vấn đề lý luận cơ bản về
dƣ luận xã hội và các phƣơng pháp nghiên cứu, nắm bắt dƣ luận xã hội,
khảo sát thực tiễn hoạt động của báo chí đối với việc hình thành và định
hƣớng dƣ luận xã hội ở thủ đô, từ đó rút ra những kiến nghị cụ thể.
- Đề tài cũng nhằm mở ra một hƣớng nghiên cứu, tiếp cận mới đối
với lý luận và thực hành báo chí – truyền thông hiện đại nói chung, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động báo chí ở thủ đô nói riêng.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
5


Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài gồm:
- Những quan điểm lý luận chung về dƣ luận xã hội và vai trò của
báo chí trong việc hình thành và định hƣớng dƣ luận xã hội qua các tài
liệu về dƣ luận xã hội, về báo chí.
- Thực tế hoạt động của các cơ quan làm nhiệm vụ nghiên cứu, nắm
bắt dƣ luận xã hội ở Hà Nội.
- Ba tờ báo: Hà Nội mới, Lao động, Thanh niên trong ba năm từ
2002 đến 2004.
- Tham khảo một số cơ quan báo chí Trung ƣơng và địa phƣơng
khác để rút ra điểm mạnh và hạn chế về vấn đề này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối, quan điểm, chính sách của Đảng
và Nhà nƣớc ta cũng nhƣ các chỉ thị, nghị quyết của Thành ủy, Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về sự nghiệp thông tin
báo chí, công tác tƣ tƣởng và dƣ luận xã hội.
Cơ sở nghiên cứu thực tiễn của luận văn là hoạt động của báo chí
Trung ƣơng và Hà Nội trong thời kỳ đổi mới.
Chọn lọc và tổng hợp các tƣ liệu thu thập đƣợc từ đối tƣợng và
phạm vi nghiên cứu, đề tài xác định bƣớc đầu những cơ sở lý luận của
việc nghiên cứu dƣ luận xã hội, đánh giá thực tiễn vai trò hình thành và
định hƣớng dƣ luận xã hội của báo chí thủ đô qua khảo sát thực tiễn ba tờ
báo: Hà Nội mới, Lao động, và Thanh niên.
6

Đề tài cũng sử dụng phƣơng pháp phân tích, thống kê, so sánh, lấy
ý kiến chuyên gia để lý giải vấn đề. Theo đó, đề tài kế thừa một cách có
chọn lọc những kết quả nghiên cứu khoa học trong nƣớc có liên quan đến
đề tài.

7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, mục Tài liệu tham khảo, phần Nội
dung của luận văn gồm có 3 chƣơng sau đây:
Chƣơng I: Những vấn đề lý luận chung về dƣ luận xã hội.
Chƣơng II: Vai trò hình thành và định hƣớng dƣ luận xã hội của
báo chí cho nhân dân thủ đô.
Chƣơng III: Một số giải pháp để nâng cao chất lƣợng và hiệu quả
của báo chí trong việc hình thành và định hƣớng dƣ luận xã hội cho nhân
dân thủ đô.
Nội dung của luận văn sẽ đƣợc trình bày theo thứ tự chƣơng, mục
trên.
7

CHƢƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DƢ LUẬN XÃ HỘI

Trong thời đại ngày nay, tất cả các quốc gia, bao gồm cả các nhà
nƣớc độc tài nhất và mất dân chủ nhất đều phải coi trọng công tác nghiên
cứu dƣ luận xã hội. Nhiều quốc gia coi các kết quả thăm dò dƣ luận xã hội
là một trong những nguồn thông tin tham khảo bắt buộc phải có trong quá
trình soạn thảo và thông qua các quyết định quan trọng.
Để có thể phát huy hiệu quả của công tác nghiên cứu dƣ luận xã hội
phục vụ lãnh đạo và quản lý đất nƣớc, cũng nhƣ nghiên cứu về vai trò của
dƣ luận xã hội thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, trƣớc hết
cần tìm hiểu lý luận chung về dƣ luận xã hội.
1.1. Khái niệm, định nghĩa dƣ luận xã hội.
1.1.1. Định nghĩa dư luận xã hội
Trong các công trình “Ý kiến của báo chí và ý kiến của nhân dân”,
“Hệ tƣ tƣởng Đức”, “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tƣ hữu và của

nhà nƣớc”, v.v C.Mác và Ph.Ăngghen nhiều lần khẳng định vai trò và vị
trí to lớn của dƣ luận xã hội. C.Mác cho rằng dƣ luận xã hội là dƣ luận của
nhân dân. Ông viết: “Các đại biểu thƣờng xuyên kêu gọi sự ủng hộ của dƣ
luận nhân dân và đem đến cho dƣ luận nguồn phát ngôn ý kiến thực sự
của mình”. Ph.Ăngghen nhận định: sự tiến bộ to lớn trong dƣ luận xã hội
là tiền đề của các biến đổi xã hội. Nói về vai trò của dƣ luận xã hội trong
hoạt động quản lý, V.I.Lênin chỉ rõ: Chúng ta chỉ có thể quản lý đƣợc, khi
nào chúng ta thể hiện đúng những gì mà nhân dân ý thức.
8

Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời thƣờng căn dặn cán bộ, đảng
viên:
“Dễ trăm lần, không dân cũng chịu
Khó vạn lần, dân liệu cũng xong”.
Do luôn gắn bó với dân, coi trọng và làm tốt công tác tuyên truyền,
lắng nghe ý kiến quần chúng, nên Đảng ta đã biến ít thành nhiều, biến yếu
thành mạnh và lãnh đạo nhân dân giành đƣợc những thắng lợi vẻ vang
liên tiếp trong cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến
chống xâm lƣợc vừa qua, đã khởi xƣớng và đang thu đƣợc những thành
tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới.
Làm đƣợc nhƣ vậy là nhờ Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Đảng luôn
khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”.
Dƣ luận (hay công luận) là một hiện tƣợng tinh thần quen thuộc mà
mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức chính trị – xã hội, quốc gia, trong cuộc
sống hàng ngày, thƣờng phải quan tâm và tính toán đến. Dƣ luận xã hội
đƣợc định nghĩa dƣới nhiều góc độ khác nhau. Phần đông các nhà nghiên
cứu Liên Xô (cũ) định nghĩa dƣ luận xã hội là sự phán xét chung của các
nhóm ngƣời đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Nhiều nhà nghiên cứu
Mỹ cũng nêu ra định nghĩa tƣơng tự. Ví dụ: “Dƣ luận xã hội là sự phán

xét của các cộng đồng, đối với các vấn đề có tầm quan trọng chung, nó
đƣợc hình thành sau khi có sự tranh luận công khai” (Young – 1923). Có
những định nghĩa rất đơn giản, nhƣng rất phổ biến trong giới nghiên cứu
Mỹ: “Công luận là tập hợp các ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà chúng
ta có thể tìm đƣợc”.
9

Chúng ta có thể định nghĩa dƣ luận xã hội nhƣ sau: Dƣ luận xã hội
là các tập hợp ý kiến cá nhân giống nhau, có thành phần chủ yếu là phán
xét, đánh giá; nó phản ánh tâm tƣ, nguyện vọng, ý chí của các nhóm xã
hội nhất định đối với các sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề xã hội có động chạm
đến lợi ích, các chuẩn mực giá trị của họ.
Phán xét xã hội có nhiều loại: Phán xét mô tả, biểu thị các đặc điểm
bên ngoài của sự vật; Phán xét chế ƣớc - đƣợc sử dụng phổ biến trong lĩnh
vực pháp lý và đạo đức. Phán xét của dƣ luận xã hội là phán xét đánh giá,
nó biểu thị thái độ đồng tình hay không đồng tình, yêu thích hay không
yêu thích của chủ thể đối với đối tƣợng. Từ đó cho thấy ranh giới giữa
tin đồn và dƣ luận xã hội. Tin đồn chỉ là phát ngôn bình thƣờng, không có
phán xét, đánh giá. Tin đồn có thể làm phát sinh dƣ luận xã hội nếu các
thông tin mà nó tung ra đƣợc mọi ngƣời lấy làm căn cứ để đƣa ra các phán
xét, đánh giá.
Dƣ luận và tin đồn đều là những hiện tƣợng tâm lý xã hội nảy sinh
trong cuộc sống cộng đồng. Hiện nay, vẫn còn có sự nhận thức chƣa rõ
ràng về dƣ luận và tin đồn. Thực tế cho thấy có khi còn lạm dụng khái
niệm dƣ luận, ngộ nhận những “tin đồn” là “dƣ luận quần chúng”; nhƣng
đôi khi lại gán cho dƣ luận xã hội rằng đó chỉ là “đồn đại của nhân dân”.
Cũng có một lý do khác nữa, một số nhà nghiên cứu xã hội học, tâm lý
học xã hội cũng chƣa có sự phân định rạch ròi hai khái niệm này.
Theo cấu trúc tâm lý (tinh thần), dƣ luận xã hội là một kết cấu tinh
thần chỉnh thể (sự thống nhất của nhận thức, tình cảm, ý chí). Dƣ luận xã

hội không chỉ thể hiện nhận thức mà còn thể hiện tình cảm và ý chí của
nhóm hoặc của nhân dân. Nó lý giải cho một sự thật: Dƣ luận xã hội
không bao giờ chỉ là lời nói suông của quần chúng, nó luôn luôn gắn liền
10

với hành động xã hội của công chúng, sức mạnh áp lực của dƣ luận xã hội
là một thực tế không ai bỏ qua đƣợc.
Chủ thể dƣ luận là toàn thể xã hội nói chung, là các nhóm quần
chúng, các nhóm xã hội, các đảng, hoặc các đoàn thể xã hội. Nhƣng câu
hỏi đƣợc đặt ra ở đây là: Phải chăng dƣ luận của tất cả các nhóm, các tập
đoàn ngƣời, các cộng đồng lớn nhỏ đều đƣợc coi là dƣ luận xã hội? Hay
chỉ có dƣ luận xã hội của nhóm lớn nhƣ giai cấp, nhân dân nói chung mới
đƣợc gọi là dƣ luận xã hội? Một câu hỏi khác: Khi dƣ luận trongmột
nhóm xã hội không thống nhất mà phân hóa thành nhiều luồng dƣ luận
khác nhau, liệu có thể coi nhiều luồng dƣ luận đó đều là dƣ luận xã hội
không hay chỉ là dƣ luận của đa số, của số đông mới gọi là dƣ luận xã
hội? Tất cả những vấn đề trên đang còn đƣợc tranh cãi chƣa ngã ngũ. Ở
đây, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công tác chính trị tƣ tƣởng, chúng
ta coi tất cả các nhóm xã hội (không câu nệ lớn nhỏ) có sự phán xét đánh
giá giống nhau đều là chủ thể của dƣ luận xã hội. Nói cách khác, sự phán
xét đánh giá chung của mọi nhóm, tập đoàn ngƣời đều có thể đƣợc coi là
dƣ luận xã hội. Để có thể lãnh đạo, chỉ đạo tốt, cấp uỷ Đảng và chính
quyền các cấp cần phải biết đến các ý kiến (dƣ luận) của tất cả các nhóm
và các xu hƣớng đánh giá khác nhau. Dƣ luận của đa số và của thiểu số
đều quan trọng.
Đối tƣợng của dƣ luận xã hội là những sự kiện, hiện, tƣợng, những
vấn đề khác nhau của xã hội. Tuy nhiên, không phải sự kiện, hiện tƣợng,
vấn đề nào cũng là đối tƣợng của dƣ luận xã hội. Chỉ có những sự kiện,
hiện tƣợng, vấn đề nào động chạm đến lợi ích, các mối quan tâm của
nhóm ngƣời, hoặc cả cộng đồng mới có thể trở thành đối tƣợng của dƣ

luận xã hội.
11

Tại Việt Nam, giữa các học giả cũng nhƣ những ngƣời quan tâm
đến khái niệm dƣ luận xã hội cũng còn có những cách hiểu rất khác nhau
về hiện tƣợng này. Sự tranh cãi trƣớc hết có liên quan đến chủ thể của dƣ
luận xã hội. Có ý kiến (bao gồm cả một số học giả) cho rằng chỉ có ý kiến
của đa số mới đƣợc coi là dƣ luận xã hội. Ví dụ, trong cuốn sách “Dƣ luận
xã hội trong sự nghiệp đổi mới”, dƣ luận xã hội đƣợc định nghĩa là “sự
biểu hiện trạng thái ý thức xã hội của một cộng đồng ngƣời nào đó, là sự
phán xét, đánh giá của đại đa số trong cộng đồng ngƣời đối với các sự
kiện, hiện tƣợng, quá trình xã hội có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ
trong một thời điểm nhất định”.
Hầu hết các nhà nghiên cứu trong các nƣớc tƣ bản cũng nhƣ ở nƣớc
Nga hiện nay đều cho rằng dƣ luận xã hội bao gồm các ý kiến không chỉ
của đa số mà còn cả của thiểu số. Quan điểm coi dƣ luận xã hội chỉ là ý
kiến của đa số không đứng vững đƣợc cả dƣới góc độ lý luận và góc độ
thực tiễn.
Về mặt ngôn ngữ, không có cơ sở để nói rằng dƣ luận xã hội là ý
kiến của đa số. Thuật ngữ “xã hội” không đồng nhất với thuật ngữ “đa
số”. Có thể lấy ví dụ: Không ai cho rằng đã gọi là tổ chức xã hội thì phải
là tổ chức của đa số ngƣời trong xã hội; đã gọi là chính sách xã hội thì
phải là chính sách đối với đa số ngƣời trong xã hội
Về mặt lý luận, khả năng phản ánh chân lý, lẽ phải cũng không có
cơ sở nào để coi trọng dƣ luận của đa số hơn là dƣ luận của thiểu số,
không có cơ sở nào để loại bỏ dƣ luận của thiểu số ra khỏi phạm trù “dƣ
luận xã hội”. Trí tuệ của số đông không phải khi nào cũng sáng suốt hơn
trí tuệ của thiểu số; trƣớc các sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề mới, dƣ luận của
thiểu số những ngƣời có học vấn cao, có điều kiện cập nhật các thông tin
12


mới thƣờng đúng hơn dƣ luận của đa số. Giữa dƣ luận của đa số và dƣ
luận của thiểu số cũng không có một hàng rào ngăn cách không thể vƣợt
qua đƣợc. Dƣ luận ngày hôm nay là thiểu số, ngày mai có thể trở thành đa
số hoặc ngƣợc lại, dƣ luận ngày hôm nay là đa số, ngày mai có thể chỉ còn
là thiểu số.
Về mặt thực tiễn, quan điểm coi dƣ luận xã hội chỉ là ý kiến của đa
số lại càng không thể chấp nhận đƣợc. Chúng ta đang phát triển nền kinh
tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, tiếng nói của mọi thành
phần kinh tế, tầng lớp, nhóm xã hội đều cần đƣợc coi trọng cho dù thành
phần kinh tế, tầng lớp, nhóm xã hội đó chỉ là thiểu số. Mặt khác, nếu dƣ
luận xã hội chỉ là ý kiến của đa số, thì không cần phải thành lập các cơ
quan làm công tác nắm bắt dƣ luận xã hội, bởi vì ý kiến của đa số là cái
mà ngƣời dân bình thƣờng cũng có thể dễ dàng nắm đƣợc, huống hồ là
lãnh đạo. Thực tế cho thấy các báo cáo phiến diện về tình hình dƣ luận xã
hội (chỉ phản ánh ý kiến của đa số) không những không giúp đƣợc gì cho
sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, ngƣợc lại, có khi còn có hại,
nhất là trong trƣờng hợp vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng là cái mới, bởi lẽ, đối
với cái mới, dƣ luận của đa số lúc đầu thƣờng không đúng, thƣờng có tính
“bảo thủ”.
Tóm lại, từ tất cả những điều nêu trên, chúng ta có thể đi đến một
định nghĩa ngắn gọn nhƣ sau: Dư luận xã hội là tập hợp tất cả các luồng
ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng có tính thời sự. Khái
niệm “luồng ý kiến” có những nội hàm đáng lƣu ý: 1) Mỗi luồng ý kiến là
một tập hợp các ý kiến cá nhân giống nhau (dƣ luận xã hội là ý kiến phát
biểu tự phát, không có tổ chức; các ý kiến chính thức, kết quả tổng hợp ý
kiến phát biểu có tổ chức của các nhóm xã hội, các đoàn thể chính trị, xã
hội không phải là dƣ luận xã hội); 2) Dƣ luận xã hội có thể bao gồm nhiều
13


luồng ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau (luồng ý kiến có thể rộng,
tuyệt đại đa số, đa số hoặc ít, thiểu số); 3) Chỉ có những sự kiện, hiện
tƣợng, vấn đề xã hội có tính thời sự (động chạm đến lợi ích, các mối quan
tâm hiện có của nhiều ngƣời) mới có khả năng tạo ra dƣ luận xã hội. Nhƣ
vậy, dƣ luận xã hội phản ánh tính chất sinh động, phong phú, đa dạng của
đời sống hiện thực và biến đổi phù hợp với sự vận động của lịch sử hiện
đại. Đối với dƣ luận xã hội, tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội đều quan trọng. Với ý nghĩa này, dƣ luận xã hội là một nhân tố
quan trọng để định hƣớng cho quần chúng.
1.1.1. Vai trò của dư luận xã hội
Ngay từ thời cổ đại, các triết gia đã tranh luận sôi nổi về vai trò của
dƣ luận xã hội đối với việc cai trị đất nƣớc. Cuộc tranh luận này tiếp tục
gay cấn và kéo dài cho đến tận ngày nay. Có 3 loại quan điểm khác nhau
về vai trò của dƣ luận xã hội đối với công việc quản lý đất nƣớc.
Loại quan điểm thứ nhất: Theo quan điểm này, dƣ luận xã hội
không có vai trò tích cực nào đối với việc quản lý đất nƣớc. Các luận cứ
đƣợc nêu ra ở đây là: Do thiếu thông tin, do không có điều kiện học hành
sâu rộng, do đứng ở vị trí không có tầm nhìn bao quát và do nhiều nguyên
nhân khác nữa, phần lớn những ngƣời bình thƣờng là những ngƣời không
có khả năng hiểu biết thấu đáo các công việc quốc gia đại sự. Quần chúng
là những ngƣời suy nghĩ và hành động theo cảm tính , “quần chúng là
một dãy số 0, lãnh đạo là con số 1 ”. Theo loại quan điểm này, để giải
quyết các công việc quốc gia đại sự, các nhà lãnh đạo phải dựa vào các cơ
quan tham mƣu chứ không phải dƣ luận xã hội
Loại quan điểm thứ hai: Loại quan điểm này cũng cho rằng sự tham
gia của công chúng, dƣ luận xã hội vào các công việc quốc gia, đại sự là
14

không có lợi, nhƣng do dƣ luận xã hội có sức mạnh to lớn, thậm chí có thể
làm sụp đổ cả một chính phủ, nên các nhà lãnh đạo không thể bỏ ngoài tai

các ý kiến của công chúng. Để giữ đƣợc quyền lực, ngƣời cầm quyền vừa
phải lắng nghe, tôn trọng dƣ luận xã hội, vừa phải biết cách “xử lý” ổn
thỏa dƣ luận xã hội. Nếu phớt lờ dƣ luận xã hội, ngƣời lãnh đạo sẽ phải
đối mặt với nguy cơ mất quyền lực. Các chính phủ độc tài và chuyên chế
nhất cũng không dám coi thƣờng dƣ luận xã hội, ý chí và nguyện vọng
của công chúng. Theo Hegel, dƣ luận xã hội là phƣơng thức tự phát thể
hiện ý chí và nguyện vọng của công chúng. Cho dù trên thực tế, dƣ luận
xã hội bao gồm cả những hình thức xuyên tạc, bóp méo sự việc, nhƣng nó
có một sức mạnh to lớn mà không một nhà lãnh đạo nào có thể bỏ qua. Do
dƣ luận xã hội không có khả năng hiểu biết cặn kẽ sự việc, không có khả
năng phát triển các nền móng cơ bản của nó lên thành các kiến thức xác
định, nên để làm một điều gì đó vĩ đại và hợp lý thì điều kiện đầu tiên, về
mặt hình thức (cả trong thực tiễn cũng nhƣ trong khoa học) là sự không lệ
thuộc vào dƣ luận xã hội. Dƣ luận xã hội chứa đựng cả cái đúng và cái sai.
Phát hiện ra cái đúng trong dƣ luận xã hội là công việc của vĩ nhân. Ai
biết đƣợc mong muốn của thời đại, nói ra và thực hiện mong muốn đó,
ngƣời đó sẽ trở thành vĩ nhân của thời đại mình.
Loại quan điểm thứ ba: Theo loại quan điểm này, dƣ luận xã hội có
vai trò ngày càng quan trọng trong công việc quản lý xã hội, đặc biệt trong
các xã hội dân chủ. Mọi chủ trƣơng, quyết sách của các cơ quan quản lý
khó có thể đi vào cuộc sống nếu không đƣợc dƣ luận xã hội ủng hộ, nếu
ngƣời dân không cảm thấy các chủ trƣơng, quyết sách này phản ánh ý chí
và nguyện vọng của họ. Trong thời đại bùng nổ của các phƣơng tiện thông
tin đại chúng, ngƣời dân bình thƣờng có khả năng cập nhật thông tin về
mọi vấn đề của cuộc sống xã hội, kể cả các vấn đề quốc gia đại sự, các
15

vấn đề có liên quan đến công việc lãnh đạo và quản lý đất nƣớc một cách
nhanh chóng, toàn diện, và do đó, nhu cầu bày tỏ chính kiến, tham gia vào
tất cả các lĩnh vực quản lý đất nƣớc của họ cũng ngày một tăng.

Trong xã hội dân chủ, ngƣời lãnh đạo chịu sức ép lớn từ phía dƣ
luận xã hội. Ngƣời lãnh đạo có nguy cơ mất quyền lực, không giành đƣợc
lá phiếu của cử tri nếu không thực hiện các yêu cầu, đòi hỏi của dƣ luận
xã hội. Tuy nhiên, ngƣời lãnh đạo cũng cảm thấy sẽ không còn quyền lực,
sẽ trở thành “kẻ theo đuôi quần chúng” nếu việc gì cũng làm theo dƣ luận
xã hội. Cũng theo loại quan điểm thứ ba này thì sự suy tính của nhân dân,
của dƣ luận xã hội không phải khi nào cũng đúng, đặc biệt đối với những
vấn đề mới mẻ và phức tạp. Đối với những vấn đề mới mẻ, dƣ luận xã hội
thƣờng có tính bảo thủ. Việc gì cũng phải làm theo dƣ luận xã hội thì cũng
sẽ thất bại. Cho nên ngƣời lãnh đạo phải nắm đƣợc dƣ luận xã hội, biết
cách phân tích, sử dụng dƣ luận xã hội đúng đắn và nhất là phải biết kiểm
soát, định hƣớng, nâng tầm hiểu biết của dƣ luận xã hội lên ngang tầm với
các đòi hỏi của thời đại, phát huy sự tham gia tích cực của dƣ luận xã hội
trong công việc quản lý đất nƣớc. Đây là loại quan điểm đúng hơn cả,
phần lớn các học giả và chính khách trên thế giới hiện đang chia sẻ.
1.1.3. Đặc điểm của dư luận xã hội
Dƣ luận xã hội là sự thể hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá
của các nhóm xã hội lớn, của nhân dân nói chung về các hiện tƣợng thể
hiện lợi ích xã hội cấp bách trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại.
Quan niệm trên cho thấy, sự phản ánh thực tế trong dƣ luận xã hội
trƣớc hết có tính chất đánh giá, từ sự đánh giá các hiện tƣợng xã hội để
xác định hành vi ứng xử của con ngƣời.
16

Khách thể của dƣ luận xã hội có thể là những sự kiện hết sức khác
nhau trong đời sống xã hội. Lợi ích chung đƣợc xem là tiêu chuẩn hàng
đầu để xác định khách thể của dƣ luận xã hội. Cần nhận thấy rằng, bản
thân dƣ luận xã hội chỉ tồn tại trên cơ sở lợi ích chung. Lợi ích chung là
cơ sở để xuất hiện các tranh luận tập thể. Dấu hiệu thứ hai để xem xét
khách thể của dƣ luận xã hội là tranh luận, những tranh luận này gắn với

lợi ích xã hội đƣợc mọi ngƣời cùng có nhu cầu quan tâm.
Chủ thể của dƣ luận xã hội là toàn thể xã hội nói chung, là quần
chúng nhân dân, là các tổ chức Đảng hoặc các tổ chức đoàn thể xã hội.
Lập trƣờng giai cấp đƣợc xem là cơ sở để xác định chủ thể của dƣ luận xã
hội. Khi xem xét dƣ luận xã hội, ngƣời ta không chỉ đặt nó trong cấu trúc
ý thức xã hội nói chung, mà phải phân tích nó trong cấu trúc các quan hệ
xã hội, vì bản chất của dƣ luận xã hội phản ánh vị thế xã hội trong sự
tƣơng tác với các cá nhân và các nhóm xã hội đƣợc tạo nên bởi các quan
hệ xã hội và các lợi ích của họ.
Do chỗ dƣ luận xã hội là một hình thức biểu hiện của trạng thái ý
thức xã hội trên các mặt tƣ tƣởng, cảm xúc và ý chí, xét trên khía cạnh
nhận thức, trong dƣ luận xã hội luôn có cái đúng và cái sai, lẽ phải và sự
lầm lẫn, vì quá trình nhận thức đƣợc phản ánh trong dƣ luận xã hội không
hoàn toàn tuân theo các quy tắc nghiêm ngặt của nhận thức chân lý.
Hêghen có lý khi ông cho rằng: trong dƣ luận xã hội có cả cái thật và cái
giả. Tính chất này tạo nên đặc điểm dễ thay đổi của dƣ luận xã hội và thể
hiện tính biện chứng của dƣ luận xã hội.
Tựu chung lại, các yếu tố nói trên cho thấy dƣ luận xã hội có các
đặc điểm sau: thứ nhất, nó có tính chất công chúng; thứ hai, nó liên hệ
17

chặt chẽ với quyền lợi của các cá nhân và các nhóm xã hội; thứ ba, nó dễ
thay đổi.
1.2. Sự hình thành và phát triển của dƣ luận xã hội
Để trở thành dƣ luận xã hội, các hiện tƣợng, các sự kiện xã hội phải
trải qua một số giai đoạn. Có thể hình dung con đƣờng này nhƣ sau: khi
một sự kiện xã hội nào đó xuất hiện và tác động đến số đông thì mỗi
ngƣời trong số đông đƣa ra những ý kiến riêng nói lên sự đánh giá của
mình, bên trong các nhóm xã hội nhỏ xuất hiện các ý kiến tập thể do sự
tƣơng tác giữa các ý kiến cá nhân, sau đó chuyển thành dƣ luận xã hội

trong các nhóm xã hội lớn.
Ba giai đoạn phát triển cơ bản của dƣ luận xã hội là:
- Hình thành
- Thể hiện
- Hiện thực hóa trong thực tế
Cần hiểu rằng dƣ luận xã hội không phải là tổng số các ý kiến cụ
thể, nó chỉ giữ lại cái chung, cái đặc trƣng, cái lặp đi lặp lại trong số đông
những ý kiến cá thể. Ở nhiều trƣờng hợp, ý kiến cá nhân có thể nhanh
chóng trở thành dƣ luận xã hội khi nó thể hiện mối quan tâm chung, sự
đánh giá chung của toàn xã hội về một sự kiện, một hiện tƣợng nào đó.
Trong những năm chống Mỹ cứu nƣớc, lời kêu gọi “Không có gì quý hơn
độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành tinh thần của thời
đại, là một trƣờng hợp điển hình về mối liên hệ này.
Những yếu tố cơ bản tác động đến sự hình thành dƣ luận xã hội là:
18

- Dƣ luận xã hội đƣợc hình thành phụ thuộc vào tính chất, quy mô
của các hiện tƣợng, các quá trình xã hội, trong đó tính chất lợi ích và tính
chất công chúng là quan trọng nhất.
- Hệ tƣ tƣởng, trình độ hiểu biết, năng lực văn hóa có vị trí quan
trọng đối với việc hình thành dƣ luận xã hội. Ở đây, hệ tƣ tƣởng giữ vai
trò nổi bật.
- Sự tham gia của quần chúng đối với các sinh hoạt chính trị xã hội,
thái độ cởi mở, tinh thần dân chủ trong các sinh hoạt này đƣợc coi là
những tác nhân kích thích tính tích cực của quần chúng để thể hiện dƣ
luận xã hội.
- Những nhân tố tâm lý nhƣ không khí đạo đức trong tập thể lao
động, thói quen, tâm trạng, ý chí của các cộng đồng ngƣời đều có tác động
đến sự hình thành dƣ luận xã hội.
Dƣ luận xã hội là một cấu trúc nhiều chiều, dựa vào tính chất này,

ngƣời ta có thể dự báo đƣợc xu hƣớng phát triển của một vấn đề nào đó
khi vấn đề ấy đƣợc phản ánh thành dƣ luận xã hội. Điều này xác định ý
nghĩa của việc nghiên cứu dƣ luận xã hội:
- Dƣ luận xã hội là công cụ để mở rộng quyền làm chủ của nhân
dân, mở rộng nền dân chủ.
- Tăng cƣờng mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nƣớc với quần chúng
nhân dân.
- Thực hiện quản lý xã hội trên cơ sở khoa học.
Dƣ luận xã hội đƣợc phát hiện bằng các phƣơng pháp xã hội học
nhƣ trƣng cầu ý kiến bằng bảng câu hỏi, phân tích tƣ liệu báo chí, văn bản
báo cáo, nghị quyết các cuộc họp, quan sát
19

Quá trình hình thành và phát triển dƣ luận xã hội thƣờng trải qua
một số bƣớc:
Bước thứ nhất: Các cá nhân, các nhóm xã hội tiếp cận thông tin về
các hiện tƣợng, sự kiện.
Bước thứ hai: Trao đổi, bàn luận xung quanh hiện tƣợng, sự kiện.
Tại đây, ý kiến cá nhân chuyển từ ý thức cá nhân sang ý thức xã hội.
Bước thứ ba: Các ý kiến khác nhau đƣợc thống nhất lại, thành các
phán xét, đánh giá, nguyện vọng, kiến nghị chung.
Bước thứ tư: Các phán xét, đánh giá, nguyện vọng, kiến nghị chung
chuyển hóa thành ý chí, hành động thực tiễn của công chúng.
Xác định và hiểu sâu sắc quá trình hình thành dƣ luận xã hội chẳng
những cho ta hiểu và phân tích đƣợc dƣ luận xã hội, xu hƣớng phát triển
của dƣ luận xã hội, mà còn cho ta thấy cách tác động có chủ định, tổ chức
để hình thành dƣ luận xã hội lành mạnh có lợi cho xã hội.
Dƣ luận tích cực của dƣ luận xã hội không chỉ là chỉ báo chính xác
về thực trạng bề ngoài tinh thần, tƣ tƣởng của một xã hội, một dân tộc mà
có mặt còn nhƣ một thiết chế trong hệ thống điều hành quản lý xã hội.

Ăngghen đã viết: “Trong một xã hội thị tộc, ngoài dƣ luận xã hội ra, xã
hội không có một phƣơng tiện cƣỡng chế nào khác”. Ông lại nói: “Để có
biến đổi cụ thể, trƣớc hết phải có tiến bộ to lớn trong dƣ luận xã hội”.
Điều này nói rõ hơn vai trò của dƣ luận xã hội. Các nhà xã hội học đã đi
đến kết luận về các chức năng của dƣ luận xã hội:
a) Chức năng điều tiết các mối quan hệ xã hội: Phản đối, gây áp
lực, cản trở các hành vi cực đoan đối với xã hội; cổ vũ, khích lệ các hành
vi vì lợi ích phổ biến của các nhóm xã hội hay của cá nhân.
20

b) Chức năng giáo dục: Dƣ luận xã hội có vai trò rất lớn trong việc
giáo dục luân thƣờng, đạo lý trong xã hội.
c) Chức năng giám sát: Dƣ luận xã hội có vai trò giám sát hoạt
động của Nhà nƣớc và các tổ chức xã hội, có sức ép rất lớn đối với tệ
quan liêu, tham nhũng, tắc trách.
d) Chức năng tƣ vấn: Trƣớc những vấn đề nan giải đối với nhà
nƣớc, dƣ luận xã hội có thể cung cấp các phán xét, kiến nghị sáng suốt.
đ) Chức năng thẩm định, dự báo: Đối với những vấn đề mới mẻ, dƣ
luận xã hội có thể dự báo những vấn đề mới có thể xảy ra, xem xét khả
năng hình thành những vấn đề đó nhƣ thế nào
1.3. Cơ sở khoa học của nghiên cứu, nắm bắt và phân tích dƣ luận
xã hội
Hiệu quả của công tác nghiên cứu dƣ luận xã hội phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng nắm bắt và phân tích dƣ luận xã hội của cán bộ làm
công tác này. Để nâng cao hiệu quả việc nắm bắt và phân tích dƣ luận xã
hội cần tăng cƣờng sử dụng các phƣơng pháp nắm bắt và phân tích dƣ
luận xã hội có tính khoa học.
1. 3.1. Các phương pháp nắm bắt dư luận xã hội
Để nắm bắt dƣ luận xã hội cần sử dụng thành thạo các phƣơng pháp
nghiên cứu định tính và các phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng dƣới

đây:
Các phương pháp nghiên cứu định tính: Nghiên cứu định tính là
hình thức nghiên cứu nhằm làm rõ có bao nhiêu loại ý kiến, thái độ (luồng
dƣ luận) xung quanh mỗi vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng mà nhà nghiên cứu
quan tâm.
21

Các phương pháp nghiên cứu định lượng: Các phƣơng pháp nghiên
cứu định lƣợng còn phức tạp, khó sử dụng hơn nhiều so với các phƣơng
pháp nghiên cứu định tính. Các phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng phổ
biến trong nghiên cứu dƣ luận xã hội là:
a. Phƣơng pháp nghiên cứu nội dung: Phân tích nội dung là một
phƣơng pháp rất thích hợp trong việc tổng hợp dƣ luận xã hội qua báo chí
và đơn thƣ khiếu nại, tố cáo, góp ý của nhân dân. Phƣơng pháp này cũng
đòi hỏi các kỹ thuật nhất định nhƣ phân loại phạm trù, tính tần số mà mỗi
phạm trù đƣợc đề cập trong các đơn vị phân tích (tờ báo, bức thƣ, đơn
khiếu nại, tố cáo ).
b. Phƣơng pháp phỏng vấn tập hợp mẫu: Phỏng vấn tập hợp mẫu là
hình thức nắm bắt dƣ luận xã hội thông qua phỏng vấn các cá nhân đƣợc
chọn theo những cách thức nhất định. Hình thức phổ biến nhất ở đây là
phỏng vấn theo bảng hỏi, phiếu hỏi (bao gồm các câu hỏi đã đƣợc chuẩn
bị sẵn, chủ yếu là câu hỏi kín, có các phƣơng án trả lời kèm theo). Cách
chọn mẫu phổ biến nhất là chọn mẫu ngẫu nhiên, xác suất. Cái khó nhất
trong phƣơng pháp này trƣớc hết là xây dựng bảng hỏi (gồm các câu hỏi
nhằm làm rõ các vấn đề mà ngƣời nghiên cứu quan tâm) và sau đó là khâu
chọn mẫu.
1.3.2. Các góc độ phân tích dư luận xã hội
a. Phân tích cơ sở nhận thức của dư luận xã hội
Nội dung của dƣ luận xã hội đƣợc quyết định trực tiếp bởi trình độ
hiểu biết của công chúng, nhóm xã hội. Sự hiểu biết nhiều hay ít của công

chúng, nhóm xã hội đối với vấn đề, hiện tƣợng, sự kiện quyết định sự
đánh giá đúng hay sai của công chúng đối với vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng
đó. Đối với những vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng đơn giản, dễ hiểu, ý kiến
22

(dƣ luận) của đại đa số nhân dân thƣờng là đúng. Đối với những vấn đề
phức tạp, mới nảy sinh, ý kiến đúng thƣờng là ý kiến của thiểu số những
ngƣời có thông tin, có nhiều am hiểu chứ không phải là của đa số thiếu
thông tin, ít am hiểu. Nhận thức của công chúng lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố. Hai loại yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến nhận thức của công
chúng là: 1) Thông tin về sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề đang gây sự chú ý
của công chúng; 2) Đặc điểm tâm lý xã hội của công chúng.
- Thông tin và nhận thức của công chúng: Công chúng nhận thức về
sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề xã hội nhƣ thế nào, một phần rất quan trọng là
do cách thức đƣa tin, liều lƣợng thông tin; tính khách quan, toàn diện của
thông tin đăng tải trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng quyết định.
Công chúng khó có thể đƣa ra các ý kiến (dƣ luận xã hội) đúng đắn nếu
thông tin về sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề hiện hữu thiếu đầy đủ, thiếu
khách quan.
- Đặc điểm tâm lý xã hội và nhận thức của công chúng: Các đặc
điểm tâm lý xã hội (nhất là các đặc điểm về tƣ duy, nhu cầu, ý thức) của
công chúng có ảnh hƣởng rất lớn đến quá trình tiếp thu, xử lý thông tin và
ra quyết định (đƣa ra ý kiến) của công chúng. Yếu tố tâm lý xã hội đƣợc
nhiều nhà tâm lý học xã hội coi là nền tảng của dƣ luận xã hội là các
khuôn mẫu tƣ duy, các định kiến xã hội.
b. Phân tích cơ sở xã hội của dư luận xã hội
Các yếu tố xã hội, trƣớc hết là vị trí, lợi ích của các nhóm, tầng lớp,
giai cấp, lợi ích quốc gia, dân tộc có mối liên hệ chặt chẽ với nội dung và
sắc thái của dƣ luận xã hội. Trong một nhà nƣớc mạnh, chính quyền và
nhân dân gắn bó với nhau, lợi ích quốc gia, dân tộc thƣờng đƣợc coi trọng

hơn các lợi ích khác; trƣớc các sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề xã hội, ngƣời
23

ta thƣờng lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng làm cơ sở để đƣa
ra nhận xét, đánh giá, bày tỏ thái độ của mình. Trong một nhà nƣớc yếu,
dân chủ không đƣợc coi trọng, pháp luật, kỷ cƣơng bị buông lỏng, chủ
nghĩa cá nhân phát triển, ngƣời ta thƣờng nhân danh lợi ích quốc gia, dân
tộc, cộng đồng để đƣa ý kiến này, ý kiến kia, nhƣng nếu phân tích kỹ thì
không phải nhƣ vậy, lợi ích cá nhân ích kỷ, cục bộ mới chính là động cơ
của họ.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, định hƣớng xã hội chủ nghĩa, có nhiều
lợi ích khác nhau. Về bản chất, các lợi ích này là thống nhất với nhau. Tuy
nhiên, ngoài các lợi ích cá nhân, đặc thù hợp lý của các cá nhân, tầng lớp,
giai cấp, nhóm xã hội (các lợi ích gắn liền với lợi ích quốc gia, dân tộc),
các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã hội có thể chạy theo các lợi ích cá
nhân, đặc thù cực đoan, có lợi cho mình nhƣng đi ngƣợc lại lợi ích của
quốc gia, dân tộc nói chung, của các cá nhân, tầng lớp, giai cấp, nhóm xã
hội khác nói riêng.
Trong thời bao cấp, luồng dƣ luận không tán thành quan điểm cho
rằng CNXH cũng có kinh tế thị trƣờng, phê phán quan điểm này là "chệch
hƣớng XHCN" không phải bao gồm toàn những ngƣời thiếu hiểu biết về
vấn đề kinh tế thị trƣờng mà còn có cả những ngƣời có hiểu biết tốt, hiểu
biết đƣợc rằng CNXH cũng có kinh tế thị trƣờng. Tuy nhiên, khi phát biểu
ý kiến thì họ lại nói khác, "nghĩ một đàng, nói một nẻo". Tiếng nói của họ,
sự phản đối của họ không phải do yếu tố nhận thức quyết định mà là do
lợi ích cục bộ ích kỷ quyết định: họ lo ngại sự đổi mới sẽ làm mất đi các
đặc quyền, đặc lợi gắn liền với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp mà họ
đang có

×