Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Các ấn phẩm báo chí của Thông tấn xã Việt Nam phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.27 KB, 120 trang )


1























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG


TRƢƠNG VĂN QUÂN




CÁC ẤN PHẨM BÁO CHÍ
CỦA THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
PHỤC VỤ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
VÀ MIỀN NÚI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(Khảo sát 2 ấn phẩm: Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi;
Chuyên đề Dân tộc và Miền núi - TTXVN từ năm 2001 đến 2007)

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC BÁO CHÍ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. ĐINH VĂN HƢỜNG




HÀ NỘI - 2008

5
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 1
1. Tính thời sự và cấp thiết của đề tài 1
2. Lý do lựa chọn đề tài 4
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài 5

4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 8
8. Cấu trúc của luận văn 9
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi 10
1.1. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ của thông tin phục vụ đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi 10
1.1.1. Khái niệm về dân tộc 10
1.1.2. Vị trí 13
1.1.3 Mục tiêu 17
1.1.4. Nhiệm vụ 21
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc tuyên truyền
phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi 26
1.2.1. Thông tin chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi 26
1.2.2. Thành tựu chủ yếu của vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi được thông tin, tuyên truyền 35

6
1.3. Yêu cầu của thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi 43
1.3.1. Yêu cầu chung 43
1.3.2. Nội dung thông tin 44
Chƣơng 2: Đổi mới, nâng cao chất lƣợng các ấn phẩm báo chí phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của TTXVN 47
2.1. Khái quát về TTXVN và Toà soạn Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi 47
2.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của TTXVN 47
2.1.2. Khái quát về Toà soạn Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi 50
2.2. Thực trạng Bản tin ảnh và Chuyên đề Dân tộc và Miền núi

từ năm 2001 đến 2007 53
2.2.1. Về nội dung và hình thức 53
2.2.2. Về lực lượng và cơ sở vật chất 63
2.3. Những đóng góp của hai ấn phẩm phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi 65
2.4. Những khó khăn, hạn chế của hai ấn phẩm 74
2.4.1. Những khó khăn, hạn chế 74
2.4.2. Nguyên nhân của những khó khăn 76
2.5. Tình hình tiếp nhận hai ấn phẩm của đồng bào dân tộc thiểu số 77
Chƣơng 3: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lƣợng
hai ấn phẩm phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi trong thời gian tới 83
3.1. Một số vấn đề đặt ra hiện nay 84
3.1.1. Tình hình dân tộc thiểu số trước tình hình mới 84
3.1.2. Tình hình quốc tế 86
3.1.3. Vai trò của truyền thông đối với đồng bào dân tộc thiểu số 87

7
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị 89
3.2.1. Đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của TTXVN 89
3.2.2. Đối với Ban lãnh đạo Toà soạn 92
3.2.3. Đối với các ban, ngành địa phương 94
3.2.4. Về tổ chức lực lượng 95
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác xử lý thông tin 103
3.2.6. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
đội ngũ phóng viên, biên tập 106
3.2.7. Nâng cao chất lượng trình bày và in 108
Kết luận 111

















4
BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CHXHCN: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
CHND: Cộng hoà nhân dân
HTX: Hợp tác xã
THPT: Trung học phổ thông
TTXGP: Thông tấn xã giải phóng
TTX: Thông tấn xã
TTXVN: Thông tấn xã Việt Nam
PTDTNT: Phổ thông dân tộc nội trú
VNTTX: Việt Nam Thông tấn xã
VAC: Vườn ao chuồng
VACR: Vườn ao chuồng rừng
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới

XHCN: Xã hội chủ nghĩa










8
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH THỜI SỰ VÀ CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong hơn 20
năm đổi mới ở nước ta, báo chí đã có bước phát triển mạnh mẽ, góp phần vào sự
phát triển chung của đất nước. Việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, cổ vũ đông đảo nhân dân tích cực thi đua sản
xuất từ miền ngược đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị, tuyên truyền
đường lối đối ngoại nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế đều có sự
đóng góp của báo chí.
Thời gian qua, nước ta đã chủ động tham gia sâu rộng vào các tổ chức
quốc tế, các diễn đàn khu vực và quốc tế như gia nhập ASEAN, APEC, tổ chức
thành công các hội nghị lớn như: Hội nghị thượng đỉnh các nước sử dụng tiếng
Pháp (1997), tổ chức thành công Hội nghị ASEM 5 (2004), và gần đây nhất
chúng ta tổ chức rất thành công Hội nghị các nhà lãnh đạo các nền kinh tế thành
viên APEC lần thứ 14, đồng thời với việc nước ta là thành viên chính thức thứ
150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã khẳng định vai trò, vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Bạn bè các nước đặt niềm tin rất lớn vào
chúng ta. Niềm tin đó thể hiện qua việc năm nguyên thủ quốc gia thăm chính

thức nước ta nhân sự kiện APEC, đó là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước CHND
Trung Hoa; Tổng thống Mỹ; Tổng thống Nga; Thủ tướng Nhật Bản và Tổng
thống Chi Lê; thể hiện qua việc chúng ta được bầu là Uỷ viên không thường Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc; thể hiện qua con số đầu tư nước ngoài năm 2007 đạt
hơn 20 tỷ USD
Những thành tựu chung của báo chí Việt Nam có sự đóng góp của Thông
tấn xã Việt Nam (TTXVN). Là cơ quan thông tấn nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo

9
trực tiếp của Đảng, TTXVN có vai trò quan trọng trong hệ thống thông tin báo
chí quốc gia. TTXVN là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ, thực hiện chức
năng thông tấn nhà nước trong việc phát tin, văn kiện chính thức của Đảng và
Nhà nước; cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước; thu thập phổ biến thông tin bằng các loại hình báo chí phục vụ các đối
tượng có nhu cầu ở trong và ngoài nước.
Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới; trước đòi
hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ tuyên truyền sự nghiệp đổi mới đất nước do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, yêu cầu thông tin đặt ra đối với cơ quan thông
tấn nhà nước rất cao. TTXVN đã nỗ lực phấn đấu để thông tin của TTXVN thực
sự trở thành nguồn thông tin chính thống của quốc gia, giữ vai trò định hướng và
chi phối thông tin, trở thành một trong những mũi nhọn xung kích trên mặt trận
đấu tranh tư tưởng chống các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 61 năm
Ngày truyền thống TTXVN (15/9/1945 – 15/9/2006), Phó Chủ tịch nước Trương
Mỹ Hoa nhấn mạnh: “Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, TTXVN luôn giữ
vững định hướng chính trị, là công cụ sắc bén của Đảng và Nhà nước trong việc
tuyên truyền và phản ánh việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, đồng thời tham gia tích cực vào việc đấu tranh chống tiêu cực, chống
các luận điệu thù địch chống phá Nhà nước ta. Thông tin trong nước, thông tin
quốc tế, thông tin đối ngoại và các ấn phẩm báo chí của TTXVN đã có những

bước phát triển mới, với chất lượng không ngừng được nâng cao theo hướng đa
dạng, hiện đại, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”.

10
Tuy nhiên, hiện nay, trước sự bùng nổ thông tin toàn cầu, nước ta đang đổi
mới và hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, nên thông tin và nhu cầu tiếp
nhận thông tin của công chúng ngày càng phong phú và đa dạng. Trong dòng
chảy thông tin đó, bên cạnh những thông tin tốt, thì cũng có không ít thông tin
xấu, thông tin không có lợi cho sự phát triển của đất nước, làm tổn hại đến khối
đại đoàn kết dân tộc Chính vì vậy, việc nâng cao nhận thức chính trị của người
làm báo và sự cần thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng thông tin là yêu cầu
cấp bách đối với báo chí nói chung và đối với thông tin của TTXVN nói riêng.
Tại Hội nghị toàn ngành TTXVN tháng 9/2006, đồng chí Tô Huy Rứa, Bí thư
Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban
Tuyên giáo Trung ương) cho rằng: “Trong thời đại bùng nổ thông tin, người ta
có thể tiếp nhận thông tin một cách nhanh chóng từ rất nhiều kênh khác nhau, có
thông tin tốt, có thông tin xấu. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay, không
làm chủ được thông tin đồng nghĩa với việc chúng ta để tuột khỏi tay một vũ khí
cực kỳ sắc bén”.
Thời gian qua, thông tin báo chí nói chung và thông tin của TTXVN nói
riêng đã có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng và hiệu quả nhằm đáp ứng yêu
cầu lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và nhu cầu thông tin của nhân dân. Tuy nhiên,
công tác thông tin và thông tin của TTXVN vẫn chưa đáp ứng tốt nhất yêu cầu
của thực tế đời sống. Thông tin đôi khi vẫn còn chậm, bỏ sót sự kiện, thậm chí
còn để xảy ra sai sót, một số sự kiện vẫn còn bị động trong việc xử lý thông tin.
Đặc biệt, thông tin về đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa
còn chưa nhanh, chưa đều, thậm chí chưa đến với đồng bào Vì vậy, đổi mới và
tăng cường thông tin phục vụ đồng bào là việc làm cần thiết và luôn có tính thời
sự.


11
2. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Trước bối cảnh hội nhập và phát triển chung của đất nước, thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo giữa các vùng miền và bình đẳng trong thụ hưởng văn hoá và
thông tin là một trong những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta phấn đấu. Tuy
nhiên, việc thông tin tuyên truyền chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn có những
khó khăn về địa hình, về điều kiện kinh tế, về trình độ nhận thức do đó, đồng
bào ta hiện nay ở một số nơi bị kẻ xấu lợi dụng, lừa bịp, xúi giục vượt biên trái
phép, mê tín dị đoan, tệ hơn chúng còn truyền đạo trái phép, gây mất đoàn kết
giữa các dân tộc, các tôn giáo Vì vậy, cùng với việc tuyên truyền đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào, tuyên truyền
phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng đời sống mới, tăng
cường đại đoàn kết dân tộc thì báo chí còn có nhiệm vụ rất quan trọng, đó là
giúp đồng bào nâng cao ý thức cảnh giác với kẻ xấu, không nghe theo chúng làm
những điều trái pháp luật.
Vì vậy, việc đổi mới thông tin nói chung và đổi mới, nâng cao chất lượng
thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi là một trong những
yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với TTXVN nhằm đánh giá đúng thực trạng; tìm
ra những ưu điểm, nhược điểm và đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao
hơn nữa chất lượng và hiệu quả của thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi, nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước.
Với lý do đó, chúng tôi chọn đề tài “Các ấn phẩm báo chí của Thông
tấn xã Việt Nam phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thời kỳ đổi

12
mới” làm luận văn Thạc sỹ khoa học báo chí tại Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.


3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Việc đưa tin, nghiên cứu về thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi, hoặc nghiên cứu về các ấn phẩm báo chí phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi của TTXVN đã xuất hiện trên một số báo, tạp chí. Các ý
kiến này thường tập trung vào từng khía cạnh, từng vấn đề riêng rẽ chưa có tính
xâu chuỗi. Trong danh mục nhóm đề tài về cơ quan TTXVN tại Phòng tư liệu,
Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội có một số khoá luận tốt nghiệp nghiên cứu về một số
lĩnh vực, khía cạnh của hai ấn phẩm phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi của TTXVN là Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi và Chuyên đề Dân tộc và
Miền núi. Ví dụ như: “Tin ảnh dân tộc và miền núi với vấn đề bảo lưu và phát
triển vốn văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số” của Âu Văn Vượng
(K36); Phương pháp thể hiện tin trên “Tin ảnh Dân tộc và Miền núi” - TTXVN
của Phạm Phương Thảo (K37); “Báo chí với vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
đồng bào dân tộc miền núi” của Trần Thị Minh (1997), (khảo sát trên báo Nhân
Dân 1995-1996 và Tin ảnh Dân tộc và Miền núi 1994-1996); “Thông tin kinh tế
của Tin ảnh Dân tộc và Miền núi với việc góp phần phát triển kinh tế của đồng
bào miền núi” của Nguyễn Thị Thu Hương; “Sự phản ánh công tác xoá đói giảm
nghèo trên Chuyên đề Dân tộc và Miền núi” của TTXVN từ năm 1998 đến nay
của Nguyễn Thu Hiền (K41); “Phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào miền
núi và dân tộc thiểu số trên tin ảnh Dân tộc và Miền núi của TTXVN” của Đậu
Văn Minh (Ngắn hạn 3). Tuy nhiên, các luận văn, khoá luận trên đây chỉ nghiên

13
cứu những lĩnh vực riêng lẻ, chưa có luận văn nào nghiên cứu một cách tổng thể
các lĩnh vực mà hai ấn phẩm “Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi” và “Chuyên đề
Dân tộc và Miền núi” của TTXVN đã thể hiện.
Kế thừa kết quả của các tác giả nghiên cứu đi trước, luận văn này sẽ đi sâu
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số

và miền núi. Trên cơ sở đó có cách nhìn tổng quát hơn về hoạt động thông tin
phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của TTXVN; làm rõ thực trạng,
những ưu điểm và nhược điểm; đề xuất những giải pháp để nâng cao hơn nữa
chất lượng của công tác thông tin phục vụ đồng bào, nơi còn nhiều khó khăn, nơi
mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đầu tư rất lớn để đồng bào ngày
càng có cuộc sống tốt hơn.

4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
4.1. Mục đích của luận văn
Luận văn sẽ góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận chung và tổng kết
thực tiễn công tác thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đổi
mới và nâng cao công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi của TTXVN. Đồng thời luận văn cũng nêu ra một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của công tác này, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin
của đồng bào.

4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Xác định những nội dung cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi, vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu, nội dung, lực lượng, đối

14
tượng, địa bàn, đường lối, quan điểm trong việc đưa tin phục vụ đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi.
Khảo sát, phân tích thực trạng công tác thông tin phục vụ đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi trên Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi và Chuyên đề Dân
tộc và Miền núi của TTXVN từ năm 2001 đến năm 2007 để tìm ra những ưu
điểm và những hạn chế trong việc thông tin về lĩnh vực đặc thù này. Từ đó đề
xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả cho công tác
này ở TTXVN.


5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này bao gồm: một số văn kiện của
Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành về đồng bào dân tộc thiểu số và thông tin phục
vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; công tác chỉ đạo và đưa tin về lĩnh vực
này của TTXVN; các ấn phẩm báo chí: Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi và
Chuyên đề Dân tộc và Miền núi của TTXVN - đây là hai đối tượng chính mà tác
giả khảo sát, nghiên cứu trong luận văn này.

5.2. Phạm vi nghiên cứu:
TTXVN có nhiều ấn phẩm báo chí khác nhau. Tuy nhiên hiện nay chỉ có
hai ấn phẩm phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là Bản tin ảnh Dân
tộc và Miền núi và Chuyên đề Dân tộc và Miền núi. Trong khuôn khổ luận văn
này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát trên hai ấn phẩm: Bản tin ảnh Dân
tộc và Miền núi và Chuyên đề Dân tộc và Miền núi (từ đây gọi là Bản tin ảnh và
Chuyên đề) của TTXVN từ năm 2001 đến năm 2007.

15
6. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Cơ sở lý luận:
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; về phát triển
và quản lý sự nghiệp thông tin báo chí, văn hoá, văn nghệ nói chung.
6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn được hoàn thành với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
Sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê qua việc đọc, phân tích, rút ra
những kết quả trong công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi của TTXVN.

Phương pháp phỏng vấn, tư vấn các chuyên gia trong lĩnh vực này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: thực hiện trên các ấn phẩm báo chí phục
vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của TTXVN, qua đó, tìm ra những
điểm nổi bật về nội dung, hình thức, thế mạnh của thông tin trên hai ấn phẩm của
TTXVN phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: để rút ra những ưu, nhược điểm của
thông tin về đồng bào dân tộc thiểu số so với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai
đoạn mới. Từ đó, xác định rõ vai trò, đặc điểm của thông tin phục vụ đồng bào
trong hệ thống báo chí.

7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN
Luận văn hoàn thành sẽ góp phần nhỏ vào việc tổng kết thực tiễn và lý
luận về thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là việc

16
nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin phục vụ đồng bào. Đồng thời, luận
văn cũng có thể là tài liệu để cán bộ, phóng viên trực tiếp làm công tác thông tin
về lĩnh vực này tham khảo, vận dụng. Luận văn còn có thể là tài liệu cho các cơ
quan chức năng, các cơ sở giáo dục - đào tạo, những ai quan tâm tham khảo.

8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi.
Chƣơng 2: Đổi mới, nâng cao chất lượng các ấn phẩm báo chí phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi của TTXVN.
Chƣơng 3: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng hai ấn
phẩm phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong thời gian tới.
Nội dung của luận văn được trình bày theo thứ tự các chương trên.

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THÔNG TIN
PHỤC VỤ ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI
1.1. Vị trí, mục tiêu, nhiệm vụ của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi
1.1.1. Khái niệm về dân tộc:
Cho đến nay, khái niệm dân tộc còn có những ý kiến khác nhau. Điều đó,
một phần là do vấn đề dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm, lập trường và
giác độ khác nhau; phần khác là do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại
hình dân tộc đang tồn tại ở các quốc gia, khu vực trên thế giới. Sự phong phú,

17
phức tạp đó làm cho nhiều định nghĩa được nêu ra, cho đến nay, chưa diễn đạt
được đầy đủ, trọn vẹn các thuộc tính của các loại hình dân tộc đã xuất hiện trên
thế giới. Việc tìm kiếm một định nghĩa về dân tộc đang là đòi hỏi cấp bách của
lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa như sau:
“1. Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã
hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban
đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này
của nhiều cộng đồng mang tính tộc người (ethnie) của bộ phận tộc người. Tính
chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau
2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người
Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation)
sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng
những đặc điểm ngôn ngữ, văn hoá, và nhất là ý thức tự giác tộc người”.
1

Cuốn Từ điển tiếng Việt nêu định nghĩa dân tộc như sau:
“1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các

quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hoá và tính
cách
2. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh
thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc
3

1
. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, 1995, t.I, tr.655

18
4. Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về
sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung”.
2

Và định nghĩa dân tộc thiểu số như sau: “Dân tộc chiếm số ít so với dân
tộc chiếm số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc”.
Giáo trình Triết học Mác – Lênin, do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên
soạn giáo trình quốc gia các bộ sách khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh xuất bản, có nói về khái niệm dân tộc như sau: “Khái niệm dân tộc thông
thường được dùng để chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người (bộ lạc,
bộ tộc, dân tộc). Cần phân biệt “dân tộc” theo nghĩa rộng trên đây với “dân
tộc” theo nghĩa khoa học: đó là hình thức cộng đồng người cao hơn các hình
thức cộng đồng trước đó, kể cả bộ tộc.
Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã
hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Dân tộc có thể từ một bộ
tộc phát triển lên, song, đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ
tộc và tộc người hợp nhất lại. Từ hình thức cộng đồng trước dân tộc phát triển
lên dân tộc là một quá trình vừa có tính liên tục vừa là bước nhảy vọt lớn”.
3


Khái quát những nội dung nêu trên có thể nói, dân tộc là một khái niệm đa
nghĩa, nhưng có hai nghĩa chính: hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một quốc
gia, hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một tộc người. Sự liên kết cộng đồng dân
tộc được tạo nên từ yếu tố có chung ngôn ngữ, văn hóa, lãnh thổ và biểu hiện
thành ý thức tự giác tộc người. Xét đến cùng, nền tảng của sự liên kết mà các

2
. Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội, 1992, tr.255
3
. Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.475-476

19
yếu tố trên tạo nên là trình độ phát triển kinh tế, bởi vì, tính chất của dân tộc bao
giờ cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất.
Hơn thế nữa nhiều người còn nhấn mạnh rằng, dù hiểu theo nghĩa nào thì
dân tộc cũng vừa là một cộng đồng tộc người, vừa là một cộng đồng chính trị -
xã hội. Có thể định nghĩa khái quát: dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội -
tộc người. Quan niệm này tạo nên một ranh giới rõ rệt để phân biệt khái niệm
dân tộc với khái niệm sắc tộc, bởi vì khái niệm sắc tộc thường dùng để chỉ các
tộc người da màu.
4
Quan niệm này cũng cho phép phân biệt khái niệm dân tộc
với khái niệm chủng tộc, bởi vì khái niệm chủng tộc thường dùng để chỉ sự khác
nhau về cấu tạo tự nhiên của con người.
5

Mối quan hệ giữa cái chung - quốc gia và cái riêng - từng dân tộc là mối
quan hệ nổi bật trong chính sách dân tộc. Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã
khẳng định: “Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát

triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng,
tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống
nhất không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc
của mỗi dân tộc”.
6


1.1.2. Vị trí
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc. Trong suốt quá trình lịch
sử, các dân tộc Việt Nam luôn kề vai, sát cánh bên nhau trong các cuộc đấu tranh
sinh tồn, chống lại thách thức khắc nghiệt của thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm, tương trợ giúp nhau cùng đi lên trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

4
. Đặng Nghiêm Vạn: Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993
5
. Từ điển Bách khoa Việt Nam, Sđd, tr. 529
6
. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.98

20
Nhận thức được sức mạnh to lớn của việc đoàn kết các dân tộc ở nước ta, ngay
từ khi mới ra đời, vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc đã được nhà nước ta đặt
ở vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, Đảng ta đã đề ra chính sách dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần
vào thắng lợi chung của cả nước.
Cùng với sự phát triển của cách mạng, báo chí nước ta ngày càng khẳng
định được vai trò là cầu nối tin cậy giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Nước ta có

54 dân tộc anh em, trong đó có tới 53 dân tộc thiểu số sống trải đều từ Bắc vào
Nam. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi miền núi và dân tộc thiểu số có
tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vì thế dù còn
gặp nhiều khó khăn nhưng trong mọi thời điểm phát triển, Đảng và Nhà nước
vẫn tập trung mọi nguồn lực để đầu tư phát triển miền núi và vùng đồng bào dân
tộc.
Chín tháng sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 3 tháng 5
năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 58 thành lập Bộ Nội vụ,
trong đó, Nha Thông tin Tuyên truyền: thu thập và truyền bá các tin tức trong
nước; Nha Dân tộc thiểu số: xem xét các vấn đề chính trị và hành chính thuộc về
các dân tộc thiểu số trong nước, và thắt chặt tình thân thiện giữa các dân tộc sống
trên đất Việt Nam.(
7
)
Chiểu theo Sắc lệnh số 58, ngày 3 tháng 5 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Nội
vụ Huỳnh Thúc Kháng ký Nghị định số 359, ngày 9 tháng 9 năm 1946 quy định

7
60 năm công tác dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia, 2006

21
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu của Nha Dân tộc. Nghị định cho phép Nha Dân tộc
có 6 ban, trong đó có Ban Tuyên truyền.
Nghị định nêu rõ: Một ban tuyên truyền có nhiệm vụ củng cố tinh thần
đoàn kết và tình thân ái giữa các dân tộc và chống mọi mưu mô chia rẽ.
Ban tuyên truyền sẽ liên lạc với Nha Thông tin Tuyên truyền toàn quốc để
thực hiện chương trình tuyên truyền chung trong phạm vi dân tộc thiểu số.(
8
)
Do hoàn cảnh lịch sử và điều kiện môi trường, hoàn cảnh sống đã dẫn đến

đặc điểm sự phát triển không đồng đều giữa các dân tộc, các vùng ở nước ta. Do
vậy, cùng với thành lập Nha Dân tộc thiểu số, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho
thành lập “Ban tuyên truyền” để thực hiện công tác dân tộc. Đến nay công tác
tuyên truyền luôn được coi trọng như một đặc trưng của công tác dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta. Phải sát dân, sát cơ sở, hiểu đúng dân thì mới nói cho dân
hiểu đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cách mạng xã hội, đó là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy về cơ bản mọi
chính sách của Đảng và Nhà nước đến với các vùng và đồng bào các dân tộc là
nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc phát huy được nội
lực, phấn đấu vượt qua đói nghèo, vươn lên từng bước hoà nhập vào sự phát
triển chung của cả nước.
Nhằm phát triển nhanh kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi, Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 “Về chủ
trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi” đánh dấu bước
chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc và
miền núi của Đảng và Nhà nước. Để thể chế hoá Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị,
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã có Quyết định số 72/QĐ-HĐBT,

8
60 năm công tác dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia, 2006

22
ngày 13/3/1990 “Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã
hội miền núi” quy định rõ những nội dung đổi mới cơ cấu kinh tế và tổ chức sản
xuất ở miền núi theo hướng chuyển sang kinh tế hàng hoá phù hợp với đặc điểm
từng vùng, từng tiểu vùng, từng dân tộc. Gắn phát triển kinh tế với giải quyết các
vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và củng cố an ninh, quốc
phòng.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế, ngày 31 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 1637/QĐ-TTg về việc cấp một số loại báo, tạp

chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Theo đó, có 20 loại báo, tạp chí của
17 toà soạn báo được Chính phủ cấp kinh phí xuất bản để phát không thu tiền
đến với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngày 20 tháng 7 năm 2006, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg thay thế Quyết định 1637
nhưng nội dung không thay đổi. Đến nay, các báo, tạp chí phục vụ riêng đồng
bào dân tộc thiểu số thuộc diện thụ hưởng của Quyết định 975 đang phát huy
hiệu quả tuyên truyền, được đồng bào đón nhận.
Như vậy, việc tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi, bên cạnh nhiệm vụ chung của các phương tiện truyền thông đại chúng thì
còn có một đội ngũ riêng các nhà báo, các tờ báo tuyên truyền cho các đối tượng
thuộc khu vực này.
Đối với TTXVN, tuyên truyền phục vụ miền núi và vùng dân tộc thiểu số
từ lâu đã được xác định là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ thông tin của
ngành. Ngay từ ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, rồi trong kháng chiến chống
thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phóng viên TTXVN đã có
mặt tại chiến khu Việt Bắc và Tây Bắc. Phóng viên TTXVN đã bám sát các
chiến dịch đi theo bộ đội, hoà mình với đồng bào dân tộc thiểu số để cổ vũ tinh

23
thần chiến đấu và sản xuất của quân và dân ta. Phóng viên TTXVN đã trở thành
những chiến sỹ dũng cảm ngoài mặt trận cùng anh giải phóng quân trên khắp
chiến trường, Khu 5, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Những vùng
kháng chiến ác liệt nhất chính là địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin phục vụ đồng bào, TTXVN
là cơ quan đầu tiên được phép xuất bản ấn phẩm riêng phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi. Đó là Bản tin ảnh Miền núi và Dân tộc (nay là Dân tộc và
Miền núi) xuất bản năm 1991 và Chuyên đề Dân tộc và Miền núi xuất bản năm
1994.
Có thể nói thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các

cơ quan báo chí và sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Từ khi đất nước còn
đang trong thời kỳ chiến tranh và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ngày nay, thông tin về lĩnh vực này luôn được coi trọng và góp phần vào sự
thành công chung của cả nước. Thông tin đã góp phần rút ngắn khoảng cách địa
lý giữa miền ngược và miền xuôi. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt được những
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giúp đồng bào nhanh
chóng xoá đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm giàu, phê phán những hủ
tục lạc hậu
1.1.3. Mục tiêu
Tư tưởng có tính nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mọi quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân
tộc thiểu số là một chiến lược lâu dài chứ không phải là nhất thời. Ngay sau khi
Chính phủ được thành lập, trong cơ cấu của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã không quên các thành phần là những người dân tộc, tín hữu.

24
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo
hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Trong suốt cuộc đời hoạt động
của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở, làm sao cho dân tộc Việt Nam
hoàn toàn độc lập, tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành,
được sống trong hoà bình và hạnh phúc.
Mong muốn đó của Bác được Đảng, Nhà nước coi đó là mục tiêu phấn
đấu và trở thành phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Tất cả những cố gắng, những thành tựu đạt được trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc đều nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, gắn với chủ nghĩa
xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá

IX về công tác dân tộc đưa ra mục tiêu cụ thể đến năm 2010: “Phát triển kinh tế,
xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc. Đến năm 2010,
các vùng dân tộc và miền núi cơ bản không còn hộ đói; giảm hộ nghèo xuống
dưới 10%; giảm dần khoảng cách mức sống giữa các dân tộc, các vùng; trên
90% hộ dân có đủ điện, nước sinh hoạt; xoá tình trạng nhà tạm, nhà dột nát;
100% xã có đường ôtô đến trung tâm xã; cơ bản không còn xã đặc biệt khó
khăn
Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức hưởng thụ
văn hoá của đồng bào: hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh việc dạy và học tiếng dân
tộc. Hầu hết đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa được tiếp cận các dịch vụ chăm

25
sóc sức khoẻ; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng dân tộc. Phấn
đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát thanh; các
giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số được bảo
tồn và phát triển”.
Để thực hiện mục tiêu đó, Nghị quyết nêu nhiệm vụ: “Tiếp tục thực hiện
có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng cường các
hoạt động văn hoá, thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở; tăng thời lượng và
nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình bằng các tiếng
dân tộc thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, giữ gìn và phát huy các
giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hoá các dân tộc”.
Nghị quyết cũng nêu một số giải pháp, một trong những giải pháp đó là:
“Tiếp tục thực hiện tốt chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và
miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có và
nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển các
vùng dân tộc và nhiệm vụ công tác dân tộc trong giai đoạn mới”.

“Đổi mới nội dung và phương pháp công tác dân vận ở vùng đồng bào

dân tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế
nhị, vững chắc; sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân
tộc, từng địa phương. Cán bộ công tác dân tộc ở vùng dân tộc và miền núi phải
quán triệt và thực hiện thật tốt phong cách công tác dân vận: “Trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nêu: “Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh,

26
truyền hình, xuất bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn
đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
9

Ngược lại thời điểm trước năm 1990, đời sống văn hoá của đồng bào các
dân tộc còn nhiều hạn chế, nhiều hủ tục lạc hậu vẫn tồn tại và có chiều hướng gia
tăng; báo viết, tạp chí, phát thanh, truyền hình chậm phát triển, chưa đáp ứng
được nhu cầu thụ hưởng của đồng bào.
Trong những năm gần đây, việc nâng cao mức hưởng thụ văn hoá tinh
thần cho nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc luôn được Đảng
và Nhà nước, các cấp, các ngành quan tâm hơn, thể hiện trong việc ban hành các
chủ trương, đường lối, chính sách, xây dựng, phát triển bộ máy ngành văn hoá –
thông tin, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và phát triển các loại hình văn hoá.
Chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình được triển khai khắp các địa
phương miền núi, kể cả các vùng xa xôi hẻo lánh. Hiện nay, tỷ lệ phủ sóng phát
thanh đạt hơn 90% lãnh thổ, truyền hình khoảng 85%. Các xã miền núi đã từng
bước được trang bị các thiết bị thông tin hiện đại như video, máy thu hình, thu
thanh, điện thoại, và có thêm nhiều loại hình văn hoá tuyên truyền phù hợp với
nhân dân các dân tộc như các ấn phẩm văn hoá dân gian các dân tộc, Bản tin ảnh
Dân tộc và Miền núi (TTXVN), Tuyển tập văn học các dân tộc ít người, Tạp chí
Dân tộc học, báo Dân tộc và phát triển ; mở rộng chương trình phát thanh,

truyền hình bằng nhiều thứ tiếng dân tộc phù hợp với nguyện vọng của đồng bào
các dân tộc.
Đối với các báo, tạp chí phục vụ riêng đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi theo Quyết định 975/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thời gian qua đã làm
tốt chức năng của mình. Qua kiểm tra, giám sát việc thực hiện hàng năm và mới

9
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, 2006

27
đây, tổ chức kiểm tra ở 30 huyện, 60 xã đặc biệt khó khăn, các đồn biên phòng,
trường dân tộc nội trú và một số thôn, bản miền núi trên địa bàn cả nước, Uỷ ban
Dân tộc nhận thấy các báo, tạp chí đã thực hiện chính sách này chủ động, sáng
tạo, tập trung tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước đến đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, cập nhật nhiều thông tin có ý
nghĩa thiết thực; hướng dẫn đồng bào phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, ổn
định cuộc sống; đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, giữ gìn an ninh - trật tự.
Cùng với việc giới thiệu những mô hình, điển hình làm kinh tế trang trại, VAC,
VACR bà con các dân tộc thiểu số có thể tìm hiểu từ báo chí các thông tin về
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công, phổ biến kiến thức làm ăn, hướng dẫn
chăm sóc vật nuôi, cây trồng phù hợp điều kiện tự nhiên ở vùng núi. Nhiều
người nhờ đọc, làm theo báo đã trở thành điển hình tiên tiến.
Hiện nay, với 20 loại báo, tạp chí thực hiện chính sách cấp không thu tiền
đến đồng bào, đã có nhiều tờ báo cấp đến tận thôn, bản. Đó là các báo Dân tộc và
phát triển, Bản tin ảnh Dân tộc và Miền núi (TTXVN) Riêng Bản tin ảnh Dân
tộc và Miền núi là tờ báo dịch ra nhiều thứ tiếng dân tộc nhất. Đến thời điểm
này, từ bản in tiếng phổ thông, TTXVN đã cho in thành 5 ngữ dân tộc, gồm:
Khơ-me, Gia-rai, Ê-đê, Ba-na và Chăm.
Bằng sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, nỗ lực của các cơ quan báo chí,
công tác thông tin về đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã góp phần làm

thay đổi diện mạo nông thôn miền núi. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước đối với
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi rất rõ, đó là ngày càng nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của đồng bào. Thông qua đường lối, chính sách và các chương
trình, dự án cụ thể để thực hiện mục tiêu này. Các phương tiện thông tin đại
chúng nhận thức được tầm quan trọng đó cũng đã vào cuộc tích cực tuyên truyền

×