Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Sản phẩm dệt của một số nhóm Thái vùng Mê Kông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.73 MB, 108 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THU TRANG


SẢN PHẨM DỆT CỦA MỘT SỐ NHÓM THÁI
VÙNG MÊ KÔNG

Chuyên ngành : Châu Á học
Mã số : 60.31.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Hoàng Lương



HÀ NỘI - 2010


1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 8
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Những đóng góp của đề tài 10
7. Kết cấu của đề tài 11
NỘI DUNG 13
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI VÙNG MÊ KÔNG 13
1.1 Khái quát địa bàn lưu vực sông Mê Kông 13
1.1.1 Vị trí địa lý 13
1.1.2. Điều kiện tự nhiên và xã hội 15
1.1.3 Vài nét về văn hóa vùng Mê Kông 17
1.2 Các nhóm Thái ở lưu vực sông Mê Kông 17
1.2.1 Vài nét khái quát về lịch hình thành và sự phân bố các
nhóm Thái 17
1.2.2 Địa bàn cư trú của người Thái ở vùng sông Mê Kông 19
1.3 Một số đặc trưng về văn hóa Thái 21
1.3.1 Văn hóa vật chất 21
1.3.2 Văn hóa tinh thần 22
Chương 2: NGHỀ DỆT CỦA NGƯỜI THÁI VÙNG MÊ KÔNG 25
2.1 Các công đoạn của nghề dệt 25
2.1.1 Chuẩn bị nguyên liệu 25
2.1.2 Công cụ và kỹ thuật chế biến nguyên liệu 32
2.1.3 Công cụ, quy trình dệt và kỹ thuật dệt 34


2
2.2 Sản phẩm dệt và nghệ thuật trang trí hoa văn trên sản phẩm dệt của
người Thái vùng Mê Kông 39
2.2.1 Các loại sản phẩm dệt đặc trưng 39

2.2.2 Một số đồ án và mô típ hoa văn tiêu biểu của các nhóm Thái vùng
Mê Kông 46
2.3. So sánh sản phẩm dệt của một số nhóm Thái tiêu biểu vùng Mê Kông
(Trung Quốc, Thái Lan, Lào,Việt Nam) 48
2.3.1 Sự tương đồng 48
2.3.2 Sự khác biệt 56
Chương 3: SẢN PHẨM DỆT TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI THÁI
VÙNG MÊ KÔNG 58
3.1 Sản phẩm dệt trong đời sống cộng đồng tộc người Thái 58
3.1.1 Sản phẩm dệt trong đời sống kinh tế người Thái 58
3.1.2 Sản phẩm dệt trong đời sống xã hội của người Thái 58
3.1.3 Sản phẩm dệt trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Thái 64
3.2 Sản phẩm dệt Thái với vai trò là một biểu hiện cho văn hóa vùng
Mê Kông 68
3.3 Sự biến đổi và triển vọng cho sản phẩm dệt của các nhóm Thái vùng
Mê Kông. 70
3.3.1 Sự biến đổi 70
3.3.2 Triển vọng cho các sản phẩm dệt 72
3.3.3 Giải pháp bảo tồn và phát triển các sản phẩm dệt – kinh nghiệm
từ mô hình của Lào 74
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
PHỤ LỤC


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ sau đại chiến thế giới lần thứ II kết thúc, Đông Nam Á là nơi
diễn ra nhiều sự kiện lịch sử mang tính thời đại. Chưa bao giờ các nhà khoa

học trên thế giới lại quan tâm đến vùng đất này như thế. Một nền Đông Nam
Á học thực sự đã ra đời. Tiếp cận từ nhiều góc độ, thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau, song đặc biệt là các ngành khoa học xã hội và nhân văn, người ta đã để
ra nhiều công sức để tìm hiểu về đất nước, con người nơi đây nhằm lý giải vì
sao ở khu vực này lại nổi lên được nhiều con rồng Châu Á về mặt phát triển
kinh tế như vậy.
Trong bối cảnh chung đó, những ai quan tâm đến sinh hoạt khoa học
quốc tế liên quan đến Đông Nam Á, chắc sẽ thấy từ năm 1980 trở lại đây, cứ ba
năm một lần, đã diễn ra các Hội nghị quốc tế về Thái học ở các nước tuần tự
như: Ấn Độ (lần I, năm 1980), Thái Lan (lần II, năm 1983), Australia (lần III,
năm 1987), Trung Quốc (lần IV, năm 1990), Anh (lần V, năm 1993) Qua các
hội nghị này, các nhà khoa học trên thế giới công bố những kết quả nghiên cứu
về người Thái, bao gồm rất nhiều vấn đề: lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa
Việc nghiên cứu về người Thái không phải chỉ dành cho những nước
có số dân nói tiếng Thái mà là lĩnh vực khoa học có tầm cỡ chung của nhân
loại. Điều này đã được khẳng định tại các hội nghị quốc tế Thái học. Thế
giới muốn tìm hiểu về các dân tộc nói tiếng Thái, thế giới muốn hiểu Đông
Nam Á và thế giới muốn biết cặn kẽ hơn các cư dân Nam Trung Quốc thì
không thể bỏ qua được lĩnh vực nghiên cứu Thái học, đó là điều nhất thiết.
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu người Thái được phân bố ở các
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở Đông Nam Á với các nhóm Thái sinh tụ
ở lưu vực sông Mê Kông sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, thúc
đẩy quá trình xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, hợp tác và phát triển
thịnh vượng.


4
Tình hình trên cho thấy rằng, người Thái và các vấn đề liên quan đến
người Thái, đặc biệt là các nhóm Thái ở Đông Nam Á đang giống như một
“viên nam châm” thu hút các học giả và các nhà nghiên cứu. Bản thân tác giả

luận văn cũng đã bị lực hút đó hấp dẫn và thôi thúc mong muốn tìm hiểu về
dân tộc có nhiều nét văn hóa đặc sắc này.
1.2. Nghiên cứu về đời sống văn hóa người Thái, có rất nhiều cách để
tiếp cận, trong đó việc tìm hiểu thông qua những sản phẩm, hiện vật văn hóa
được tạo ra và sử dụng bởi người Thái là một hướng tiếp cận để khám phá hệ
giá trị văn hóa ẩn sâu trong đó. Dưới góc độ văn hóa lịch sử hay có người
gọi là khu vực dân tộc học – lịch sử, sản phẩm dệt (cụ thể là các đồ vải) của
người Thái vùng Mê Kông, nhất là tiểu vùng sông Mê Kông đã cho thấy mối
quan hệ giữa các nhóm Thái với nhau. Đặc biệt, ngôn ngữ Thái khá đa dạng
và phổ biến ở nhiều nơi khác nhau. Những người Thái có thể đi xa hàng
ngàn dặm, sinh sống ở những vùng có những đặc điểm khác nhau nhưng họ
vẫn có thể giao tiếp với nhau. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ Thái trong một
phạm vi rộng lớn trong những điều kiện khác nhau đã gợi ra một vấn đề là
quan hệ giữa các nhóm này từ một cội nguồn chia ra, rồi phân tán, mở rộng
hay đó là sự phân bố lâu đời trên một vùng đất từ lâu đời rồi trở thành các
nhóm Thái như ngày nay? Trước vấn đề chưa có lời giải đáp như thế, với tư
cách là một học viên cao học đang trên đường tập sự nghiên cứu, chúng tôi
mong được đóng góp phần nào ý kiến của mình như một sự gợi ý về vấn đề
hóc búa này. Vì vậy, trong phạm vi khả năng và điều kiện cụ thể của mình,
thông qua sản phẩm dệt các nhóm Thái vùng Mê Kông, luận văn mong muốn
gợi ra một số ý tưởng bằng việc nghiên cứu những sản phẩm thủ công truyền
thống khá độc đáo và nhiều ý nghĩa, nhiều giá trị lịch sử, văn hóa trong một
khu vực rộng lớn và đặc biệt: vùng Mê Kông
1.3. Ở đây cũng có một vấn đề cần nói ngay từ đầu là đối với các đề
tài nghiên cứu về dân tộc học, yêu cầu cần thiết là tác giả phải tham gia trực


5
tiếp trên địa bàn nghiên cứu. Nhưng do sự phân bố trên một địa bàn cư trú
vừa rộng, vừa phức tạp của các nhóm Thái này trong lịch sử, thuộc nhiều

quốc gia với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên việc
nghiên cứu thực địa gặp nhiều khó khăn. Trong điều kiện cụ thể của bản
thân, có thể nói đây là một khó khăn không dễ khắc phục về nhiều lĩnh vực (
thời gian, khả năng thực địa và cả an ninh quốc gia, vv…). Vì thế trong điều
kiện khả năng và hoàn cảnh cụ thể của mình, chúng tôi đã tìm giải pháp để
thực hiện đề tài, tuy không được như mong ước nhưng qua đó vẫn có thể
giúp chúng tôi giải quyết được những yêu cầu mà đề tài đặt ra. Do đó, cách
tiếp cận nghiên cứu của đề tài chủ yếu dựa trên cơ sở bao quát những nguồn
tư liệu của nhiều nhà khoa học đã công bố có liên quan đến lĩnh vực nghiên
cứu của đề tài và một số tư liệu trực tiếp quan sát trong các hiện vật trưng
bày ở Bảo tàng (chủ yếu là Bảo tàng Dân tộc học ở đường Nguyễn Văn
Huyên, Hà Nội).
Tuy vẫn biết những hạn chế khó khăn của phương pháp này nhưng do
lòng yêu thích, ngưỡng mộ với sự tâm huyết về một đề tài có nhiều giá trị và
ý nghĩa như thế, chúng tôi đã mạnh dạn nghiên cứu, tìm hiểu “Sản phẩm dệt
của một số nhóm Thái vùng Mê Kông” và chọn làm đề tài luận văn của mình
với mong muốn có thể gợi ra những vấn đề có ích, nhất là trong sự hội nhập
văn hóa hiện nay giữa các dân tộc trong khu vực mà ở đây trước hết là các
nhóm Thái tiểu vùng sông Mê Kông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề Thái học đã được nhiều người, nhiều thế hệ và nhiều ngành
khoa học tìm hiểu, nghiên cứu từ lâu. Thực ra vấn đề này phần lớn là sự
quan tâm nghiên cứu theo từng nước, từng khu vực về từng vấn đề. Ví dụ
như một số Hội thảo Quốc tế thường hay đặt ra chủ đề chính cho Hội thảo
từng nơi, từng vùng. Nhưng cũng có nhiều Hội thảo quan tâm đến nhiều nội
dung khác nhau. Tuy nhiên, hướng tổng quan chung vẫn là nghiên cứu về


6
các nhóm Thái cụ thể, từng vấn đề cụ thể như về vấn đề kinh tế - xã hội, tôn

giáo, tín ngưỡng, đặ biệt là về các sinh hoạt văn hóa (bao gồm cả ba lĩnh vực
văn hóa vật thể, nếp sống xã hội và văn hóa tinh thần)
Năm 1991, với sự ra đời của cuốn thống kê thư mục các công trình
nghiên cứu về các nhóm Thái trên thế giới, tác giả Shigeharu Tanabe (Giám
đốc Bảo tàng Dân tộc học Osaka – Nhật Bản) đã phối hợp với Trung tâm
Nghiên cứu Lịch sử Ayuthaya (Thái Lan) phát hành cuốn Religious
Traditions among Tai Ethnic groups – A selected bibliography (Truyền
thống tôn giáo của các nhóm Thái theo dạng thư mục chuyên đề). Lần đầu
tiên, cuốn sách trên đã giới thiệu khá cụ thể về các tôn giáo, hoạt động tín
ngưỡng ở các nhóm Thái trên thế giới. Trong đó đặc biệt là sự giới thiệu về
các nhóm Thái ở Đông Nam Á. Nội dung cuốn sách này đã chú trọng đến
các công trình nghiên cứu so sánh giữa các nhóm Thái. Với 2.700 đầu sách,
cuốn sách trên ít nhiều đã giới thiệu được tình hình nghiên cứu về các nhóm
Thái trên thế giới.
Từ năm 1980 đến năm 2008, đã có mười Hội thảo Quốc tế về Thái học
được triệu tập với khoảng 4.000 tham luận về tất cả các lĩnh vực liên quan
đến vấn đề Thái học thế giới. Nội dung chủ yếu của các Hội thảo này phần
lớn đều liên quan đến vấn đề về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo, tín ngưỡng
Thái. Trong số các Hội thảo này, phải kể đến Hội thảo Quốc tế về Thái học
lần thứ X được tổ chức tại Trường Đại học Thammasat (Bangkok, Thái
Lan). Hội thảo này đã tập hợp được 382 nhà khoa học tham dự, trong đó có
210 đại biểu đến từ các nước khác ngoài Thái Lan với khoảng hơn 500 báo
cáo tham luận. Trong đó có nhiều báo cáo về các nhóm Thái ở Tiểu vùng
sông Mê Kông.
Có một điều khá đặc biệt là hầu như tất cả mười cuộc Hội thảo Quốc
tế về Thái học, Ban tổ chức đều dành một phần nội dung để các nước có


7
người Thái trưng bày những sản phẩm dệt tiêu biểu của mình và sản phẩm

dệt của một số nước liên quan như Ấn Độ, Myanmar,…
Tại Thái Lan từ năm 1991 đã tổ chức khá thường xuyên các Hội thảo
chuyên đề: Sản phẩm dệt Châu Á, tài sản chung (Textiles: Common Heritage
of Southeast Asia). Tiếp theo, Hội thảo lần I (năm 1991), đến tháng 9 năm
1993, tại Trung tâm Văn hóa Thái Lan ở Bangkok lại tổ chức Hội thảo lần II.
Trong Hội thảo này có nhiều nước tham gia với nhiều báo cáo tham luận về
những đặc trưng nổi bật của sản phẩm dệt từng nước.
Vào các năm 2001, 2005 Hội thảo về sản phẩm dệt của các nước
Đông Nam Á cũng được tổ chức, trong đó đặc biệt có sự tham gia của các
quốc gia có người Thái sinh sống tại Bangkok và Chiềng xẻn (Thái Lan).
Đặc biệt, năm 2006, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã xuất bản
cuốn: Đồ vải của người Thái ở tiểu vùng sông Mê Kông – Tiếp nối và biến
đổi. Cuốn sách tập hợp những bài viết của nhiều nhà nghiên cứu về đồ vải
của các nước sông Mê Kông và cung cấp cho người đọc khá đầy đủ những tư
liệu cần thiết về đồ vải của một số cư dân Thái lưu vực sông Mê Kông, trong
đó có nhiều nội dung liên quan đến nghề dệt và sản phẩm dệt của các nhóm
Thái ở tiểu vùng sông Mê Kông. Đây cũng là tài liệu tham khảo chính của đề
tài. Tiêu biểu là một số bài viết sau:
- Người Thái và sông Mê Công: Đồ vải, nguồn nước, địa hình, con
người của Leedom Leffert
- Đồ vải của người Thái ở Vân Nam: Sự tiếp nối và sự biến đổi của
La Công Ý
- Đồ vải Thái ở vùng Lạn Na và I Sản (Thái Lan) của Susan
Conway
- Đồ vải của người Thái ở Việt Nam (Vi Văn An, Hoàng Lương)
- Đồ vải của người Thay Đeng: Hoa văn và chủng loại của Outala
Vanyuveth


8

- Trang trí bạc của người Thái ở Vân Nam của Yang Xiao
Ngoài ra, ở các nước Thái Lan, Lào, Nam Trung Quốc và Việt Nam
còn khá nhiều công trình chuyên đề về các sản phẩm dệt của các nhóm Thái
vùng này. Ví dụ, Hoa văn mặt chăn Thái Mường Tấc (Phù Yên – Sơn La)
(Luận án Phó Tiến sĩ sử học bảo vệ năm 1987) của PGS.TS Hoàng Lương,
và nhiều công trình khác liên quan đến đề tài luận văn này như các công
trình nghiên cứu vể người Thái ở Việt Nam của tác giả Cầm Trọng, Cầm
Cường và một số tác giả khác nữa. Trong quá trình triển khai đề tài, để có cứ
liệu so sánh đối chiếu, chúng tôi đã xin phép sử dụng kết quả nghiên cứu của
PGS. TS Hoàng Lương.
Như vậy, đối với sản phẩm dệt của các nhóm Thái nhất là các nhóm
thuộc tiểu vùng sông Mê Kông nói riêng, cư dân nói tiếng Thái trên thế giới
nói chung đã được nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu. Tất cả các công trình,
bài viết trên là nguồn tài liệu quý cung cấp cho người đọc nói chung và tác
giả luận văn sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện về những sản phẩm dệt của
người Thái nói chung, vùng Mê công nói riêng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Sản phẩm dệt của một số nhóm
Thái ở vùng sông Mê Kông. Những sản phẩm đó bao gồm nhiều loại như vải
vóc, quần áo, các vật dụng hàng ngày và đồ cúng lễ làm từ vải dệt…
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn giới hạn trong phạm vi sản phẩm dệt của các nhóm cư dân
nói tiếng Thái ở lưu vực sông Mê Kông, trước hết là các nhóm trong tiểu
vùng sông Mê Kông (Lào, Thái Lan, Nam Trung Quốc và Việt Nam)
- Sản phẩm dệt của các nhóm Thái rất phong phú đa dạng, đề tài chỉ
tập trung vào nghiên cứu sản phẩm dệt trên vải của các nhóm Thái, bởi trong
đa số những sản phẩm được tạo ra từ nghề dệt thì dệt vải làm ra các loại y



9
phục và đồ dùng khác trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng có một
vai trò to lớn không thể thiếu trong tiến trình lịch sử và văn hóa tộc người
Thái. Hơn nữa, chúng ta có thể thấy rằng không ở đâu nghệ thuật trang trí và
những ẩn ý của hoa văn lại có điều kiện phô hình, khoe sắc một cách phong
phú, đa dạng như trên đồ vải
- Mẫu khảo cứu: Đề tài lựa chọn khảo cứu mẫu sản phẩm đồ vải của
một số nhóm Thái tiêu biểu vùng Mê Kông là : Thái Lan, Lào,Việt Nam và
nhóm Thái ở Vân Nam – Trung Quốc
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu, nghiên cứu sản phẩm dệt của một số nhóm Thái
vùng Mê Kông với tư cách như là những hiện vật văn hóa của tộc người.
Trên cơ sở đó, tác giả mong muốn góp phần khai thác, giới thiệu di sản văn
hóa của người Thái nói riêng, nhân loại nói chung, đồng thời chỉ ra ý nghĩa
quan trọng của sản phẩm dệt Thái trong sự giao lưu văn hóa khu vực.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn Thạc sĩ, đề tài tập trung vào hoàn thành
những nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát về các nhóm Thái lưu vực sông Mê Kông.
- Hệ thống và giới thiệu những tư liệu về sản phẩm dệt của các nhóm
Thái trong vùng.
- So sánh đối chiếu sự tương đồng và khác biệt giữa sản phẩm dệt của
các nhóm Thái trên. Từ đó thấy được mối quan hệ giao lưu giữa các nhóm
Thái trong khu vực.
- Phân tích sự biến đổi ở sản phẩm dệt của các nhóm Thái, qua đó thấy
được ảnh hưởng của thương mại hàng hóa đang tác động đến các sản phẩm
dệt truyền thống song bên cạnh đó lại mở ra triển vọng hợp tác cho các nước
trong vấn đề cùng bảo tồn và phát triển sản phẩm dệt một cách hiệu quả



10
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, các phương pháp nghiên cứu chính được tác giả
sử dụng gồm có:
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: Thu thập các tài liệu có
liên quan đến đề tài, chủ yếu là các tài liệu đã công bố trên sách, báo trong
và ngoài nước; hệ thống, xử lý, phân tích các nguồn tư liệu đã thu thập được.
- Phương pháp quan sát: Quan sát trực tiếp các mẫu đồ vải của các
nhóm Thái được trưng bày trong Bảo tàng Dân tộc học và quan sát gián tiếp
thông qua khảo cứu các mẫu tranh ảnh trong tài liệu thu thập được.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: So sánh đối chiếu các mẫu hoa văn
trên vải của các nhóm Thái để tìm ra sự tương đồng và khác biệt
Do điều kiện, hoàn cảnh hạn chế nên trong quá trình thực hiện luận
văn gặp những khó khăn khách quan là địa bàn nghiên cứu nằm rải rác, phân
tán ở nhiều quốc gia khác nhau nên phương pháp quan sát thực địa không thể
thực hiện được. Vì vậy, việc thu thập và phân tích các nguồn tư liệu trong
nước liên quan đến đề tài là khả thi nhất.
6. Những đóng góp của đề tài
Việc nghiên cứu và phân tích sản phẩm dệt của một số nhóm Thái
vùng Mê Kông không chỉ đơn thuần là giới thiệu những sản phẩm đẹp do
bàn tay người Thái tạo ra dưới góc độ thẩm mỹ mà còn giúp chúng ta tìm
hiểu bản sắc văn hóa tộc người và sự giao lưu văn hóa giữa các nhóm người
Thái khu vực sông Mê Kông.
Qua so sánh đối chiếu các sản phẩm dệt giữa các nhóm Thái nói trên,
luận văn đã chỉ ra sự tương đồng, thống nhất của văn hóa Thái trong khu
vực. Đây là cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm tăng cường khối đoàn kết,
tương trợ giúp đỡ nhau giữa các nước trong khu vực.
Với ý nghĩa và giá trị văn hóa sâu sắc như vậy, các nước cần có
chương trình bảo tồn và phát triển các sản phẩm dệt của người Thái. Đặc biêt



11
là trong xu thế các sản phẩm dệt đang có sự biến đổi như hiện nay,thì việc
hợp tác nhằm đưa sản phẩm dệt thành sản phẩm hàng hóa mang giá trị quảng
bá hình ảnh, văn hóa dân tộc là một hướng đi mới.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài có kết cấu 3 phần : mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó,
phần nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về người Thái vùng Mê Kông
Chương này mô tả về vị trí, địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội của lưu
vực sông Mê Kông, hệ thống và khái quát các nhóm người Thái sinh sống
trong khu vực cùng với những nét đặc trưng về văn hóa.
Chương 2: Nghề dệt của người Thái vùng Mê Kông
Nội dung của chương nhằm hệ thống và giới thiệu các tư liệu và quá
trình của nghề dệt của các nhóm Thái. Bên cạnh đó, phân tích và so sánh đối
chiếu sản phẩm dệt của một số nhóm Thái tiêu biểu trong khu vực
Chương 3: Sản phẩm dệt trong đời sống của người Thái vùng
Mê Kông
Những cứ liệu và phân tích trong chương 3 nhằm thể hiện vai trò quan
trọng của sản phẩm dệt trong đời sống văn hóa tộc người Thái cũng như đối
với văn hóa vùng Mê Kông. Vì vậy, việc bảo tồn và phát triển các sản phẩm
dệt Thái là vấn đề đặt ra cho các quốc gia trong khu vực.











12
Lưu vực sông Mê Kông

Nguồn:


13
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI THÁI VÙNG MÊ KÔNG

1.1 Khái quát địa bàn lưu vực sông Mê Kông
1.1.1 Vị trí địa lý
Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn trên thế giới, có tên
gọi gốc là Mé Khoóng, bắt nguồn từ tên gọi của cư dân Lào - Thái: Mè = mẹ,
Khoóng là biến âm của Khlong = một từ Nam Á có nghĩa là sông - tức là
sông Mẹ - người Pháp phiên âm thành Mékong, người Việt phiên âm Hán
Việt là Cửu Long. [3; tr 27]
Sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, dài 4.800 km, là
một trong ba con sông lớn nhất ở Châu Á (cạnh sông Hằng, sông Dương
Tử), chảy qua sáu nước: Trung Quốc 1.800 km, Myanma chung với Lào,
Thái Lan dài 1.865 km, Campuchia 448 km, Nam Việt Nam 220 km rồi đổ
ra biển Đông. Trải dài qua lãnh thổ 6 nước, lưu vực sông Mê Kông rộng gần
bằng nước Pháp và Đức cộng lại, trong đó gồm 6 vùng địa lý với các đặc
điểm cao độ, địa hình và độ thảm phủ khác nhau. [38]
Bắt nguồn từ vùng núi tuyết Tang-ku- la-shan ở độ cao 5.000m trên
cao nguyên Tây Tạng, sông Mê Kông bắt đầu với cái tên Trung Quốc là Lạn

Thượng Giang chảy từ Vân Nam qua Cảnh Hồng - Calanpa đến biên giới
Trung - Myanma. Từ Hoiatêxa (Myanma) thì chung biên giới với Lào. Từ
ngã ba Nặm Mộc, mường Tôn Phưng (Lào) thì chung biên giới với Thái Lan,
qua Huội Sài đi vào nội địa Lào dọc tỉnh Saynhabuli đến Salakham - Viêng
Chăn lại chung biên giới với Thái Lan, đến Băng Lan (Thái Lan) đi vào nội
địa Lào qua Paksé, vượt thác Li Phỉ (thác Khôn) vào đất Campuchia ở Bung
Thơ Beng tỉnh Strungtreng. Đến Phnombenh, sông Mê Kông nối với sông


14
Tonglesap và thành hai nhánh vào Việt Nam (Châu Đốc) là sông Tiền và
sông Hậu. Sông Tiền đổ ra biển bằng sáu cửa: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Balai,
cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiêm và cửa Cung Hầu; sông Hậu đổ ra biển bằng
ba cửa: Ba Thác, Định An, Tranh Đề. [3; tr 29]
Với chiều dài 4.800 km, xếp thứ 10 trên thế giới, sông Mê Kông có
tổng diện tích lưu vực là 795.000 km2. Sông Mê Kông có nhiều nhánh, trong
đó lớn nhất là sông Nặm U, Nặm ngừm, Nặm Thôn, Sêbăng phay, Sêbăng
hiên, Sêbăng xan trên lãnh thổ Lào. Các sông Sêkông, Xtengsen trên lãnh
thổ Campuchia. Vùng thượng nguồn các con sông Xê xan, Xrêpôc thuộc Tây
Nguyên Việt Nam, có Biển hồ, hồ Lắc, Yaly,…Người ta chia thành ba đoạn:
- Thượng lưu: từ thượng nguồn đến Luống Nặm Thà
- Trung lưu: từ Luông pha băng đến Phnôm Pênh.
- Hạ lưu từ Phnôm Pênh ra biển
Thượng lưu và trung lưu bị chia cắt thành nhiều thung lũng lớn bé
khác nhau. Châu thổ sông Mê Kông là vùng đồng bằng tính từ Karatié
(Campuchia) có diện tích lưu vực là 49.520 km2 (mùa lũ diễn ra từ tháng 7
đến tháng 12 với tình trạng ngập úng trên phạm vi rộng, kéo dài và không
thể kiểm soát được. Hàng năm có khoảng trên 25 % diện tích vùng châu thổ
bị ngập nước với độ sâu từ 0,5m đến trên 4m); Việt Nam chiếm 39.000 km2,
bằng 79 % tổng diện tích châu thổ. Có 65 triệu người sống ở hạ lưu với nền

kinh tế nông nghiệp chiếm 30, 53 % GDP khu vực. Vùng cao nguyên có diện
tích thuộc lưu vực sông Mê Kông là 2.965 000 ha với 1,94 triệu dân, có 30%
trong số 40 dân tộc ít người. [3; tr 30]
Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long có 3,9 triệu ha với dân số 16,5
triệu, chiếm 50% tổng sản lượng lúa và hoa trái của cả nước Việt Nam. Toàn
bộ đồng bằng sông Cửu Long là sản phẩm bồi lắng của sông Mẹ, hạ lưu xuất
hiện nhiều đảo sông. Ven sông là các đê tự nhiên, đất đai màu mỡ, tiếp đó là
vùng “bưng” sau đê, vùng cư trú của các loài thủy sản, sau cùng là đồng lúa


15
bằng phẳng, thấp. Đồng bằng sông Cửu Long có 2.500 km kênh rạch tự
nhiên [3; tr 31]
1.1.2. Điều kiện tự nhiên và xã hội
Nguồn tài nguyên quan trọng và dồi dào nhất của lưu vực Mê Kông là
nước và đa dạng sinh học. Sự đa dạng sinh học của các loài động thực vật
của lưu vực Mê Kông chỉ xếp sau lưu vực Amazon ở Nam Mỹ. Dòng chảy
của sông Mê Kông rất dồi dào, nuôi dưỡng vùng đất ngập nước và rừng rộng
lớn, vận chuyển và cung cấp vật liệu xây dựng, thuốc và lương thực và là
môi trường sinh sống cho hàng ngàn loài động thực vật. Nguồn thuỷ sản của
lưu vực Mê Kông rất dồi dào với tổng sản lượng cá đánh bắt hàng năm lên
tới 1,45 tỷ đô la Mỹ. Trong lưu vực Mê Kông có nhiều khoáng sản như thiếc,
đồng, quặng sắt, khí ga tự nhiên, Kali Cacbonat và đá quí.
Điều kiện tự nhiên của lưu vực sông Mê Kông rất thuận lợi cho việc
làm nông nghiệp và ngư nghiệp.
Người dân trong lưu vực Mê Kông đã bắt đầu canh tác ruộng nước từ
lâu đời, vào thế kỷ I. Nông dân trong lưu vực sản xuất một lượng lúa đủ nuôi
sống 300 triệu người trong 1 năm. Khoảng 85% dân số trong lưu vực làm
nông nghiệp và ngư nghiệp.
Lưu vực sông Mê Kông là một trong những vùng có sản lượng cá nước

ngọt lớn nhất trên thế giới. Trong lưu vực có trên 1300 loài cá sinh sống và
chế độ dòng chảy dao động theo mùa đã cung cấp môi trường và thức ăn cho
các loài động vật thuỷ sinh của lưu vực. Ước tính người dân trong lưu vực tiêu
thụ khoảng nửa triệu tấn cá một năm. Ngành thuỷ sản không chỉ mang lại việc
làm và thu nhập cho ngư dân mà còn là còn mang lại việc làm cho hàng ngàn
người khác làm các nghề liên quan đến thuỷ sản như sản xuất thức ăn cho cá,
làm lưới và công cụ đánh bắt, sửa chữa tàu thuyền…
Ngoài ra, với lưu lượng dòng chảy và nước lớn như vậy, sông Mê Kông
là một nguồn tài nguyên khổng lồ cho việc khai thác và phát triển năng lượng.


16
Các công trình thuỷ điện trong lưu vực Mê Kông sản xuất ra 1600
MW điện cung cấp cho dân sinh kinh tế không chỉ trong mà còn cả ngoài lưu
vực. Theo ước tính, trữ lượng thuỷ điện vùng hạ lưu vực sông Mê Kông là
30.000 MW đủ cung cấp nhu cầu tiêu thụ điện của vùng trong thập kỷ tới.
Tuy nhiên các hồ chứa, công trình thuỷ điện cũng là một đề tài có nhiều
tranh cãi trong thập kỷ qua. Do đó, Chính phủ các nước trong lưu vực sông
Mê Kông đang vật lộn với bài toán cung cấp năng lượng cho phát triển kinh
tế, xã hội và bảo vệ môi trường.
Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên như vậy, dòng sông Mê Kông
giống như một huyết mạch nối liền các nước trong khu vực lại với nhau.
Không thể phủ nhận rằng, dòng sông có một vị trí chiến lược quan trọng về
giao thông trong khu vực Đông Nam Á. Khi các quốc gia trong lưu vực Mê
Kông tiến vào kỷ nguyên hợp tác hoà bình, tổng kim ngạch trao đổi thương
mại thông qua giao thông thuỷ trên hạ lưu sông Mê Kông ngày càng tăng
cao. Hiện có 25 cảng lớn trên dòng chính Mê Kông và trừ khoảng 14 km
sông gần thác Khone ở biên giới Lào – Campuchia thì gần như toàn bộ dòng
chính Mê Kông đều có thể đi lại bằng tàu thuyền; có 6 cây cầu bắc qua sông
Mê Kông và các dòng nhánh, chưa kể sẽ có 6 cây cầu khác đang được lên kế

hoạch hoặc đang xây dựng. [38]
Cùng với sự gia tăng các hoạt động thương mại và hệ thống giao
thông được cải thiện, ngành du lịch trong lưu vực bắt đầu phát triển. Các
cảnh đẹp thiên nhiên, sự thần bí và đa dạng về văn hoá của lưu vực sông Mê
Kông đang thu hút hàng ngàn du khách đến lưu vực. Ngân hàng Phát triển
Châu Á, ESCAP, UNESCO và Tổ chức Thương mại Quốc tế cũng đang rất
quan tâm đến chương trình phát triển du lịch lưu vực sông Mê Kông. Dòng
sông không chỉ mang đến cho khu vực nó đi qua những điều kiện và cảnh
quan tự nhiên kỳ vĩ mà còn là một cầu nối văn hóa giữa các nước trong lưu
vực, đưa con người xích lại gần nhau hơn.


17
1.1.3 Vài nét về văn hóa vùng Mê Kông
Giáo sư Phạm Đức Dương trong cuốn Có một vùng văn hóa MeKong
(Does a Mekong cultural area exist?) có nhận xét rằng, dòng sông Mê Kông
xét về mặt sinh thái tự nhiên là một chỉnh thể thống nhất từ đầu nguồn đến
cửa sông ra biển. Tuy trải dài trên nhiều vĩ tuyến và có nhiều cảnh quan
nhưng là dòng chảy thông suốt không thể chia cắt được. Nhưng xét về mặt
sinh thái nhân văn thì lại rất đa dạng với nhiều sắc tộc, nhiều nền văn hóa
khác nhau, tiếp xúc và biến đổi qua cả một chiều dài lịch sử với những lớp
lang đan xen phức tạp. Vì vậy đứng trên bề mặt sẽ rất khó xác định đó là một
nền văn hóa thống nhất dành riêng cho lưu vực sông Mê Kông. Song ta có
thể tiếp cận văn hóa Mê Kông như một cơ tầng được bảo lưu trong nền văn
hóa hiện đại và trong cơ tầng ấy, chúng ta thấy cây lúa như là nhân vật trung
tâm, nhân chứng cho nền văn hóa Mê Kông. Có lẽ đặc trưng cho văn hóa
vùng Mê Kông chính là những đặc trưng của văn hóa thung lũng kết hợp văn
hóa lúa nước.
1.2 Các nhóm Thái ở vùng Mê Kông
1.2.1 Vài nét khái quát về lịch hình thành và sự phân bố các nhóm Thái

Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history", người Thái
xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít
người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người
Việt ở phía đông và bắc, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam.
Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13.
Trung tâm của họ khi đó là Mường Thanh. Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở
Đông Nam Á bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số
vùng ở Đông bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam.[40]
Hiện nay, có khoảng 81 triệu người nói tiếng Thái trên thế giới, phân bố
ở nhiều quốc gia khác nhau. Nếu theo thứ tự số dân, ta có thể thống kê như sau:


18
Thái Lan: 39 triệu 640 ngàn, Trung Quốc: 19 triệu 555 ngàn, Lào: 3 triệu
165 ngàn, Mianma: 2 triệu 670 ngàn, Việt Nam: 2 triệu 557 ngàn, Ấn Độ: 10
000 người…Như vậy, có thể thấy rằng, người Thái tuy phân bố ở nhiều quốc
gia, trình độ phát triển kinh tế - xã hội có khác nhau, nhưng lại có những nét
tương đồng về ngôn ngữ và văn hóa. Sự tương đồng đó gợi ý rằng có lẽ từ xa
xưa họ có cùng chung một cội nguồn. Ngày nay, dù họ ở đâu đều tự nhận mình
là người Thái hoặc Táy, tùy theo cách phát âm của từng vùng. Người Thái ở
Thái Lan, Trung Quốc (Xip xong pa na), Mianma (bang Shan), Ấn Độ (Assam)
tự gọi là Thay. Ở Việt Nam, người Thái ở Sơn La cũng tự gọi là Thay, còn
người Tày và người Thái ở các vùng khác tự gọi là Tày hay Tầy. [4; tr 8].
Sự biến thể trong phiên âm của mỗi địa phương đã dẫn đến sự hiểu
lầm rằng người Thái hay đối tượng nghiên cứu của Thái học chỉ là những
vấn đề của nhóm người có tên gọi tộc danh viết là “Thái”. Trên thực tế, từ
“Thái” theo quan niệm của thế giới hiện nay được hiểu là tất cả các dân tộc
thuộc ngữ hệ Thái.
Theo kết luận của Hội thảo Quốc tế Thái học lần thứ nhất ´´The
International Conference on Tai Studies`` họp tại trường Đại học Mahidol

(từ ngày 29 – 31/ 07/1998, Bangkok, Thái Lan), các tộc nói tiếng Thái trên
thế giới được chia thành các nhóm lớn như sau :
- Nhóm Nam Thái (Southwestern Tai): trong đó có các tộc người như
Lào, Thái đen, Thái trắng, Padí, Ahom, Shan…
- Nhóm Thái trung tâm (Central Tai): có các tộc người như Tày,
Nùng, Cao Lan
- Nhóm Bắc Thái (Northern Tai): có các tộc như Bắc Choang, Bố Y, Sek
- Nhóm Kămsui: gồm các tộc người như Căm, Sui, Mulam
- Nhóm Thái khác: ở Việt Nam được gọi là nhóm Kadai, gồm các tộc
người như Hlai (Ly), Ongbe (Lingao), La chí, Cờ Lao, Pupeo và La Ha


19
1.2.2 Địa bàn cư trú của người Thái ở vùng Mê Kông
Theo nhiều nguồn tài liệu trên thế giới cho biết, từ hơn một thiên niên
kỷ nay, người Thái gồm nhiều nhóm địa phương của tộc người này là chủ
thể tham dự chính trên lưu vực sông Mê Kông và các khu vực nhánh. Nói
khác đi, có thể khẳng định rằng các nhóm tộc người Thái là cư dân chủ thể
của lưu vực sông Mê Kông. Đây là các nhóm Thái thuộc nhóm Tây Nam của
ngữ hệ Thái, với khoảng 29 ngôn ngữ phổ biến trong một vùng rộng lớn,
nhưng giữa các ngôn ngữ đó, hay nói một cách chính xác hơn là giữa các
phương ngữ đó, người ta vẫn có thể hiểu nhau. Đây là một sự tương đồng
độc đáo không chỉ mới xảy ra gần đây mà đã có bề dày hàng nghìn năm lịch
sử. Sự tương đồng này đã hấp dẫn nhiều nhà ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử trên
thế giới. Xung quanh nó sinh ra nhiều giả thuyết về sự mở rộng phạm vi của
thứ ngôn ngữ đặc biệt này.
Từ những giả thuyết này đã sinh ra nhiều luận thuyết khác nhau về các
nhóm Thái sinh sống ở lưu vực sông Mê Kông. Cho đến nay giữa các giả
thuyết đó chưa hẳn đã được sự nhất trí của nhiều người tìm hiểu, nghiên cứu
vấn đề này. Tuy nhiên tựu chung lại có thể thấy rằng các nhóm Thái sinh tụ

ở lưu vực sông Mê Kông là các nhóm Thái từ xưa cho đến nay vẫn sống
chính bằng nghề làm ruộng nước – một thế mạnh của cư dân lưu vực sông
Mê Kông.
Nhóm Tây Nam bao gồm các tộc người như: Xiêm, Lào, Lự, Tay Nưa,
Pa dí, Thái đen, Thái trắng, Khăm Ti, Ahom, Pha Kê, Turung,…
Về tôn giáo, phần lớn các nhóm Thái này theo Phật giáo Tiểu thừa,
còn lại là các cư dân theo Đa thần giáo (các hình thái tôn giáo nguyên thủy):
Tuy nhiên về văn hóa vật chất, họ lại có nhiều nét tương đồng. Họ đều là các
cư dân trồng lúa nước ở các thung lũng, sông, suối, đều có các hình thức thờ
thần nước, thờ hồn lúa. [15; tr 218]



20
Bản đồ lưu vực sông Mê Kông

Nguồn: Đồ vải của người Thái ở tiểu vùng sông Mê Công – Tiếp nối
và biến đổi, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 2006, Hà Nội [9]


21
1.3 Một số đặc trưng về văn hóa Thái
Đặc trưng của văn hóa Thái được tạo nên bởi văn hóa thung lũng kết
hợp với làm lúa nước. Văn hóa thung lũng – Valley culture là để chỉ một hệ
sinh thái nhân văn, trong đó hệ sinh thái lòng chảo vùng núi có hai đặc điểm
nổi bật. Một là có bình nguyên sông, suối, có các sườn dốc phủ đầy rừng, nằm
trong vành đai nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Người Thái đã hình thành văn hóa
lúa nước kết hợp với việc khai thác đất núi để trồng trọt và chăn nuôi gia súc,
bảo lưu các loại hình văn hóa chiếm đoạt: hái lượm, săn bắt và đánh cá. Đây là
hệ văn hóa nông nghiệp phức hợp mà người Thái đã tạo lập được hệ sinh thái

nhân văn của mình dựa trên kiến thức cổ truyền về điều kiện tự nhiên.
1.3.1 Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất của người Thái có một số điểm nổi bật sau:
Về ở: Người Thái ở nhà sàn làm bằng gỗ, tre lợp bằng gianh rất chắc
chắn và đẹp mắt. Về hình thể có thể phân chia các loại nhà sàn Thái thành ba
loại: nhà sàn kiểu người Thái Đen với mái cấu tạo khum tròn, hình mai rùa,
hai bên nóc hồi có hình ghép gỗ trang trí là khau cút; nhà sàn kiểu người
Thái trắng với kiểu kiến trúc theo giải pháp mặt bằng hình chữ nhật gần
vuông, có lan can chạy đều trước hoặc xung quanh nhà, bốn mái vươn bốn
phía đều đặn; nhà sàn có kiểu dáng kết cấu giống kiến trúc nhà sàn truyền
thống của người Mường.
Về ăn: Gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là
lương thực ăn truyền thống. Gạo nếp ngâm, bỏ vào chõ, đặt lên bếp, đồ thành
xôi. Trên mâm ăn không thể thiếu được món ớt giã hoà muối, tỏi, có rau
thơm, mùi, lá hành có thể thêm gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng gọi
chung là chẻo. Hễ có thịt các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại thì buộc phải
có nước chấm nhúng lấy từ lòng non (nặm pịa). Thịt cá ăn tươi thì làm món
nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm; ăn chín, thích hợp nhất
phải kể đến các món chế biến từ cách nướng, lùi, đồ, sấy, sau đó mới đến


22
canh, xào, rang, luộc Họ ưa thức ăn có các vị: cay, chua, đắng, chát, bùi, ít
dùng các món ngọt, lợ, đậm, nồng hay uống rượu cần, rượu cất. Người
Thái hút thuốc lào bằng điếu ống tre, nứa và chạm bằng mảnh đóm tre ngâm,
khô nỏ. Người Thái Trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh
như trước khi ăn.
Về mặc: Cô gái Thái đẹp nhờ mặc áo cánh ngắn, đủ màu sắc, đính
khuy bạc hình bướm, nhện, ve sầu chạy trên đường nẹp xẻ ngực, bó sát
thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống; thắt eo bằng dải lụa

màu; đeo dây xà tích bạc ở bên hông. Ngày lễ có thể vận thêm áo dài đen, xẻ
nách, hoặc kiểu chui đầu, hở ngực có hàng khuy bướm của áo cánh, chiết eo,
vai phồng, đính vải trang trí ở nách, và đối vai ở phía trước như của Thái
Trắng. Nữ Thái Ðen đội khăn piêu nổi tiếng trong các hình hoa văn thêu
nhiều màu sắc rực rỡ. Nam người Thái mặc quần cắt để thắt lưng; áo cánh xẻ
ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái Trắng có thêm một túi ở ngực
trái; cài khuy tết bằng dây vải. Màu quần áo phổ biến là đen, có thể màu
gạch non, hoa kẻ sọc hoặc trắng. Ngày lễ mặc áo đen dài, xẻ nách, bên trong
có một lần áo trắng, tương tự để mặc lót. Bình thường cuốn khăn đen theo
kiểu mỏ rìu. Khi vào lễ cuốn dải khăn dài một sải tay.
Phương tiện đi lại, vận chuyển: Gánh là phổ biến, ngoài ra gùi theo kiểu
chằng dây đeo vắt qua trán, dùng ngựa cưỡi, thồ tay. Ở dọc các con sông lớn,
người Thái rất nổi tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.
1.3.2 Văn hóa tinh thần
Văn hóa tinh thần của người Thái được thể hiện trên một số các phương
diện sau:
Tôn giáo, tín ngưỡng: Một phần người Thái ở phía Nam theo Phật
giáo Tiểu thừa, còn lại đa phần đều theo tín ngưỡng đa thần giáo. Do sinh
sống bằng nông nghiệp trong điều kiện còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên,
người Thái tin rằng các lực lượng siêu nhiên quyết định số phận của họ.


23
Những vị thần trên trời, các ma dưới trần cùng với ma nhà, ma họ, những
ông bà cụ kỵ đã khuất là những lực lượng phù hộ, bảo vệ con người.
Lễ tết: Cúng tổ tiên ở người Thái Ðen vào tháng 7, 8 âm lịch. Người
Thái Trắng ăn tết theo âm lịch. Bản Mường có cúng thần đất, núi, nước và
linh hồn người làm trụ cột.
Lịch: Theo hệ can chi như âm lịch. Lịch của người Thái Ðen chênh
với âm lịch 6 tháng.

Học: Người Thái có mẫu tự theo hệ Sanscrit. Họ học theo lệ truyền
khẩu. Người Thái có nhiều tác phẩm cổ viết về lịch sử, phong tục, luật tục và
văn học.
Văn nghệ dân gian: Người Thái có các điệu xoè, các loại sáo lam và
tiêu, có hát thơ, đối đáp giao duyên phong phú.
Quan hệ xã hội: Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường hay
theo chế độ phìa tạo Tông tộc Thái gọi là Ðằm. Mỗi người có 3 quan hệ
dòng họ trọng yếu: ẢI Noong (tất cả các thành viên nam sinh ra từ một ông
tổ bốn đời); Lung Ta (tất cả các thành viên nam thuộc họ vợ của các thế hệ);
Nhinh Xao (tất cả các thành viên nam thuộc họ người đến làm rể)
Đây là những nét cơ bản trong văn hóa của người Thái. Trải qua bề
dày lịch sử tộc người, văn hóa Thái đang hình thành văn hóa vùng tiêu biểu.
Tiểu kết chương 1
Sông Mê Kông với các điều kiện địa lý, tự nhiên và dòng chảy khổng
lồ của nó đã có sự chi phối lớn đối với các quốc gia nằm trong lưu vực. Sông
Mê Kông tạo nên đường giao thông huyết mạch quan trọng trong liên lạc và
giao thương cho các làng và các trung tâm chính trị nằm hai bên bờ sông.
Nước và các nhánh của sông cung cấp phù sa màu mỡ, dẫn nước cho việc
canh tác lúa nước cho các cư dân sinh sống bên sông. Người Thái tây nam đã
vươn tới phần trung lưu sông Mê Kông và các nhánh sông. Ở đó, nước được
dẫn vào các cánh đồng theo những con mương nhỏ. Đây chính là chiến lược


24
sinh thái chủ yếu của người Thái. Họ đã biến các vùng đất của Đông Nam Á
lục địa trở nên hữu ích bằng cách riêng của mình.
Các nhóm Thái ở lưu vực sông Mê Kông dù có thể sinh tụ ở các vùng,
quốc gia khác nhau nằm rải rác theo lưu vực sông song họ đều có điểm tương
đồng về văn hóa. Đó là những đặc trưng của văn hóa thung lũng kết hợp với
văn hóa lúa nước, biểu hiện dưới các phương diện trong đời sống. Những đặc

trưng của văn hóa tộc người Thái cũng phản ảnh sự giao hòa của văn hóa Thái
trong văn hóa vùng Mê Kông. Hay nói cách khác, văn hóa người Thái ở đây
chính là một dạng thức tiêu biểu cho văn hóa vùng Mê Kông.









×