Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên báo in Việt Nam (Khảo sát các Báo Hà Nội mới, Nông nghiệp Việt Nam và Nông thôn Ngày nay, 2008 - 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 144 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THÁI HÀ

VẤN ĐỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN,
NÔNG THÔN TRÊN BÁO IN VIỆT NAM

(Khảo sát các Báo Hànộimới, Nông nghiệp Việt Nam
và Nông thôn Ngày nay, 2008-2009)


LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH BÁO CHÍ


Hà Nội, năm 2010




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THÁI HÀ

VẤN ĐỀ NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN,
NÔNG THÔN TRÊN BÁO IN VIỆT NAM

(Khảo sát các Báo Hànộimới, Nông nghiệp Việt Nam


và Nông thôn Ngày nay, 2008-2009)


Luận văn Thạc sĩ ngành báo chí
Mã số: 60.32.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS Đinh Văn Hường



Hà Nội, năm 2010



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài 2

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài 3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5
7. Kết cấu luận văn 6
NỘI DUNG
Chương 1:CHÍNH SÁCH “NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN,

NÔNG THÔN” CỦA ĐẢNG VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO
CHÍ ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH NÀY.

1.1.Khái quát nội dung về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
1.1.1.Nông nghiệp Việt nam và vị trí của nông nghiệp trong phát triển nền
kinh tế Việt Nam 7
1.1.2.Nông dân- Lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam 8
1.1.3.Nông thôn Việt Nam trong tiến trình CNH, HĐH đất nước
10
1.2.Những chính sách lớn đối với “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
1.2.1.Chuyển đổi cơ cấu, phát triển kinh tế nông nghiệp trong sự nghiệp đổi
mới đất nước 12


1.2.2.Xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần cho nông dân 14
1.2.3.Xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH 16
1.2.4.Tư tưởng, nội dung NQTW 7(khóa X) của Đảng về “Nông nghiệp,
Nông dân, nông thôn” 18
1.3.Vai trò của báo chí đối với chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, trong đó có chính sách “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”

1.3.1.Báo chí truyền thông-lực lượng xung kích trên mặt trận thông tin,
tư tưởng- văn hóa của Đảng
21
1.3.2.Báo chí tuyên truyền đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống 25
1.3.3. Những yêu cầu mới đối với hoạt động báo chí truyền thông 28
Tiểu kết chương 1 31
Chương 2:NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CHUYỂN
TẢI THÔNG TIN CỦA BÁO CHÍ VỀ CHÍNH SÁCH

“NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN”

2.1.Khái quát về báo Hànộimới, báo Nông nghiệp Việt Nam và báo
Nông thôn Ngày nay
2.1.1.Khái quát diện mạo, những thành công và hạn chế trong giai đoạn
đổi mới của báo chí đối với công chúng hiện nay. 33
2.1.2.Những nét giống và khác nhau giữa 3 tờ báo 35
2.1.3.Những vấn đề liên quan đến “Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn”
trên 3 báo trước khi có NQTW 7 (tháng 8 năm 2008) của Đảng 36
2.2.Nội dung chuyển tải
2.2.1.Tổ chức tác phẩm mang nội dung “Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn” trên báo in 38


2.2.2.Một số ghi nhận và nhận xét bước đầu về thông tin phản hồi của
các nội dung. 51
2.3.Hình thức chuyển tải
2.3.1.Hình thức 53
2.3.2.Khảo sát hình thức cơ bản chuyển tải nội dung 57
2.4.Thành công, hạn chế và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm
2.4.1. Thành công 71
2.4.2. Hạn chế 72
2.4.3. Nguyên nhân 73
2.4.4. Bài học kinh nghiệm 74
Tiểu kết chương 2 74

Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CỦA
BÁO IN VỀ “NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG
THÔN” THỜI GIAN TỚI.


3.1.Một số vấn đề mới đặt ra
3.1.1.Biến đổi đời sống kinh tế-xã hội trước sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước. 76
3.1.2.Tác động của quá trình gia nhập WTO 78
3.1.3.Tác động của quá trình đô thị hóa, phân tầng xã hội, dân số,
môi trường tới chính sách “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” 79
3.1.4.Báo chí trong cuộc cạnh tranh thông tin, trong đó có thông tin
về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” 90
3.2.Các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo in
về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” thời gian tới.
3.2.1.Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng 92


3.2.2. Đổi mới quản lý Nhà nước về báo chí 94
3.2.3. Nhận thức của lãnh đạo các tòa soạn báo in 96
3.2.4. Đổi mới nội dung, hình thức thông tin 98
3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên
100
3.2.6.Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan báo chí
101
3.2.7. Sự tham gia của nhân dân vào hoạt động báo chí
102
Tiểu kết chương 3 104
KẾT LUẬN 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHỤ LỤC 113




NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nội dung
CNH, HĐH Công nghiệp, hiện đại hóa
ĐTH Đô thị hóa
KH-CN Khoa học-công nghệ
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu
Long
HNM Hànộimới
NNVN Nông nghiệp Việt Nam
NTNN Nông thôn Ngày nay



2
MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự và lý do chọn đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn chịu nhiều thiệt thòi hy sinh.
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn là khu vực chậm phát triển nhất trong
nền kinh tế.
NQTƯ 7 (Khóa X) đã khẳng định giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết,
phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông
dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn

hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Nghị quyết
TƯ 7 đã đề ra những nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản đối với vấn đề Nông
nghiệp, Nông dân và Nông thôn trong giai đoạn cách mạng mới.
Báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của tổ chức chính trị-xã
hội và là diễn đàn của nhân dân dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng. Báo chí
có trách nhiệm to lớn trong việc hình thành và hướng dẫn dư luận xã hội tích
cực, lành mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết, nhất trí về tư tưởng, chính
trị và tinh thần trong nhân dân. Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu
rộng, kịp thời, có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp


3
luật của Nhà nước, bám sát nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền,
cổ vũ thành tựu của công cuộc đổi mới.
Tuyên truyền về Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn trên báo chí luôn là
vấn đề có ý nghĩa thời sự thiết thực với đông đảo công chúng báo chí. Vì vậy
chúng tôi chọn chuyên đề nghiên cứu này nhằm góp phần làm rõ những kinh
nghiệm lý luận và thực tiễn trong công tác tuyên truyền của báo Hànộimới,
báo Nông nghiệp Việt nam và báo Nông thôn Ngày nay về những nội dung
liên quan đến vấn đề cơ bản của Nông nghiệp, Nông dân, Nông thôn trên cơ sở
NQTƯ7 (Khóa X), qua đó hy vọng kiến giải những biện pháp nâng cao chất
lượng công tác truyên truyền đưa nghị quyết Đảng vào cuộc sống nói chung và
nội dung về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” nói riêng trên báo chí phù
hợp với tình hình mới.
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ, các đề tài nghiên cứu
khoa học liên quan đến hoặc Nông nghiệp, hoặc Nông thôn, hoặc vấn đề Nông
dân. Nhưng các công trình trên còn đơn lẻ, tách biệt. Vì vậy, cho đến nay, việc
tuyên truyền trên báo chí về các nội dung liên quan đến vấn đề “Nông nghiệp,

Nông dân, Nông thôn” chưa được tổng kết trong một công trình hoàn chỉnh
nào. NQTƯ7 (Khóa X) ra đời vào tháng 7 năm 2008, đến thời điểm chúng tôi
chọn đề tài này (năm 2009) mới là năm đầu tiên thực hiện nghị quyết này.
Vì vậy, luận văn này triển khai là một trong những công trình đầu tiên
nghiên cứu về tuyên truyền “Nông nghiệp, nông dân , nông thôn” trên báo in
hiện nay.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


4
a. Mục đích nghiên cứu: Làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn
tổ chức tác phẩm, thủ pháp tuyên truyền và hiệu quả tuyên truyền trên các Báo
Hànộimới; Nông nghiệp Việt nam và Nông thôn Ngày nay về các vấn đề Nông
nghiệp, Nông dân, Nông thôn. Tìm ra những khó khăn và hạn chế khi thông tin
vấn đề này, từ đó đề xuất các giải pháp tiếp theo.
b.Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn triển khai
ba nhiệm vụ sau đây:
+ Xác định những nội dung mà cơ quan báo chí cần nhận thức về “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn” để tiến hành tuyên truyền trên báo in.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn tuyên truyền về “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn” trên 3 tờ báo khác nhau (Báo Đảng địa phương, báo chuyên
ngành), để chỉ ra những cái được và chưa được trong công tác tuyên truyền về
nội dung nêu trên
+ Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
tuyên truyền về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” trên báo in trong thời
gian tới
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề Nông nghiệp, Nông dân
và Nông thôn theo tinh thần NQTƯ 7 (khóa X) trên báo in hiện nay

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những tác phẩm và thủ pháp báo chí
(báo giấy) trên báo Hànộimới hàng ngày, báo Nông nghiệp Việt Nam và báo
Nông thôn Ngày nay 2 năm 2008-2009


5


5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng
Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước ta về báo chí và về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”;
kế thừa kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đã được công bố.
Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phương pháp nghiên cứu lịch sử-tài liệu thứ cấp, phương pháp phân
tích văn bản truyền thông, phương pháp tổng kết thực tiễn, phương pháp điều
tra theo phiếu điều tra, phương pháp phỏng vấn sâu, phỏng vấn chuyên gia
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
a. Ý nghĩa khoa học
Luận văn cung cấp một số lý luận về nội dung “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn” theo tinh thần NQTƯ 7 (khóa X); bổ sung và làm rõ hơn hệ thống
lý luận về vai trò, chức năng của báo chí trong điều kiện mới và nhiệm vụ
tuyên truyền đưa nghị quyết Đảng vào cuộc sống trên báo in. Chỉ ra cách thức
tổ chức tác phẩm, biện pháp tuyên truyền trên báo in đạt hiệu quả.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần làm rõ nội dung nhận thức về Nông nghiệp, Nông
dân, Nông thôn Việt Nam và vị trí của “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước thông qua hoạt động báo chí
truyền thông. Qua đó khẳng định những đóng góp của báo in trong việc tuyên

truyền đưa nghị quyết Đảng vào cuộc sống và trách nhiệm nâng cao chất lượng


6
tuyên truyền về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” trên báo in, chỉ ra những
biện pháp khả thi cho quá trình này.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, nhà báo và những
người quan tâm tới các nội dung liên quan.
7.Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
bao gồm 3 chương
Chương 1: Chính sách “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” của Đảng
và vai trò của báo chí đối với chính sách này.
Chương 2: Nội dung và hình thức chuyển tải thông tin của báo chí về
chính sách “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
Chương 3: Một số vấn đề đặt ra và các giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả của báo in về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” thời gian tới.
Nội dung luận văn sẽ được trình bày theo thứ tự chương, mục trên.








7

NỘI DUNG
Chương 1

CHÍNH SÁCH “NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG
THÔN” CỦA ĐẢNG VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ ĐỐI
VỚI CHÍNH SÁCH NÀY.

1.1.Khái quát nội dung về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
1.1.1.Nông nghiệp Việt nam và vị trí của nông nghiệp trong phát triển nền
kinh tế Việt nam.
Theo lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen thì sản xuất nông nghiệp là cơ sở
của mọi xã hội và là tiền đề của lịch sử. Năng suất lao động nông nghiệp là
“cái cơ sở tự nhiên” không chỉ trong bản thân nghành nông nghiệp mà còn là
cơ sở tự nhiện để tạo ra lao động thặng dư trong tất cả các nghành lao động
khác. Cũng có nghĩa là những yếu tố có ý nghĩa như điểm xuất phát của sự
phát triển của lịch sử “trước hết có trong lao động nông nghiệp” [44, ph.II, tr.
490]
Kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong lý luận
về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh
tế còn kém phát triển, Lê nin- vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới
cũng đặc biệt chú trọng tới nông nghiệp. Trong ba nội dung cơ bản của chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội (Chính sách kinh tế mới (NEP); Công nghiệp
hóa và XHCN; chế độ hợp tác xã), Lênin cho rằng vấn đề trọng tâm là vấn đề
nông nghiệp, bao hàm cả nông dân và nông thôn trong cách mạng XHCN,
muốn xây dựng công nghiệp phải bắt đầu từ nông nghiệp.


8
Trong sách Việt Nam văn hóa sử cương, Giáo sư Đào Duy Anh khẳng
định “ở nước ta nghề nông là bản nghiệp của nhân dân” và dân tộc Việt đã
“chuyên nghề nông từ thời thượng cổ”. [1, tr. 53] Qua các phân kỳ lịch sử, nhà
nước đều có chính sách khuyến khích nông nghiệp (trọng nông), đặc biệt là
các chính sách liên quan đến khẩn hoang, đê điều, thủy lợi, chăn nuôi, thủy

sản
Trong tư tưởng cũng như thực tiễn hoạt động cách mạng, một trong
những vấn đề được chủ tịch Hồ chí Minh quán triệt sâu sắc nhất và có phát
triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là vấn đề nông nghiệp, nông
dân và nông thôn. Đồng thời , đây cũng là vấn đề được Người vận dụng phù
hợp vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, mang lại nhiều thắng lợi to lớn.
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội xuất phát từ nước nông nghiệp nên
phát triển nông nghiệp luôn là vấn đề được Đảng, nhà nước ta quan tâm. Ngay
từ khi giành được chính quyền, rồi trong các cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc,
đến thời kỳ đổi mới và trong giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách để phát
triển nông nghiệp. Nhận thức rõ vị trí, vai trò của nông nghiệp đối với sự phát
triển bền vững của đất nước, ngay từ những năm đầu thực hiện đường lối đổi
mới, Đàng và Nhà nước ta đã đặt nông nghiệp lên vị trí hàng đầu trên mặt trận
kinh tế.
Bước vào thế kỷ 21, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò trọng yếu của nông
nghiệp, Đảng ta đã chủ trương: “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010” (NQTƯ 5, khóa IX). Nước ta có
6,9 triệu ha đất nông nghiệp, đất canh tác có 5,3 triệu ha có thể gieo trồng
quanh năm; riêng đất trồng lúa có 4,1 triệu ha [35, tr. 220]. Nếu so sánh với


9
các nước khác trong khu vực thì Việt Nam có bình quân đất nông nghiệp thấp,
tiềm năng phát triển nông nghiệp chưa được khai thác tốt.
1.1.2.Nông dân- Lực lượng to lớn của cách mạng việt Nam.
Chủ thể của sản xuất nông nghiệp là nông dân, vì vậy cùng với vị trí quan
trọng của sản xuất nông nghiệp, nông dân cũng có vai trò đặc biệt quan trọng.
Học thuyết Mác-Lênin đã khẳng định, giai cấp vô sản chỉ có thể giành thắng
lợi trong sự nghiệp cách mạng cuả mình khi thực hiện được sự liên minh vững

chắc với giai cấp nông dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nông dân luôn là lực
lượng to lớn cả trong hai giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn giành độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng cách mạng Việt Nam là khối đại đoàn kết
toàn dân tộc mà đa số là giai cấp nông dân. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng”
có sức động viên to lớn đối với nông dân tham gia cách mạng, đồng thời cũng
cho thấy vị trí của giai cấp nông dân trong liên minh giai cấp cũng như mục
tiêu hướng tới của cách mạng. Còn sau khi giành được chính quyền thì liên
minh- công nông- trí thức là nền tảng của chính quyền- công cụ sắc bén trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Trong xây dựng và bảo vệ đất
nước, lợi ích kinh tế của nông dân và nhân dân nói chung được đặt lên hàng
đầu. Điều này thể hiện rõ quan điểm về cả mặt chính trị cũng như mặt kinh tế
xã hội của nông dân trong cách mạng Việt Nam. Dưới góc độ chính trị, vấn đề
nông dân là xây dựng và củng cố liên minh công nông- cơ sở của chính sách
tập hợp lực lượng cách mạng, còn đáp ứng lợi ích kinh tế thiết thân của nông
dân chính là giải quyết vấn đề kinh tế xã hội của lực lượng cách mạng nhằm
tạo nên sức mạnh động lực của cách mạng.
Chủ tịch Hồ chí Minh khẳng định “Dân tộc ta là dân tộc nông dân”.
Người đã từng nói: “Chúng ta có trọng dân, yêu dân, kính dân thì dân mới yêu


10
ta, kính ta”. Tôn trọng và tin tưởng nhân dân là tôn trọng và tin tưởng những
người làm ra lịch sử, những người sáng tạo ra của cải, vật chất, những người
được sánh với Trời, Đất theo triết học phương Đông như Bác Hồ khẳng định:
"Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân".
Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và nhà ở (1.4.2009) thì dân số nước ta
hiện có hơn 86 triệu người, trong đó 70,4% sống ở khu vực nông thôn. Cũng
đồng nghĩa với tỷ lệ hơn 60% dân số là nông dân và người có liên quan đến
nông nghiệp, nông thôn. Việc đưa lực lượng to lớn này cùng với những giá trị

truyền thống lịch sử của nông dân vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là vấn đề có tầm chiến lược và mang tính tất yếu của cách mạng Việt Nam.
Nông dân vừa là chủ thể, vừa là động lực của phát triển nông nghiệp. Do đó,
đường lối. Chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về nông
nghiệp phải đặt nông dân vào đúng vị trí chủ thể của sản xuất nông nghiệp và
phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Mỗi bước phát triển của sản xuất nông
nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn phải đồng thời là tăng thu nhập và cải thiện
đời sống nông dân.
Công cuộc đổi mới đã đem lại cho nông dân Việt Nam sự đổi đời thật sự,
mức sống vật chất cũng như tinh thần của nông dân được nâng cao. Nhà ở,
phương tiện giao thông, hàng hóa và các kết cấu hạ tầng ở nông thôn được
tăng cường, điều kiện sống được cải thiện một cách rõ rệt. Đặc biệt, xóa đói
giảm nghèo được thực hiện với quyết tâm rất cao và đạt hiệu quả đáng kể, từ
30-40% hộ nghèo (năm 1986), hiện chỉ còn dưới 11% [29, tr.13]. So với nhiều
nước trong khu vực thì đây là một thành tích không nhỏ.
1.1.3.Nông thôn Việt Nam trong tiến trình CNH,HĐH đất nước
Nếu nói Nông dân Việt Nam là chủ thể của nền văn minh nông nghiệp thì
nông thôn chính là không gian văn hóa của cư dân Việt. Nông thôn- cộng đồng


11
làng xã là nơi cư trú của nông dân Việt Nam. Trong không gian văn hóa đó,
chủ thể của sản xuất nông nghiệp về mặt xã hội là giai cấp nông dân; về đơn vị
tổ chức kinh tế là hộ nông dân và hợp tác xã, còn địa bàn sinh sống và tác động
sản xuất nông nghiệp của nông dân là nông thôn.
Nông thôn không chỉ là khu vực xã hội mà còn là khu vực kinh tế, bao
gồm nông nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp (tiểu thủ công nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ). Vì vậy, phát triển nông nghiệp phải gắn liền với phát
triển kinh tế- xã hội nông thôn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải
gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn

mới, văn minh, hiện đại. Vùng nông thôn có vai trò là nơi cung cấp lương
thực, thực phẩm cho đời sống của người dân; cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp và xuất khẩu; cung cấp hàng hóa cho xuất khẩu; cung cấp lao động cho
công nghiệp và thành thị. Là thị trường rộng lớn để tiêu thụ những sản phẩm
của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn phát triển sẽ tạo điều kiện ổn định kinh
tế - chính trị - xã hội chung của đất nước.
Như trên đã nêu, gần 70% cư dân Việt Nam đang sinh sống ở khu vực
nông thôn- cộng đồng làng xã. Muốn phát triển nông nghiệp cần chú ý tới việc
xây dựng nông thôn thành khu vực năng động về kinh tế, ổn định về chính trị
xã hội và có đời sống văn hóa phong phú mới có thể gắn bó được các thế hệ
nông dân. Giải quyết tốt các vấn đề trọng yếu của đời sống xã hội nông thôn
như nhà ở, y tế, giáo dục, nước sạch, giao thông vận tải, việc làm là điều kiện
cần thiết để có khu vực nông thôn vững mạnh, phát triển, ngăn chặn được tình
trạng di cư, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn.
Qua hơn hai thập kỷ đổi mới, bộ mặt nông thôn đã có thay đổi lớn, kinh tế
nông thôn đã có bước phát triển mới với sự hình thành kinh tế trang trại.Việc
đưa quy chế dân chủ ở cơ sở bào đời sống nông thôn đã tạo ra bước ngoặt về


12
chính trị ở khu vực nông thôn, tạo ra xu thế dân chủ, cởi mở, nâng cao ý thức
tự giác, tích cực, chủ động của mọi người trong đời sống xã hội nông thôn.
Tuy vậy, trong xu thế phát triển mới, vấn đề nông thôn ở nước ta đã và
đang phải đối diện với nhiều thách thức mới. Trước hết, dù đã có những bước
phát triển đáng kể, nhưng nông thôn Việt Nam về cơ bản vẫn trong trạng thái
kinh tế tự cấp , tự túc; tỷ suất hàng hóa trong kinh tế nông thôn chiếm tỷ lệ rất
nhỏ. Mức sống vật chất của đa số nông dân và người dân khu vực nông thôn
còn thấp và chưa thực sự thoát nghèo bền vững. Tình trạng phân hóa giàu
nghèo diễn ra rất rõ rệt trong cộng đồng làng xã; khoảng cách giữa nông thôn
với đô thị ngày càng bị nới rộng hơn. Kinh tế nông thôn gặp trở ngại lớn là

thiếu vốn, thị trường bấp bênh và chịu sự độc quyền về giá nên thường bị thua
thiệt trong quan hệ trao đổi sản phẩm. Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn
đang ngày càng trở nên khó giải quyết khi hơn 70% lực lượng lao động là ở
nông thôn nhưng chỉ làm việc được 60-70% thời gian có thể làm việc. Như vậy
có thể xem như 30% lao động nông thôn thiếu việc làm (con số này khoảng
trên dưới 10 triệu người [29, tr. 62]. Cùng với dư thừa lao động, lãng phí tài
nguyên, ô nhiễm môi trường là hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn
diễn ra gay gắt. Trong khi đất đai được chuyển đổi sang phát triển công nghiệp
và các múc đích khác với lượng không nhỏ thì tỷ lệ lao động nông thôn được
thu hút vào làm việc trong các cơ sở sản suất công nghiệp gần như không đáng
kể (chỉ khoảng 2% số lao động có nhu cầu việc làm).
1.2.Những chính sách lớn đối với “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”
1.2.1.Chuyển đổi cơ cấu, phát triển kinh tế nông nghiệp trong sự nghiệp
đổi mới đất nước.
Ngay từ rất sớm, Đảng ta luôn luôn xác định nông nghiệp là cơ sở để phát
triển công nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví công nghiệp và nông nghiệp


13
như là hai chân của nền kinh tế quốc dân và nhấn mạnh: “ Tiến lên chủ nghĩa
xã hội phải đi bằng hai chân: công nghiệp và nông nghiệp” [20, tr. 61]. Từ
định hướng này, qua các giai đoạn khác nhau, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ
trương, chính sách thích hợp về nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI-Đại hội đổi mới, Đảng ta tiếp tục coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu và xác định biện pháp căn bản để tạo ra động lực
là đổi mới thể chế và chính sách quản lý mà tiêu biểu là cơ chế khoán sản
phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Nhờ đổi mới toàn diện và đồng
bộ chính sách đối với nông nghiệp và nông dân, đã giải phóng được sức sản
xuất, làm tăng nhanh nông sản hàng hóa, tạo ra nhiều nguồn lực cho xuất khẩu
và phát triển công nghiệp, đồng thời từng bước cải thiện đời sống nông dân,

xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.
Xuyên suốt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội , Đảng ta xác định phải đặc biệt coi trọng công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn. Các chính sách đều tập trung thúc đẩy cải biến
toàn diện nông nghiệp, nông thôn, bao gồm các nội dung:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn mà
trước tiên là chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp, mở rộng
các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn
- Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật và các cơ sở kết
cấu hạ tầng xã hội cho nông nghiệp, nông thôn về điện , đường, trường , trạm
và thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ gới hóa, ứng dụng những thành tựu
tiến bộ của khoa học công nghệ
- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản suất trong nông nghiệp, nông thôn;
xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


14
Bước vào thế kỷ XXI, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, BCH TƯ Đảng
khóa IX đã chỉ rõ: “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn,
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa,
thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, trước hết là công
nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản
xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh
tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường”.
Có thể thấy rõ mục tiêu tổng quát và lâu dài của quá trình đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là xây dựng một nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững. Thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế từng vùng, gắn với thị trường để sản

xuất hàng hóa quy mô lớn tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, phát triển công
nghiệp-tiểu thủ công nghiệp và làng nghề ở nông thôn. Thực hiện chính sách
ruộng đất (Tích tụ, giao đất lâu dài, cho thuê )để thúc đẩy phát triển nông
nghiệp sinh thái, kinh tế trang trại để khai thác hiệu quả mọi tiềm năng đất đai.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đánh giá kết quả 20
năm đổi mới, đề ra mục tiêu xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý để tiến
tới phát triển nước ta thành nước công nghiệp. Theo đó, vẫn tiếp rục đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ
các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn được đẩy lên mức độ cao hơn với việc xây dựng
vùng nông sản hàng hóa tập trung; phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở
nông thôn nhất là những ngành nghề sử dụng nhiều lao động, công nghiệp chế
biến và bảo quản nông sản


15
1.2.2.Xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nông dân.
Mục tiêu rõ nét trong định hướng phát triển đất nước ta là giải phóng
và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp. Thực
hiện mục tiêu này, Đảng ta xác định phải đẩy nhanh công nghiệp hóa nông
nghiệp gắn với giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân. Phát triển bền vững đòi hỏi phải giải quyết tốt vấn đề công bằng và an
sinh xã hội. Là chủ thể của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu năng suất thấp,
thiên nhiên khắc nghiệt, do đó đại bộ phận nông dân nước ta có thu nhập thấp,
chất lượng cuộc sống chưa cao. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phải
thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, khuyến khích nông dân vươn lên

làm giàu chính đáng. Điều kiện để nông dân phát triển kinh tế là chủ trương
khắc phục tình trạng manh mún về sử sụng dất canh tác của các hộ nông dân,
khuyến khích việc dồn điền, đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng quyền
sử dụng đất.
Việc làm cho lao động nông thôn là vấn đề được quan tâm trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển ngành nghề, thu hút lao
động nông nghiệp dôi dư vào các lĩnh vực kinh tế khác để đảm bảo người nông
dân có thu nhập. Nông dân được chú trọng dạy nghề, tạo điều kiện về việc
làm, nhất là vùng có đất nông nghiệp thu hồi cho phát triển công nghiệp, dịch
vụ, giao thong và các khu đô thị mới. Theo đó, cơ cấu lao động nông thôn
được chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ở khu vực làm nông nghiệp, tăng
tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn
có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, đặc biệt chú trọng tới các điều


16
kiện cần thiết để xuất khẩu lao động ra nước ngoài theo các chương trình hợp
tác. Khuyến khích các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công
nghiệp và dịc vụ ở nông thôn, coi đây là hướng chính để tạo nhiều việc làm
mới ở nông thôn, góp phần làm tăng nhanh thu nhập cho nông dân.
Điều quan trọng là nhà nước chủ trương đầu tư mạnh cho các chương
trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới hải
đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thu hẹp khoảng cách về trình độ
phát triển và đời sống của các nhóm dân cư.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra mục
tiêu đến năm 2010: “ Giảm tỷ lệ lao động nông, lâm, như nghiệp xuống dưới
50% tổng số lao động xã hội và nâng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông
thôn lên khoảng 85%”.
(Trong 5 năm từ 2002 đến 2006 cả nước đã tạo được việc làm cho 7,5
triệu lao động; thời gian sử dụng lao động nông thôn đạt 80,6%. Cuối năm

2006, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc tế giảm xuống còn 22%, được Liên hợp
quốc đánh giá là đạt mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo đến năm
2015 trước 10 năm. Nguồn: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, NXB CTQG, H.2006).
Mục tiêu nêu trên cho thấy mặc dù đã có được những kết quả bước đầu,
nhưng Đảng ta đã xác định kết quả xóa đói giảm nghèo chưa thật vững chắc,
nguy cơ tái nghèo rất lớn, nhất là bộ phận dân cư nông thôn do quá trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa bị mất đất đã đương nhiên trở thành thị dân một cách
bất đắc dĩ. Việc làm, thu nhập và cuộc sống của bộ phận dân cư này còn rất
nhiều bức xúc cần giải quyết; tỷ lệ lao động nông nghiệp qua đào tạo rất thấp
nên rất khó có việc làm và mức thu nhập khả dĩ, trình độ học vấn và đời sống
nông dân còn thấp, một bộ phận khá lớn vẫn trong tình trạng đói nghèo


17
Đây là những vấn đề được Đại hội X của Đảng nhận thức và đề cập trong
các chính sách đối với nông dân trong giai đoạn mới.
1.2.3.Xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước.
Xây dựng nông thôn mới là mục tiêu của quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn, thiết thực cải thiện và ngày một nâng cao đời sống mọi mặt,
điều kiện sống và làm việc của nông dân, hạn chế làn sóng “di cư” ra các đô
thị của lao động nông thôn. Thực hiện mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta đã
chủ trương huy động đa dạng hóa các nguồn vốn và tăng cường nguồn đầu tư
từ ngân sách để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật và kinh tế xã
hội ở nông thôn. Xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn phục vụ cho
việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới mà mục tiêu cơ bản là
xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành
mạnh. Mặt khác hình thành các khu dân cư đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh
tế và hạ tầng xã hội đồng bộ như thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm

công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, nhà văn hóa, khu thể thao,
chợ Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa,
nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo
đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đây cũng là mục tiêu phù hợp với chủ
trương hạn chế làn sóng di cư ra thành thị của lao động nông thôn “Ly nông,
không ly hương”.
Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ năm (khóa IX) đã
chỉ rõ: “CNH, HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành
công nghiệp và dịch vụ ; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quy hoạch
phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái ; xây dựng nông thôn dân


18
chủ, công bằng,văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân ở nông thôn” [49, tr. 93,94].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định hiện
tại cũng như trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
có tầm chiến lược đặc biệt và yêu cầu tiếp tục “Tạo chuyển biến mạnh mẽ
trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân”.
Gắn phát triển kinh tế với xây dựng nông thôn mới, giả quyết tốt hơn mối
quan hệ giữa nông thôn và thành thị, coi đây là nhiệm vụ góp phần giữ vững
ốn định chính trị xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo đó, cần xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm xây dựng
làng xã có cuộc sống ấm no, văn minh, sạc đẹp, gắn kiến với xây dựng các khu
dân cư đô thị hóa. Phát huy dân chủ, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây
dựng văn hóa, đạo đức, và lối sống; kiềm chế tốc độ tăng dân số, nâng cao thể
chất và sức khỏe nhân dân; bảo vệ và cải thiện môi trường.
1.2.4.Tư tưởng, nội dung NQTƯ 7 (khóa X) của Đảng về “Nông nghiệp,

nông dân, nông thôn”.
Hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X họp từ ngày 9
đến 17 tháng 7 năm 2008 đã ban hành Nghị quyết số 26 chứa đựng quan điểm tư
tưởng của Đảng và đề ra mục tiêu hết sức cơ bản, quan trọng về Nông nghiệp,
Nông dân và Nông thôn trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Đảng ta đánh giá sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được
thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ
khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng xuất


19
khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch
theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản
xuất tiếp tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; bộ mặt
nhiều vùng nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở
hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt
kết quả to lớn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường.
Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ
vững. Vị thế chính trị của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền
vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa
phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa
học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ
biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều
mặt hàng thấp. Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc
đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình

thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản
xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực
thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh
thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng
bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và
thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Đảng ta đã thẳng thắn đánh giá nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém
đó chính là do nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông
thôn còn bất cập so với thực tiễn; cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực

×