Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên về giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 119 trang )













































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


HOÀNG THỊ NHƯ QUỲNH

Ơ

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA THANH NIÊN VÀO GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học


HÀ NỘI - 2011


















































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


HOÀNG THỊ NHƯ QUỲNH

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA THANH NIÊN VÀO GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 27

Người hướng dẫn khoa học: GS, TS MẠCH QUANG THẮNG

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
4
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA THANH NIÊN VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO THANH NIÊN
10
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của thanh
niên
10
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên
27
Chương 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN HỌC SINH PHỔ
THÔNG TỈNH NINH BÌNH THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH
53
2.1. Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức thanh niên học sinh phổ

thông tỉnh Ninh Bình trong những năm qua
53
2.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học
phổ thông trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay
73
2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông ở Ninh Bình hiện nay
83
KẾT KUẬN
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107
PHỤ LỤC
113





DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TN : Thanh niên
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
GDCD : Giáo dục công dân
GD-ĐT : Giáo dục - Đào tạo
THPT : Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU




Trang
Bảng 2.1: Xếp loại hạnh kiểm khối THPT
55
Bảng 2.2: Xếp loại văn hoá khối THPT
55
Bảng 2.3: Nhận định của học sinh về mục đích của việc học tập
57
Bảng 2.4: Ý thức chấp hành kỷ luật học tập của học sinh
57
Bảng 2.5: Ý thức bảo vệ môi trường của học sinh
58
Bảng 2.6: Việc phân bố thời gian cho việc học tập
60
Bảng 2.7: Nhận định về hiện tượng quay cóp của học sinh trung
học phổ thông Ninh Bình
61
Bảng 2.8: Mức độ học sinh sa vào các tệ nạn xã hội
63
Bảng 2.9: Mức độ quan tâm giáo dục của gia đình đối với học sinh
67












MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất,
đồng thời cũng là nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của
Người là tấm gương sáng cho các thế hệ muôn đời noi theo. Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [18, tr. 20].
Với cách nhìn khách quan khoa học, Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao
vai trò của TN đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta. Người
cho rằng: “Thanh niên là người chủ của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh phần lớn là do các thanh niên” [44, tr.185]. Chính vì thế, trước
lúc đi xa, Người không quên dặn lại Đảng ta “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết” [51, tr. 510].
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Lý tưởng
mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là suốt đời làm cách mạng phấn
đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập, làm cho CNXH và chủ nghĩa cộng sản
thắng lợi hoàn toàn ở nước ta và trên thế giới…Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí
cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng.
Cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới và trong nước diễn
biến rất phức tạp. Trước hết là sự khủng hoảng niềm tin vào tương lai của
CNXH sau sự kiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
sụp đổ. Sau gần 25 năm đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có mặt trái. Các tác động
của kinh tế thị trường đã phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà
đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân – kẻ thù

nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng theo cách gọi của Người, giờ đây có
cơ hội trỗi dậy và phát triển. Chủ nghĩa Mác–Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
được Đảng ta xác định giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội,
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng đang bị các thế
lực thù địch chống phá, công kích. Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến
việc hình thành và phát triển nhân cách của TN học sinh.
Học sinh THPT là lớp TN đang tuổi trưởng thành, đang phát triển về
nhân cách có nhu cầu khẳng định mạnh mẽ về cá tính, thích những hoạt động
tập thể, ham học hỏi nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng các thói hư tật xấu ngoài xã
hội. Trong xu thế chung của học sinh cả nước, một bộ phận không nhỏ TN
học sinh các trường THPT ở Ninh Bình có những biểu hiện lệch lạc trong nhận
thức và trong hành vi đạo đức như: chưa xác định động cơ học tập đúng, thiếu
trung thực, còn quay cóp trong thi cử, vô lễ với thầy cô, vi phạm pháp luật…
Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi chuông
báo động cho toàn xã hội và cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh, sinh viên
suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hoài
bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều “đặt biệt
đáng lo ngại” [19, tr. 24].
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là nội dung quan trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách thế hệ trẻ.
Giáo dục đạo đức là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai
trò đặc biệt quan trọng. Người cho rằng: “Công tác giáo dục đạo đức trong
nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục
trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả
đức lẫn tài. Đạo đức là cái gốc là nền tảng rất quan trọng”. Trong Di chúc,
Người lưu ý “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào
tạo họ trở thành người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên” [51, tr. 510].
Lời di huấn của Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) khẳng
định: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt Nam có
vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy thuộc
vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên,
công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân
tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [18, tr. 82].
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng của thanh niên vào giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình hiện nay" để viết luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện đã có nhiều công trình nghiên cứu, bàn về TN, vai trò của TN trong
sự nghiệp phát triển đất nước. Song việc đi sâu nghiên cứu vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức TN trong giáo dục đạo đức cho học sinh
THPT một cách toàn diện còn rất hạn chế. Những công trình nghiên cứu dưới
đây có liên quan đến đề tài:
- Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Năm 1985 Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức cuộc hội thảo khoa học Bác
Hồ với công tác thanh niên. Một số tham luận đó đã được chỉnh lý, biên tập
và xuất bản thành sách Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ, Nxb
Thanh niên, Hà nội.
- Nguyễn Văn Truy (chủ biên) (1993), Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và đạo đức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Trần Hậu Khiêm (1995), Hỏi đáp về đạo đức học, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
- Trần Quy Nhơn (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau, Nxb Giáo dục.
- Phạm Khắc Chương, Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức

cho học sinh THPT hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Số 2/1977.
- Phạm Minh Hạc (1999), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Đình Nghiệp, (2000) Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ
trẻ Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
- Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc, (2003) Mấy vấn đề về đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà nội.
- Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
Những tài liệu trên là nguồn tư liệu quí giá giúp chúng tôi tiếp thu,
tham khảo trong quá trình viết luận văn. Các công trình nghiên cứu trên đã đề
cập nhiều vấn đề giáo dục đạo đức cho TN nói chung. Tuy nhiên còn rất ít
công trình trực tiếp nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức cho học sinh THPT. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với
lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề lý luận,
thực tiễn đã và đang đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Hệ thống hoá và phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng của TN làm cơ sở lý luận và phương pháp luận trong nghiên
cứu thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh THPT Ninh Bình, từ
đó đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho đối tượng này
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cách mạng của TN, vai trò TN và vận dụng vào giáo dục đạo đức cho học
sinh.
- Phân tích thực trạng đạo đức của học sinh và thực tiễn công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh các trường THPT ở Ninh Bình trong những năm

qua.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh THPT ở Ninh Bình theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng TN.
- Đạo đức và giáo dục đạo đức TN học sinh tuổi 15 -17 trong các
trường THPT ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.


4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm Hồ Chí Minh
qua các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của TN.
- Điều tra xã hội học về đạo đức và công tác giáo dục đạo đức học sinh
một số trường THPT đại diện cho các vùng ở tỉnh Ninh Bình.
- Nghiên cứu các văn bản, các báo cáo tổng kết của Sở Giáo dục - Đào
tạo ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2007 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được triển khai trên nền tảng các quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng
về giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung và giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương
pháp so sánh tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê
6. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa một số vấn đề về lý luận để có nhận
định đúng đắn, khách quan trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở
các trường THPT trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi, hiệu quả trong giáo dục đạo

đức cho học sinh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA
THANH NIÊN VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH
NIÊN

1.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CỦA THANH NIÊN
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên trong
sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Có nhiều quan điểm và cách nhìn nhận về lứa tuổi TN, với điều kiện cụ
thể của nước ta và tình hình phát triển thể chất, tâm sinh lý, sự trưởng thành
về mặt xã hội của TN Việt Nam Định nghĩa như sau có thể được coi là hợp lý:
“Thanh niên là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, có độ tuổi từ 14, 15 đến
dưới 30, gắn với mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội và có mặt trên mọi lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội. Ở nước ta, số người ở độ tuổi thanh niên
chiếm trên 36,35 % dân số cả nước” [74, tr. 9]. Xét riêng về độ tuổi thì TN là
một nhóm lớn, bao gồm nhiều nhóm nhỏ thuộc các độ tuổi khác nhau: “15-19,
20-24 và 25-29” [75, http:// www.gso.gov.vn].
Với cách nhìn khách quan, Hồ Chí Minh luôn phản ánh bản chất cách
mạng, vai trò và sức mạnh của TN, đồng thời cũng thể hiện lòng yêu mến, tin
tưởng của Người đối với thế hệ trẻ Việt Nam. Người khẳng định: TN là cầu
nối giữa các thế hệ: kế tục sự nghiệp của lớp người đi trước đồng thời bồi
dưỡng, dìu dắt thế hệ đàn em. TN bao giờ cũng là lớp người hăng hái, nhiệt
tình và đi đầu trong mọi việc khó khăn: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó
thanh niên làm”.

Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò to lớn của TN trong tiến trình lịch
sử cách mạng Việt Nam. Chúng ta có thể khái quát quan niệm của Hồ Chí
Minh về vai trò của TN trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam như sau:
Thứ nhất, thanh niên là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự
phát triển của đất nước.
Hồ Chí Minh khẳng định, TN không những là lực lượng kế tục sự
nghiệp cách mạng của các thế hệ đi trước, mà còn là tương lai của đất nước,
của dân tộc: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [43,tr. 167 ].
Từ nhận thức đó Hồ Chí Minh đặt trọn niềm tin yêu và kỳ vọng vào
TN. Người xem tiền đồ của đất nước và tương lai của dân tộc phần lớn phụ
thuộc vào thanh niên. Người khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn
là do các thanh niên” [44, tr. 185]. Để xứng đáng là người chủ tương lai của
đất nước, Hồ Chí Minh yêu cầu TN phải tự mình phấn đấu học tập, rèn luyện
để nắm lấy tri thức, bồi dưỡng ý chí, nghị lực và tinh thần cách mạng. Người
viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [43, tr. 33].
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt cộng với những khó khăn khi cùng
một lúc tiến hành hai niệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh luôn lạc quan và vững tin vào
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bởi vì: “Với một thế hệ thanh niên hăng
hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” [51, tr. 66- 67].
Trực tiếp sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện, chứng kiến sự trưởng thành và
cống hiến của tổ chức TN đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc khiến
người vô cùng tự hào. Bởi vì Người nhận thấy với một thế hệ như thế thì
tương lai của đất nước và tiền đồ của dân tộc sẽ “vô cùng vững chắc vẻ
vang”.

Thứ hai, thanh niên là lực lượng to lớn trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Sau 10 năm bôn ba nước ngoài để tìm con đường cứu nước, cách thức
giải phóng đồng bào mình, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin. Theo học thuyết Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân làm ra lịch sử. Quán triệt quan điểm đó, Hồ Chí Minh xác định cách
mạng là công việc của “cả dân chúng” chứ không phải việc của một hai
người, trong đó công, nông là gốc của cách mạng, là đội quân chủ lực của
cách mạng. Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thấy vai trò của TN trong lực lượng
cách mạng, tiềm năng của thanh niên là vô cùng to lớn. Người nhận xét:
“Tính trung bình thanh niên chiếm một phần ba tổng số nhân dân - tức là một
lực lượng to lớn” [47, tr. 94] , hăng hái, nhiệt tình, có lý tưởng, sẵn sàng xả
thân vì nghĩa lớn, TN trở thành lực lượng chủ yếu của cách mạng. Để hiện
thực hoá tiềm năng đó thì trước hết cần phải tập hợp TN trong một tổ chức
cách mạng. Người cho rằng: “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng
hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh
mẽ” [46, tr. 162]. Tổ chức cách mạng của TN là Đoàn TN Cộng sản. Nhiệm vụ
chủ yếu của tổ chức Đoàn là đoàn kết, tập hợp TN, giác ngộ TN đi theo Đảng
làm cách mạng.
Được sự quan tâm giáo dục của Đảng, được sự dìu dắt mà nhiều thế hệ
TN đã trưởng thành. Tiếp tục phát huy vai trò xung kích, không ngại hy sinh
quyết tâm kháng chiến để giữ vững nền độc lập của nước nhà, đã có hàng
triệu TN hăng hái xung phong ở tuyến đầu của cuộc chiến đấu, nhiều TN đã trở
thành cán bộ trung kiên của Đảng như: Võ Thị Sáu, Lê Hồng Phong, Lý Tự
Trọng, Hoàng Văn Thụ, Phan Đình Giót cùng hàng triệu thanh niên dũng cảm
khác đã cống hiến tuổi xuân, sức lực cùng với toàn dân làm nên thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Sau tháng 7-1954, đất nước bị chia cắt hai miền. Trước kẻ thù mới
hùng mạnh hơn, nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc đưa cả
nước tiến lên CNXH càng trở nên khó khăn, phức tạp, nặng nề hơn. Để hoàn

thành nhiệm vụ thiêng liêng chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh động viên
TN thực hiện tốt vai trò xung kích của mình “Các cháu thanh niên gái cũng
như trai hãy thực hiện tốt “ba sẵn sàng”, xung phong hiến dâng tất cả tinh
thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, cho Tổ
quốc và CNXH ” [50, tr. 471].
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, tính đến cuối tháng 5/1965 đã
có 2 triệu 50 vạn đoàn viên và TN ghi tên thực hiện: “sẵn sàng chiến đấu”,
“sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang” và “sẵn sàng đi bất cứ nơi nào,
làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến”.
Thứ ba, thanh niên là đội xung kích trên các mặt trận
Trong mọi công việc, TN là lực lượng luôn thực hiện khẩu hiệu: “Đâu
Đảng cần TN có, việc gì khó có TN làm” [50, tr. 504]. Vì vậy, Người thường
xuyên quan tâm tới TN, biểu dương những việc làm tốt, những hành động anh
hùng, dũng cảm sáng suốt của họ. Người nói: “ Khắp thành thị, nông thôn,
miền xuôi, miền núi, TN ta ngày nay đã thành một đội quân to lớn, hăng hái
tiến lên, quyết tâm phấn đấu, hy sinh vì Tổ quốc thân yêu, vì tiến bộ xã hội”
[50, tr. 162].
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò xung kích đi đầu của TN trong
hành động cách mạng. Trong một buổi nói chuyện với TN,Hồ Chí Minh nói:
“Bác rất yêu mến TN. Vì TN là người xung phong trong công cuộc phát triển
kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Vì TN là lực lượng cơ
bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ, đang hăng hái giữ gìn trật tự, bảo
vệ Tổ quốc…”. Theo Người: “Thời đại này là thời đại vẻ vang của TN. Mà
TN phải là đội xung kích trên các mặt trận chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ
thuật” [49, tr. 390].
Thi đua trong chiến đấu, học tập, lao động sản xuất, TN lập nên nhiều
thành tích to lớn. Nhiều cá nhân, tập thể thanh niên được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu anh hùng, chiến sĩ thi đua ngày càng nhiều. Chiến công
và sự trưởng thành của TN cả nước trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước xứng
đáng với lời khen ngợi của Hồ Chí Minh: “Các cháu thanh niên thân mến, các

cháu là thế hệ anh hùng trong thời đại anh hùng. Bác mong các cháu đều xứng
đáng là những anh hùng trong sự nghiệp cách mạng tiêu diệt chủ nghĩa đế
quốc và xây dựng xã hội mới” [50, tr. 505].
Thứ tư, thanh niên là đội hậu bị, cánh tay đắc lực của Đảng, đồng thời
là người giáo dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng.
Theo Hồ Chí Minh: “Trong mọi công việc thanh niên ta luôn luôn hăng
hái xung phong và họ xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng” [49, tr. 271].
TN luôn đi đầu trong việc thực hiện những chủ trương, đường lối do Đảng đề
ra. Thông qua hoạt động, tổ chức Đoàn phát hiện và giới thiệu những đoàn
viên ưu tú cho Đảng. Như vậy, Đoàn TN là nguồn bổ sung lực lượng cho đội
ngũ của Đảng những người trẻ, khỏe. Điều đó làm cho Đảng càng đông và
càng mạnh.
Mối quan hệ giữa Đảng với tổ chức Đoàn cũng được Người bàn đến.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh viết: “Đường chính trị, thì
TN theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì TN độc lập” [41, tr. 295]. Nghĩa là
Đoàn do Đảng cộng sản lãnh đạo. Đoàn TN phải lấy mục tiêu, lý tưởng của
Đảng làm tôn chỉ hoạt động của tổ chức mình. Tuy nhiên, Đoàn TN hoàn toàn
tự chủ trong việc đề ra kế hoạch, chương trình hành động. Theo Người, Đoàn
TN cộng sản vừa là tổ chức gần gũi Đảng, vừa là người phụ tá đắc lực cho
Đảng. Trước hết, Đoàn là người trực tiếp giúp Đảng giáo dục chủ nghĩa cộng
sản cho TN, vận động TN đi theo lý tưởng của Đảng. Đoàn còn lôi cuốn, tập
hợp đông đảo TN xung phong thực hiện và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ
mà Đảng giao phó. Được tổ chức Đoàn dìu dắt, giúp đỡ TN không ngừng rèn
luyện, phấn đấu vươn lên xứng đáng là lực lượng kế thừa sự nghiệp cách
mạng của Đảng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đoàn TN còn có vai trò là người giáo
dục dìu dắt thiếu niên, nhi đồng. Cách mạng là sự nghiệp của nhiều thế hệ nối
tiếp nhau. Việc chuẩn bị thế hệ cách mạng kế tục là một quy luật đảm bảo cho
cách mạng giành thắng lợi trong từng thời kỳ, thúc đẩy xã hội phát triển không
ngừng. Chăm lo, giáo dục, dìu dắt các em thiếu niên, nhi đồng là chiến lược đào

tạo đội ngũ kế cận để chuẩn bị cho tương lai. TN có vai trò rất lớn trong việc tổ
chức, hướng dẫn, dìu dắt thiếu niên, nhi đồng, giúp các em học tập, vui chơi,
lành mạnh, tránh những tác động xấu ngoài xã hội. “Đoàn thanh niên Lao động
phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ thanh
niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [49, tr. 21].
Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, TN có vai trò vô cùng to lớn
trong tiến trình lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng. TN là bộ phận quan
trọng của dân tộc, là lực lượng nòng cốt trong cách mạng giải phóng dân tộc
và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vận mệnh của dân tộc, tương lai của
đất nước phụ thuộc vào bản chất và bản lĩnh của TN. TN là lực lượng to lớn,
là đội quân xung kích trên mọi mặt trận, là cánh tay đắc lực, đội hậu bị của
Đảng và còn là lực lượng kế thừa và tiếp bước cha anh trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hồ Chí Minh không dừng lại ở việc nhìn nhận, đánh giá TN mà Người
thường xuyên chăm lo bồi dưỡng TN.
Từ năm 1925, Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm: “Muốn thức tỉnh dân
tộc, trước hết phải thức tỉnh TN”. Người kêu gọi: “Hỡi Đông Dương đáng
thương hại! Ngưỡi sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người không
sớm hồi sinh!”. Sau lời cảm thán đượm buồn đó vẫn toát lên các ý lớn: vận
mệnh dân tộc, sự tồn vong của đất nước, tùy thuộc vào ý chí và nghị lực của
thế hệ trẻ.
Theo Nguyễn Ái Quốc, ở Đông Dương chúng ta, đầu thế kỷ XX, dường
như có đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong muốn, nhưng chúng ta
thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức. Vì vậy, Người hướng vào TN, dựa vào
Tâm Tâm xã, một tổ chức của TN yêu nước đang có mặt tại Quảng Châu nhưng
chưa có phương hướng hoạt động đúng, Người lựa chọn ra những hạt nhân tích
cực và mở các lớp huấn luyện về chính trị, trên cơ sở đó lập ra tổ chức Hội Việt
Nam thanh niên cách mạng, rồi từ tổ chức TN từng bước tiến lên xây dựng tổ
chức Đảng.

Ngay từ những ngày cách mạng còn trứng nước, cùng với việc tổ chức ra
Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng, gửi người vào học trường Quân sự
Hoàng Phố, cử đi đào tạo ở Mátxơcơva… Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã
trực tiếp nuôi dạy TN Việt Nam từ Thái Lan sang, tất cả đều mang họ Lý của
Lý Thụy (tên hoạt động của Người ở Quảng Châu) trong đó Lý Tự Trọng đã
được Đảng cử về nước để chuẩn bị tổ chức ra Đoàn TN Cộng sản sau này.
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh đặt lên
hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng cho TN.
Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là lý tưởng độc lập
dân tộc và CNXH, tức là kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác -
Lênin. Xác định lý tưởng đúng không khó đối với TN hiện nay, vấn đề là phải
kiên định lý tưởng, nghĩa là phải có ý chí. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau là làm cho họ kế thừa được chí lớn của các thế hệ cha anh, biến lý
tưởng cách mạng thành ý chí cách mạng, thành động lực tinh thần mạnh mẽ,
đánh bại âm mưu phá hoại của kẻ thù, chiến thắng nghèo nàn, lạc hâu, đưa sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến thành công, nhanh chóng
đưa Việt Nam lên hàng các quốc gia phát triển của khu vực thế giới. Trong 5
điều Hồ Chí Minh dạy TN, Người nhấn mạnh điều trước tiên là: “Phải luôn
luôn nâng cao chí khí cách mạng trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.”
[50. tr.504].
Lý tưởng và ý chí cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền
tảng đạo đức cách mạng, đó là đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Thiếu nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không vượt
qua thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu đến cùng cho lý
tưởng. Thiếu nền tảng đạo đức cách mạng, TN dễ gục ngã trước cám dỗ của
kinh tế thị trường.
Cuối cùng trong nội dung giáo dục, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Thanh niên
phải học và học cho giỏi”, “phải ham học”. TN ta ngày nay cần theo được
tấm gương học tập của Hồ Chí Minh: Từ một người yêu nước, tuy không có

điều kiện học tập nhiều trong nhà trường, nhờ sự nỗ lực với ý chí phi thường,
nhờ cả thiên tài trí tuệ hiếm có, Người đã từng bước chiếm lĩnh được những đỉnh
cao của trí thức cách mạng, “là một con người kiệt suất trên nhiều lĩnh vực, một
con người uyên bác… Người trở thành một lãnh tụ cách mạng không phải bằng
hình thức bề ngoài mà bằng học thức, hiểu biết và trí tuệ của Người”.
Noi theo tấm gương Hồ Chí Minh, TN không ngừng vươn lên chiếm
lĩnh những giá trị mới nhất của thời đại văn minh trí tuệ (do phương tiện
thông tin, kỹ thuật số và các điều kiện thuận lợi khác đem lại) phấn đấu trở
thành những nhân tài thuộc nhiều lĩnh vực, đưa nước ta sánh vai, mở mặt với
năm châu, như sinh thời Hồ Chí Minh đã từng mong mỏi.
1.1.2. Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng của thanh niên
1.1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh mos, moris,
nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos,
cũng có nghĩa là thói quen, tập quán. Như vậy, theo phần gốc của khái niệm,
khi nói đến đạo đức là nói đến những thói quen, sinh hoạt và cách ứng xử của
con người trong cộng đồng, trong xã hội.
Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của Nho học, đạo có
nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức
là dùng để nói đến đức nhân, đức tính là biểu hiện của đạo nghĩa, là nguyên
tắc của luân lý. Theo đó, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc
do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức xét đến
cùng là sự phản ánh của các quan hệ kinh tế - xã hội. Giá trị đạo đức được xác
định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người. “Đạo
đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc
lột lao động” [36, tr. 371]. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho
rằng: “Đó là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp
phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang
sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản” [37, tr. 452]. Đây là một

quan niệm mang tính cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của
các tôn giáo và các nền đạo đức khác không thể đạt tới.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn
diện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công, từ
lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập,
công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi
phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc
tế. Việc Người xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn
mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời
sống xã hội và của mỗi con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là đạo đức Việt Nam vừa là đạo
đức cộng sản, vừa tiếp thu văn hóa đạo đức phương Đông và đạo đức phương
Tây.
Hồ Chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng trong sử
dụng, thuật ngữ đạo đức được dùng với 3 nghĩa: rộng, hẹp, và rất hẹp. Nghĩa
rộng, đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh
hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính người trong các
quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng. Nghĩa hẹp, đạo
đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con người trong quan
hệ giữa người với người trong hoạt động sống. Nghĩa rất hẹp đó là hành vi
đạo đức. Hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện quan niệm của cá
nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể hiện lương tâm
hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù không lặp lại. Hồ Chí
Minh tập trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp với 3 mối quan hệ cơ bản
của mỗi con người (với mình, với người và với việc) và đạo đức cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là đạo đức của người cách
mạng xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên CNXH
ở Việt Nam. Đạo đức cách mạng là nền đạo đức do Hồ Chí Minh đề xướng và
cùng với Đảng ta xây dựng, lãnh đạo, phát triển. Là nền đạo đức mang bản
chất giai cấp công nhân, được xây dựng và phát triển trên cơ sở những quan

điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác –Lênin, đồng thời kế thừa, tiếp thu những
giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc và nhân loại. Nó là sự thống nhất biện chứg
giữa lý tưởng đạo đức với lý tưởng chính trị, giữa tính cách mạng và tính
khoa học. Người đã chỉ rõ đạo đức cách mạng: “là đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của loài người” [44, tr. 5].
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân,
suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ
nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng; là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; luôn yêu thương, quý trọng
con người, sống có tình, có nghĩa và tinh thần quốc tế trong sáng… Và đạo
đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người cách mạng.
Mặt khác Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng và đạo đức
đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau, sẽ không có đạo đức đời thường
tách rời với đạo đức cách mạng và cũng không thể có đạo đức cách mạng
đứng ngoài, đối lập với đạo đức đời thường. Vì vậy không thể bào chữa cho
khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia đình tôi,
không liên quan gì đến cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái chung (của
Đảng, của cách mạng, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng mà đi ngược
với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.
Theo Hồ chí Minh đạo đức mới là đạo đức cách mạng, nó hoàn toàn
khác với đạo đức cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là sự kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc với đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức
của nhân loại. Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức
Việt Nam. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân
chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất,
đầu ngửng lên trời” [46, tr. 320-321]. Đạo đức cũ-đạo đức thực dân phong
kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm, trói buộc con người, tàn phá con
người. Còn đạo đức mới đạo đức cách mạng: “Quyết tâm giúp đỡ loài người

ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh
thần chí công vô tư”; “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” , “Vô
luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên
trên hết”, “là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu
quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” [46, tr. 568].
Theo Người: Có đạo đức cách mạng thì dù gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước; khi cần hy sinh cả tính mệnh cũng
không tiếc; khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần chất phác,
khiêm tốn, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan
liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá. Đạo đức cách mạng là động lực giúp
con người vượt qua cạm bẫy của chủ nghĩa cá nhân, vượt qua gian khổ phấn
đấu vì lợi ích của Đảng, của cá nhân, của dân tộc và của loài người.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức cách mạng
“là gốc, là nền tảng của người cách mạng”, là nguồn nước làm cho tinh thần
cách mạng không bao giờ cạn. Người còn ví đạo đức đối với người cách mạng
như sức khỏe của người gánh nặng và đi xa: “Có sức mới gánh được xa, có đức
mới hoàn thành nhiệm vụ”, “phải có cái đức để di đến cái trí, và khi đã có cái trí,
hiểu biết về khoa học, chủ nghĩa Mác, phương pháp cách mạng thì cái đức chính
là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã chấp
nhận, đã giác ngộ, đã đi theo”. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [44, tr. 5]. Theo Người, nhiệm
vụ cách mạng bao giờ cũng khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng,
đòi hỏi người cách mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh,
phải kiên trì bền bỉ “thắng không kiêu, bại không nản”. Vì thế “Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
vẻ vang” [48, tr. 283].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”
thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh đạo cuộc đấu tranh

giành độc lập và xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Người cũng nhắc
lại ý của Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm
của dân tộc mình và của thời đại. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và cống hiến nhiều
nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH.
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức cách mạng song Hồ Chí Minh không
bao giờ tách rời giữa đức và tài. Người cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không
có nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và
tài, “hồng” và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi,
không thể thiếu mặt này hay thiếu mặt kia. Theo Hồ Chí Minh; “Có tài phải
có đức. Có tài không có đức tham ô, hủ hoá có hại cho nước. Có đức mà
không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích được ai” [44, tr. 32].
Như vậy, đạo đức trong quan niệm Hồ Chí Minh được hiểu là toàn bộ những
chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với
người khác và với cộng đồng. Dựa vào những chuẩn mực đó, người ta đánh
giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không
được làm và nghĩa vụ phải làm.

1.1.2.2. Đạo đức cách mạng của thanh niên trong quan niệm Hồ Chí Minh
Đạo đức cách mạng tuy có tính ổn định, bền vững nhưng cũng bị chi
phối bởi hoàn cảnh lịch sử, bởi nền kinh tế, chính trị qua từng thời kỳ cho nên
nó đòi hỏi phải được phát triển, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu cách mạng
trong mỗi thời kỳ cụ thể, đối với từng đối tượng cụ thể. Vì vậy, tùy theo đối
tượng, từng thời điểm, nhất là theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mà Hồ
Chí Minh xác định nội dung đạo đức cách mạng cho từng chủ thể đạo đức
nhất định.
Hồ Chí Minh căn dặn, TN phải luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo
đức cách mạng của TN được Hồ Chí Minh nêu tóm tắt trong mấy điểm:
- Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ
quốc, với Đảng, với giai cấp.

- Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện đâu cần thanh niên
có, việc gì khó có thanh niên làm, gian khổ đi trước, hưởng thụ sau mọi người.
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không được khoe công,
không được tự phụ [49, tr. 106].
Người dạy TN phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu
CNXH, yêu khoa học… Đó là đạo đức mới và chỉ có thông qua phấn đấu, rèn
luyện mới trở thành những con người phát triển toàn diện, có tư tưởng đúng,
tình cảm đẹp, có kiến thức, có sức khoẻ để làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản
thân, làm chủ xã hội. Để làm được như vậy, Người khuyên TN: “Không có
việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”
[45, tr. 95].
Đối với TN trong lực lượng vũ trang, theo Hồ Chí Minh, đạo đức của
họ thể hiện ở 5 điều: Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm:
- Trí: Là sáng suốt, biết địch biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết
người xấu thì không dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu
của mình để mà tránh.
- Tín: Nói cái gì phải cho tin. Nói và làm cho nhất trí, làm thế nào cho
dân tin, cho bộ đội tin ở mình.
- Nhân: Là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của
mình.
- Dũng: Là phải mạnh dạn, quả quyết nhưng không phải làm liều. Phải
có kế hoạch. Phải kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm. Nghĩa là
phải có lòng dũng cảm trong công việc.
- Liêm: Là không tham danh vị, không tham sống, không tham tiền, không
tham sắc. Người cán bộ đã dám hy sinh cho Tổ quốc, hy sinh cho đồng bào, hy
sinh vì nghĩa không tham gì hết [44, tr. 223-224].
Đối với đoàn viên TN cộng sản, theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng
của họ khác các TN bình thường ở chỗ: “Bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm
công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ
lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ

nghĩa xã hội” và “Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng
và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân” [49, tr. 306].
Ngay đối với thiếu niên, nhi đồng, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức
cộng sản chủ nghĩa đối các cháu là chăm học, giúp người lớn, đoàn kết, có kỷ
luật…” [49, tr. 680]. Ngoài ra Người còn chỉ rõ mục đích và động cơ học tập
là để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh.
Đối với TN công nhân, nông dân, Người nhấn mạnh tinh thần trách
nhiệm, ý thức làm chủ, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Đối với TN các dân tộc, Người dạy phải đoàn kết chặt chẽ thương

×