Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Nghệ thuật điêu khắc kiến trúc ở một số đình làng miền Bắc Việt Nam thế kỷ XVII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.24 MB, 159 trang )

0


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN ĐỨC KIÊN



NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC KIẾN TRÚC Ở
MỘT SỐ ĐÌNH LÀNG MIỀN BẮC VIỆT NAM
THẾ KỶ XVII

Chuyên ngành Khảo cổ học
Mã số: 60 22 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hoàng Văn Khoán





Hà Nội - 2013


1

MỤC LỤC


Trang phụ bìa 00
Mục lục 01
Bảng các chữ viết tắt 04
Danh mục các bảng biểu, bản đồ, bản rập, bản ảnh 05
Mở đầu 10

1. Tính cấp thiết của đề tài 10
2. Mục đích nghiên cứu 11
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 11
4. Phương pháp nghiên cứu 12
5. Những kết quả và đóng góp của luận văn 12
6. Kết cấu của luận văn 13

Chương 1: TỔNG QUAN 14
1.1. Nguồn gốc, chức năng và lịch sử nghiên cứu đình làng
thế kỷ XVII 14
1.1.1. Nguồn gốc và sự phát triển của đình 14
1.1.2. Chức năng của đình làng 18
1.1.3. Lịch sử nghiên cứu điêu khắc đình làng 19
1.2. Nghệ thuật điêu khắc đình làng 23
Tiểu kết chương một 28

Chương 2: NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC KIẾN TRÚC Ở MỘT SỐ
ĐÌNH LÀNG MIỀN BẮC VIỆT NAM THẾ KỶ XVII 30
2.1. Các chủ đề chính trong điêu khắc kiến trúc ở một số

đình làng miền Bắc Việt Nam thế kỷ XVII 30
2.1.1. Chủ đề về sinh hoạt đời sống 31
2

2.1.2. Chủ đề về lao động sản xuất, săn bắn 34
2.1.3. Chủ đề võ thuật, chiến đấu 36
2.1.4. Chủ đề về quan hệ nam nữ 39
2.1.5. Chủ đề về vui chơi - giải trí 44
2.1.6. Chủ đề về các tích truyện, thần thoại 49
2.1.7. Chủ đề về các con vật 52
2.1.7.1. Các con vật trong truyền thuyết 52
2.1.7.2. Các con vật trong đời sống thực 54
2.1.8. Chủ đề về thiên nhiên, làng quê Việt Nam 61
2.2. Kỹ thuật chạm khắc và thủ pháp tạo hình trong điêu khắc
kiến trúc đình làng 64
2.2.1. Kỹ thuật chạm lộng 64
2.2.2. Các kỹ thuật khác 65
2.2.3. Các thủ pháp tạo hình……………………………….…71
Tiểu kết chương hai 74

}}Chương 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT VÀ GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG 77
3.1. Giá trị nghệ thuật 77
3.1.1. Tính chất của điêu khắc đình làng TK XVII 77
3.1.2. Sự hài hòa giữa điêu khắc và không gian kiến trúc 78
3.1.3. Diễn tả môi trường trong điêu khắc 79
3.1.4. Diễn tả nhân vật trong thế động 80
3.2. Giá trị tư tưởng 82
3.2.1. Tính hiện thực 82
3.2.2. Tính dân tộc 82
3.2.3. Tính nhân văn 84

3

Tiểu kết chương ba 85

KẾT LUẬN 87
- VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95

PHỤ LỤC 103

4

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BEFEO - Bulletin de L’Ecole Francaise d’Extrême- Orient
Bd. - Bản dịch
DTH - Dân tộc học
GS - Giáo sư
H. - Hà Nội
h. - Huyện
KCH - Khảo cổ học
Nxb - Nhà xuất bản
PGS - Phó giáo sư
PTS - Phó tiến sĩ
Stt - Số thứ tự
t. - Tỉnh
T/c - Tạp chí
TK - Thế kỷ
TS - Tiến sĩ

Tp - Thành phố
tr. - Trang
TT. - Thị trấn
UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
VHTT - Văn hóa - Thông tin
x. - Xã

5

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, BẢN ĐỒ, BẢN RẬP, BẢN ẢNH

1. Danh mục bảng biểu
1.1. Bảng thống kê: Danh mục đình làng đề cập đến trong luận văn
1.2. Danh mục các thuật ngữ sử dụng trong luận văn
2. Danh mục bản đồ
- Bản đồ 01: Khu vực miền Bắc trên bản đồ Việt Nam.
(Nguồn Google map).
- Bản đồ 02: Sự phân bố đình làng TK XVII khu vực miền Bắc Việt Nam
3. Danh mục bản rập
- Bản rập 01: Chim phượng (đình Chu Quyến)
- Bản rập 02: Chim phượng (đình Thổ Hà)
- Bản rập 03: Đua thuyền ngày hội (đình Phù Lưu)
- Bản rập 04: Tôm cắp cá (đình Thạch Lỗi).
4. Danh mục bản ảnh
- Ảnh 01: Phong cách Ngọc Canh (đình Ngọc Canh)
- Ảnh 02: Phong cách An Hòa (đình An Hòa)
- Ảnh 03: Phong cách đình Hiến (đình Hiến)
- Ảnh 04: Phong cách Chu Quyến (đình Chu Quyến)
- Ảnh 05: Phong cách Yên Sở (đình Yên Sở)
- Ảnh 06: Cảnh sinh hoạt các tầng lớp xã hội (đình Thổ Tang)

- Ảnh 07: Quan quân bắt dân đi lính (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 08: Quan quân cướp bóc (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 09: Hát ở nhà quan (đình Ngọc Canh)
- Ảnh 10: Vượt phong ba bão táp (đình Ngọc Canh)
- Ảnh 11: Hái dừa (đình An Hòa)
- Ảnh 12: Đánh hổ (đình Chảy)
6

- Ảnh 13: Bắn hổ (đình Thổ Tang)
- Ảnh 14: Đoàn đi săn trở về (đình Hương Canh)
- Ảnh 15: Đấu khiên đao (đình Hương Canh)
- Ảnh 16: Đấu kiếm (đình Ngọc Canh)
- Ảnh 17: Tập đấu kiếm (đình Thượng Cung)
- Ảnh 18: Đấu vật (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 19: Đấu vật (đình Phù Lão)
- Ảnh 20: Đấu vật (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 21: Cưỡi ngựa đâm giáo (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 22: Trai gái tắm đầm sen (đình Đông Viên)
- Ảnh 23: Gái một con (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 24: Nam nữ vui đùa (đình Phù Lão)
- Ảnh 25: Lợn ăn con bú (đình Phất Lộc)
- Ảnh 26: Bốn nụ cười (đình Hưng Lộc)
- Ảnh 27: Thiếu nữ cưỡi đầu rồng (đình Thắng)
- Ảnh 28: Đua thuyền (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 29: Chèo thuyền (đình Hương Canh)
- Ảnh 30: Chèo thuyền (đình Thượng Cung)
- Ảnh 31: Chọi gà (đình An Hòa)
- Ảnh 32: Người ôm gà chọi (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 33: Người ôm gà chọi (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 34: Ngày hội (đình Ngọc Canh)

- Ảnh 35: Hai người đá cầu (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 36: Hai người đá cầu (đình Thổ Tang)
- Ảnh 37: Đánh cờ (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 38: Đánh cờ (đình Ngọc Canh)
- Ảnh 39: Chuốc rượu (đình Hoàng Xá)
7

- Ảnh 40: Uống rượu (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 41: Uống rượu (đình Ngọc Canh)
- Ảnh 42: Cảnh uống rượu và người hầu (đình Chu Quyến)
- Ảnh 43: Táng mả hàm rồng (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 44: Táng mả hàm rồng (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 45: Táng mả hàm rồng (đình Chu Quyến)
- Ảnh 46: Cá hóa rồng (đình Thượng Cung)
- Ảnh 47: Cá hóa rồng (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 48: Trúc hóa rồng (đình Thượng Cung)
- Ảnh 49: Tiên múa (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 50: Tiên cưỡi rồng (đình Phong Cốc)
- Ảnh 51: Tiên cưỡi phượng (đình Thổ Hà)
- Ảnh 52: Đầu dư chạm hình rồng (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 53: Rồng (đình Chu Quyến)
- Ảnh 54: Rồng (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 55: Chim phượng (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 56: Nghê chầu nhật (đình Chu Quyến)
- Ảnh 57: Đánh hổ (đình Chảy)
- Ảnh 58: Người cưỡi báo (đình Chu Quyến)
- Ảnh 59: Quản tượng (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 60: Thúc voi ra trận (đình Thượng Cung)
- Ảnh 61: Thuần mã (đình Diềm)
- Ảnh 62: Người cưỡi ngựa (đình Hạ Hiệp)

- Ảnh 63: Trâu (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 64: Chọi trâu (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 65: Đôi Hươu (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 66: Lợn (đình Phất Lộc)
8

- Ảnh 67: Mèo (đình Diềm)
- Ảnh 68: Mèo (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 69: Mèo ngoạm cá (đình Đại Phùng)
- Ảnh 70: Mèo bám râu rồng (đình Chu Quyến)
- Ảnh 71: Rồng nắm chuột (đình Diềm)
- Ảnh 72: Khỉ (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 73: Thạch sùng (đình Chu Quyến)
- Ảnh 74: Rùa trong bộ tứ linh (đình Thượng Cung)
- Ảnh 75: Hoa sen (đình Phù Lão)
- Ảnh 76: Hoa sen (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 77: Cây (đình Thạch Lỗi)
- Ảnh 78: Cây và thú (đình Chu Quyến)
- Ảnh 79: Chạm lộng ván gió (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 80: Chạm lộng hình rồng, phượng (đình Chu Quyến)
- Ảnh 81: Chạm lộng chim phượng (đình Chu Quyến)
- Ảnh 82: Chạm thủng nhang án (đình Diềm)
- Ảnh 83: Chạm nông (đình Chu Quyến)
- Ảnh 84: Chạm kênh bong (đình Hạ Hiệp)
- Ảnh 85: Thợ đục phá (Làng nghề Đông Giao, tỉnh Hải Dương)
- Ảnh 86: Thợ đục gọt (Làng nghề Đông Giao, tỉnh Hải Dương)
- Ảnh 87: Một số sản phẩm làng nghề Đông Giao
- Ảnh 88: Thợ tạo mẫu (Làng nghề Phù Khê, tỉnh Bắc Ninh)
- Ảnh 89: Thợ đục phá (Làng nghề Phù Khê, tỉnh Bắc Ninh)
- Ảnh 90: Thợ đục gọt (Làng nghề Phù Khê, tỉnh Bắc Ninh)

- Ảnh 91: Các loại đục sử dụng trong chạm khắc hiện nay
- Ảnh 92: Các loại đục sử dụng trong chạm khắc hiện nay
- Ảnh 93: Các loại đục sử dụng trong chạm khắc hiện nay
9

- Ảnh 94: Thủ pháp đồng hiện (đình Hoàng Xá)
- Ảnh 95: Thủ pháp kết hợp yếu tố huyền thoại và tả thực,
trang trí và tả thực (đình Hoàng Xá).
10

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong bề dày lịch sử mỹ thuật Việt Nam, điêu khắc dân gian -
trong đó có điêu khắc đình làng đóng một vai trò quan trọng góp phần làm
phong phú thêm cho kho tàng di sản mỹ thuật quốc gia. Đây là nơi lắng đọng
hơi thở cuộc sống của làng quê Việt Nam, nơi ghi dấu những mong ước giản
dị của người nông dân, phản ánh cuộc sống đời thường, phản ánh xã hội cũng
như đả phá những mặt trái của chế độ phong kiến đương thời Tất cả những
điều đó đã được nghệ nhân dân gian ghi lại qua các mảng chạm khắc trên điêu
khắc kiến trúc đình làng.
1.2. Đình làng với chức năng là ngôi nhà chung của làng xã Việt Nam,
nơi đây giải quyết ba chức năng chính là: chức năng hành chính, chức năng
tôn giáo và chức năng văn hóa. Không biết chính xác đình làng xuất hiện từ
bao giờ nhưng hiện diện trong không gian làng xã Việt Nam cho đến nay thì
chỉ còn những ngôi đình có từ thế kỷ XVI; đây là đối tượng nghiên cứu của
nhiều lĩnh vực như văn hóa dân gian, mỹ thuật dân gian, khoa học lịch sử
Do vậy, nghiên cứu để làm rõ giá trị của đình làng là việc làm cần thiết nhằm
góp phần bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa của dân tộc theo đúng
tinh thần nghị quyết trung ương V khóa VIII của Đảng về xây dựng nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.3. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, đời sống vật chất và đời sống tinh
thần đang ngày được nâng cao, việc đầu tư tu sửa các di tích lịch sử văn hóa
trong đó có đình làng cũng được tiến hành ồ ạt, không có sự giám sát của các
cơ quan chức năng, do đó tình trạng làm sai, hỏng đang góp phần phá hoại
những giá trị văn hóa, lịch sử của di tích. Nghiên cứu xác định rõ những giá
trị của ngôi đình trong đó có điêu khắc đình làng sẽ nâng cao ý thức của nhân
11

dân trong việc bảo tồn, phát huy giá trị và là cơ sở dữ liệu để nghiên cứu và tu
sửa nhưng vẫn giữ được yếu tố gốc của di tích.
Trên cơ sở đó người viết đã chọn đề tài: “Nghệ thuật điêu khắc kiến
trúc ở một số đình làng miền bắc Việt Nam thế kỷ XVII” làm luận văn tốt
nghiệp Cao học khóa 2009 - 2012.

2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Hệ thống lại những nghiên cứu về nguồn gốc và nghệ thuật điêu
khắc đình làng thế kỷ XVII.
2.2. Phân loại những mảng đề tài trong điêu khắc kiến trúc đình làng ở
một số di tích khu vực miền Bắc Việt Nam thế kỷ XVII và phân tích, đánh giá
những đề tài này nhằm thấy được đặc trưng của từng thời kỳ.
2.3. Bước đầu nghiên cứu về những giá trị nghệ thuật, giá trị tư tưởng
của nghệ thuật điêu khắc đình làng thế kỷ XVII.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn tập trung vào một số di
tích tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc đình làng thế kỷ XVII như: đình Phù
Lão (Bắc Giang), đình Diềm (Bắc Ninh), đình Thạch Lỗi (Hải Dương), đình
Hoàng Xá (Hà Nội), đình Chu Quyến (Hà Nội), đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc),
đình Hương Canh (Vĩnh Phúc), đình Chảy (Hà Nam) và đình Hưng Lộc (Nam

Định) và các ngôi đình khác ở miền Bắc Việt Nam đã được xác định niên đại
vào thế kỷ XVII hoặc cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII (đặc biệt là niên
hiệu Chính Hòa 1680-1705).
3.2. Phạm vi nghiên cứu cũng đã được chỉ rõ ở tên đề tài gồm:
- Phạm vi không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu những ngôi đình
trong phạm vi miền Bắc Việt Nam; tuy nhiên những di tích để chọn nghiên
cứu sẽ đại diện cho các khu vực có mật độ đình làng cao và có nhiều mảng
12

chạm khắc. Ngoài ra, để có thêm tư liệu đối sánh, người viết sẽ phải sử dụng
các tư liệu về mỹ thuật dân gian như tranh dân gian, phong tục tập quán và
các trò chơi dân gian
- Phạm vi thời gian: Đình làng được biết đến và tập trung nghiên cứu
nhiều nhất là từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Trong đó thế kỷ XVII là thời
kỳ phát triển đỉnh cao của đình làng; do đó luận văn tập trung vào phạm vi thế
kỷ XVII để tìm hiểu, trong một số trường hợp thì mở rộng thời gian trước và
sau để nghiên cứu, lý giải vấn đề.

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Luận văn sử dụng phương pháp khảo cổ học truyền thống như:
Khảo sát, điền dã, phân loại, khảo tả, chụp ảnh, phân tích và tổng hợp. Trong
nghiên cứu là cách khảo tả, so sánh, phân tích và tổng hợp về nghệ thuật, kết
cấu kiến trúc và nghệ thuật trang trí.
4.2. Kết hợp các phương pháp liên ngành như: Hán Nôm học, Kiến
trúc, Nghệ thuật học, Bảo tàng học…
4.3. Luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng
để đánh giá sự vật, hiện tượng và sự kiện lịch sử.

5. Những kết quả và đóng góp của luận văn
5.1. Hệ thống lại những nghiên cứu về nghệ thuật điêu khắc đình làng

miền Bắc Việt Nam thế kỷ XVII.
5.2. Phân loại những mảng đề tài trong điêu khắc kiến trúc đình làng ở
một số di tích tiêu biểu mà luận văn đã chọn và phân tích, đánh giá để thấy
được giá trị về mặt nghệ thuật, giá trị tư tưởng và kỹ thuật thể hiện.
5.3. Luận văn làm cơ sở tư liệu cho việc nghiên cứu về nghệ thuật điêu
khắc đình làng thế kỷ XVII trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di tích
cũng như góp phần tu bổ, sửa chữa bảo tồn yếu tố gốc.
13

5.4. Làm cơ sở cho việc đối chiếu, bổ sung thông tin trong trưng bày
bảo tàng về nghệ thuật điêu khắc dân gian đình làng Việt.

6. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu (04.tr) và kết luận (08.tr), nội dung gồm
có 3 chương (72.tr) với trình tự như sau:
- Chương 1: Tổng quan (16.tr)
Chương này người viết tìm hiểu về nguồn gốc và sự phát triển của đình
làng, những chức năng chính của ngôi đình xưa và lịch sử những nghiên cứu
về điêu khắc đình làng Việt Nam.
- Chương 2: Nghệ thuật điêu khắc kiến trúc ở một số đình làng
miền Bắc Việt Nam thế kỷ XVII (46.tr)
Phân loại, phân tích các mảng đề tài điêu khắc trang trí trên kiến trúc ở
một số đình làng miền Bắc thế kỷ XVII và tìm hiểu kỹ thuật chạm khắc.
- Chương 3: Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng (10.tr)
Tổng kết những giá trị nghệ thuật, giá trị tư tưởng của nghệ thuật điêu
khắc đình làng miền Bắc Việt Nam thế kỷ XVII.

14

Chương 1: TỔNG QUAN


1.1. Nguồn gốc, chức năng và lịch sử nghiên cứu đình làng thế kỷ XVII
1.1.1. Nguồn gốc và sự phát triển của đình

Đình là một thuật ngữ Hán ( ). Trung Hoa cổ đại Đình là một đơn vị
hành chính. Dưới thời Tần, Hán 10 lý là một Đình. Đình có đình trưởng. Lưu
Bang người khởi dựng nhà Hán là đình trưởng ở Phong Bái.
Đình còn có nghĩa là một ngôi nhà lá ở dọc đường - nơi dừng chân cho
khách đường xa; 5 dặm có một “đoản đình”, 10 dặm có một “trường đình”.
Nếu dựng cạnh đường thủy gọi là “lương đình” hay “trường đình”.
Đình còn có loại mang tính chất nghiệp vụ như “tỉnh đình” (cơ quan
tỉnh), “bi đình” (nhà dựng bia), “bưu đình” (bưu điện), “thư đình” (thư viện).
Ở Việt Nam dùng thuật ngữ Hán tự, theo cách gọi của Trung Quốc là
đình, nhưng nội dung khác hoàn toàn. Ở Việt Nam, Đình là một ngôi nhà
công cộng, một ngôi nhà chung của một cộng đồng dân cư của một làng (la
maison de commune hoặc là Communal house hay Communal hall). Đình của
làng Việt giống với nhà Rông của người BaNa Tây Nguyên về tính chất.
Vậy nguồn gốc đình Việt Nam có từ bao giờ?
Trong Lục độ tập kinh của Khang Tăng Hội có ghi: “Đêm đến ông lặng
lẽ trốn đi. Đi hơn trăm dặm, vào nghỉ ở một ngôi đình trống” [66, tr.19].
Ở kinh đô Hoa Lư, khảo cổ học đã tìm thấy vết tích của một ngôi đình
dịch. Sách Đại Việt Sử ký toàn thư có ghi: “Thượng Hoàng (Trần Thái Tông)
xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng
Phật để thờ. Trước đây, tục nước ta vì nóng bức, nên làm nhiều đình cho
người đi đường nghỉ chân, thường quét vôi trắng, gọi là đình trạm” [66,
tr.18]. Ở Hà Nội, nhà số 10, ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm có bia đề năm Thuận
Thiên thứ 3 (1433). Đây là làng cổ Thanh Hà xưa có đình. Như vậy cái tên
15

đình xuất hiện rất sớm từ thế kỷ II - III Công Nguyên, và nó có mặt ở các thời

tiếp theo Đinh, Lê, Lý, Trần, hậu Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn. Đình và đình
trạm phải chăng là nguồn gốc của đình làng? Cuộc tìm hiểu về nguồn gốc của
đình làng tựu trung có các ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất cho rằng Đình làng có nguồn gốc từ Đình Trạm.
GS. Nguyễn Văn Huyên “Cái đình ngày xưa là nhà nghỉ của vua khi nhà
vua đi tuần thú trong vùng. Ở tỉnh có hành cung để vua dừng chân nghỉ ngơi.
Ở các làng ven đường cũng có những ngôi nhà có chức năng như hành cung.
Về sau vua ít đi tuần thú, dân làng đã sử dụng các hành cung này để thờ thần.
Ông cho rằng những đình hiện nay có bốn đại tự “Thánh cung vạn tuế” có
nguồn gốc từ đó”. Ý kiến của Nguyễn Văn Huyên có một số người ủng hộ,
trong số đó có Trần Lâm Biền, Trịnh Cao Tưởng. [66, tr.19]
Ý kiến thứ hai - dựa vào dòng chữ ghi trên kẻ của đình Phù Lưu, Bắc
Ninh “ kẻ nào cho khách đi đường và bọn công thương trú ngụ (trong đình)
thì xin thần linh tru diệt”, căn cứ đó Chu Quang Trứ chủ trương đình làng
ngược hẳn với đình trạm, không có nguồn gốc từ đình Trạm.
Ý kiến thứ ba cho đình làng là một kiểu nhà chung, một sản phẩm của
làng kiểu trung đại từ sau Lê Sơ. Thuộc ý kiến này có hai tác giả là Nguyễn
Quân và Phan Cẩm Thượng.
Ý kiến thứ tư của L.Bezacier cho đình làng Việt Nam là một trong
những vết tích của người Anh-đô-nê-diêng xưa kia cư trú ở miền Đông Nam
Á, về sau có một số ảnh hưởng của Trung Quốc ghép thêm vào.
Tất cả các ý kiến đã trình bày ở trên GS. Hà Văn Tấn cho rằng: “Mặc
dù còn thiếu chứng cứ, ta tin rằng đình - ngôi nhà chung của làng xã đã
xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là thời tiền sử thì cũng là thời sơ sử của
dân tộc. Tất nhiên thời đó chưa được gọi là đình, một từ vay mượn của
Trung Hoa” [66, tr.20].
16

Thực tế ở đồng bằng Bắc Bộ còn tồn tại di tích Quán đình. Quán đình
thường lợi dụng dưới gốc cây cổ thụ giữa cánh đồng, hoặc ở đầu làng, người

ta dựng một mái nhà bằng tranh tre nứa lá hoặc xây bằng gạch đơn sơ để làm
chỗ cho trẻ con chăn trâu và người đi làm đồng về dừng chân nghỉ ngơi, trú
ngụ lúc mưa nắng. Có thể kể ra các quán đình ở Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp,
Quốc Oai, Hà Nội. Quán đình ở cánh đồng Đường Lâm; quán đình Hoài Đức
và quán đình Tiên Phong, Ba Vì, Hà Nội
Những quán đình này chắc chắn không phải là nguồn gốc của đình làng.
Đình làng với tư cách là một thực thể văn hóa của làng xã hiện biết đến
bắt đầu thế kỷ XVI đó là:
1. Đình Tây Đằng thuộc xã Tây Đằng, thị trấn Quốc Oai được dựng
vào thế kỷ XVI trên một đầu cột có dòng chữ Hán “Quý Mùi niên tạo”. Nhiều
người cho rằng đình dựng năm 1583.
2. Đình Thụy Phiêu ở thôn Thụy Phiêu, xã Thụy An, Ba Vì, Hà Nội. Đình
có niên đại tuyệt đối, niên hiệu Đại Chính của Mạc Thái Tông (1530-1540).
3. Đình Lỗ Hạnh ở thôn Lỗ, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc
Giang. Đình có niên hiệu Sùng Khang của Mạc Mậu Hợp năm thứ 11 (1576).
4. Đình La Phù, tên nôm là Đình Là, thuộc thôn La Uyên, xã Tân Minh,
huyện Thường Tín, Hà Nội. Niên hiệu Diên Thành của Mạc Mậu Hợp (1578 -
1585) vào năm thứ 4 (1581).
5. Đình Phù Lưu ở làng Phù Lưu, xã Thu Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh
Bắc Ninh. Đình có niên hiệu Minh Trị thứ 2 của Mạc Mậu Hợp (1589).
Dựa vào tài liệu bi ký chúng ta còn biết thêm:
6. Đình Đại Đoan xã Đoan Bái, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh dựng
vào năm Quý Tỵ, niên hiệu Diên Thành của Mạc Mậu Hợp (1583).
7. Đình Trường Hoài huyện Thái Thụy, Thái Bình dựng năm Diên
Thành thứ 8 (1585).
17

8. Đình Nghênh Phúc, xã Lam Cầu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
dựng năm Hưng Trị thứ 4. Mạc Mậu Hợp (1591).
Về mặt kiến trúc, đình thế kỷ XVI có mặt bằng hình chữ nhất ( ), có

3 gian 2 chái, 4 hàng cột, 2 hàng cột cái, 2 hàng cột quân, nghĩa là một vì kèo
có 4 cột. Đình có sàn gỗ, gian giữa có gác lửng thờ Thành Hoàng, sân đình rất
rộng. Những ngôi đình từ thế kỷ XVI đã có điêu khắc trang trí phong phú.
Hình rồng được chạm khắp nơi. Con rồng thế kỷ XVI thường có hình yên
ngựa. Những cảnh sinh hoạt của con người như đốn củi, cày voi, đuổi hổ, bắt
rắn, chồng người làm xiếc, chèo thuyền uống rượu được chạm trổ kín trên các
kết cấu kiến trúc.
Nhưng đình thế kỷ XVI chỉ đếm đầu ngón tay. Đến thế kỷ XVII có thể
nói là thế kỷ của đình làng, làng nào cũng đều dựng đình. Tính đến năm 2007,
14 tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ có 856 đình làng được xếp hạng di tích lịch sử
cấp Nhà nước; trong số đó đình làng thế kỷ XVII chiếm khoảng 70%, nhiều
nhất được dựng vào năm Chính Hòa (1680-1705) thời Lê Hy Tông với một số
ví dụ sau đây:
1. Đình Yên Sở, xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội dựng năm Chính
Hòa thứ 2 (1681).
2. Đình Thắng, Hiệp Hòa, Bắc Giang dựng năm Chính Hòa thứ 5 (1684).
3. Đình Kiền Bái, Thủy Nguyên, Hải Phòng dựng năm Chính Hòa
thứ 8 (1687).
4. Đình Diềm hay gọi là Đình Viêm Xá ở làng Viêm Xá có tên nôm là
làng Diềm, xã Hòa Long, huyện Yên Phong, Bắc Ninh dựng năm Chính Hòa
12 (1691).
5. Đình Thổ Hà, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang dựng năm
Chính Hòa thứ 13 (1692).
18

6. Đình Phù Lão ở xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang
dựng năm Chính Hòa thứ 15 (1694).
7. Đình Hoàng Xá, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội dựng năm
Chính Hòa thứ 15 (1694).
8. Đình Xốm, Phong Châu, Phú Thọ dựng năm Chính Hòa thứ 19 (1698).

9. Đình Chu Quyến, xã Chu Minh, huyện Thường Tín, Hà Nội có niên
đại vào nửa cuối TK XVII

1.1.2. Chức năng của đình làng
Đình làng Việt Nam có ba chức năng chính:
* Đình làng là trung tâm văn hóa của làng xã; các lễ hội thường diễn ra
ở đình. Lễ có nhiều loại. Lễ có những loại định kỳ như lễ tất niên, đón giao
thừa vào ngày 30 và mùng 1. Lễ Đoan Ngọ ngày 5/5, lễ rằm tháng 7 xá tội
vong nhân Có lễ không định kỳ phụ thuộc thời tiết như lễ tịch điền, lễ cầu
mưa, lễ cúng cơm mới
Hội đình rất phong phú mang đặc trưng nghề nông trồng lúa nước như:
thi cày, thi cấy, thi thổi cơm. Trong hội có những yếu tố liên quan đến sông
nước như bơi thuyền, đi cà kheo, bắt chạch trong chum có yếu tố mang tinh
thần thượng võ như: đánh vật, kéo co có những hình thức múa hát theo sắc
thái địa phương như hát quan họ, ca trù, chèo, tuồng, hát ví, hát dặm
* Đình làng là trung tâm thờ Thành Hoàng, nó phản ánh tín ngưỡng của
người nông dân Việt Nam. Thành Hoàng được vua phong 3 bậc: Thượng
đẳng thần, Trung đẳng thần, Hạ đẳng thần. Có những Thành Hoàng không
được vua phong như thần gắp phân ở làng Đồng Kỵ. Làng phải làm tiểu sử
giả đề là thần Cường Đế có công dẹp giặc Xích Quỷ thời Hùng Vương.
Thành Hoàng ở đình làng Việt Nam có nhiều loại:
19

- Nhân thần: là người có thật trong lịch sử như: Đinh Tiên Hoàng, Ngô
Quyền, Trần Hưng Đạo hoặc những người có công lập làng. Người đến đầu
tiên gọi là “tiên hiền”, đến sau gọi là “hậu hiền”.
Thành Hoàng có nơi là một cụ đồ nho, một tổ sư nghề nghiệp hoặc một
dòng họ
- Thủy thần: Ở đồng bằng thường thờ Đông Hải Long Vương, Nam Hải
Long Vương, Sát Hải Long Vương. Ở vùng ven biển thường thờ cá voi gọi là

Đức Ông (Cá Ông) hoặc thờ Bạch Xà, Hoàng Xà
- Sơn thần: Thần Tản Viên được thờ nhiều nhất ở Bắc Bộ. Ở Nghệ Tĩnh
thờ Cao Sơn, Cao Các.
- Thiên nhiên thần: Việc thờ thần thiên nhiên mang yếu tố nguyên thủy,
khi con người bất lực trước hiện tượng sấm, sét, mây, mưa, thần cây, thần đá.
- Hậu thần: là những người khi sống có công với làng, khi chết dân làng
thờ gọi là “Bầu Hậu”. Thờ “Bầu Hậu” được phổ biến thời Lê Thánh Tông.
Nói chung, Thành Hoàng đình làng Việt Nam là một hệ thống đa
nguyên, pha trộn những yếu tố sơ khai đến việc thờ cúng tổ tiên, là một sức
mạnh cố kết tinh thần một cộng đồng làng xã.
* Chức năng hành chính; Đình làng là nơi quyết định mọi việc của
làng, xử kiện, phân bổ sưu thuế, bắt phu bắt lính
Có thể nói đình làng là nơi ngưng kết mọi giá trị văn hóa vật chất và
tinh thần của làng quê Việt Nam. Từ khi Đảng thành lập, Đình làng được làm
nơi họp hành bí mật của các chi bộ, Đảng bộ Cộng sản, “Mái đình Hồng Thái,
cây đa Tân Trào”.

1.1.3. Lịch sử nghiên cứu điêu khắc đình làng
Đình làng là một đề tài được nhiều người trong và ngoài nước nghiên
cứu. L. Bezacier nghiên cứu nghệ thuật Việt Nam nói chung “L’art
Vietnamien”. D. Dumoutier chuyên nghiên cứu các biểu tượng và các đồ thờ
20

cúng “Les symboles, les accessoires du culte Annamite”. L. Malleret tìm hiểu
về nghệ thuật điêu khắc Phật giáo và Bà la môn giáo ở Đông Dương.
Đại bộ phận các công trình của họ và kể cả P. Giran, P. Gouron, phần
nhiều đề cập đến kiến trúc, luật phong thủy, tục thờ Thần Hoàng, lễ hội ít đề
cập đến điêu khắc đình làng; họ cho rằng điêu khắc đình làng là các Fonklore
không có nhiều giá trị.
Trần Văn Cẩn và Nguyễn Đỗ Cung được coi là những người đầu tiên

phát hiện và tôn vinh điêu khắc kiến trúc đình làng.
Đáng chú ý hơn là công trình nghiên cứu của L. Bezacier về nghệ thuật
kiến trúc được xuất bản trong cuốn L’art Vietnamien có nhận xét: “Đình là
vết tích duy nhất của vốn cổ nghệ thuật bản địa, chỉ chịu ảnh hưởng nghệ
thuật Trung Quốc du nhập vào một cách hời hợt” “ngôi nhà này đồng thời
vừa là nơi tế tự, chỗ hội họp, lại vừa là nơi cỗ bàn chè chén. Với nhiều công
dụng khác nhau như vậy, nó là trung tâm sinh hoạt của làng xã - không có
hoặc rất ít làng không có đình, xung quanh đấy và chính ở đấy tập trung toàn
bộ sinh hoạt tôn giáo và xã hội của làng xã” [105, tr.74]. Trong nghiên cứu
của L. Bezacier cũng mới chỉ đi vào nghiên cứu một cách khái quát về nguồn
gốc, chức năng và nghệ thuật nói chung chứ chưa đi sâu phân tích cụ thể về
điêu khắc kiến trúc đình làng mà một phần lớn tinh thần của đình làng Việt
Nam lại tập trung ở những mảng chạm khắc trên các bộ phận điêu khắc kiến
trúc của ngôi đình.
Cho đến những năm 70-80 của TK XX, một thế hệ họa sĩ, nhà nghiên
cứu của Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã tiếp tục nghiên cứu đình làng
mà đứng đầu là họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, sau đó đến các họa sĩ, các nhà
nghiên cứu như Nguyễn Du Chi, Chu Quang Chứ, Thái Bá Vân, Nguyễn
Bích, Trần Lâm Biền Ngôi đình làng được nhấn mạnh, ca ngợi như một
điểm sáng của nghệ thuật dân gian Việt. Vào cuối thập niên 60, cố họa sĩ
21

Nguyễn Đỗ Cung - Nguyên Giám đốc Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đưa
ra khái niệm “điêu khắc đình làng” đã được ghi nhận và khẳng định giá trị
trong mỹ thuật Việt Nam. Sau một loạt các chuyến đi khảo sát, nghiên cứu tỉ
mỉ, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung cùng các cộng sự do ông đào tạo đã tập hợp được
một số lượng lớn tư liệu về nghệ thuật điêu khắc dân gian trong đó có điêu
khắc đình làng, từ đó họ đã nhận định được phong cách “nghệ thuật đình
làng” qua các thời đại.
Đánh dấu kết quả của đợt điền dã, nghiên cứu sưu tầm tư liệu về nghệ

thuật dân gian này là cuộc trưng bày các tác phẩm “Điêu khắc gỗ dân gian
Việt Nam” tại Hà Nội năm 1972 với sưu tập trưng bày 91 bản tuyển chọn từ
32 di tích trong đó có 12 ngôi đình. Tiếp sau đó, cuốn sách “Việt Nam điêu
khắc dân gian thế kỷ XVI, XVII, XVIII” xuất bản năm 1975 của Trần Văn Cẩn
- Nguyễn Đỗ Cung tuy chưa có nhiều phần phân tích về nghệ thuật điêu khắc
dân gian nhưng đã mở ra cho người xem cả một nền nghệ thuật điêu khắc
kiến trúc đình làng qua các bức ảnh được chụp từ những ngôi đình nổi tiếng
nhất còn tồn tại cho đến ngày nay.
Cuộc công bố kết quả nghiên cứu về điêu khắc đình làng và việc đưa ra
thuật ngữ về nghệ thuật điêu khắc đình làng đã đánh dấu một thời kỳ bàn luận
sôi nổi về loại hình kiến trúc truyền thống độc đáo này; một loạt các bài viết
đăng trên báo, tạp chí về những nghiên cứu và phát hiện mới liên quan đến
ngôi đình của các họa sĩ, nhà nghiên cứu như: Trần Văn Cẩn, Chu Quang Trứ,
Nguyễn Du Chi, Trần Lâm Biền, Nguyễn Bích
Tiếp sau đợt nghiên cứu của các họa sĩ, nhà nghiên cứu trong Viện Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam, hai tác giả Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng đã có
những nghiên cứu bước đầu về điêu khắc và trang trí đình làng trong cuốn
“Mỹ thuật ở làng” (1991); trong đó nghệ thuật trang trí kiến trúc, nghệ thuật
phù điêu và các kỹ thuật chạm khắc đã được đề cập đến, tuy nhiên trong
22

khoảng 8 trang giấy thì việc tìm hiểu về điêu khắc, trang trí đình làng cũng
như các kỹ thuật chạm mới chỉ là ở bước đầu, là sự gợi mở hướng nghiên cứu
cho các nhà nghiên cứu sau này.
Cuốn “Đình Việt Nam” (1998) của Hà Văn Tấn và Nguyễn Văn Kự đã
nghiên cứu và đưa ra một cái nhìn khái quát một số vấn đề xung quanh ngôi
đình ở Bắc Bộ Việt Nam như: nguồn gốc, kiến trúc, điêu khắc đình làng, thần
và tín ngưỡng ở đình và phần lễ hội, bên cạnh đó là một số lượng ảnh khá
phong phú. Tuy chỉ dành bốn trang viết về điêu khắc đình làng nhưng tác giả
đã đánh giá một cách tổng thể về điêu khắc đình làng từ thế kỷ XVI đến thế

kỷ XIX, trong đó đặc biệt nhấn mạnh thế kỷ XVII - là thế kỷ của đình. Tác giả
đã khái quát lên đặc trưng nghệ thuật của mỗi thời kỳ như: thế kỷ XVI điêu
khắc đình làng mang tính chất trang trí thì sang thế kỷ XVII lại chuyển sang
nghệ thuật phù điêu, đến thế kỷ XVIII tính phù điêu giảm dần mà tính trang
trí lại tăng lên cho đến thế kỷ XIX. Trong thế kỷ XVII, tác giả đã chỉ ra tính
chất vùng được thể hiện rõ rệt qua nghệ thuật phù điêu và ở mỗi đình lại có
một phong cách phù điêu khác nhau.
Cho đến nay đã có hơn bốn luận án Tiến sĩ cũng lấy đề tài đình làng
làm đối tượng nghiên cứu của mình (TS. Nguyễn Tuấn Anh, TS. Trịnh Cao
Tưởng, TS. Nguyễn Văn Cương, TS. Nguyễn Hồng Kiên) và một số luận
văn Thạc sĩ (Nguyễn Đức Hân, Tạ Quốc Khánh vv ) cùng nhiều khóa luận
tốt nghiệp nghiên cứu về từng di tích riêng lẻ hoặc một vài khía cạnh của
đình làng.
Trong luận án tiến sĩ của Trịnh Cao Tưởng, tác giả đã đi sâu nghiên
cứu về đình làng Phù Lão (Bắc Giang) một cách tổng thể từ không gian của di
tích (đất dựng đình, mặt bằng tổng thể kiến trúc) cho đến kiến trúc bên trong
(kết cấu bộ mái, bộ khung, điêu khắc trang trí, hình tượng, niên đại ) và đặt
trong bối cảnh đình làng nói chung ở đồng bằng Bắc Bộ.
23

Nói chung, các nghiên cứu trên phần lớn đã miêu tả một cách tỉ mỉ và
có những phân tích đánh giá về nghệ thuật điêu khắc trang trí kiến trúc, tuy
nhiên các công trình đều tập trung đi sâu vào từng di tích cụ thể hoặc cụm di
tích chứ chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về một khía cạnh của một giai
đoạn lịch sử, hoặc nếu có thì cũng chưa đi sâu vào các mảng đề tài trong điêu
khắc kiến trúc đình làng. Trong những năm gần đây mới có những chuyên đề
nghiên cứu về hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam.

1.2. Nghệ thuật điêu khắc đình làng
Đi đôi với việc phát triển đình làng, nghệ thuật điêu khắc cũng phát

triển đến đỉnh cao. Trước hết thế kỷ XVII do nhu cầu phát triển của xã hội,
đình làng được mở rộng không gian về kiến trúc. Thế kỷ XVI đình chỉ có 4
cột, nay thêm hàng cột hiên, kẻ hiên kèm theo ván dong trên đó cũng dài hơn,
rộng hơn, tạo chỗ cho các nghệ sĩ mở rộng không gian phù điêu.
Thế kỷ XVI đình chỉ có một tòa nhà hình chữ nhất, nay có thêm đại
đình phía trước, hậu cung phía sau tạo thành hình chữ đinh ( ). Điêu khắc
cũng được mở rộng không gian ở nhiều vị trí kiến trúc.
Việc xây dựng đình làng là do làng quyết định. Làng hợp đồng với thợ
chủ yếu là khoảng cách lòng nhà (từ cột cái này sang cột cái khác), chiều cao
từ giọt gianh đến mặt nền, số gian. Từ đó người thợ tính toán trên thước tầm
và xác định các số đo một ngôi đình. Làng không có hợp đồng về đề tài, hình
thức trang trí đối với thợ. Do đó, các nghệ sĩ được tự do xử lý đề tài trên
không gian kiến trúc. Chính sự không ràng buộc về nghệ thuật trong hợp đồng
trao việc nên các nghệ sĩ đã phát huy được cảm hứng và tài năng nghệ thuật.
Do vậy mà phong cách nghệ thuật có sự phân biệt nhau giữa các tốp thợ và
tính vùng. Tuy nhiên, các tốp thợ trước đây làm nông nghiệp là chính, đi làm
thợ mộc chỉ diễn ra những lúc nông nhàn. Nhưng đến thế kỷ XVII việc dựng
đình ở các làng trở nên rầm rộ. Những tốp thợ đã tách khỏi nghề nông chuyên
24

đi làm thợ mộc. Họ đi dựng đình ở nhiều làng, có đình làng thuê 2 tốp thợ tiến
hành song song. Trong hoàn cảnh đó, các nghệ sĩ hợp tác với nhau, học hỏi
nhau, cho nên khi nói đến phong cách nghệ thuật cũng chỉ là tương đối. Tuy
nhiên, việc học hỏi nhau cũng chỉ là tiểu dị, truyền thống về bản năng nghề
nghiệp của từng tốp thợ vẫn được thể hiện trên các đình làng.
Nghệ thuật điêu khắc đình làng ở đồng bằng Bắc bộ Việt Nam là sự xếp
đặt các phù điêu, đúng hơn là các dãy phù điêu gắn vào khung gỗ chịu lực
phía trên của đình. Phía trên các vì kèo và các xà ngang là nơi điêu khắc đình
làng ngự trị. Nó gắn với cấu kiện gỗ ngang, gỗ dọc và chéo theo mái. Mặt
khác nó lấp đầy các khoảng trống giữa các cấu kiện này. Đó là bức cốn, các

dải ván bưng, kẻ, bẩy vv
Dựa vào tư liệu hiện có, chúng tôi thấy đình làng đồng bằng Bắc bộ có
một số phong cách sau đây:

1. Phong cách Ngọc Canh. Đình Ngọc Canh ở làng Ngọc Canh, xã
Tam Canh, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Đình được xây dựng vào thế kỷ
XVII, đầu thế kỷ XVIII và đã được trùng tu nhiều lần. Các bức cốn (tức
khung tam giác giới hạn bởi xà nách, cột cái và các đường chéo của mái nhà
và của vì nóc) được chạm trổ trên một tấm ván nguyên. Các phù điêu kết
thành những chuỗi dài với các hoạt cảnh gồm 4 tầng: Tầng 1- Rồng, phượng,
tiên cưỡi phượng; tầng 2- Cảnh đoàn người đi săn trở về, hai người khiêng
một con vật bị trói bốn chân, có chó săn theo sau. Tầng 3- Cảnh người chạy đi
xem và tầng 4 là cảnh đấu vật. Hoặc ở một bức cốn khác được chạm 3 tầng:
tầng 1- là cảnh hội làng, tầng 2- là cảnh múa rồng; tầng 3- là cảnh táng mả
hàm rồng. Phong cách Ngọc Canh được thể hiện ở đình Ngọc Canh, Hương
Canh, Thổ Tang, Lâu Thượng (Ảnh 01).

×