ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHỔNG THỊ HUYỀN
NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
ĐƯỢC ĐẶT RA TRÊN BÁO GIÁO DỤC VÀ THỜI ĐẠI
TRONG MƯỜI NĂM GẦN ĐÂY
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
HÀ NỘI, 2009
3
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHỔNG THỊ HUYỀN
NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HỌC DÂN GIAN
ĐƯỢC ĐẶT RA TRÊN BÁO GIÁO DỤC VÀ THỜI ĐẠI
TRONG MƯỜI NĂM GẦN ĐÂY
Chuyên ngành : Văn học dân gian
Mã số : 60.22.36
LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC
Người hướng dẫn: GS.TS. Nguyễn Xuân Kính
HÀ NỘI, 2009
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 2
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử vấn đề 6
3. Phạm vi đối tượng nghiên cứu 7
4. Phương pháp nghiên cứu 8
5 Bố cục của luận văn: 8
Chương 1: Tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và thời đại
từ nhiều góc độ khác nhau 9
1.1 Giới thiệu Báo Giáo dục và thời đại 9
1.2 Tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và thời đại từ góc độ
thể loại 14
1.2.1. Những bài viết về ca dao dân ca 17
1.2.2. Những bài viết về tục ngữ 32
1.2.3 Bài viết về truyền thuyết 33
1.2.4. Bài viết về truyện cổ tích 33
1.2.5. Bài viết về truyện thơ 34
1.2.6. Nhận xét chung về phần văn học dân gian được đề cập trên Báo
Giáo dục và thời đại 36
1.3.Tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và thời đại từ góc độ liên
quan trực tiếp đến việc giảng dạy văn học dân gian ở trường phổ thông 36
Chương 2: So sánh phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và thời đại và
phần văn học dân gian trên Tạp chí Văn học và tuổi trẻ và Báo Văn nghệ 45
2.1. Phần văn học dân gian trên Tạp chí Văn học và tuổi trẻ 45
2.1.1 Giới thiệu tờ Tạp chí Văn học và tuổi trẻ 45
2.1.2. Tiếp cận phần văn học dân gian trên Tạp chí Văn học và tuổi trẻ từ
góc độ thể loại 46
2.2. Phần văn học dân gian trên Báo Văn nghệ 62
2.2.1. Giới thiệu tờ báo 62
2.2.2 Tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Văn nghệ từ góc độ khác
nhau 66
2.3.So sánh phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và thời đại và phần
văn học dân gian trên Báo Văn nghệ và Tạp chí Văn học và tuổi trẻ 69
Chương 3: Nhận xét, đánh giá và nêu kiến nghị đối với phần văn học dân
gian trên Báo Giáo dục và thời đại 72
3.1 Nhận xét 72
3.2. Đánh giá 73
3.2.1.Những đóng góp 73
3.2.2. Mặt hạn chế. 77
3.3.Kiến nghị 79
Kết luận 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ trước đến nay văn học dân gian có vị trí quan trọng trong sự hình
thành và phát triển nền văn học dân tộc. Nhà thơ Cù Huy Cận từng xem đây
là “văn nghệ gốc”, “văn nghệ mẹ”. Sáng tác dân gian là cơ sở nền tảng vững
chắc cho văn học thành văn, văn học viết. Văn học dân gian (VHDG) Việt
Nam có nội dung phong phú, phản ánh đời sống, thể hiện lý tưởng xã hội và
đạo đức của nhân dân lao động các dân tộc, được đánh giá như “sách giáo
khoa về đời sống”. Nó cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội góp
phần quan trọng vào sự hình thành nhân cách con người Việt Nam, bảo tồn và
phát huy truyền thống tốt đẹp như truyền thống yêu nước tinh thần hướng
thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương.
Những giá trị nhiều mặt trên đây khiến cho VHDG không những giàu
sức sống luôn tồn tại và phát triển song song với bộ phận văn học viết mà còn
có tác động mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển của văn học viết. Trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật hiện đại đậm đà bản
sắc dân tộc hiện nay, VHDG xứng đáng được coi như một nội lực đáng kể
cho sự sáng tạo nghệ thuật.
Cùng với văn học viết, VHDG được đưa vào chương trình giáo dục phổ
thông từ bậc tiểu học đến phổ thông trung học. Ở bậc tiểu học, học sinh được
làm quen với các tác phẩm văn học dân gian chủ yếu thông qua các phân
môn: Tập đọc, Chính tả, Làm văn… Lên đến bậc trung học cơ sở, trung học
phổ thông, các em được tiếp cận các tác phẩm tục ngữ, ca dao, thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn, sử thi…. một cách
trọn vẹn trong các giờ giảng văn thông qua tìm hiểu, phân tích, bình giá tác
phẩm. Một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của các thể loại văn học dân
gian cũng được đưa vào sách giáo khoa ngữ văn, giúp cho học sinh trung học
5
phổ thông bước đầu có những hiểu biết về các thể loại này. Như vậy VHDG
chiếm một vị trí nhất định trong chương trình giáo dục phổ thông.
Trong nhiều thập kỷ qua, việc nghiên cứu VHDG không ngừng được
tiến hành và phát triển. VHDG đã là đối tượng quan tâm của nhiều thế hệ
khoa học và những thành tựu đạt được về lĩnh vực nghiên cứu này rất đáng
ghi nhận. Nghiên cứu, bình luận, phân tích, VHDG có nhiều cuốn sách, các tờ
tạp chí, tuần báo, nhật báo. Người đọc tìm thấy những bài viết về VHDG trên
Tạp chí Văn hoá dân gian, Tạp chí Văn học, Tạp chí Ngôn ngữ, Tap chí Văn
hoá nghệ thuật, Tạp chí Kiến thức ngày nay, Báo Văn nghệ, Báo Người Hà
Nội …. Trong ngành giáo dục, trên tờ Giáo dục và thời đại cũng có những bài
viết về folklore ngôn từ.
Là một giáo viên giảng dạy tại một trường trung học phổ thông, chúng
tôi muốn tìm hiểu phần VHDG được giới thiệu, bàn luận trên Báo Giáo dục
và thời đại. Thực hiện công việc này chúng tôi hướng đến hai mục đích :
1/ Ghi nhận những đóng góp, và thử nêu lên một số hạn chế trong việc
giới thiệu phần VHDG trên một tờ báo ngành
2/ Đồng thời chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói, dù nhỏ bé nhưng
là tiếng nói của người trực tiếp giảng dạy văn học dân gian cho các em học
sinh phổ thông.
Để có cái nhìn toàn diện, sau khi mô tả phần VHDG trên Báo Giáo dục
và thời đại, chúng tôi phân tích mảng văn học này trên Tạp chí Văn học và
tuổi trẻ và trên Báo Văn nghệ. Chúng tôi nghĩ rằng qua việc thống kê phân
loại các bài viết về các thể loại văn học dân gian, đối chiếu so sánh phần văn
học dân gian trên Báo Giáo dục và thời đại với Tạp chí Văn học và tuổi trẻ và
Báo Văn nghệ từ nhiều góc độ khác nhau, sẽ giúp chúng tôi có một cách nhìn
vừa cụ thể vừa toàn diện, đồng thời giúp ích cho chúng tôi giảng dạy mảng
văn học dân gian trong nhà trường được tốt hơn.
6
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi xác định đề tài là “Những vấn
đề văn học dân gian được đặt ra trên Báo Giáo dục và thời đại trong thời gian
mười năm gần đây”
Mặc dù sự hiểu biết về phần VHDG của chúng tôi có thể còn có hạn
chế thiếu sót do những nguyên nhân khác nhau nhưng thực hiện đề tài này là
một dịp chúng tôi thể hiện sự quan tâm đối với vấn đề mà mình yêu thích,
đồng thời góp phần thiết thực cho việc nghiên cứu VHDG nói riêng và việc
giảng dạy VHDG trong nhà trường nói chung
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu VHDG ở nước ta từ trước tới nay có rất nhiều bài viết,
nhiều cuốn sách. Có thể nêu lên những cuốn sách tiêu biểu sau với tư cách là
những giáo trình đại học:
- Lịch sử văn học Việt Nam, tập 1, Văn học dân gian, Giáo trình
Đại học sư phạm, xuất bản lần đầu 1961( Bùi Văn Nguyên và nhiều tác
giả biên soạn).
- Văn học dân gian Việt Nam, 1962, Giáo trình Đại học Tổng hợp
(Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên biên soạn).
- Văn học dân gian Việt Nam, 1990, Giáo trình Đại học Tổng hợp (Lê
Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ biên soạn).
- Văn học dân gian Việt Nam, 2 tập, 1990 – 1991 (Tập 1: Đỗ Bình Trị
biên soạn, Tập 2: Hoàng Tiến tựu biên soạn).
- Văn học dân gian Việt Nam, in lần đầu 1997 (Đinh Gia Khánh – Chu
Xuân Diên – Võ Quang Nhơn biên soạn). Tái bản lần thứ sáu, 2002.
Ngoài ra còn có các chuyên luận của các nhà nghiên cứu như: Tìm hiểu
tiến trình văn học dân gian Việt Nam, 1974 (Cao Huy Đỉnh); Sơ bộ tìm hiểu
những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám (1968) của Đinh Gia
Khánh; Truyện cổ tích dưới con mắt các nhà khoa học (1987) của Chu Xuân
Diên; Thi pháp ca dao (1993, tái bản 2007) của Nguyễn Xuân Kính; Truyện
7
Nôm, bản chất và thể loại (1993) của Kiều thu Hoạch; Cổ tích thần kỳ người
Việt - đặc điểm cấu tạo cốt truyện (1994) của Tăng Kim Ngân; truyện ngụ
ngôn Việt Nam và thế giới thể loại và triển vọng, (1993) của Phạm Minh
Hạnh; Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian Việt
Nam (1999) của Đỗ Bình trị, v.v….
Việc nghiên cứu VHDG các dân tộc thiểu số Việt Nam cũng đã được
tiến hành với những thành tựu rất đáng trân trọng: Văn học các dân tộc thiểu
số Việt Nam ( trước cách mạng tháng tám 1945) của Phan Đăng Nhật
(1981); Văn học dân gian các dân tộc ít người Việt Nam của Võ Quang
Nhơn (1983) v.v…
Riêng về việc bàn đến VHDG được giới thiệu trên các báo, tạp chí thì
đến nay mới có một bài tạp chí duy nhất. Đó là bài “174 số Tạp chí Văn
học và vấn đề văn học dân gian” đăng trên Tạp chí Văn học số 1 năm 1979
của tác giả Đinh Gia Khánh. Cho đến nay chưa có ai bàn đến phần VHDG
trên Báo Giáo dục và thời đại.
3. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là những bài báo viết về VHDG
trên Báo Giáo dục và thời đại từ năm 2000 đến nay. Việc chọn thời gian 10
năm này là sự lựa chọn có lý do. Chúng tôi nghĩ những bài báo viết về VHDG
được đăng tải trong khoảng thời gian mười năm có thể là những tư liệu đủ để
phân tích cho một đề tài luận văn thạc sĩ. Chúng tôi không chọn thời gian sớm
hơn chẳng hạn từ năm 1989 – 1999 mà chọn mười năm gần đây để luận văn
của chúng tôi có thêm được tính cập nhật góp thêm tiếng nói vào những vấn
đề đang đặt ra.
Ngoài ra trong quá trình lập luận để có thêm tư liệu so sánh chúng tôi
cũng phân tích một số bài viết về VHDG trên một số tờ tạp chí và tờ báo khác
như Tạp chí Văn học và tuổi trẻ, Báo Văn nghệ.
8
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp chính sau:
4.1 Phương pháp mô tả
4.2 Phương pháp thống kê
4.3 Phương pháp so sánh
5 Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương :
Chương 1: Tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và thời đại
từ nhiều góc độ thể loại
Chương 2: So sánh giữa phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và
thời đại và phần văn học dân gian trên Báo Văn nghệ và Tạp chí Văn học và
tuổi trẻ
Chương 3: Nhận xét, đánh giá và nêu kiến nghị với phần văn học dân
gian trên Báo Giáo dục và thời đại
9
Chương 1
Tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục
và thời đại từ nhiều góc độ khác nhau
1.1 Giới thiệu Báo Giáo dục và thời đại
Cuối tháng 12 năm 2009 tới, Báo Giáo dục và thời đại sẽ long trọng kỷ
niệm 50 năm ngày thành lập báo (1959 – 2009). Có thể nói đây là một sự kiện
có ý nghĩa to lớn đối với cơ quan báo nói riêng và toàn ngành giáo dục Việt
Nam nói chung. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và
Đào tạo) và các thế hệ Tổng biên tập, tờ báo này– cơ quan ngôn luận chính
thống của Bộ Giáo dục và Đào tạo, diễn đàn của xã hội vì sự nghiệp giáo dục
đã ngày càng vươn lên xứng đáng với niềm tin yêu của các thầy giáo cô giáo,
các bậc cha mẹ, các em học sinh và bạn đọc đông đảo cả nước.
Vào năm 1953, tại chiến khu Việt Bắc đã mở ra một bước ngoặt lịch sử
báo chí của ngành báo chí Vịêt Nam. Đó là sự ra đời của tờ tạp chí Giáo dục
nhân dân (cơ quan Bộ Giáo dục). Tờ tạp chí đã trở thành nguồn thông tin quý
báu cho các nhà giáo cũng như sự nghiệp giáo dục của cả nước. Nó còn là nơi
để bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng giáo viên, kể cả những nghiệp vụ
chung nhất.
Sau một thời gian hoạt động, đến năm 1954 sau chiến thắng Điện Biên
Phủ tờ Tạp chí Giáo dục nhân dân từ chiến khu Việt Bắc chuyển về Hà Nội
tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình.
Trong những năm kế tiếp (1955- 1959), hoàn cảnh lịch sử có nhiều
biến động. Hai miền Nam Bắc với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau không
ngừng phấn đấu đạt được mục đích. Lúc này vấn đề tuyên truyền, giáo dục
lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, lòng tự hào dân tộc trong toàn dân rất cần
10
được đề cao và thường xuyên hơn để góp phần vào công cuộc chung của đất
nước.
Theo tác giả NguyễnVăn Bình trong cuốn “Hành trình bốn mươi năm
hình thành và phát triển của Báo Giáo dục và thời đại” : “Yêu cầu đặt ra
ngày càng cao, song chỉ với tờ tạp chí Giáo dục nhân dân (Xuất bản thưa kỳ)
thì việc tuyên truyền, giáo dục sẽ bị nhiều hạn chế. Chính vì thế việc xuất bản
một tờ báo thay cho tờ Tạp chí Giáo dục nhân dân là điều dễ hiểu” . [5, tr.10-
11]. Vì vậy sau khi kết thúc năm học 1558 – 1559, chính phủ cho ra đời tờ
Báo Người giáo viên nhân dân thay thế cho Tạp chí Giáo dục nhân dân. Đây
cũng là tờ báo ngành đầu tiên được ra đời sớm nhất sau khi hoà bình lập lại,
góp phần vào sự phát triển của báo chí cũng như tạo nên bộ mặt sôi động cho
làng báo chí Việt Nam.
Suốt một thời gian dài, với sự khẩn trương, lòng hăng say nhiệt huyết
của lực lượng cán bộ làm báo, cuối cùng thì mọi thủ tục cũng đã hoàn thành,
nội dung và hình thức của tờ báo cũng đã được phê duyệt. Và ngày 5/12/1959,
tờ báo Người giáo viên nhân dân đã ra mắt bạn đọc số báo đầu tiên. Tiến trình
phát triển của Báo Giáo dục và thời đại được kể từ ngày (5/12/1959) cho đến
nay (2009) là cả một chặng đường dài, đáng nhớ. Mỗi chặng đường đi qua
đều lưu lại những giá trị, những thành công cũng như những kinh nghiệm
chưa thành công của báo. Nhìn chung 50 năm qua là 50 năm tờ báo phát triển
liên tục, nhất quán về nội dung cho dù tên gọi của báo qua nhiều lần thay đổi:
từ Người giáo viên nhân dân (1959 – 1985) đến tờ Giáo viên nhân dân
(7/1985 đến tháng 3/1991) và chính thức mang tên Báo Giáo dục và thời đại
(4/1991 đến nay). Bên cạnh việc thường xuyên đổi mới hình thức cho phù
hợp với thời cuộc, nhu cầu và thị hiếu bạn đọc, báo cũng không ngừng tăng
trang, tăng kỳ để nâng cao hơn nữa về chất lượng . Sự nỗ lực phấn đấu ấy
cuối cùng đã đạt được những thành quả đáng mừng. Báo đã có thêm các phụ
san như : Thế giới mới (là tờ phụ san tri thức tổng hợp ban đầu của Báo Giáo
11
dục và thời đại ra đời từ năm 1989, từ chỗ 1 tháng 1 kỳ tăng dần lên một
tháng 2 kỳ, 3 kỳ rồi định hình thành tạp chí hàng tuần, đến tháng 7/1994 thì
được tách ra thành một tạp chí độc lập); Tài hoa trẻ, Giáo dục và thời đại chủ
nhật. Số kỳ xuất bản báo cũng tăng dần lên theo thời gian. Đây là một cố gắng
vượt bậc của báo. Bởi trong thời kỳ chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân của Mỹ, vào giai đoạn ác liệt, đất nước thiếu giấy nghiêm trọng,
tất cả các báo đều phải giảm số lượng in ấn. Báo Người giáo viên nhân dân
chọn biện pháp rút số lượng in mỗi kỳ mà vẫn ra báo hàng tuần đều đặn. Sự
ổn định và phát triển liên tục của tờ báo là cơ sở bền vừng cho báo thực hiện
có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và xã hội của mình.
Tiến trình phát triển của Báo Giáo dục và thời đại trong suốt 50 năm
qua gắn liền với hai đặc điểm nổi bật( tương ứng với hai giai đoạn cụ thể ).
Đó là phong trào thi đua Hai tốt, Giáo dục Bổ túc văn hoá (giai đoạn 1959 –
1985) và thời kỳ đổi mới báo (giai đoạn 1986 – nay).
Giai đoạn từ 1959 – 1985 là thời kỳ đầu của Báo Người giáo viên nhân
dân và cũng là quá trình định hướng, tìm đường của báo để từng bước trưởng
thành phát triển. Giai đoạn này kéo dài hơn 25 năm và vẫn gắn liền với tên
Báo Người giáo viên nhân dân (chứ chưa đổi thành tên Báo Giáo dục và thời
đại). Về tình hình đất nước năm 1959, miền Bắc dần dần đi vào ổn định. Toàn
dân quyết tâm hàn gắn vết thương chiến tranh thời chống Pháp, ra sức xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Còn đồng bào miền Nam đang trong cảnh dầu sôi lửa
bỏng quyết liệt chống “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ( 1961 – 1965).
Nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn này của Báo Giáo dục và thời đại hết sức
nặng nề. Một mặt báo phải là người bạn đường tin cậy của giáo viên nói riêng
và bạn đọc cả nước nói chung. Mặt khác, do thời kỳ này gắn liền với phong
trào thi đua Hai tốt (dạy tốt học tốt) do Đảng và Bác Hồ đề ra nên báo tích
cực phản ánh từng bước những thành quả đạt được của phong trào này. Bên
cạnh đó báo cũng không ngừng phản ánh trung thành cuộc đấu tranh của
12
chúng ta (với bao nhiêu công sức, với những vấp váp, sai lầm, những thành
tích và kinh nghiệm) góp phần vào xây dựng hình ảnh người thầy giáo cách
mạng Việt Nam, người chiến sỹ dùng vũ khí văn hoá để chống mọi kẻ thù của
nhân dân, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc.
Bên cạnh mảng nội dung lớn là phong trào thi đua Hai tốt, còn một nội
dung không kém phần quan trọng trong thời kỳ này được Báo Người Giáo
viên nhân dân đặc biệt chú trọng đó là Bổ túc văn hoá cho nhân dân miền Bắc
nói riêng và đồng bào cả nước nói chung. Đặc biệt số nào báo cũng dành
trang để phản ánh cuộc đấu tranh chống Mỹ của đồng bào miền Nam và giáo
dục lòng yêu nước toàn dân. Suốt chặng đường 25 năm báo luôn phản ánh
những tấm gương tiên tiến điển hình với những thành tích nổi bật (chị Hà Thị
Luân, Lương Thịnh, cô giáo Tày Tô Thị Rỉnh…) đó là những thầy giáo cô
giáo hết lòng vì học sinh vì sự nghiệp giáo dục của nước nhà… Cùng với nội
dung phản ánh, hình thức thể hiện và việc tổ chức quản lý cũng là yếu tố tạo
nên diện mạo của tờ báo ngành. Hình thức bao gồm các thể loại tác phẩm
chuyển tải nội dung, ngôn ngữ được sử dụng và cách trình bầy một tờ báo. Sự
phong phú về thể loại đã tạo ra sự phong phú đa dạng về cách thức sử dụng
ngôn ngữ. Ngôn ngữ của Báo Giáo dục và thời đại biến đổi linh hoạt, phù hợp
với từng thể loại: tin tức, bài báo, tường thuật….ngôn ngữ trên báo là sự giao
thoa của ba phong cách khác nhau (phong cách chính luận, phong cách hành
chính và phong cách nghệ thuật). Đó là thứ ngôn ngữ rất dễ hiểu, ngắn gọn,
không bóng bẩy, không đa chiều khó hiểu.
Báo Giáo viên nhân dân 1959 – 1985 được in bằng khổ A2. Thông
thường có 12 trang với các chương mục: Tình hình kinh nghiệm, trao đổi ý
kiến, chuyện nhà giáo, tìm hiểu giáo dục, trả lời bạn đọc, dọn trường dọn lớp,
nhân dân anh hùng - thầy giáo anh hùng… Các chuyên mục này được trình
bầy cân đối, đều đặn trên từng số báo và góp phần làm nên nội dung cơ bản
của tờ báo. Suốt chặng đường 25 năm, tờ báo không ngừng hoàn thiện dần
13
hình thức thể hiện cũng như phát huy hơn nữa phần nội dung, đáp ứng nhu
cầu thị hiếu của bạn đọc.
Giai đoạn từ 1986 – nay (2009) là thời kỳ khởi sắc và đổi mới của tờ
báo. Hoàn cảnh lịch sử giai đoạn này gắn với sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12- 1986) của Đảng Cộng sản Việt
Nam là mốc đánh quan trọng đánh dấu bước chuyển đất nước sang thời kỳ đổi
mới. Báo Giáo viên nhân dân có thể tự hào vì đã đứng vào hàng ngũ những tờ
báo có nhiệm vụ đổi mới và góp một tiếng nói chung trong quá trình đổi mới
này. Báo Giáo viên nhân dân mang một tên mới: Giáo dục và thời đại (1991)
để phấn đấu tự hoàn thiện mình về mọi mặt.
Giai đoạn này Báo Giáo dục và thời đại có nhiều đổi mới cả về hình
thức lẫn nội dung. Lúc này bên cạnh việc tuyên truyền về giáo dục như tên
chính của báo phần còn lại của báo nghiêng về “thời đại”. Nội dung ít nhìều
được “xã hội hoá” hơn so với thời kỳ trước, những tiến triển này được thể
hiện qua ba nội dung chính đó là : Mở rộng nội dung tờ báo, đẩy mạnh hiệu
quả giáo dục và nâng cao tính chiến đấu.
Thời kỳ này báo có dung lượng 12 trang với các chuyên mục (gần như
cố định) gắn với từng trang báo.
Mở rộng và đổi mới nội dung tờ báo là yếu tố làm nên sức sống mới
của tờ báo giáo dục. Nhằm nâng cao chất lượng bài vở phát triển những cây
bút có năng lực tạo sự gần gũi giữa báo với bạn đọc cả nước, báo thường
xuyên phát động cuộc thi thơ và truyện ngắn. Có thể khẳng định rằng trong
thời kỳ này hoạt động in ấn phát hành có nhiều thuận lợi và đổi mới thấy rõ.
Nâng cao hiệu quả phát hành đã đem lại cho trang Báo Giáo dục và thời đại
những thành công nhất định, xứng đáng được tặng tấm huân chương Độc lập
hạng ba (1999) và được tặng bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo .
Năm mươi năm qua bằng những đóng góp lớn lao trong việc tuyên
truyền, cổ động và giáo dục, Báo Giáo dục và thời đại đã trở thành một công
14
cụ tư tưởng sắc bén của Đảng và nhà nước. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào
(chiến tranh tàn khốc hay hoà bình lập lại) thì báo vẫn kiên trì với đường lối
chủ trương quan điểm giáo dục, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Chính vì lẽ đó báo đã phản ánh được ý nguyện của nhân dân
với tinh thần công khai dân chủ, xứng đáng là người bạn đường tin cậy của
thế hệ giáo viên và học sinh trong cả nước. Trong công cuộc xây dựng đất
nước hiện nay Báo Giáo dục và thời đại thực sự là một ấn phẩm bổ ích, là cơ
quan ngôn luận của Bộ Giáo dục và Đào tạo, là diễn đàn của toàn xã hội vì sự
nghiệp giáo dục chung.
1.2 Tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Giáo dục và
thời đại từ góc độ thể loại
Khái niệm VHDG được dùng chính thức vào những năm 50 của thế kỷ
XX và hiện nay được dùng một cách rộng rãi trong giới nghiên cứu văn học,
song song với các khái niệm “văn nghệ dân gian”, “văn hoá dân gian”.
VHDG là những sáng tác tập thể, truyền miệng của dân chúng, trong
đó nhân dân lao động chiếm đa số. VHDG mang một số đặc trưng cơ bản,
phân biệt với văn học thành văn. Việc nắm vững đặc trưng này sẽ là cơ sở
vững chắc để ta đánh giá tác phẩm VHDG.
Tính nguyên hợp đa chức năng nó thể hiện ở sự chưa tách rời giữa hoạt
động đời sống và hoạt động văn hoá dân gian. Tác phẩm VHDG được gắn bó
chặt chẽ với đời sống thực tiễn. Chính vì thế mà phát sinh khái niệm diễn
xướng dân gian. Bên cạnh việc gắn bó chặt chẽ với hoạt động thực tiễn, nó
còn thể hiện việc chưa tách rời các loại hình nghệ thuật trong tổng thể
Folklore. Điều này có nghĩa là nghệ thuật ngôn từ gắn bó chặt chẽ với các loại
hình nghệ thuật khác.VHDG vừa không phải là nghệ thuật vừa là nghệ thuật.
Bên cạnh đặc trưng về tính nguyên hợp đa chức năng, VHDG được
biểu hiện rõ nhất ở đặc trưng tập thể và truyền miệng. VHDG là kết quả của
15
một quá trình sáng tác tập thể, có thể của một vùng hoặc của một nhóm cư
dân, hoặc của một dân tộc nào đó. Nhưng điều cơ bản là nó hợp với tâm lý tập
thể. Chính tính tập thể là đặc trưng phân biệt giữa văn học dân gian và văn
học thành văn. Điều này có nghĩa là tác phẩm văn học dân gian được lưu giữ
bằng cách truyền từ người này qua người khác, nơi này sang nơi khác. Hoạt
động diễn xướng VHDG là hoạt động lưu truyền, nuôi dưỡng VHDG một
cách hiệu quả nhất . Song cũng do đặc trưng này mà phát sinh những biến thể
hay dị bản khác nhau. Cùng một tác phẩm nhưng ở những vùng khác nhau lại
có những bản ghi chép khác nhau Đôi khi ta lúng túng không bết nên theo
lối nào.Theo thiển ý của chúng tôi, cho dù trước một văn bản nào thì cái cơ
bản nhất là phải bám chắc vào ngôn từ đã sử dụng sau đó sẽ có so sánh đối
chiếu với các văn bản khác.Ta không nên kết luận vội vàng rằng văn bản này
đúng văn bản kia sai, mà chỉ có hay chưa mà thôi.
Trên đây là một số đặc trưng loại biệt của văn học dân gian. Tìm hiểu
sâu những đặc trưng đó sẽ giúp ta phát hiện ra quy luật vận động của văn học
dân gian và xác định được hệ thống thể loại của văn học dân gian.
Văn học dân gian có các thể loại chủ yếu như thần thoại, sử thi, truyền
thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười, truyện thơ, tục ngữ, ca
dao, câu đố , vè….Trong đó có những thể loại ra đời sớm và đã một đi không
trở lại (thần thoại, sử thi,…), có thể loại ra đời muộn hơn và tiếp tục tồn tại,
sinh thành, phát triển ( truyện cười, ngụ ngôn, câu đố).
Năm 1974 trong cuốn sách Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt
Nam, Cao Huy Đỉnh “cố gắng theo hướng lịch sử” mà tìm hiểu “một số vấn
đề về sự phát triển của văn học dân gian cổ truyền”. Tác giả chú trọng đến
những tác phẩm tiêu biểu cho sự tồn tại của mỗi thể loại ấy và là những cái
mốc lịch sử văn học dân gian Việt Nam. Cao Huy Đỉnh viết:
“Thần thoại Việt đã tiến từ suy nguyên và sùng bái các lực lượng thiên
nhiên đến liên minh bộ tộc Văn Lang hình thành vững chắc. Truyện cổ tích
16
thần kỳ ra đời gắn với xung đột tư hữu trong gia đình cổ lúc chế độ phụ quyền
và hôn nhân lứa đôi ra đời, truyền thuyết lịch sử và sử ca là một cách ghi nhớ
những vị anh hùng dân tộc qua nhiều thế hệ. Nó phát sinh trong điều kiện
nhân dân chưa sử dụng được lịch sử thành văn .Ngụ ngôn, truyện cười và ca
vè hài hước châm biếm phồn thịnh lúc chế độ phong kiến trở nên xấu xa, lố
bịch. Quần chúng nhân dân nổi dây cầm vũ khí đánh quan lại và triều đình
thì sử ca anh hùng nông dân xuất hiện. Nên kịch bản chèo tương đối ổn định
khi có truyện thơ nôm bình dân. Dân ca nhiều loại đã ra đời từ thời cổ, nhưng
người lao động, người phụ nữ càng bị áp bức bóc lột tàn nhẫn thì ca dao trữ
tình càng nảy nở sinh sôi và lan truyền rộng rãi. Vè phải cấp thiết làm nhiệm
vụ cổ động chiến đấu và phổ biến thời sự khi người dân đã bắt đầu có ý thức
mạnh mẽ về nhiệm vụ lịch sử của mình trước thảm hoạ mất nước. Tục ngữ đời
đời nảy sinh ra trên tiếng nói hàng ngày của nhân dân và từ thế kỷ XV đã ùa
vào văn học thành văn lúc tri thức thực tiễn của người lao động chiếm lĩnh tư
duy của các tầng lớp xã hội khác,…v.v.” [14 tr.14]
Như vậy lịch sử phát triển của các thể loại luôn theo sát bước đi của
lịch sử dân tộc, đáp ứng yêu cầu về chính trị xã hội văn hoá - thẩm mỹ của
nhân dân trong từng thời kỳ.
Có nhiều cách phân loại VHDG ,đây là cách phân loại theo sách Ngữ
Văn 10, Những vấn đề thể loại và lịch sử .Tác giả Nguyễn Hữu Sơn trong
bài “Tổng quan văn học” cho rằng “Có thể chia văn học dân gian theo ba loại
hình, kiểu loại sáng tác cơ bản: Văn xuôi tự sự bao gồm: thần thoại (Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh; Thánh Gióng,…) truyền thuyết (Truyện An Dương Vương và
Mỵ Châu Trọng Thuỷ,…), cổ tích (Thạch Sanh, Tấm Cám,…), sử thi (Đăm
Săn, Đẻ đất đẻ nước,…) thường sử dụng yếu tố kỳ ảo, phép tưởng tượng nhân
hoá vũ trụ (coi thế giới tự nhiên, vũ trụ, cũng hoạt động, suy nghĩ như con
người) và vũ trụ hoá con người (coi con người cũng có tầm vóc, sức mạnh
như thế giới tự nhiên, vũ trụ), sau này có thêm truyện ngụ ngôn, truyện
17
cười,…Thơ ca dân gian có ca dao, dân ca, hò vè, truyện thơ,… Sân khấu dân
gian có các hình thức ca kịch như trò diễn, chèo, tuồng,…”. [ 6 tr.6].
Trên cơ sở tìm hiểu khái quát về những đặc trưng và các thể loại của
VHDG, chúng ta sẽ có cơ sở để tiếp cận phần văn học dân gian trên Báo Giáo
dục và thời đại.Trên Báo Giáo dục và thời đại trong mười năm gần đây đã
đăng một dung lượng đáng kể bài viết về VHDG như ca dao, truyền thuyết,
truyện cổ tích, truyện thơ, tục ngữ……Các thể loại khá phong phú da dạng.
Mỗi thể loại có rất nhiều bài viết với những góc độ tiếp cận khác nhau.
Trong tiểu mục này, chúng tôi phân tích những thể loại được đề cập
1.2.1. Những bài viết về ca dao dân ca
1.2.1.1. Giới thuyết về ca dao
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ ca dao. Song hiện nay
các nhà nghiên cứu đều đưa ra quan niệm về ca dao dân ca như sau: Dân ca
bao gồm phần lời (câu hoặc bài), phần nhạc điệu (giọng hoặc làn điệu),
phương thức diễn xướng và cả môi trường khung cảnh ca hát. Khi nói đến ca
dao là chỉ nói đến lời ca (tức là đã tước bỏ tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi)
của bài hát dân gian.
Trong cuốn Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian
Đỗ Bình Trị cho rằng : thật ra, ca dao và dân ca có cùng một nghĩa – đó là
những câu hát bài hát dân gian. Chúng là những thuật ngữ hoàn toàn tương
đương. Ca dao hiểu theo nghĩa rộng là một khái niệm bao hàm ba yếu tố gắn
bó chặt chẽ với nhau: Lối hát (tức là hình thức sinh hoạt ca hát hay hay
phương thức diễn xướng): có hát trong lễ hội và hát trong ngày thường, có
hát trơn và hát kèm theo khí nhạc, kèm theo múa, kèm theo trò chơi, có
hát cuộc (hát lề lối) và hát vặt. Điệu hát tức làn điệu của những câu hát: bao
gồm cả một hệ thống phong phú từ những làn điệu mộc mạc như hát nói, kể
đến những điệu hát đã đạt đến trình độ cao kết tinh cao đã thành giai điệu như
lý, hò, hát…Lời hát (tức lời ca đã tước bỏ những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng
18
đưa hơi)….Lời của ca dao chính là thơ, là thứ thơ đích thực, cùng với các thể
loại khác như vè, truyện thơ dân gian nó được xếp vào nền thơ ca dân tộc với
cái tên chung là thơ ca dân gian.
Ca dao là tấm gương phản chiếu tâm hồn của nhân dân, của dân tộc. Ca
dao là những câu hát dân gian ra đời chủ yếu trên những hoạt động lao động
sản xuất tập thể, những sinh hoạt của con người mang đậm dấu ấn trong ca
dao, thể hiện qua các chủ đề, đề tài khác nhau . Đề tài trong ca dao cũng khá
phong phú nên nội dung phản ánh cũng khá đa dạng gồm: ca dao lao động, ca
dao ru con, ca dao tình yêu đôi lứa, ca dao tình nghĩa…
Toàn bộ những điều giới thuyết trên là phần tri thức nền cho việc
tiếp cận ca dao mà chúng tôi sẽ trình bày ở dưới đây. Khảo sát phần VHDG
trên Báo Giáo dục thời đại trong mười năm gần đây có 31 bài viết về ca dao
như sau:
Nguyễn Nguyên Tản, “Cảm nhận từ câu ca dao”, 15/5/1998, số 39, tr.6.
Nguyễn Văn Chầm “Một câu ca dao không dễ hiểu” 8/1/2000, số 4, tr.7
Minh Anh, “Dị bản của một bài ca dao”, 9/3/2000, số 30, tr.6.
Nguyễn Minh Khôi, “Đọc lại một bài ca dao”, 6/4/2000, số 42, tr.7
Trần Xuân Toàn, “Về một câu ca dao có liên quan đến phong trào Tây
Sơn”, 13/4/2000, số 45, tr.6
Trịnh Xuân Quảng, “Để hiểu một câu ca dao”, 11/5/2000, số 57, tr.7.
Nguyễn Tý, “Trả lại sự trong sáng cho một bài ca dao”, 21/2/2000, tr.6
Minh Anh “Một bài toán ca dao”, 6/6/2000, số 68, tr.7.
Nguyễn Thị Lan, “Băn khoăn về một đề thi”, 15/3/2001, số 32, tr.7
Đỗ Thị Thanh Thuỷ “Góp thêm tiếng nói về một bài ca dao” 27/3/2001,
số 37, tr.7
Nguyễn Xuân Sanh, “Cò Quăm trong ca dao là cò gì?”, 22/5/2003, số 8.
Nguyễn Xuân Sanh, “Thực tế ở Việt Nam có cò Quăm”, ngày
19/6/2003, tr.9
19
Thanh Ứng, “Chỉ nên có một cách hiểu”, 29/4/2004, số 52, tr.9
Hồ Quý Nghĩa, “Về hai cách hiểu trong bốn câu ca dao”, 6/5/2004, số
55, trang 9.
Nguyễn Đức Ngọc, “Về cách hiểu bốn câu ca dao”, 6/4/2004, số 55
Phạm Hoài Kế, “Tâm lý vợ chồng qua một câu ca dao cổ”, 11/1/2005, số 5,
Tạ Duy Anh, “Một truyện ngắn trữ tình hiện đại trong bài dân ca cổ”,
11/1/2005, số 5, tr.9
Phạm Quang Ái, “Bàn thêm về cách cắt nghĩa một bài ca dao”,
24/2/2005, số 24, tr.8.
Hoàng Công Trường, “Lời ước hay sự than thân”, 12/4/2005, số 44, tr.9
Nguyệt Cầm, “Cảm nhận qua một bài ca dao: Nếu biết “cho”sẽ là được
“nhận”, 10/05/2005, số 56, tr.8
Hồng Long, “Nỗi nhớ mẹ day dứt trong một câu ca dao”, 11/06/2005,
số 70, tr.8
Nguyễn Ngự Bình, “Số 9 có ý nghĩa như thế nào?”, 28/6/2005, số 77
trang 8
Vũ Hồng Thuỷ “Bắc cầu bằng ngọn mồng tơi”, 14/7/2005, số 84
Phạm Mạc Vĩnh Thiên, “Đôi điều mạo muội về ca dao”, 15/01/2006, số
3, tr36.
Lê Lanh, “Tình con trong một câu ca dao”, 10/1/2006, số 4
Lê Đình Mai, “Có cách hiểu khác về bài ca dao ấy”, 24/10/2006, số
127, tr.9
Trương Khắc Ái, “Nên hiểu bài ca dao theo hướng mở”, 7/12/2006,
số 146.
Lê Đình Mai, “Cách hiểu khác về một bài ca dao”, 02/01/2007, số 1, tr.8.
Nguyễn Văn Tú, “Hình ảnh người vợ trong một bài ca dao”, 27/3/2007,
số 37, tr.8
20
Đỗ Trọng, “Tiếp cận tác phẩm: Trèo lên cây bưởi hái hoa”, 20/4/2008,
số 16, tr.40.
Trong 31 bài vừa nêu các tác giả hướng đến hai vấn đề chính đó là:
Những bài viết về thi pháp và những bài viết về nội dung
1.2.1.2.Những bài viết về thi pháp
Trước khi khảo sát các bài viết về thi pháp ca dao trên Báo Giáo dục và
thời đại chúng ta cần định nghĩa về Thi pháp ca dao. Để trả lời câu hỏi “Thi
pháp là gì?”, nhà Folklore học XôViết nổi tiếng, giáo sư Cờ-ráp-xốp (1906 –
1980) cho rằng: Thi pháp với tư cách là tổ hợp những đặc điểm hình thức
nghệ thuật của tác phẩm ngôn ngữ bao gồm:
1. Những đặc điểm cấu trúc tác phẩm .
2. Hệ thống những phương tiện phản ánh, nhờ những phương tiện phản ánh
này mà văn học viết và VHDG xây dựng những bức tranh cuộc sống, những hình
tượng con người và tái tạo những hiện tượng khác nhau của thực tại.
3. Những chức năng tư tưởng thẩm mỹ của cấu trúc tác phẩm và những
chức năng tư tưởng thẩm mỹ của các phương tiện thể hiện tác phẩm.
Nói tóm lại mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về thi pháp nhưng
các học giả đều gặp nhau ở sự khẳng định: Nghiên cứu thi pháp văn học là
nhấn mạnh bản chất nghệ thuật của tác phẩm, là xem xét tác phẩm văn
học như là một chỉnh thể thống nhất giữa các thành tố và các cấp độ nghệ
thuật tác phẩm.
Từ khái niệm thi pháp chúng ta cùng tìm hiểu thi pháp ca dao. Thật ra
chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh về khái niệm thi pháp ca dao, nhưng nó
không nằm ngoài quỹ đạo của định nghĩa thi pháp mà Cờ- ráp- xốp đã nêu
Là một sáng tác phôncơlo, ca dao lại có những đặc điểm riêng về mặt
thi pháp. Ca dao vừa mang bản sắc chung của một sáng tác phôncơlo giống
như cổ tích, thần thoại, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ lại có những
đặc điểm khác với các thể loại VHDG nói trên. Những đặc điểm này làm nên
21
thi pháp ca dao. Vậy thi pháp ca dao có những đặc điểm gì? Trong cuốn Thi
pháp ca dao của tác giả Nguyễn Xuân Kính đã nêu ra những đặc điểm khá cụ
thể của thi pháp ca dao như : tính dị bản, ngôn ngữ, thể thơ, kết cấu, thời gian
không gian nghệ thuật, biểu tượng, hình ảnh.
Khảo sát 31 bài viết về ca dao trên Báo Giáo dục và thời đại, chúng tôi
thấy các tác giả không đề cập tất cả những đặc điểm thi pháp ca dao mà chỉ đề
cập đến một hai đặc điểm như: tính dị bản, ngôn ngữ.
Trước tiên là vấn đề dị bản trong ca dao. Dị bản theo nghĩa khái quát
nhất trong từ điển tiếng Việt đó là: bản được truyền lại của một tác phẩm văn
học có những chỗ khác với bản được phổ biến rộng rãi. Như lời một nhà
nghiên cứu VHDG “dị bản trong văn học dân gian là một quy luật sáng tạo”.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến dị bản? đó là quá trình tiếp nhận VHDG thể
hiện ở những ứng tác khi diễn xướng. Trong quá trình đó có thêm bớt một số
nội dung thông tin cụ thể để phù hợp với một thời điểm cụ thể, một hoàn cảnh
cụ thể, một mục đích cụ thể. VHDG sáng tạo bằng con đường liên tục hình
thành dị bản đề đáp ứng được yêu cầu tinh thần nhu cầu thực tiễn của nhân
dân. Chính nhu cầu đó mới là nguyên nhân thứ nhất xuất hiện các dị bản.
Nguyên cớ thứ hai mới là phương thức thông tin tác phẩm bằng con đường
truyền miệng. Có dị bản qua thời gian, có dị bản qua không gian có dị bản qua
môi trường diễn xướng. Nhiều người thẩm định và ghi chép theo cách thức
riêng của mình khiến cho tác phẩm có nhiều dị bản khác nhau (Nguyễn Hùng
Vĩ - Tạp chí Văn hóa dân gian số 1 /2003 ;tr 62).
Như chúng ta đã biết VHDG có đặc trưng mang tính tập thể và truyền
miêng. Chính vì yếu tố đó dẫn đến hiện tượng, vẫn cùng một nội dung lời ca
nhưng từ nơi này đến nơi khác, người này sang người khác đã có những biến
đổi về hình thức. Có một số trường hợp sự biến đổi câu từ đó làm thay đổi nội
dung của bài ca dao.
22
Báo Giáo dục và thời đại có một số bài viết đề cập tới vấn đề dị bản
như: “Dị bản của một bài ca dao” - Minh Anh, “Về một câu ca dao có liên
quan đến phong trào Tây Sơn” - Trần Xuân Toàn, “Băn khoăn về một đề thi”
- Nguyễn Thị Lan.
Đây là vấn đề dị bản trong bài viết của Nguyễn Thị Lan. Năm 2000
Tạp chí Thế giới trong ta (của Hội Tâm lý – giáo dục học Việt Nam)
mừng sáu năm tròn, đã tổ chức cuộc thi bình ca dao.Văn bản của họ chọn
gồm 6 dòng:
Mình nói với ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi gánh nước tắm cho con mình
Con mình vừa đẹp vừa xinh
Một nửa giống mình một nửa giống ta.
Nhà giáo Nguyễn Thị Lan phân tích kết luận rằng dị bản (gồm bốn
dòng đầu là văn bản hợp lý nhất và hay nhất).
Dung lượng dành cho một bài viết không quá 400 tiếng, hầu hết các bài
chỉ từ 100 đến 200 tiếng, đây là những bài viết ngắn, hoặc thiên về cảm thụ,
phân tích hoặc trực tiếp trao đổi ý kiến, chưa phải là những bài nghiên cứu lý
luận chuyên ngành.
Trong các bài viết có bài "Dị bản của một bài ca dao" là bài viết có
dung lượng dài hơn cả. Trong bài viết này tác giả Minh Anh đã tìm hiểu dị
bản của bài ca dao với hai câu:
Hai tay cầm bốn quả dưa
Qủa ăn quả để quả đưa cho chàng
Theo tác giả bài ca dao còn hai câu cuối là:
Một quả thì để trên giàn
Chờ khi thanh vắng thiếp với chàng ăn chung
23
Dị bản bài ca dao gồm bốn câu là hợp lý. Bài viết Minh Anh là lời đối
thoại với tác giả Nguyễn Đức Quyền khi đọc bài ca dao "Còn một quả dưa
nữa đâu ?" đăng trên báo "Áo trắng" số 34. Minh Anh lý giải quả dưa thứ tư
(bên cạnh ba quả: quả ăn, quả để, quả đưa) thì quả thứ tư là quả hẹn hò.Bài
viết nhằm giới thiệu hai câu ca dao mới phát hiện để bạn đọc cùng tham khảo
suy ngẫm.
Bài viết "Về một câu ca dao có liên quan đến phong trào Tây Sơn”-
Trần Xuân Toàn, đã được đăng trên mạng nhưng khi đăng trên Báo Giáo dục
và thời đại tác giả đã lược bớt phần đầu do quy định số tiếng và dung lượng
bài viết đòi hỏi phải ngắn gọn. Trong phần đầu bài viết có đoạn: “Khi nói đến
tình cảm của con người với quê hương đất nước hay nhắc đến hình ảnh quê
hương xưa cũ cùng với những tình cảm của con người xa xứ, ca dao thường
nói đến “cây đa”,“bến nước, con đò”, là tín hiệu nghệ thuật là biểu tượng gắn
liền với quê hương đất nước và con người Việt Nam cả xưa lẫn nay. Cây đa
cổ thụ là biểu tượng về sự trường thọ của cộng đồng xóm làng. Cây đa vừa có
ý nghĩa thực tiễn vừa có ý nghĩa xã hội và tâm linh cho nên nó mang ý nghĩa
biểu tượng của tính cộng đồng là niềm hãnh diện của xóm làng “sợ ông thần
phải sợ cây đa”. Còn bến nước là cửa ngõ giao lưu của cộng đồng làng xóm
với xã hội bên ngoài. Bến nước là biểu tượng quê hương, có tính cộng đồng
có tính mở trong quan hệ với tính đóng của lũy tre làng quê. Bên cạnh sự đề
cập riêng lẻ từng biểu tượng cây đa hay bến đò như trên kho tàng ca dao cũng
nhiều khi đề cập hai hình ảnh biểu tượng này song đôi nhau”.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác xưa
Trong bài viết này tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, chú ý đến
tính truyền miệng của văn học dân gian để xác định văn bản đích thực của hai
câu ca dao trên.
Một trong số những dị bản của hai câu ca dao đó là:
24
Cây me cũ, bến trầu xưa
Dẫu không nên tình nghĩa cũng đón đưa cho trọn niềm
(Văn học dân gian Nghĩa Bình (Tập 1, Sở Văn hoá Thông tin, Nghĩa
Bình xuất bản 1986, tr.36).
Về tác giả những bài viết về tính dị bản, Trần Xuân Toàn là nhà giáo
giảng dạy VHDG ở trường Đại học Quy Nhơn, là hội viên Hội Văn Nghệ dân
gian Việt Nam. Bài viết của ông đáng tin cậy. Còn các tác giả khác không
phải là những người nghiên cứu giảng dạy VHDG.
1.2.1.3. Những bài viết về nội dung
Trong số 31 bài ca dao khảo sát duy chỉ có bài của Phạm Mạc Vĩnh
Thiên viết về triết lý nhân sinh đó là bài "Đôi điều mạo muội về ca dao". Ở
đây khi bàn đến triết lý nhân sinh và quy luật tự nhiên mà ca dao phản ánh,
tác giả đã phân tích nhiều bài ca dao. Các bài viết còn lại thường đề cập tới
một bài ca dao cụ thể.Trong số các bài ca dao được nhắc đến ta thấy có hai
nội dung chính. Thứ nhất đó là: tình yêu lứa đôi với những cung bậc tình cảm
phong phú đa dạng (tình yêu say đắm bất chấp cản trở, tình yêu không thể
vượt qua mọi khó khăn trở ngại, nỗi nhớ nhung thổn thức trong tình yêu, sự
hờn giận trách cứ trong tình yêu). Thứ hai là: tình cảm gia đình (tình cảm ruột
thịt với cha mẹ, tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, niềm hạnh phúc trong cuộc
sống gia đình).
Ca dao tình yêu cũng gắn với những hoàn cảnh lịch sử nhất định, chủ
yếu phản ánh tình yêu nam nữ trong xã hội phong kiến. Với chủ đề cơ bản là
khát vọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi như: “Trèo lên cây bưởi hái hoa” -
Đỗ Trọng, (20/4/2008, số 46, trang 40). “Cảm nhận qua một bài ca dao: Nếu
biết "cho" sẽ là được "nhận" - Nguyệt Cầm (số 56, ngày 10/5/2005). “Đọc lại
một bài ca dao” - Nguyễn Minh Khôi, (6/4/2000 số 42).
Trong bài viết: Tiếp cận tác phẩm “Trèo lên cây bưởi hái hoa”- Đỗ
Trọng đã mở đầu bài viết bằng việc giới thiệu khái quát bài ca dao: “Trèo lên