Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số
: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hàm Giá


HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
Chƣơng 1. TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY ...... 9

1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông hiện nay ............................................................................... 9
1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức ............................................................. 9
1.1.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông hiện nay ..................................................................................... 16
1.2. Về nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông hiện nay..................................................................... 26
1.2.1. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
hiện nay .............................................................................................. 26
1.2.2. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
hiện nay .............................................................................................. 38
Chƣơng 2. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY .................................. 46

2.1. Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay ............................................... 46
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay ....................... 46
2.1.2. Thực trạng đạo đức của học sinh trung học phổ thông tỉnh Hải
Dương hiện nay .................................................................................. 51
2.1.3. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay ...................................................... 64
2.1.4. Nguyên nhân của những mặt hạn chế trong đạo đức và công tác giáo

dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Hải Dương hiện
nay .............................................................................................................. 68


2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay ....................... 71
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở TỈNH HẢI DƢƠNG HIỆN NAY ........................................................ 77

3.1. Nâng cao nhận thức đúng vị trí, vai trị quan trọng của đạo đức và
giáo dục đạo đức trong nhà trường trung học phổ thông................... 77
3.2. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ................................. 79
3.3. Đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy của môn Giáo dục cơng
dân, đa dạng hố các hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông ........................................................................... 86
3.4. Xây dựng môi trường học đường lành mạnh ...................................... 89
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 95
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 100


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc CNH, HĐH ở nước ta hiện nay đang đặt ra những yêu cầu
to lớn về việc giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ. Tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Đảng ta đã xác định phải coi giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu "phải tăng cường giáo dục công dân,
giáo dục thế giới quan khoa học, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và

tiền đồ của đất nước” [7, tr.29]. Đến Đại hội X của Đảng, Đảng ta tiếp tục chủ
trương “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ
chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá” chất lượng nền giáo dục Việt Nam” [9, tr.95].
Sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức
to lớn và toàn diện. Cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
đang dần phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc
đẩy nhịp độ tăng trưởng nền kinh tế ở nước ta. Song kinh tế thị trường cũng
bộc lộ những mặt hạn chế ảnh hưởng tới đời sống tinh thần, đạo đức của các
giai tầng xã hội, theo đó dẫn đến sự thay đổi các bậc thang giá trị, thay đổi từ
nhận thức, quan điểm đến nội dung và cách thức đánh giá đạo đức trong mỗi
một con người, đặc biệt là học sinh. Nên việc định hướng những giá trị đạo
đức, những lối sống lành mạnh, tốt đẹp cho học sinh ngày càng trở nên cấp
bách và cần thiết.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo ở bậc THPT đã có nhiều đổi mới từ
hơn 10 năm nay. Nội dung, chương trình của các mơn học được biên soạn lại
cho phù hợp hơn, hình thức phương pháp tổ chức dạy học từng bước được cải
tiến; một số môn học mới đã được bổ sung, hoàn thiện trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Tuy nhiên, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
chưa được chú trọng một cách đúng mức, chất lượng và hiệu quả giáo dục đạo

1


đức cho học sinh chưa cao. Tình hình đó địi hỏi công tác giáo dục đạo đức
cho học sinh cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa.
“Tuổi trẻ hôm nay, thế giới ngày mai”. Học sinh THPT là những người
kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh chúng ta, là những người tiếp bước
trên con đường xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Với hy vọng,
mong muốn lớn lao ấy, chúng ta - những nhà giáo dục phải có trách nhiệm

trực tiếp bồi dưỡng và đào tạo các em trở thành những người có ích cho xã
hội, những con người có cả “đức” và “tài”, vừa “hồng” vừa “chun”. Do đó,
giáo dục đạo đức khơng phải là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm
của toàn xã hội và trách nhiệm tự giác rèn luyện của mỗi cá nhân học sinh.
Nhưng trong đó nhà trường giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Hồ chủ tịch đã
dạy: Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường giữ vai trị đặc biệt quan
trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường XHCN. Dạy cũng
như học phải biết chú trọng cả đức lẫn tài. Đạo đức là cái gốc là nền tảng rất
quan trọng.
Học sinh THPT là lớp thanh niên đang ở tuổi trưởng thành (độ tuổi từ
16 đến 18 tuổi), đang trong giai đoạn bước ngoặt lớn về phát triển những
thuộc tính căn bản của nhân cách; ln có những lý tưởng, ước mơ, hồi bão
lớn, nếu khơng có sự định hướng giáo dục tốt từ phía nhà trường, gia đình và
xã hội sẽ khơng tránh khỏi sự ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội và các tiêu cực
khác do mặt trái của cơ chế thị trường tạo ra. Nghị quyết Ban chấp hành
Trung ương 2 khố VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi chng báo động
cho tồn xã hội rằng tình trạng một bộ phận học sinh, sinh viên suy thoái đạo
đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thiếu hồi bão lập thân,
lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là điều “đặc biệt đáng lo
ngại” [11, tr.24]. Nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh THPT tại
tỉnh Hải Dương được đặt ra trong khung cảnh và ý nghĩa xã hội đó.

2


Hải Dương là tỉnh gần đây đang có sự phát triển nhanh về kinh tế xã
hội. Bên cạnh hàng triệu thanh niên của tỉnh đang hăng say học tập, lao động
để góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh thì vẫn cịn một bộ phận nhỏ
học sinh THPT lười học, sa sút về đạo đức như: vô lễ với thày cơ giáo, trốn
tiết, bỏ học, lập băng nhóm quậy phá, nói tục, gây gổ đánh nhau. Nạn quay

cóp trong thi cử có nguy cơ trở thành “tệ nạn”. Nạn rượu chè, cờ bạc, ma tuý
đã và đang xâm nhập vào môi trường học đường gây ảnh hưởng xấu tới một
bộ phận học sinh THPT và dẫn đến hậu quả vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Có trường, học sinh khơng có tiền tiêu xài đã cướp giật, thậm chí trộm cắp
ngay của cha mẹ mình, đã có hiện tượng học sinh nghiện chơi game bạo lực
nên khi bị kích động về tinh thần đã giết ngay cha đẻ của mình một cách man
rợ. Đó là nỗi nhức nhối đối với những người làm cơng tác giáo dục nói riêng
và đối với tồn xã hội nói chung hiện nay.
Vậy tại sao lại có sự sa sút về mặt phẩm chất đạo đức như vậy trong
một bộ phận học sinh THPT? Làm thế nào để khắc phục tình trạng trên đây?
Làm thế nào để có được những con người phát triển cao về trí tuệ, trong sáng
về đạo đức, với một nhân cách phát triển toàn diện, làm động lực cho sự phát
triển của đất nước hiện nay?
Đó là những vấn đề lớn, hết sức bức thiết đã và đang đặt ra địi hỏi thực
tiễn cơng tác giáo dục, đào tạo ở nước ta nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói
riêng phải giải quyết. Đây chính là những lý do thôi thúc tôi chọn đề tài:
“Vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải
Dương hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm 60, 70 của thế kỷ trước có nhiều cơng trình nghiên
cứu về giáo dục đạo đức của nhiều tác giả trong nước dưới góc độ tâm lý học,
giáo dục học đã được công bố.

3


Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và Trường Đại học sư phạm I Hà Nội
đã có những đóng góp rất quan trọng vào lĩnh vực nghiên cứu này với các tác
giả Hà Thế Ngữ, Nguyễn Đức Minh, Phạm Hoàng Gia, Phạm Minh Hạc, Phạm
Tất Dong và nhiều tác giả khác. Để đi đến các quan niệm và giải pháp về giáo

dục đạo đức, các tác giả đã lựa chọn cho mình những cách tiếp cận khác nhau,
tạo ra sự đa dạng, phong phú về nội dung và phương pháp nghiên cứu.
Nguyễn Đức Minh nghiên cứu và trình bày cơ sở tâm lý - giáo dục học
của giáo dục đạo đức.
Hà Thế Ngữ chú trọng đến vấn đề tổ chức q trình giáo dục đạo đức
thơng qua giảng dạy các môn khoa học, nhất là các môn khoa học xã hội nhân
văn, rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để trên cơ sở đó giáo dục thế
giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện
các hành vi đạo đức cho học sinh.
Phạm Minh Hạc xuất phát từ đặc trưng tâm lý học để khảo sát hành vi
và hoạt động, nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc của nhân cách, thực hiện quá
trình giáo dục đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục
tiêu quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.
Phạm Tất Dong đã đi sâu nghiên cứu cơ sở tâm lý của hoạt động giáo
dục lao động, giáo dục hướng nghiệp, gắn kết hoạt động này với giáo dục đạo
đức nhằm đạt mục tiêu giáo dục đạo đức nghề nghiệp và lý tưởng nghề
nghiệp cho thế hệ trẻ.
Trong các cơng trình nghiên cứu về giáo dục đạo đức từ sau Đại hội
Đảng lần thứ VI (1986), cần kể đến một số đề tài như công trình mang mã số
NN7 "Cải tiến cơng tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho
học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân" do Phạm Tất Dong làm chủ
nhiệm.
Đề tài NN7 đã có nhiều nội dung mới về giáo dục đạo đức, chính trị và tư
tưởng trong các trường từ tiểu học đến đại học những năm đầu của thập kỷ 90.

4


Gần đây, trong chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước KX 07. "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã
hội", có một số đề tài nghiên cứu các vến đề có liên quan đến đạo đức và nhân

cách con người Việt Nam nói chung, học sinh, sinh viên nói riêng.
Một số cuốn sách của một số giáo sư, các nhà nghiên cứu cũng đề cập
đến vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước hiện nay.
Năm 1974, Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên cuốn "Đạo đức mới". Trong tác
phẩm này vấn đề đạo đức mới đã được làm sáng tỏ trên những nét cơ bản.
Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (2003) "Mấy vấn đề về đạo
đức trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồng Chí Bảo (1998), "Sự biến đổi mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường". Những thay đổi về
văn hố, xã hội trong q trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở một số
nước Châu Á, Nxb Khoa học xã hội , Hà Nội.
Mai Văn Bình (1991), "Một số vấn đề thời đại và đạo đức", Trường
Đại học Sư phạm I Hà Nội.
Phạm Khắc Chương (1995), "Một số vấn đề về giáo dục đạo đức và
giảng dạy đạo đức ở trung học phổ thông", Vụ giáo viên.
Trịnh Duy Huy (2009), "Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Huỳnh Khái Vinh (2001), "Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn
giá trị xã hội", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong một số tạp chí, có một số bài viết xung quanh vấn đề đạo đức
như: "Đôi điều suy nghĩ về giá trị và biến đổi của các giá trị khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường" của Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Triết
học, số 1-1995); "Những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng suy thối đạo
đức ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Thanh Hà (Tạp chí Triết học, số 32002); "Thực trạng và một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung

5


học phổ thơng" của Phạm Khắc Chương (Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 21997); "Văn hoá và sự phát triển nhân cách thanh niên" của Hồng Chí Bảo

(Nghiên cứu lý luận, số 1-1995); "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc
định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt (Tạp chí Triết
học, số 6-1996); "Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân
cách trong cơ chế thị trường" của Nguyễn Văn Phúc (Tạp chí Triết học, số 51996).
Gần đây nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị số
2516/BGD&ĐT ngày 18/5/2007 về việc thực hiện cuộc vận động "Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong nghành giáo dục. Đặc biệt
ngày 18 và 19/7/2008, tại Đồng Nai, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội
thảo Toàn quốc với chủ đề: "Giáo dục đạo đức học sinh, sinh viên ở nước ta:
thực trạng và giải pháp", đã thu hút được đông đảo các nhà khoa học, nhà
quản lý giáo dục tham gia thảo luận. Tóm lại, những vấn đề đạo đức, giáo dục
đạo đức cho học sinh, sinh viên đã được một số tác giả quan tâm, nghiên cứu.
Song qua các tài liệu tìm được, chúng tơi thấy chưa có cơng trình nào trực
tiếp nghiên cứu giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở tỉnh Hải Dương. Song
những tư liệu trên là tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong q trình viết
luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Mục đích của luận văn là làm rõ vai trò và nội dung của giáo dục đạo
đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay trên cơ sở đó đánh giá tình
hình giáo dục đạo đức trong các trường THPT ở tỉnh Hải Dương và nêu ra
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh THPT tại tỉnh Hải Dương hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ chủ yếu sau:

6



Phân tích vai trị, ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT,
những nhân tố tác động tới quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh THPT
hiện nay.
Đánh giá tình hình giáo dục đạo đức trong các trường THPT ở tỉnh Hải
Dương.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông, đặc biệt là học sinh THPT
phù hợp với hoàn cảnh và đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh Hải Dương
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh
trong trường THPT độ tuổi từ 16 đến 18.
* Phạm vi nghiên cứu:
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, luận văn giới hạn vào các trường
THPT trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong khoảng 5 năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác-Lênin, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo
đức, về thanh thiếu niên để làm sáng tỏ thực chất vai trò, ý nghĩa, tầm quan
trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp
logic, phương pháp so sánh, tổng hợp cùng với phương pháp điều tra xã hội
học.

7



6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ bản chất, nội dung và vai trò của giáo dục đạo
đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở khái quát tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở
Hải Dương, luận văn nêu lên những giải pháp có tính khả thi nhằm đổi mới
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh THPT. Luận
văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo dục đạo đức học sinh THPT
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 8 tiết:
Chƣơng 1: Tầm quan trọng và nội dung, phương pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thơng hiện nay.
Chƣơng 2: Tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay.
Chƣơng 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Hải Dương hiện nay.

8


Chƣơng 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông hiện nay
1.1.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Là một bộ phận của tri thức triết học - những tư tưởng đạo đức đã xuất

hiện cách đây hơn 2.600 năm trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hi Lạp
cổ đại. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề thói moralis nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lí” được xem
như đồng nghĩa với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hi Lạp là ethicos - lề thói, tập
tục. Khi nói đến đạo đức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối
quan hệ nhất định giữa người với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày.
Sau này, người ta thường phân biệt 2 khái niệm: moral là đạo đức còn ethicos
là Đạo đức học.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ
đại xuất hiện sớm, trong đó đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái
niệm này được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo
cịn có nghĩa là đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm đức lần
đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu. Đức để nói đến nhân đức, đức
tính và nhìn chung đức tính là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc,
luân lí. Như vậy, có thể nói đạo đức theo quan niệm của người Trung Quốc cổ
đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người
phải tuân theo.
Quan điểm duy tâm tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc, những
chuẩn mực được rút ra từ trong đầu óc con người, do vậy thiếu cơ sở thực tiễn

9


lịch sử. Chẳng hạn như: Thượng đế, từ ý niệm tuyệt đối, tự ý thức hoặc một
bản tính trừu tượng nào đó… rồi từ đó đem áp đặt vào đời sống hiện thực của
con người.
Với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên sự kế
thừa có chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, đồng thời đặt nền
tảng khoa học cho một nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa, quan
điểm mác xít cho rằng: đạo đức là sản phẩm của điều kiện kinh tế xã hội,
trong dó nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế, lợi ích là cái chi

phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của quan điểm đạo đức, lợi ích hiểu một
cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức. Dưới góc độ nhận thức
luận, đạo đức là một hiện tượng tinh thần, một hình thái đặc biệt của ý thức xã
hội, là tính thứ hai so với tồn tại xã hội. Tính chất đặc biệt của đạo đức thể
hiện trong quá trình hình thành các quy tắc đạo đức, đó là do sự thừa nhận của
số đơng trong xã hội hoặc sự thừa nhận của một giai cấp nhất định.
Dưới góc độ chức năng, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người
bằng những chuẩn mực và quy tắc đạo đức theo yêu cầu của xã hội. Mục đích
là nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội hoặc lợi ích cơ bản của giai cấp đã
đề ra chuẩn mực, quy tắc đạo đức ấy.
Như vậy, “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng
xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã
hội” [16, tr.8]. Do đó, đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội, phản ánh
tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. “Xét cho đến
cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ” [29, tr.137]. Đạo đức cũng như các
quan điểm triết học, chính trị, nghệ thuật, tơn giáo đều mang tính chất của
kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế - xã hội là nguồn gốc của quan điểm về

10


đạo đức con người. Các quan điểm này thay đổi theo điều kiện kinh tế - xã
hội, sự phát sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do
sự phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài người
đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi như phong tục, tập quán,
tôn giáo, pháp luật, đạo đức... Đối với đạo đức thì sự đánh giá hành vi con

người theo khn phép chuẩn mực và quy tắc đạo đức biểu hiện thành những
khái niệm về thiện hoặc ác, vinh hoặc nhục, chính nghĩa hoặc phi nghĩa.
Trong xã hội có giai cấp thì bao giờ đạo đức cũng biểu hiện lợi ích của một
giai cấp nhất định. Những khuôn phép (chuẩn mực) và quy tắc đạo đức là yêu
cầu của cả xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi của mỗi
cá nhân, bao gồm hành vi của cá nhân đối với xã hội (Tổ quốc, nhà nước, giai
cấp mình và giai cấp đối lập...) và đối với người khác. Những chuẩn mực và
quy tắc đạo đức nhất định được công luận của xã hội, hay của một giai cấp,
dân tộc thừa nhận. Hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến
khích, những chuẩn mực cho phù hợp với những đòi hỏi của xã hội. Do đó, sự
điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện và xét về bản chất, đạo đức là sự tự
do lựa chọn của con người.
Có thể nói, lịch sử tư tưởng nhân loại cũng là lịch sử phát triển của đạo
đức. Đạo đức xã hội nguyên thủy dựa trên những nguyên tắc về sự bình đẳng,
hợp tác nhưng ở trình độ rất thấp. Thời kỳ này tuy những tư tưởng đạo đức
cịn mang tính sơ khai song nó có ý nghĩa là tiền đề cho sự hình thành và phát
triển đạo đức sau này. Kế tiếp đạo đức xã hội nguyên thủy là các kiểu đạo đức
của xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản và sau nó là
đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đây là những nấc thang phát triển
về chất trong lịch sử đạo đức nhân loại. Sự phát triển của các nấc thang đạo
đức đó gắn liền với q trình phát triển của xã hội lồi người từ thấp đến cao.

11


1.1.1.2. Giáo dục đạo đức, bản chất và vai trò
* Khái niệm giáo dục đạo đức:
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng CNXH, đạo đức vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của phát triển xã hội. Để xây dựng xã hội mới, chúng ta rất
cần có những con người mới, những con người xã hội chủ nghĩa. Những

người phát triển toàn diện cả đức, cả tài, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Xuất phát từ đánh giá vai trò, chức năng của đạo đức đối với sự phát
triển của xã hội, vấn đề giáo dục đạo đức được đặt ra từ rất sớm trong lịch sử
và luôn được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi thời đại quan tâm. Trong xã hội ta
hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc đang trở
thành một nguồn sức mạnh tinh thần của sự nghiệp đổi mới đất nước, có
khơng ít vấn đề đang đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa
hai lối sống: lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động
của chính mình, có ý thức bảo vệ thành quả lao động, chăm lo lợi ích của
cộng đồng và lối sống thực dụng ích kỷ, dối trá ăn bám, chạy theo đồng tiền
bất chính. Vì vậy, giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo đức mới, đạo đức cách
mạng làm lành mạnh đời sống tinh thần xã hội là một nhiệm vụ quan trọng
của công cuộc đổi mới ở nước ta.
Như vậy, giáo dục đạo đức là quá trình chuyển văn hoá đạo đức xã hội
thành văn hoá đạo đức cá nhân. Đó là q trình chuyển những tri thức, những
kinh nghiệm, những chuẩn mực và lý tưởng đạo đức xã hội thành những
phẩm chất đạo đức cá nhân, làm phát triển ý thức cũng như năng lực đánh giá
và thực hiện hành vi đạo đức, năng lực tham gia vào các quan hệ đạo đức xã
hội. Đạo đức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác
định và là phương thức điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng
nhằm hình thành, phát triển, hồn thiện tồn tại xã hội ấy.
Đạo đức cá nhân là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ của cộng đồng,
phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng

12


lẻ của tồn xã hội về lợi ích và hoạt động của các cá nhân. Trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn của mình, các cá nhân thu nhận đạo đức xã hội như là
hệ thống kinh nghiệm xã hội, những lý tưởng những chuẩn mực, đánh giá đạo

đức đã được hình thành trong lịch sử cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội
thành kinh nghiệm bản thân. Đối với cá nhân, đạo đức xã hội tồn tại một cách
khách quan mà trong cuộc sống của mình, cá nhân tất yếu phải nhận thức, tiếp
thu, thực hiện.
Từ quan niệm trên, chúng ta thấy giáo dục đạo đức trước hết là một q
trình lâu dài, khơng thể nóng vội và cũng khơng thể áp đặt. Nó được diễn ra
trong cả q trình hình thành và phát triển nhân cách của một con người,
khơng có điểm dừng. Đây là q trình tự rèn luyện của cá nhân, cũng là quá
trình tác động của gia đình, nhà trường và xã hội.
* Bản chất giáo dục đạo đức
Quá trình giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống
đến sự phát triển về mặt tinh thần và thể chất của con người, làm cho đối
tượng được giáo dục dần hình thành và phát triển hai mặt: Một mặt, là sự tác
động từ bên ngồi vào đối tượng giáo dục. Mặt khác, thơng qua sự tác động
đó mà con người tự giáo dục ngay chính bản thân mình. Q trình tồn tại và
phát triển con người có nhiều giá trị, trong đó giá trị đạo đức được hình thành
chủ yếu thơng qua con đường giáo dục. Khơng có giáo dục thì khơng thể bảo
tồn và phát triển được những giá trị chung của lồi người như giá trị kinh tế,
chính trị, tư tưởng, đạo đức, nhân văn... và do đó, khơng thể sáng tạo ra được
những giá trị mới.
Quá trình giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng giáo
dục để hình thành trong họ những yếu tố tình cảm, niềm tin, lý tưởng và tất cả
được thể hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Hoạt động đạo đức được điều chỉnh bởi ý thức đạo đức của chủ thể,
hay nói cách khác, là sự thể hiện những năng lực, phẩm chất đạo đức của con

13


người. Do đó, giáo dục đạo đức là q trình chuyển những yêu cầu đạo đức

của xã hội thành những phẩm chất đạo đức cá nhân, thành sự hiểu biết, thành
ý chí, niềm tin, thành nhu cầu, động cơ, năng lực bên trong của mỗi cá nhân
và sau đó là sự tự nguyện, tự giác hành động.
Giáo dục đạo đức làm cho các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức được cá
nhân nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ hơn, góp phần điều chỉnh hành vi
của con người phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội. Một kiểu giáo
dục đạo đức tiến bộ liên quan rất lớn tới mơi trường đạo đức. Do đó mà u
cầu phải lành mạnh hố mơi trường đạo đức. Ngồi ra, các yếu tố như: điều
kiện kinh tế-xã hội, cách thức tổ chức giáo dục, mức độ tự giác của chủ thể, là
những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả giáo dục đạo đức. Một khi
chủ thể có sự tự nhận thức, tự đánh giá đúng thơng qua mục đích, yêu cầu, nội
dung... của quá trình giáo dục, sẽ giúp cho cá nhân và cộng đồng có những
hành vi đạo đức đúng đắn. Cho nên, giáo dục đạo đức luôn gắn liền với tiến
bộ đạo đức, gắn liền với quá trình “nhân đạo hố” các mối quan hệ.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ khoa học, chun mơn, kỹ thuật, nhằm không ngừng phát
triển tài năng cho con người, đáp ứng yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH đất
nước. Người xưa đã từng nói: “Tiên học lễ, hậu học văn”, “Tốt gỗ hơn tốt
nước sơn”. Mỗi con người muốn trở thành những cá nhân tốt trong xã hội, thì
trước hết cần phải trang bị tốt, phải am hiểu được những giá trị đạo đức,
những chuẩn mực đạo đức. Và hơn hết phải chuyển hố những hiểu biết đó
thành những hành vi đạo đức của mình. Trong q trình đó, một vấn đề được
đặt ra là thực hành những quy tắc đạo đức cho vừa đảm bảo những nguyên tắc
chung lại vừa thích ứng được với yêu cầu xã hội. Vì vậy, giáo dục đạo đức
cho thế hệ trẻ là yêu cầu thường xuyên, khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn

14



luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [39, tr.293].
Các Nghị quyết của Đảng, các tài liệu của ngành giáo dục-đào tạo đã đề
cập đến vai trò quan trọng của vấn đề giáo dục đạo đức và là nhiệm vụ trọng
tâm của ngành, nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất là “dạy người”. Giáo dục
đạo đức là phải hướng con người tới những giá trị đích thực của đời sống xã
hội, làm cho họ nhận thức và thể hiện được những chuẩn mực đạo đức xã hội
qua hành vi đạo đức của mình.
* Vai trị của giáo dục đạo đức
Vai trò chủ đạo của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách thể hiện:
+ Giáo dục đạo đức góp phần to lớn trong việc chuyển các quan niệm
từ tự phát sang tự giác, từ bị động sang chủ động, khơng ngừng nâng cao trình
độ nhận thức các giá trị đạo đức cho mỗi người. Qua giáo dục đạo đức, nội
dung các phạm trù, các quy tắc, các chuẩn mực đạo đức được nhận thức một
cách đầy đủ, đúng đắn hơn, góp phần điều chỉnh hành vi của con người sao
cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội đương thời.
+ Giáo dục đạo đức góp phần hình thành thái độ, niềm tin, tình cảm đạo
đức cho mọi người, có tác dụng hướng dẫn hành vi con người đạt giá trị đạo
đức cao nhất. Đây chính là sức mạnh tinh thần giúp con người vươn tới những
giá trị chân, thiện, mỹ.
+ Giáo dục đạo đức góp phần tích cực trong việc truyền lại cho những
thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước đã tạo ra.
Trên cơ sở đó giúp họ nhận ra giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị
và ý nghĩa cuộc sống mang tính người, tính nhân văn sâu sắc. Giáo dục đạo
đức có vai trị to lớn trong việc nhân đạo hoá con người và đời sống xã hội
của con người trong việc hình thành củng cố những giá trị nhân cách tốt đẹp.

15



+ Giáo dục đạo đức cịn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới, xây
dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực cho
mỗi đối tượng giáo dục. Đồng thời, giáo dục đạo đức cũng góp phần tích cực
vào việc khắc phục những quan điểm lạc hậu, sự lệch chuẩn các giá trị đạo
đức truyền thống, chống lại các hiện tượng phi đạo đức đang đầu độc bầu
khơng khí xã hội, tạo ra cơ chế phòng ngừa các phản giá trị đạo đức, phản giá
trị văn hoá trong mỗi nhân cách. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, tình trạng
suy thối nghiêm trọng của đạo đức đang được coi là nguy cơ, thì việc giáo
dục đạo đức cho học sinh THPT càng trở nên hết sức quan trọng trong việc
phát triển và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá nhân.
1.1.2. Vai trò của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông hiện nay
1.1.2.1. Một số đặc điểm của học sinh trung học phổ thông hiện nay
Học sinh THPT là thuật ngữ chỉ những người đang học tập ở các
trường THPT (từ lớp 10 đến hết lớp 12 trong hệ thống giáo dục quốc dân ở
nước ta hiện nay). Độ tuổi chủ yếu của các em trong khoảng 16 đến 18. Ở lứa
tuổi này học sinh THPT là thời kỳ đầu của giai đoạn tuổi thanh niên. Khi nói
đến thanh niên có rất nhiều cách xác định khác nhau tuỳ thuộc vào từng cách
tiếp cận của vấn đề này. Hầu hết các nước trên thế giới đều có sự thống nhất
tuổi thanh niên bắt đầu từ 14 hoặc 15; nhưng kết thúc ở tuổi nào thì có sự
khác nhau. Có nước quy định là 25 tuổi, có nước quy định là 30 tuổi và cũng
có nước quy định là 35 tuổi.
Ở Việt Nam, có giai đoạn chúng ta quy định tuổi thanh niên từ 15 tuổi
đến 28 tuổi. Ngày nay do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội phát triển, do tuổi
thọ trung bình của người dân được nâng lên và thời gian học tập, đào tạo cơ
bản của tuổi trẻ dài hơn nên tuổi thanh niên được xác định là từ 15 đến 30
tuổi. Như vậy, chúng ta có thể gọi học sinh THPT hay là thanh niên học sinh
đều cùng nghĩa.


16


Về mặt sinh học, học sinh THPT ở giai đoạn này cơ thể đang dần đi đến
hoàn thiện về mọi mặt: cơ bắp, chiều cao, trọng lượng cơ thể tăng nhanh. Cấu
trúc chức năng của các cơ quan trong cơ thể các em hầu như đã phát triển
hoàn chỉnh. Các đặc điểm tâm, sinh lý, giới tính bắt đầu định hình rõ và phát
triển, đặc biệt là sự phát triển bộ não. Tuổi học sinh THPT là thời kỳ đạt được
sự trưởng thành về mặt thể lực nhưng sự phát triển cơ thể còn non kém so với
sự phát triển cơ thể của người lớn. So với học sinh THCS, thì nhiều mặt ở lứa
tuổi này đã phát triển và trưởng thành hơn nhiều. Tế bào thần kinh của học
sinh THPT có khả năng phân tích, dẫn truyền thơng tin tốt hơn. Do vậy, khả
năng hoạt động trí tuệ ở học sinh THPT vượt xa học sinh THCS. Các em có
khả năng tiếp nhận tác động vơ cùng phong phú, phức tạp của thế giới xung
quanh. Vì vậy, khả năng nhận thức của các em về những sự vật hiện tượng
thường xuyên xảy ra trong giới tự nhiên và xã hội được nâng lên, nhân sinh
quan và thế giới quan của các em khá rõ nét. Có thể nói, đây là độ tuổi chủ thể
con người đang ở thời kỳ hài hoà, đẹp đẽ với sức lực dồi dào nhất.
Về đời sống tâm lý, xã hội, ở học sinh THPT tồn tại giữa tuổi trẻ em và
tuổi người lớn nhưng mang nhiều nét tâm lý của người lớn mặc dù vẫn còn
một vài đặc điểm của tuổi thiếu niên. Những quá trình nghiên cứu tâm lý đã
chỉ ra rằng ở lứa tuổi này các em có những rung cảm mãnh liệt, đặc biệt là
tính tích cực cao, thể hiện ở sự nhiệt tình, sơi nổi của tuổi trẻ. Song cũng bộc
lộ tâm trạng phong phú, phức tạp nên vai trò xã hội và hứng thú xã hội của
học sinh không chỉ mở rộng về số lượng và phạm vi mà còn biến đổi cả về
chất lượng. Các em ngày càng xuất hiện nhiều vai trò của người lớn và các
em thực hiện vai trị ấy ngày càng có tính độc lập và tinh thần trách nhiệm cao
hơn. Giai đoạn này, các em có tâm lý nhạy cảm, thích cái mới lạ, ưa tìm tịi,
khám phá, sáng tạo. Học sinh THPT là người giàu ước mơ, hồi bão, giàu trí
tưởng tượng, đây cũng là lứa tuổi khao khát muốn thể hiện mình, muốn được

lập cơng. Một đặc điểm hết sức rõ nét của tuổi học sinh THPT là sự hứng thú

17


nhận thức rộng rãi. Các em khao khát được tìm hiểu, được tiếp nhận những
thông tin mới trên mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Nhưng sự nhận thức
của các em là sự nhận thức có phê phán. Do đó, các em thường có những
tranh cãi sơi nổi về thế giới xung quanh. Các em mong muốn không những
“hiểu biết bản thân mình” mà cịn quan tâm đến thế giới nội tâm của con
người. Do vậy, thái độ có ý thức của các em đối với học tập ngày càng phát
triển. Đó là lý do sự tự ý thức hình thành rõ rệt ở học sinh THPT.
Bên cạnh đó đời sống tình cảm của các em rất phong phú, đặc điểm đó
được thể hiện rõ nhất trong tình bạn, tình u nam nữ. Đồng thời các em có
quan điểm rõ rệt trong tư tưởng, tình cảm, đó là ghét bất cơng, thích cơng
bằng, thích giao lưu và các hoạt động xã hội. Do đó, về mặt xã hội, học sinh
THPT đã biết lo lắng và quan tâm đến tương lai của bản thân và suy nghĩ đến
sự phát triển của đất nước của dân tộc. Ở các em bước đầu đã ý thức được
trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với tập thể, đối với cộng đồng và đối
với xã hội.
Về mặt hoạt động, ở lứa tuổi này hoạt động chính chi phối các em là
hoạt động học tập. Các em đã định hình được sở thích đối với nghề nghiệp từ
đó xác định phải học khối nào, thi vào trường nào. Các em đã xác định được
nhu cầu, thị hiếu của xã hội đối với những ngành nghề mà mình lựa chọn, xác
định được sở thích cũng như năng lực bản thân đối với nghề nghiệp đó. Vì
vậy, các em rất muốn được mọi người chia sẻ, được tâm sự nguyện vọng của
mình và hơn thế nữa rất cần sự giúp đỡ, định hướng, tư vấn của thầy cô giáo,
cha mẹ và người lớn trong mọi lĩnh vực để các em tự tin hơn trong suy nghĩ
và hoạt động. Học sinh THPT ngày nay, do điều kiện sinh hoạt vật chất ngày
càng được nâng cao nên về mặt thể chất, sinh lực và tố chất sinh học đã phát

triển chín muồi nhưng phẩm chất xã hội thì chưa hồn thiện, chưa ổn định
vững vàng. Do đó, trong đời sống cá thể của các em, nhiều khi sự trưởng
thành về mặt xã hội thường chậm hơn so với sự phát triển về mặt sinh học. Sự

18


tác động của giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội chỉ mới hình thành ở
các em khung nhân cách ban đầu.
Bên cạnh những ưu điểm nổi trội của học sinh THPT ở các em vẫn cịn
có những hạn chế nhất định đó là tính bồng bột, thiếu kinh nghiệm, non nớt
thậm chí cả sự liều lĩnh. Ở các em ln có khao khát ước mơ hồi bão có lý
tưởng sống, có tư tưởng lập thân, lập nghiệp nhưng khi gặp khó khăn trở ngại
thì có biểu hiện hồi nghi, chán nản tự ti, dao động thậm chí là bất cần. Ở các
em đã sớm định hình tính tự lập, tự khẳng định cao nhưng nếu khơng có sự
uốn nắn và định hướng thì cũng dễ tự cao, tự đại, kiêu ngạo và dễ nhầm lẫn
giữa thật và giả, giữa đúng và sai. Các em muốn trở thành người lớn, muốn
mọi người coi mình như một người lớn đã trưởng thành và chín chắn, khơng
muốn ai coi mình là trẻ con và bắt đầu biết chú ý đến bản thân, trau chuốt đến
hình thức, đến lời nói, ứng xử và học làm người lớn từ những người thân
xung quanh mình. Các em có khát vọng về tự do, về tính tự lập, tự cường
nhưng cũng rất dễ có hành vi tự do quá trớn dẫn đến hành vi vơ kỷ luật, vơ
chính phủ. Các em rất nhanh nhạy tiếp thu cái mới, dễ hoà đồng nhưng cũng
dễ bị a dua theo những thói hư tật xấu của mơi trường bên ngồi. Ở các em rất
giàu óc tưởng tượng, rất nhạy cảm, tâm hồn dễ xúc động và dễ buồn, dễ vui
nhưng cũng hay thần tượng hoá và đưa ra cho mình những mẫu hình lý tưởng,
song cũng dễ thay đổi nên các em dễ tiếp thu những hệ tư tưởng này hay hệ tư
tưởng khác kể cả mặt tích cực hay tiêu cực. Đặc biệt dễ bị chi phối bởi những
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến mất phương hướng về chính
trị, lập trường tư tưởng, sa sút về mặt đạo đức, lối sống. Vì vậy, các em dễ bị

lơi kéo, kích động, bị lợi dụng mua chuộc vào các hoạt động thiếu lành mạnh,
ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình và xã hội.
Bởi vậy, việc định hướng rèn luyện cho học sinh THPT biết phát huy
thế mạnh của mình trong học tập và khắc phục mặt yếu, đặc biệt là trong rèn
luyện đạo đức là rất cần thiết. Trong cuộc đời mỗi người ở giai đoạn này là

19


thời kỳ đẹp nhất và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Do vậy, hiểu rõ đặc điểm
tâm sinh lý lứa tuổi học sinh THPT là vấn đề hết sức cần thiết để có phương
pháp giáo dục, hình thức giáo dục các em một cách khoa học, phù hợp thiết
thực và hiệu quả cao.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông hiện nay
Theo học thuyết Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân, nhân dân làm ra lịch sử của mình. Vận dụng quan điểm đó, Hồ Chí
Minh xác định cách mạng là công việc của cả nhân dân lao động chứ không
phải là công việc của một hai người mà trong đó cơng nơng là gốc của cách
mạng, là đội quân chủ lực của cách mạng. Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thấy
vai trò hết sức to lớn của thanh niên nói chung và thanh niên học sinh nói
riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người khẳng định:
“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” [36, tr.185]. Kế
thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: “Sự nghiệp đổi mới có
thành cơng hay khơng, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trị xứng đáng
trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo
con đường XHCN hay khơng phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên,
vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên [61, tr.7-8].
Chúng ta đang thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước do Đảng ta

lãnh đạo nhằm xây dựng xã hội Việt Nam ngày càng trở lên giàu đẹp, xây
dựng thành công CNXH ở Việt Nam, chúng ta rất cần nguồn nhân lực vững
mạnh. Theo Hồ Chí Minh, “trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Và như vậy, “Con người xã hội chủ nghĩa” con người toàn diện “nhất
định phải có học thức. Cần phải học văn hố, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học
lý luận Mác-Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày” [10, tr.306].
Nhưng con người XHCN chỉ có tài năng trí tuệ thơi chưa đủ mà phải có đạo

20


đức, trong đó đức là gốc, là nền tảng để sử dụng hữu ích tài năng giúp mình,
giúp gia đình, giúp xã hội. Bởi theo Hồ Chí Minh “Có tài mà khơng có đức ví
như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng
những khơng làm được gì ích lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa.
Nếu có đức mà khơng có tài ví như ơng Bụt khơng làm hại gì, nhưng cũng
khơng lợi gì cho lồi người” [39, tr.172]. Do đó, đức và tài phải gắn bó với
nhau, trong đó đức là gốc, và đức là cái cần phải có trước tiên. Vì khi có đức
thì bao giờ con người ta cũng sẽ cố gắng học tập, hồn thành nhiệm vụ (đạt
đến tài). Vì lẽ đó, việc giáo dục đạo đức mới cho học sinh THPT có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ sở để khẳng định điều đó xuất phát từ những
vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, học sinh THPT là lực lượng kế thừa và tiếp bước các thế hệ
cha anh trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thanh niên ln là lực lượng nịng cốt trong thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược cách mạng: xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Họ luôn nêu cao truyền
thống u nước, tinh thần vượt khó, khơng ngại gian nan vất vả ln phát huy
vai trị xung kích, đi đầu trong mọi lĩnh vực. Trong hai cuộc kháng chiến
trường kỳ vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của quân và dân ta đã có
hàng triệu thanh niên tình nguyện lên đường ra trận, dũng cảm, kiên cường,

gan dạ, chiến đấu và hy sinh cuộc đời thanh xuân đẹp nhất của mình cho nền
độc lập của dân tộc, cho sự tồn vẹn lãnh thổ, vì hạnh phúc của nhân dân.
Những tên tuổi như Tô Vĩnh Diện, Lý Tự Trọng, Nguyễn Viết Xuân, Trần
Văn Ơn... đã trở thành những tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của tuổi trẻ Việt Nam.
Hồ bình lập lại, những thế hệ thanh niên sau này cùng với nhân dân cả
nước ra sức khắc phục những tổn thất do chiến tranh để lại, ra sức học tập và
cống hiến sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện

21


×