Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Ảnh hưởng tư tưởng cải cách giáo dục từ Minh Trị (Meiji) Nhật Bản đến tư tưởng giáo dục của phong trào Đông Kinh nghĩa thục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================

NGƠ BÍCH ĐÀO

ẢNH HƢỞNG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC
TỪ MINH TRỊ (MEIJI) NHẬT BẢN ĐẾN TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC CỦA PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================

NGƠ BÍCH ĐÀO

ẢNH HƢỞNG TƢ TƢỞNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC
TỪ MINH TRỊ (MEIJI) NHẬT BẢN ĐẾN TƢ TƢỞNG
GIÁO DỤC CỦA PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đỗ Thị Hòa Hới



Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đỗ Thị Hịa Hới.
Tơi cũng xin cam đoan, đề tài này không trùng với bất cứ đề tài
luận văn thạc sĩ nào đã được công bố ở Việt Nam.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.
Người cam đoan

Ngơ Bích Đào


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này là kết quả của sự dạy dỗ tận tình, sự góp ý chân
thành của tất cả các thầy giáo, cô giáo; và sự nỗ lực phấn đấu của bản
thân tôi trong suốt thời gian học tập, tu dưỡng tại Khoa Triết học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Qua đây, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy
giáo, cô giáo trong Khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn nói riêng, cũng như tất cả các thầy giáo, cơ giáo đã truyền đạt
cho chúng tôi kho tàng kiến thức vơ cùng q báu trong q trình học tập
tại Trường. Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Đỗ
Thị Hòa Hới – người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo để tơi hồn thành
luận văn thạc sĩ này.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả bạn bè,

người thân, đồng nghiệp – những người đã luôn ở bên giúp đỡ và động
viên tơi trong suốt q trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 01 năm 2014

Ngơ Bích Đào


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .......................................................... 3
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ........................................ 11
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................ 11
7. Ý nghĩa của luận văn ........................................................................... 11
8. Kết cấu của luận văn............................................................................ 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN CHO SỰ DU
NHẬP TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC THỜI KỲ MINH TRỊ NHẬT BẢN
VÀO VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX...................................................... 12
1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX – đầu thế
kỷ XX và những tác động đến Việt Nam ................................................ 12
1.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX

....................................................................................................... 12

1.1.2. Bối cảnh chính trị - xã hội – văn hóa, giáo dục ở Việt Nam đầu thế

kỷ XX

....................................................................................................... 15

1.2. Tƣ tƣởng cải cách giáo dục thời Minh Trị Duy tân ........................ 24
1.3. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục và vị trí của nó trong phong
trào u nƣớc Việt Nam đầu thế kỷ XX .................................................. 33
1.3.1. Vai trò của các nhà nho duy tân lãnh đạo phong trào Đông Kinh
nghĩa thục ................................................................................................... 33
1.3.2. Nội dung tư tưởng và vị trí của Đơng Kinh nghĩa thục trong phong
trào u nước đầu thế kỷ XX ..................................................................... 37
Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 42


CHƢƠNG 2. MỘT SỐ NỘI DUNG ẢNH HƢỞNG TƢ TƢỞNG CẢI
CÁCH GIÁO DỤC MINH TRỊ DUY TÂN CỦA NHẬT BẢN ĐẾN
PHONG TRÀO ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC...................................... 44
2.1. Ảnh hƣởng về mơ hình giáo dục ....................................................... 44
2.2. Ảnh hƣởng về nội dung giáo dục ...................................................... 48
2.3. Ảnh hƣởng về phƣơng pháp giáo dục .............................................. 70
2.4. Ý nghĩa của việc tiếp biến tƣ tƣởng cải cách giáo dục từ duy tân
Minh Trị của Nhật Bản đối với công cuộc đổi mới giáo dục Việt Nam
hiện nay ...................................................................................................... 76
Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 87
KẾT LUẬN ................................................................................................ 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 91


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình chính trị - kinh tế - văn
hóa - xã hội thế giới và Việt Nam có nhiều biến chuyển. Các nước Châu Á,
Châu Phi và Mỹ La tinh lần lượt trở thành miếng mồi ngon của các nước tư
bản đang trong giai đoạn chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, thực dân trên con
đường mở rộng thị trường, … Nhiều nước bị biến thành thuộc địa, nửa
thuộc địa của các nước thực dân phương Tây, đặc biệt là ở khu vực Châu
Á. Việt Nam khơng nằm ngồi luồng xâm nhập, mở rộng thị trường của các
nước đế quốc phương Tây. Từ năm 1858 đến năm 1883, sau hơn 20 năm
kháng cự thất bại, nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến của
thực dân Pháp.
Sự biến chuyển về thực tiễn chính trị - xã hội trong và ngồi nước,
tất yếu sẽ dẫn đến sự biến chuyển về nhận thức tư tưởng nhằm giải quyết
các vấn đề bức thiết của dân tộc, của thời đại. Với nhiều hình thức khác
nhau, các cuộc đấu tranh liên tiếp diễn ra ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX
đến đầu thế kỷ XX: từ bạo lực bằng khởi nghĩa vũ trang, hay đấu tranh cải
lương, duy tân ơn hịa trong lĩnh vực tư tưởng…song đều bị thực dân Pháp
đàn áp trong bể máu….
Khác với các nước trong khu vực khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIX,
Nhật Bản là một trong những quốc gia hiếm hoi thực hiện thành cơng cải
cách tồn diện đất nước hướng theo văn minh phương Tây. Giới nghiên
cứu bàn đến cuộc cải cách mang tính cách mạng này với cái tên Minh Trị
duy tân (1868-1912), mà trước tiên là cải cách trên lĩnh vực giáo dục.
Nhiều nội dung của cuộc cải cách này đã ảnh hưởng đến các nước Châu Á,
trong đó có Việt Nam, đặc biệt ảnh hưởng rõ nét đến phong trào Đông
Kinh nghĩa thục ở Hà Nội.

1


Thắng lợi của cải cách Minh Trị Nhật Bản, nhất là những thành tựu

về giáo dục, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến một bộ phận trí thức nho sĩ yêu
nước có tư tưởng duy tân ở Việt Nam. Họ đã nhanh chóng xúc tiến, dấy lên
một phong trào cải cách trên địa hạt giáo dục và văn hóa với phạm vi lớn.
Năm 1907, Đông Kinh nghĩa thục, một trường học kiểu mới ảnh hưởng tư
tưởng cải cách giáo dục Nhật Bản được thành lập ở Hà Nội làm nên tiêu
điểm cho cả một phong trào lan rộng ra cả nước. Nhưng, khơng tiếp nhận
một cách máy móc, giáo điều, mà với sự kết hợp với các phong trào chống
Pháp bằng vũ trang ở tầng sâu, lại đồng thời bùng phát những hoạt động
trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, tư tưởng của Đông Kinh nghĩa thục đã tạo
nên những hiểm họa lớn đối với âm mưu thực dân Pháp muốn nơ dịch vĩnh
viễn nước ta. Vì sao một phong trào canh tân văn hóa, giáo dục, tư tưởng
lại có sức lan tỏa nhanh chóng, khiến thực dân Pháp thực sự hoảng hốt và
cố sức dập tắt phong trào? Những công trình nghiên cứu tư tưởng trước đây
đã tập trung để trả lời vẫn đề này, song cho đến nay, vẫn cần có sự tiếp tục
đi sâu làm sáng tỏ cách thức người Việt tiếp nhận ảnh hưởng tư tưởng từ
bên ngoài và bài học về phương thức tiếp nhận tư tưởng của phong trào
Đông Kinh nghĩa thục đối với lịch sử Việt Nam cận – hiện đại.
Hiện nay, những tài liệu về Đông Kinh nghĩa thục ngày càng phong
phú và đầy đủ. Dưới ánh sáng đổi mới, góc nhìn về phong trào Đông Kinh
nghĩa thục đã cởi mở và đa diện hơn, cần có những nhìn nhận, nghiên cứu
và đánh giá, bổ sung những tư tưởng cải cách giáo dục mà các nhà khai
sáng Nghĩa thục đã đặt ra trước vận mệnh đất nước lúc bấy giờ. Để làm
được điều đó, cần nhận định đầy đủ và hệ thống hóa phương thức mà các
nhà Nghĩa thục đã tiếp biến các luồng tư tưởng ngoại lai cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX, trong đó trực tiếp nhất là tư tưởng canh tân giáo dục thời kỳ
Minh Trị duy tân.
Trong những năm đổi mới gần đây, giáo dục Việt Nam có những
biến chuyển, trong xây dựng cải cách cịn gặp những lúng túng cả về quy
2



mơ, nội dung, chương trình giáo dục… Điều đó đặt ra yêu cầu bức bách
trước các cơ quan quản lý giáo dục, các nhà hoạch định chính sách giáo dục
và các nhà giáo dục tìm hướng đi mới. Tìm hiểu, nghiên cứu sâu về tư
tưởng cải cách giáo dục thời trước là điều chúng ta nên làm để rút ra những
bài học kinh nghiệm, phát huy những bài học giá trị nhằm vận dụng, góp
phần giải quyết những địi hỏi phải đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt
Nam. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục – với tư cách là một cuộc cải cách
sâu sắc về tư tưởng giáo dục - trở thành một đối tượng cần thiết để chúng ta
nghiên cứu nhằm tìm những gợi ý cho giải pháp đổi mới nền giáo dục hiện
thời.
Với những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề “Ảnh hưởng tư tưởng cải
cách giáo dục từ Minh Trị (Meiji) Nhật Bản đến tư tưởng giáo dục của
phong trào Đông Kinh nghĩa thục” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu, chúng tơi thấy theo thời gian có
thể phân loại các cơng trình theo các nhóm sau đây:
a. Cơng trình nghiên cứu về cải cách và về tư tưởng cải cách giáo dục
Nhật Bản
Là một đất nước ở Đơng Á, có tiềm lực kinh tế thứ ba thế giới, Nhật
Bản là đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả ở nhiều quốc gia. Đặc biệt,
các nhà khoa học chú ý nghiên cứu cuộc cách mạng tư tưởng đặt nền tảng
cơ sở lý luận cho con đường đi lên cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất
nước này, mà trọng tâm là những tư tưởng cải cách giáo dục tạo nên “sự
phát triển thần kỳ Nhật Bản”, bắt đầu từ cải cách Minh Trị năm 1868. Có
thể kể tới những cơng trình sau:
Bài nghiên cứu của tác giả Nhật Bản Mitani Hiroshi Cuộc cách mạng
Minh Trị: Sự thay đổi cơ cấu, những tổn thất và vai trò của chủ nghĩa dân
tộc do Phương Dung dịch, in trên Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, số 2 năm


3


1996 đưa ra những nhận định về những đóng góp và mặt trái của cuộc cải
cách Minh Trị đối với lịch sử phát triển Nhật Bản.
Năm 2002, Hội thông tin giáo dục quốc tế kết hợp với NXB Chính
trị quốc gia xuất bản cuốn Hiện đại hóa giáo dục Nhật Bản cả về mặt tư
tưởng, hệ thống, nội dung và phương pháp, có nhấn mạnh đến cải cách giáo
dục thời kỳ Minh Trị duy tân và vai trị của nó đối với nền giáo dục Nhật
Bản hiện đại.
Năm 2003, trong luận án Tiến sĩ của Đặng Xuân Kháng “Cải cách
giáo dục và những tác động chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Nhật Bản”, tác giả đã khái quát được toàn bộ đời sống giáo dục Nhật Bản
qua những mốc chuyển từ cải cách Taika, Minh Trị, đến cải cách sau chiến
tranh thế giới thứ hai. Trong đó, cải cách giáo dục dưới thời Minh Trị Duy
Tân được tác giả đề cập khá sâu sắc trên nhiều khía cạnh, nhất là hệ thống
giáo dục, luật giáo dục, tổ chức và nội dung giáo dục.
Nguyễn Văn Kim, trong bài Nhật Bản, ba lần mở cửa ba sự lựa chọn
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 năm 2004 đã trình bày và đánh
giá về những cuộc cải cách lớn trong lịch sử Nhật Bản, đặc biệt là công
cuộc cải cách Minh Trị, “sự lựa chọn” hướng theo văn minh phương Tây
đem đến cho Nhật Bản sự thành công rực rỡ trên các mặt của đời sống xã
hội.
Năm 2005, Nguyễn Bá Thái viết bài Tìm hiểu cải cách giáo dục ở
Nhật Bản trên Tạp chí Khoa học Giáo dục, đã trình bày những nội dung
biểu hiện và khái quát thành tựu của công cuộc cải cách giáo dục Nhật Bản
từ thời Minh Trị cho đến những năm đầu thế kỷ XXI…
Năm 2007, nhóm nghiên cứu Khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cùng viết chung chuyên
khảo Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á giữa thế kỷ XIX – đầu thế

kỷ XX do GS. Vũ Dương Ninh chủ biên. Cơng trình đã nghiên cứu các trào
lưu cải cách, trong đó có trào lưu cải cách giáo dục của các nước Đông Á:
4


Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam… trong bối cảnh chung bị chủ
nghĩa đế quốc xâm lược. Các trào lưu này, dù thành hay bại, đều đã gây ra
sức hút và sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quốc gia, sự vận động, va đập,
và tác động lẫn nhau giữa các luồng tư tưởng, trong đó Việt Nam cũng là
một thực thể tiếp biến những làn sóng tư tưởng từ các nước khác…
Cải cách giáo dục của Nhật Bản cũng đang là đối tượng nghiên cứu
của sinh viên, nghiên cứu sinh trong giai đoạn gần đây. Năm 2012, Dương
Thị Nhẫn – học viên cao học Khoa Triết học – Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã bảo vệ thành cơng cơng trình luận văn thạc sĩ với đề tài Tìm
hiểu tư tưởng duy tân về giáo dục của Fukuzawa Yukichi. Luận văn đã tập
trung phân tích các điều kiện, tiền đề cho tư tưởng duy tân giáo dục của
Fukuzawa Yukichi, đặc biệt đã đi sâu hệ thống hóa tư tưởng cải cách giáo
dục của ơng; cụ thể hóa những nội dung của tư tưởng duy tân ấy trong một
nhân vật cải cách kiệt xuất nhất thời Minh Trị - Fukuzawa Yukichi.
b. Các cơng trình nghiên cứu về phong trào Đông Kinh nghĩa thục
và tư tưởng Đông Kinh nghĩa thục:
Tuy chỉ tồn tại được 9 tháng, song Đông Kinh nghĩa thục đã xốc lên
một phong trào yêu nước mạnh mẽ ở Bắc Kỳ mà trung tâm là Hà Nội. Hoạt
động rộng rãi về văn hóa – giáo dục đã làm tiếng vang của phong trào lan
rộng khắp cả nước. Đông Kinh nghĩa thục cũng đi vào lịch sử dân tộc với
tư cách là một trong những phong trào đấu tranh cơng khai, ơn hịa và
mang rõ tính chất dân tộc - dân chủ trong thời đại mới, hướng tới việc giải
phóng dân tộc, trước hết bằng những hoạt động có tính chất cải cách dân
chủ, đổi mới tư tưởng, kết hợp với những biện pháp thực hiện cụ thể về
giáo dục, xã hội, kinh tế, ..., đồng thời, hoạt động đó gắn liền với xu hướng

bạo động cách mạng của Phan Bội Châu, ngọn cờ trung tâm tập hợp và chi
phối các phong trào yêu nước lúc bấy giờ.
Do những đặc điểm, những nét độc đáo riêng của phong trào, Đông
Kinh nghĩa thục đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong nước quan
5


tâm tìm hiểu, nghiên cứu và đã có nhiều cơng trình được cơng bố, từ nhiều
góc độ: văn học, sử học, văn bản học… Ngay từ năm 1937, sách của Đào
Trinh Nhất: Đông Kinh nghĩa thục, Nhà in Mai Lĩnh, Hà Nội đã cho biết
nhiều nhân vật quan trọng của Đơng Kinh nghĩa thục.
Năm 1950, Nhà xuất bản Sài Gịn đã cho in cuốn Đông Kinh nghĩa
thục của nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê. Cuốn sách đã trình bày quá trình
thành lập và nội dung hoạt động của Đơng Kinh nghĩa thục trong bối cảnh
của phong trào Duy tân những năm đầu thế kỷ XX, đồng thời, có điểm tới
sự tiến bộ của một phương pháp giáo dục mới, đóng góp cho lịch sử Việt
Nam. Trong các bộ sách thơng sử Việt Nam đều có ghi chép về Đơng Kinh
nghĩa thục, nhưng còn chưa đánh giá đúng vai trò, vị trí của phong trào
này.
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, khơng khí học thuật thuận lợi
hơn, việc đầu tư cho cơng tác nghiên cứu lịch sử tư tưởng có những chuyển
biến rõ nét. Trong đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu về phong trào Đông Kinh
nghĩa thục thực sự đã có những thành quả nhất định. Trong đó, có thể kể tới
GS. Trần Văn Giàu với Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ
XIX đến cách mạng tháng Tám, tập 2 xuất bản năm 1975, đây là một mắt
xích trong bộ 3 tập nghiên cứu của cố giáo sư Trần Văn Giàu. Tập 2 bộ
sách đã tiếp nối tập 1 và là nền tảng của sự ra đời của tập 3, phân tích khá
rõ những vận động và biến chuyển của lịch sử tư tưởng Việt Nam bắt đầu
từ khi thực dân Pháp đặt gót giày xâm lược lên đất nước ta cho tới khi cách
mạng tháng Tám 1945 thành công. Trong tập này, tác giả đã nêu rõ vị trí,

vai trị lịch sử của phong trào Đông Kinh nghĩa thục như một bộ phận của
phong trào Duy tân thuộc trào lưu cải cách đầu thế kỷ XX.
Từ sau đổi mới 1986, khoa học xã hội Việt Nam có điều kiện hội
nhập hơn, điều đó tạo cơ hội cho các nhà nghiên cứu mở rộng phạm vi học
thuật của mình trong tiếp cận lịch sử tư tưởng. GS. Đinh Xuân Lâm và các
đồng tác giả năm 1997 cho xuất bản cuốn Tân thư và xã hội Việt Nam cuối
6


thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phân tích những tác động và vai trò của Tân thư,
tân văn Trung Quốc Nhật Bản tới cuộc vận động cải cách ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX. Cũng trong năm này, Cục Lưu trữ Quốc gia và Viện Viễn Đông
Bác Cổ Pháp cũng đã phối hợp với nhà xuất bản Văn hóa in Văn thơ Đông
Kinh nghĩa thục sưu tập những bài thơ, bài văn dùng làm tài liệu học tập,
tuyên truyền trong q trình Đơng Kinh nghĩa thục hoạt động mới được
phát hiện.
Tác giả Chương Thâu - một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về
tư tưởng Việt Nam cận đại - năm 1997 sưu tầm, chỉnh lý, bổ sung, nhấn
mạnh đến vai trị của Đơng Kinh nghĩa thục và ý nghĩa lịch sử của nó đối
với phong trào cải cách văn hóa Việt Nam thế kỷ XX trong ấn phẩm Đơng
Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX. Cũng trong
khoảng thời gian này, ông viết bài đăng trên Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản,
trong đó khẳng định những ảnh hưởng của Khánh Ứng nghĩa thục ở Nhật
Bản đến mơ hình, cách thức hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục: Từ
Khánh Ứng nghĩa thục (Keio Gijuku) của Nhật Bản đến Đông Kinh nghĩa
thục và phong trào nghĩa thục ở Việt Nam, (số 2 – 1996), Phong trào người
Việt Nam du học tại Nhật Bản đầu thế kỷ XX (số 1 – 1997), Ảnh hưởng
cuộc cải cách Minh Trị ở Nhật Bản đối với phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của một số nước Châu Á đầu thế kỷ XX (số 5 – 1998, tr.3943)…
Tuy nhiên, trong giới nghiên cứu hiện nay, vẫn còn nhiều nhận định

chưa thống nhất về đóng góp của Đơng Kinh nghĩa thục. Đáng chú ý là 100
năm sau khi trường học này bị đóng cửa, năm 2007, một hội thảo đã được
tiến hành với sự tham gia của nhiều học giả trong nước với chủ đề: 100
năm Đông Kinh nghĩa thục. Những bài viết được trình bày trong hội thảo
đã được in thành kỷ yếu và xuất bản thành sách 100 năm Đông Kinh nghĩa
thục… Cuốn sách là tập hợp 40 báo cáo của các nhà nghiên cứu trong nước
về Đơng Kinh nghĩa thục thể hiện được vị trí, vai trò của phong trào cách
7


tân văn hóa - giáo dục này trong sự vận động chung của tư tưởng Việt Nam
hướng tới mục đích giải phóng dân tộc. Điểm nhấn mới là về tư tưởng giáo
dục Đông Kinh nghĩa thục lan tỏa đến một số địa phương và một số nhân
vật tiêu biểu. Một số tác giả đề cập tới giá trị của minh triết Đông Kinh
nghĩa thục đối với giáo dục hiện nay.
Trong năm 2010, nhân dịp kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long
năm 2010, nhà nghiên cứu hàng đầu về Đông Kinh nghĩa thục - Chương
Thâu – chủ biên xuất bản cuốn Đông Kinh nghĩa thục và văn thơ Đông
Kinh nghĩa thục. Đây là một cơng trình đồ sộ gồm 2 tập, mỗi cuốn gần
1000 trang. Các tác giả đã tập hợp cho in những bài giảng cịn lại của Đơng
Kinh nghĩa thục sau những nỗ lực tìm tịi, tập hợp và dịch để đến tay bạn
đọc. Nội dung các bài văn thơ được sưu tập cũng đồng thời là sách giáo
khoa giảng dạy trong những năm trường hoạt động, đây là nguồn sử liệu, tư
liệu vô cùng quý giá cho những người nghiên cứu Đông Kinh nghĩa thục.
Tháng 6 năm 2012, trên Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á, số 6 (136),
nghiên cứu viên Dương Thúy Hiền đã công khai kết quả nghiên cứu về
“Nhận thức canh tân đất nước ở một số quốc gia Đông Á nửa cuối thế kỷ
XIX: những nét tương đồng”. Bài báo đã trình bày những điểm tương đồng
về hoàn cảnh khách quan cho sự ra đời tư tưởng canh tân, quá trình thực
hiện và kết quả thực hiện cải cách ở một số quốc gia trong bối cảnh bị thực

dân phương Tây xâm lược cuối thế kỷ XIX, trong đó có Nhật Bản và Việt
Nam. Tuy nhiên, bài báo mới dừng lại ở việc khái quát những điểm tương
đồng trong nhận thức canh tân của các quốc gia Đơng Á mà chưa có sự
chun sâu, cụ thể trong nghiên cứu tư tưởng canh tân của các nước, sự
tiếp biến tư tưởng canh tân của các quốc gia với nhau, trong đó có sự tiếp
biến tư tưởng giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Năm 2012, Trần Thị Hạnh xuất bản ấn phẩm Quá trình chuyển biến
tư tưởng của nho sĩ Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX. Trong đó, tác
giả đã tập trung phân tích những điều kiện, tiền đề và nội dung cơ bản của
8


quá trình chuyển biến tư tưởng của các nho sĩ duy tân Việt Nam đầu thế kỷ
XX, nhận định, đánh giá những kết q, hạn chế của q trình đó đối với
lịch sử tư tưởng và xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong đó cũng đề cập
đến những tư tưởng duy tân về giáo dục của Đông Kinh nghĩa thục trong 1
tiết của chương III, nhưng chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu, cụ thể hóa nó
trong những tác phẩm được giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những tác
phẩm còn lại của phong trào này mới được cơng bố gần đây.
Tóm lại, những tác giả, tác phẩm trên đây đã có những tiếp cận từ
nhiều góc độ khác nhau, có những đánh giá trực tiếp, sâu sắc về nội dung
tư tưởng và hành động của cả Minh Trị duy tân và Đông Kinh nghĩa
thục…. Những công trình này chính là cơ sở nền tảng quan trọng cho việc
tiếp tục đi vào tìm hiểu, đánh giá nội dung, cách thức tiếp biến tư tưởng của
các nhà nho duy tân – những người lãnh đạo phong trào này. Tuy một số
cơng trình đã ít nhiều đề cập đến những ảnh hưởng từ các cuộc cải cách bên
ngoài tác động tới trường học Đơng Kinh, nhưng cịn chưa hệ thống và cập
nhật đầy đủ tư liệu.
Qua việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về Đông Kinh nghĩa thục,
chúng tôi nhận thấy các tư liệu về phong trào này ngày càng đầy đủ hơn

qua thời gian và cung cấp cho người nghiên cứu những tài liệu đa chiều,
ngày càng toàn diện và chính xác hơn. Tuy nhiên, cho tới nay những nhận
định về Đơng Kinh nghĩa thục vẫn cịn chưa đồng nhất ở nhiều tác giả. Tư
duy mới trước những vấn đề còn dở dang của lịch sử tư tưởng giai đoạn
cận đại cần đến những phân tích sâu, có tính khách quan hơn trước một sự
kiện đáng được quan tâm và ghi nhận. Cố gắng kế thừa, tiếp thu những
thành tựu của người đi trước, chúng tôi thấy rằng việc đi sâu hơn nữa
nghiên cứu nội dung và phương thức tiếp biến tư tưởng giáo dục Nhật Bản
thời kỳ Minh Trị duy tân của các nhà nho tiến bộ trong phong trào Đông
Kinh nghĩa thục một là điều cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với việc
nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, nhất là
9


trong thực trạng giáo dục hiện nay đang cần một sự đổi mới toàn diện,
mạnh mẽ.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu của luận văn là: Làm rõ những khía cạnh tư tưởng về giáo
dục thời kỳ Minh Trị duy tân ảnh hưởng đến tư tưởng cải cách giáo dục của
phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
* Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề văn hóa, tư tưởng
của Việt Nam và thế giới làm cơ sở cho yêu cầu cải cách ở Việt Nam và sự
du nhập của tư tưởng cải cách giáo dục của Nhật Bản đến nước ta đầu thế
kỷ XX.
+ Trình bày khái quát những tư tưởng cải cách giáo dục cơ bản thời
kỳ Minh Trị duy tân ở Nhật Bản.
+ Hệ thống hóa và phân tích một số nội dung ảnh hưởng tư tưởng cải
cách giáo dục ở Nhật Bản thời kỳ Minh Trị đến phong trào Đông Kinh
nghĩa thục thông qua việc nghiên cứu di thảo văn thơ của phong trào này.

+ Chỉ ra ý nghĩa và bài học của việc tiếp biến tư tưởng của những
người sáng lập, lãnh đạo Đông Kinh nghĩa thục đối với tiến trình lịch sử tư
tưởng Việt Nam nói chung và đối với công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt
Nam hiện nay nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Ảnh hưởng tư tưởng cải cách
giáo dục Nhật đối với tư tưởng cải cách giáo dục của các nhà sáng lập
Đông Kinh nghĩa thục Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề là: Chủ yếu là các tác phẩm “Khuyến
học”, “Phúc ông tự truyện”, một số nội dun Luật giáo dục được Arinori ban
hành thời Minh Trị (Nhật Bản) và các tác phẩm thơ văn của phong trào
Đông Kinh nghĩa thục (Việt Nam) mới được công bố gần đây.

10


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng,
vận dụng phương pháp luận của việc nghiên cứu lịch sử triết học vào
nghiên cứu lịch sử tư tưởng của Nhật Bản, Việt Nam…
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp nghiên cứu
lịch sử triết học vào nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, đồng
thời luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, so
sánh, đặc biệt chú trọng phương pháp đối chiếu, logic – lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những ảnh hưởng từ tư
tưởng cải cách giáo dục của Nhật Bản thời duy tân Minh Trị đến tư tưởng
cải cách giáo dục của phong trào Đơng Kinh nghĩa thục. Từ đó góp phần
khẳng định ý nghĩa của bài học tiếp biến tư tưởng cải cách giáo dục của các

nho sĩ duy tân yêu nước đầu thế kỷ XX đối với công cuộc cải cách giáo dục
ở Việt Nam hiện nay.
7.

Ý nghĩa của luận văn

Luận văn bước đầu làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu ảnh hưởng
từ tư tưởng giáo dục thời kỳ Minh Trị duy tân tác động đến Việt Nam qua
trường hợp phong trào Đơng Kinh nghĩa thục. Từ đó, rút ra một số đánh giá
ý nghĩa và bài học của phương thức tiếp biến tư tưởng bên ngoài ở các nhà
nho duy tân trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục đối với tiến trình lịch
sử tư tưởng của dân tộc và giá trị đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện
nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương với 7 tiết.

11


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN
CHO SỰ DU NHẬP TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC THỜI KỲ MINH TRỊ
NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX –
đầu thế kỷ XX và những tác động đến Việt Nam
1.1.1. Bối cảnh thế giới và khu vực những năm cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX
Đến thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc,
các nước tư bản phương Tây âm mưu mở rộng thị trường bằng cách đi xâm
lấn các nước bên ngoài, đặc biệt là các nước Châu Á, Châu Phi và Mỹ La

tinh. Trong quá trình mở rộng ảnh hưởng và bành trướng đó, đến thế kỷ
XIX, các quốc gia tư bản sau một thời kỳ phát triển trong điều kiện tự do
cạnh tranh đã tất yếu chuyển dần sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa. Bằng
nhiều cách phản ứng với mức độ đấu tranh khác nhau, nhưng đều thất bại,
trừ Nhật Bản, các dân tộc châu Á và nhiều quốc gia trên thế giới đã từng
bước trở thành thuộc địa và phụ thuộc nặng nề về kinh tế, chính trị vào các
nước thực dân phương Tây. Vào cuối thế kỷ XIX, trong quá trình bành
trướng, cạnh tranh khốc liệt, mạnh mẽ của chủ nghĩa thực dân, các nước tư
bản Anh, Pháp, Đức, Mỹ đã dần dần nổi lên như những đế quốc trên thế
giới. Theo đó, năm 1881, Pháp đã thiết lập chế độ bảo hộ ở Tunisi; năm
1882, Anh chiếm Ai Cập, năm 1883, Đức bắt đầu tham gia giành đất thuộc
địa ở Tây - Nam Phi. Trong các năm 1884 - 1885, Pháp và Anh tiến mạnh
xâm lược đến khu vực Đông Dương và Miến Điện (Myanmar); năm 1889
các nước Đức, Anh và Mỹ chiếm vương quốc Samoan và phân chia nước
này thành ba vùng cộng trị. Như vậy, đến giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XIX,
phần lớn khu vực Trung Đông, châu Phi, châu Á - Thái Bình Dương đều
lần lượt rơi vào tay các cường quốc thực dân. Ở Đông Bắc Á, cho đến giữa

12


thế kỷ XIX, các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên cũng bắt đầu
bị cơn lốc của chủ nghĩa thực dân tràn tới uy hiếp.
Hầu hết các nước Đông Á, trừ Nhật Bản cịn chìm đắm trong chế độ
phong kiến hàng ngàn năm với hệ tư tưởng Nho giáo giữ vai trò chủ đạo
trong mọi mặt đời sống xã hội. Sự xâm lấn của thực dân phương Tây khiến
nhiều nước ở khu vực này lần lượt trở thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa
do: giai cấp phong kiến thống trị hèn yếu; dùng biện pháp cải lương, nửa
vời nên nhanh chóng thất bại; hoặc đấu tranh vũ trang song lực lượng lẻ tẻ,
chưa có đường lối lãnh đạo đúng đắn nên các phong trào lần lượt bị thực

dân đàn áp trong bể máu.
Sự xâm lấn của thực dân phương Tây cũng tạo nên một làn sóng du
nhập văn hóa phương Tây vào Châu Á, làm thức tỉnh giới học trị, trí thức
ở các nước này. Đến nửa cuối thế kỷ XIX, một làn sóng cải cách đã lần
lượt nổi lên ở hầu khắp các nước Đông Á như một hiện tượng lịch sử phổ
biến với quy mơ, tính chất, diễn biến và kết quả khác nhau. Một số nước đã
đề xuất và thực hiện những tư tưởng cải cách: Trung Quốc, Thái Lan, Nhật
Bản… nhưng duy nhất chỉ có Nhật Bản duy tân thắng lợi.
Trước sự xâm nhập của văn minh phương Tây, Nhật Bản đã có sự
tiếp nhận dần dần, đổi mới, thi hành nhiều chính sách, biện pháp hiệu quả
nhằm cải thiện tình hình, bảo vệ nền độc lập làm tiền để cho công cuộc
canh tân Minh Trị, bắt đầu từ khi Thiên hoàng Minh Trị lên ngôi năm
1868. Sau 30 năm, cuộc cải cách này đã đạt được những thành tựu vĩ đại,
đưa nước Nhật từ một nước phong kiến thành nước đế quốc đầu tiên và duy
nhất ở Châu Á vào cuối thế kỷ XIX. Cải cách Minh Trị với sự thay đổi
quan hệ sản xuất từ phong kiến sang tư bản chủ nghĩa đã biến Nhật Bản từ
một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước tư bản phát triển nhờ những
cách tân trên mọi lĩnh vực, đặc biệt giáo dục đã đi trước một bước.
Cuộc cải cách cuối thế kỷ XIX tại Thái Lan với vai trò của hai nhà
vua: Mongkut và Chulalongkorn cùng chủ trương tránh đối đầu, cải cách
13


ơn hịa về mặt chính trị - xã hội, tăng cường buôn bán với các nước phương
Tây đã giúp triều đình phong kiến bảo vệ được nền độc lập của mình tuy
phải san sẽ bớt thực quyền.
Vốn được coi là cái nôi của nền văn minh Đông Á, Trung Quốc ln
tự tơn, coi mình là trung tâm văn minh của đất nước khác. Nước này coi
các vùng khác, đặc biệt là phương Tây, là “man di, mọi rợ”. Nhưng ngay
khi xuất hiện mối đe dọa, các nước phương Tây bắt đầu uy hiếp Trung

Hoa, mà mở đầu là thực dân Anh với cuộc chiến tranh Nha phiến năm
1840, thì đến những năm 60 của thế kỷ XIX, giới nho sĩ duy tân ở Trung
Quốc đã bắt đầu khởi xướng một cuộc vận động học tập văn minh phương
Tây, hay còn gọi là phong trào Dương vụ để đưa Trung Quốc tiến kịp
phương Tây, chống được xâm lược phương Tây. Tiếp theo, cuối thế kỷ
XIX lại nổi lên phong trào vận động Mậu Tuất chính biến năm 1898. Tư
tưởng do Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng mở màn cho
Mậu Tuất chính biến, đưa ra một số chương trình cải tổ nhằm mở cửa, đưa
nền kinh tế của Trung Quốc phát triển theo hướng tư bản, chống lại sự lạc
hậu, bảo thủ, trì trệ của triều đình Mãn Thanh và sự can thiệp ngày càng
sâu của các nước Phương Tây. Phong trảo nổ ra năm 1898, lãnh đạo là các
nho sĩ duy tân với sự ủng hộ của vua Quang Tự, bị phe bảo thủ đứng đầu là
Từ Hy Thái Hậu chống lại, cuối cùng cũng bị thất bại sau 103 ngày thực
hiện. Năm 1901, Trung Quốc thực sự bị xâu xé trong tay của các nước
phương Tây sau Điều ước Thiên Tân: Trung Quốc trở thành nước phong
kiến nửa thuộc địa. Từ đây lại khởi phát lên phong trào dân tộc dân chủ do
Tôn Trung Sơn lãnh đạo đưa đến Cách mạng Tân Hợi 1911, thay thế triều
đình phong kiến bằng Nhà nước Cộng hịa do Tơn Trung Sơn làm Tổng
thống. Nhưng thành quả đó mau chóng bị đánh tráo.
Phong trào Duy tân ở Trung Quốc thất bại đã cho thấy việc canh tân
theo văn minh phương Tây đã trở thành yêu cầu bức thiết đối với sự tồn
vong của các nước Đông Á. Phong trào đã để lại những giá trị to lớn,
14


không chỉ đối với lịch sử tư tưởng Trung Quốc, mà các ánh sáng tiến bộ
còn tỏa chiếu lan tràn khắp trong khu vực, cổ súy phong trào các nước
khác. Thông qua Tân văn, Tân thư, Tân báo, các luồng tư tưởng duy tân
của Trung Quốc mang theo cả tư tưởng duy tân của Nhật Bản cũng đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng và tình hình tư tưởng Việt Nam

hồi đầu thế kỷ XX.
Tóm lại, tình hình khu vực và thế giới diễn biến mau chóng đã tạo ra
điều kiện khách quan cho sự chuyển biến, thay đổi nhận thức của các nhà
Nho duy tân tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền… Và sự bàn bạc, phối hợp chặt chẽ giữa họ đã làm
nên nhân tố quan trong chủ quan, những con người là thực thể khởi phát
hiện tượng tiếp biến tư tưởng bên ngồi, trong đó chủ yếu là tư tưởng canh
tân của các nước Đông Á, tư tưởng canh tân giáo dục của thời kỳ Minh Trị
Duy tân để vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong phong trào cứu nước đầu thế
kỷ. Trong đó, nổi bật đặt biệt là phong trào Đơng Kinh nghĩa thục.
1.1.2. Bối cảnh chính trị - xã hội – văn hóa, giáo dục ở Việt Nam
đầu thế kỷ XX
* Về chính trị - xã hội:
Ở Việt Nam, tuy đã biết đến ưu thế của văn minh phương Tây nhưng
vì lợi ích của tập đồn phong kiến, vua quan nhà Nguyễn vẫn kiên trì “bế
quan, tỏa cảng” nhằm ngăn chặn sự tấn công của các nước tư bản và coi
đây là phương thức tự vệ hữu hiệu nhất. Cuối cùng, sự lựa chọn sai lầm đó
là nguyên nhân chính khiến Việt Nam trở thành thuộc địa nửa phong kiến
của thực dân Pháp. Sau Hiệp ước Patenôtre năm 1883, nhà Nguyễn mất chủ
quyền và trở thành chính quyền bù nhìn dưới sự thống trị của Pháp.
Cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, sau cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất của thực dân Pháp, nước ta căn bản trở thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến, chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Chúng thi hành
chính sách cai trị chuyên chế với bộ máy kép thực dân – phong kiến đàn áp
15


nặng nề lên đất nước Việt Nam. Chúng thực thi chia nhỏ quyền lực, đặt ba
chế độ chính trị ở ba miền Bắc – Trung – Nam để dễ bề thao túng.
Để phục vụ cho công cuộc khai thác và bóc lột kinh tế, Pơn Đume đã

tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước lai ghép, chặt chẽ, đồng thời thực
hiện thủ đoạn “chia để trị” và “dùng người Việt trị người Việt”.
Ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh thành lập Liên bang
Đông Dương gồm các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và Campuchia, đến
ngày 19/4/1899, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm Lào vào Liên
bang Đông Dương, trực thuộc Bộ Thuộc địa. Đứng đầu Liên bang Đơng
Dương là viên Tồn quyền người Pháp, đại diện cho chính phủ Pháp trực
tiếp cai trị Đơng Dương về mọi mặt. Dưới Hội đồng tối cao Đơng Dương,
có các cơ quan Trung ương về quân sự, dân sự, pháp lý, thanh tra, cảnh sát
tài chính, canh nơng, thương mại, bưu điện, y tế….đặc trách các cơng việc
giúp Tồn quyền điều hành bộ máy thống trị và khai thác bóc lột.
Việc củng cố chính quyền Liên bang gắn chặt với việc củng cố chính
quyền các xứ. Thủ đoạn “chia để trị” là một trong những nguyên tắc chỉ
đạo hành động của chúng. Nước Việt Nam chia làm ba xứ với ba chế độ
khác nhau.
Nam Kỳ là xứ thuộc địa gồm 20 tỉnh do thực dân trực tiếp cai trị về
mọi mặt.
Trung Kỳ là xứ bảo hộ chia làm 14 tỉnh do một viên quan Khâm sứ
Pháp đứng đầu, triều đình Huế vẫn được duy trì với tên gọi “Chính
phủ Nam triều”. Nhưng mọi quyền hành đều ở Tòa Khâm sứ do viên Khâm
sứ Pháp đứng đầu. Ngồi ra cịn có Hội đồng bảo hộ gồm một hay hai đại
diện của Phịng Thương mại hay Canh nơng, hai đại diện của Viện Cơ mật.
Bắc kỳ là xứ “nửa bảo hộ” do một viên Thống sứ người Pháp đứng
đầu. Bên cạnh Phủ Thống sứ có Hội đồng bảo hộ và hai Phịng Thương mại
và Canh nông ở hai thành phố lớn Hà Nội và Hải Phịng. Bắc Kỳ có 26
tỉnh, 35 đại lý, 4 đạo quan binh và hai thành phố.
16


Hệ thống chính quyền ở Trung kỳ và Bắc Kỳ từ cấp tỉnh trở xuống

về đại thể giống nhau. Đứng đầu mỗi tỉnh là một viên Công sứ người Pháp.
Bên cạnh tịa Cơng sứ, hệ thống tổ chức quan lại cũ vẫn được duy trì. Tất
cả các quan “Nam triều” này chỉ đóng vai trị thừa hành những quyết định
của Tịa Cơng sứ Pháp. Mỗi tỉnh chia làm nhiều phủ, huyện bao gồm các
tổng, xã, làng, đạo, châu đối với các tỉnh miền núi là các tổng, làng, bản.
Song song với việc tăng cường và củng cố bộ máy hành chính, thực
dân Pháp cịn tăng cường bộ máy qn sự, cảnh sát, tịa án, nhà tù nhằm
nhanh chóng hồn thành triệt để cơng cuộc bình định, để “phịng thủ Đơng
Dương”, “mở rộng quyền lợi của nước Pháp ở vùng Viễn Đông, nhất là các
nước lân cận với Đông Dương” và phục vụ cho cơng cuộc khai thác, bóc
lột.
Đi đơi với bộ máy quân sự, cảnh sát to lớn là hệ thống pháp luật khắc
nghiệt với chế độ riêng cho từng xứ cùng hệ thống tòa án, nhà tù dầy đặc
khắp Việt Nam. Từ huyện, phủ, châu trở lên điều có nhà tù và trại giam.
Ngồi ra thực dân Pháp cịn thực hiện thủ đoạn chia rẽ dân tộc và tôn giáo.
Bộ máy chính quyền của thực dân Pháp được thiết lập trên cơ sở của
sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với giai cấp phong kiến phản động
do thực dân Pháp chi phối nhằm thực hiện chính sách khai thác, bóc lột vơ
cùng tàn bạo của chúng.
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cũng ảnh hưởng mạnh
mẽ đến cơ cấu xã hội, sự phân hóa giai cấp diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.
Bên cạnh những giai cấp cũ là địa chủ phong kiến và nông dân cịn xuất
hiện thêm giai cấp mới từ q trình bóc lột thuộc địa là giai cấp cơng nhân,
đồng thời là sự hình thành của tầng lớp tiểu tư sản.
+ Giai cấp địa chủ:
Giai cấp địa chủ, tuy mất “địa vị tối cao” nhưng không bị suy yếu
với sự xâm nhập của tư bản Pháp, trái lại còn mạnh lên về số lượng, thế lực
và kinh tế, chính trị, được thực dân Pháp dung dưỡng trở thành tay sai đắc
17



lực cho chúng, ra sức bóc lột nhân dân ta. Nhưng thái độ chính trị của giai
cấp địa chủ có phân hóa. Bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước
sẵn sàng tham gia cách mạng. Một bộ phận lững thững chờ thời. Một bộ
phận cấu kết với thực dân Pháp. Một bộ phận chuyển hóa trở nên nhà tư
sản là cơ sở xã hội cho các phong trào duy tân yêu nước.
+ Giai cấp nông dân:
Bị phân hóa sâu sắc vì chính họ là đối tượng bị bóc lột. Nạn cướp
đoạt ruộng đất của thực dân Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến, cùng sưu
cao thuế nặng, tạp dịch cũng như thiên tai xảy ra liên miên dẫn đến nơng
dân bị mất mùa nạn đói đã đẩy nơng dân vào con đường bần cùng hóa và
phá sản. Hơn 95% dân số là mù chữ, bị vơ sản hóa, người nơng dân phải bỏ
làng bỏ xóm ra thành phố, đến các cơng trường, hầm mỏ, xí nghiệp, đồn
điền để làm th. Chính vì vậy họ khơng ngừng tham gia các cuộc đấu
tranh chống đế quốc và phong kiến. Đây cũng là cơ sở cho cuộc vận động
giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản trong những năm đầu
thế kỉ XX.
+ Tầng lớp tư sản:
Hình thành sau giai cấp cơng nhân sau đợt khái thác thuộc địa lần
thứ nhất, giai cấp tư sản số lượng cịn ít, nguồn gốc xuất thân, thái độ chính
trị khác nhau. Tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam ra đời sau tầng lớp tư sản
mại bản nhưng không có địa vị cao về kinh tế và chính trị, lại bị tư sản
Pháp và tư sản người Hoa chèn ép. Với thực lực kinh tế chính trị yếu ớt, lại
bị phụ thuộc vào Pháp, cho nên tầng lớp tư sản chưa đủ điều kiện để trở
thành một giai cấp làm lực lượng lãnh đạo. Tất cả các đặc điểm đó dẫn đến
yếu tố cải lương trong q trình đấu tranh đầu thế kỷ XX.
+ Tầng lớp trí thức Nho học và tiểu tư sản:
Trí thức Nho học và tiểu tư sản là tầng lớp hình thành sớm cùng chế
độ thuộc địa. Đến đầu thể kỷ XX, thành phần của tầng lớp này trở nên phức
tạp và cũng phát triển theo quy mô khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,

18


bao gồm: tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên, học sinh, trí thức,… Tầng lớp
này bị chế độ phong kiến và thực dân Pháp chèn ép dẫn đến thường bị phá
sản và bần cùng hóa, nên có tinh thần yêu nước sẵn sàng tham gia vào cách
mạng. Tầng lớp này trong phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX
chưa thể là lực lượng xã hội chính để tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ
bên ngoài vào, mà lực lượng chính yếu có điều kiện trở thành lực lượng
lãnh đạo là các Nho sĩ duy tân yêu nước: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Nguyễn Quyền, Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ…
+ Giai cấp công nhân:
Ra đời rất sớm, là lực lượng xã hội mới quan trọng, nhưng đầu thế kỷ
XX, họ chưa trở thành giai cấp tự giác. Đây là lớp công nhân đầu tiên làm
việc trong hầm mỏ, đồn điền, xí nghiệp…họ tập trung chủ yếu ở những đô
thị trung tâm công nghiệp khai thác mỏ quan trọng của thực dân Pháp. Đời
sống công nhân hết sức gian khổ, nên họ ra sức đấu tranh. Ngay từ khi mới
ra đời giai cấp công nhân Việt Nam sớm đã kế thừa những tư tưởng yêu
nước nhưng họ chưa thể tiếp nhận những tư tưởng cải lương bên ngoài và
trở thành lực lượng chính của phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Chính
vì vậy giai cấp cơng nhân Việt Nam cịn có những đặc điểm riêng: Có mối
quan hệ gắn bó với giai cấp nơng dân; Kế thừa truyền thống yêu nước của
cha ông ta; Chịu hai tầng áp bức bóc lột là đế quốc và phong kiến; Mới ra
đời đã tiếp thu những ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin mà ít chịu ảnh
hưởng của các tư tưởng tư sản phi Mác xít.
* Về kinh tế:
Thực dân Pháp du nhập khơng hồn chỉnh phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa vào nước ta, đồng thời vẫn tiếp tục duy trì quan hệ kinh tế
phong kiến để tăng cường lợi nhuận. Chúng đẩy mạnh khai thác thuộc địa
trên tất cả các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, giao thông

vận tải với quy mô và tốc độ ngày càng tăng. Trong chính sách khai thác

19


×