Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Quan niệm của I. Kant về Vật tự nó trong Phê phán lý tính thuần túy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 78 trang )



1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ HẢI YẾN





QUAN NIỆM CỦA I.KANT VỀ "VẬT TỰ NÓ"
TRONG PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học









Hà Nội - 2013


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ HẢI YẾN





QUAN NIỆM CỦA I.KANT VỀ "VẬT TỰ NÓ"
TRONG PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY





Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60.22.80






Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đặng Hữu Toàn







Hà Nội - 2013


4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 6
6. Đóng góp của luận văn 6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 7
8. Kết cấu luận văn 7
NỘI DUNG 8
CHƯƠNG 1: I.KANT VỚI TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN LÝ TÍNH
THUẦN TÚY” 8
1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và những tiền đề cho sự hình

thành triết học I.Kant 8
1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội 8
1.1.2. Tiền đề khoa học tự nhiên 14
1.1.3. Tiền đề lý luận 21
1.2. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của I.Kant 26
1.3. Về tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” 32
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CĂN BẢN TRONG QUAN NIỆM
CỦA I.KANT VỀ "VẬT TỰ NÓ" 39
2.1. “Hiện tượng” và “Thế giới hiện tượng” trong quan niệm của I.Kant 40
2.2. “Vật tự nó” và “Thế giới vật tự nó” trong quan niệm của I.Kant 45
2.3. Giới hạn nhận thức của con người trong quan niệm của I.Kant 58
2.4. Giá trị và hạn chế trong quan niệm của I.Kant về “Vật tự nó” 62
KẾT LUẬN 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Ph.Ăngghen, “một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao của khoa học
thì không thể không có tư duy lý luận”, nhưng tư duy lý luận ấy “cần phải
được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách
nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”, vì “triết học là sự
tổng kết lịch sử tư duy” (Hêghen). Mà lịch sử phát triển của tư duy lại được
tổng kết trong lịch sử triết học, vì thế việc nghiên cứu tư duy lý luận là một
yêu cầu cấp thiết được đặt ra cho các ngành khoa học hiện nay. Nghiên cứu tư
duy lý luận giúp cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận tốt nhất cho việc
nghiên cứu các ngành khoa học nói chung và khoa học xã hội nhân văn nói
riêng. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, vấn đề nghiên cứu triết học nhân loại
là vấn đề đang được các nhà khoa học tâm huyết trong nước quan tâm và chú

ý, nhằm tiếp thu những tinh hoa của văn hóa nhân loại, đồng thời vận dụng
vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam từ đó đổi mới cách nhìn, đổi mới phương
pháp tư duy cũ đang tồn tại lâu đời, dần xóa bỏ những cổ hủ, lạc hậu, nhằm
thực hiện “cuộc cách mạng Copernic” trong đổi mới tư duy.
Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu lịch sử triết học còn ít. Hầu như
chỉ tập trung ở một một số trường đại học lớn mang tính chất đặc thù, chuyên
ngành. Chính vì vậy, nghiên cứu lịch sử triết học là một việc làm hết sức cần
thiết nhằm đi tìm hiểu cội nguồn lịch sử tư tưởng triết học thế giới.
Trong dòng chảy lịch sử triết học nhân loại, nổi lên những triết gia của
thời đại, một trong những triết gia vĩ đại đó là I.Kant của triết học cổ điển
Đức, bên cạnh các triết gia khác như Hêghen, Phoiơbắc…Immanuel Kant
(I.Kant) được coi là người đã thực hiện cuộc cách mạng Copernic trong nhận
thức luận. I.Kant so sánh sự chuyển hướng trong cách tìm hiểu tri thức của


2
mình với cuộc cách mạng Copernic trong thiên văn học. “Nếu trái đất quay
xung quanh mặt trời là trái với lý thường tình, thì sự vật khách quan tuân thủ
trí tuệ con người cũng trái với lý thường tình” [28, 339 ]. Ông được tôn vinh
là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Triết học I.Kant đã có ảnh
hưởng rất lớn đối với các trào lưu triết học phương Tây. Với tác phẩm “Phê
phán lý tính thuần túy” sức hấp dẫn của nó không chỉ bởi những luận điểm
phức tạp, đầy mâu thuẫn của I.Kant, cũng không phải vì có quá nhiều những ý
kiến trái ngược nhau về tư tưởng triết học của ông “Triết học I.Kant là một
hiện tượng hết sức phức tạp” [16, 27]. Một trong những nguyên nhân để
chúng tôi đi vào tìm hiểu triết học I.Kant chính là ở chỗ, trong triết học I.Kant
có khá nhiều những vấn đề được các học giả quan tâm như đạo đức, triết học
lịch sử, siêu hình học, triết học thực tiễn…những vấn đề này hiện nay vẫn còn
gây nhiều bàn cãi và chưa đi đến hồi kết. Tính tích cực của chủ thể nhận thức,
năng lực, giới hạn và cấu trúc của lý tính, mâu thuẫn trong quá trình nhận

thức, sự tồn tại và bất tử của Linh hồn, Thượng đế, Thế giới luôn là những
nan đề có rất nhiều kiến giải khác nhau xoay quanh và luôn tìm về triết học
I.Kant như là những luận điểm khai phá có tính lịch sử. I.Kant đã phân biệt
hai lĩnh vực nhận thức: lĩnh vực mà con người có thể nhận thức được đó là thế
giới hiện tượng, và lĩnh vực mà lý tính con người dù đã làm cuộc bạo động
xâm nhập vào nó nhưng vẫn bất lực, không thể nhận thức được – thế giới vật
tự nó. Với những tư tưởng đó, I.Kant đã phê phán mạnh mẽ sự bất lực của siêu
hình học truyền thống, khi nó sử dụng phương pháp tiếp cận của khoa học tự
nhiên để nhận thức “Vật tự nó”. Theo I.Kant, triết học có sứ mệnh cao cả là cứu
nguy cho siêu hình học truyền thống, cần phải tiến hành phê phán chính lý tính.
Lý tính đã mắc phải những mâu thuẫn không thể giải quyết, chính những mâu
thuẫn đó là động lực để I.Kant chuyển sang lĩnh vực thực hành.


3
Vậy có thế giới “Vật tự nó” hay không? Con người không thể nhận
thức được “Vật tự nó” hay chưa thể nhận thức được “Vật tự nó”? Những vấn
đề mà I.Kant đặt ra đã được ông luận giả như thế nào? Hiện nay vẫn còn là
chủ đề của những cuộc tranh luận bất tận. Để có cái nhìn tổng quan hơn về
“Vật tự nó” của I.Kant, có thể khẳng định rằng, nghiên cứu “Vật tự nó” của
ông trong Phê phán lý tính thuần túy là hết sức cần thiết, là một yêu cầu nội
tại của chủ nghĩa duy vật khoa học. Nghiên cứu nó, giúp chúng ta có cái nhìn
toàn diện hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn quan niệm của I.Kant về “Vật tự nó”.
Với những suy nghĩ đó, chúng tôi chọn đề tài: “Quan niệm của I.Kant
về "Vật tự nó" trong Phê phán lý tính thuần túy” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trên nhiều bình diện khác nhau, các triết gia Việt Nam đã có những
cách tiếp cận triết học I.Kant từ nhiều cách. Tuy nhiên, chưa có một công
trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “Vật tự nó” trong quan niệm
của I.Kant một cách chính thống. Hầu hết, trong các tác phẩm hay bài viết nói

về triết gia I.Kant, các tác giả chỉ đề cập đến vấn đề “Vật tự nó” trong quan
niệm của ông như là một phần nhỏ trong lý luận nhận thức.
Ở nước ta, đã có nhiều tác giả đi vào nghiên cứu triết học I.Kant. Về
phương diện lịch sử, người đề cập đến triết học I.Kant sớm nhất là GS. Trần Đức
Thảo trong tác phẩm: “Lịch sử tư tưởng trước Marx”. Trong đó, GS. Trần Đức
Thảo đã trình bày các võng luận của phép biện chứng theo cấu trúc tác phẩm
“Phê phán lý tính thuần túy”. Đây là những đánh giá đúng đắn và khách quan
đối với triết học I.Kant. Tuy nhiên, những đánh giá của ông còn sơ lược, chưa đi
sâu vào một vấn đề cụ thể, nhất là ông chưa đi sâu và nghiên cứu vấn đề “Vật
tự nó”, đây chỉ là những nghiên cứu chung về triết học I.Kant.


4
Năm 1962, Nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội) đã cho dịch cuốn “Giáo
trình lịch sử triết học – Giai đoạn triết học cổ điển Đức” do Viện Triết học
thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô biên soạn. Bản dịch đã đem đến cho
độc giả những nét khái lược về triết học cổ điển Đức, trong đó triết học I.Kant
chiếm một vị trí quan trọng. Các tác giả đã nghiên cứu quan niệm của I.Kant
về nhận thức theo ba giai đoạn: cảm tính, giác tính và lý tính, trong đó giai
đoạn nhận thức lý tính là giai đoạn nhận thức cao nhất của con người – tuy
nhiên để đi sâu vào nghiên cứu Vật tự nó trong quan niệm của I.Kant trong
Phê phán lý tính thuần túy thì chưa có.
Trần Thái Đỉnh trong cuốn “Triết học I.Kant” đã nêu lên một cách khá
toàn diện các vấn đề triết học I.Kant. Riêng đối với triết học lý luận, tác giả
cũng đưa ra những luận giả khá sâu sắc. Ông cho rằng khi phê phán lý tính
thuần túy, I.Kant không nhằm phá hủy siêu hình học mà trái lại cố gắng xây
dựng một siêu hình học mới. Tác giả dành khá nhiều tâm huyết trình bày các
võng luận của nhận thức triết học I.Kant. Đây là một công trình khá đầy đủ và
phong phú về triết học I.Kant, tuy nhiên để dành một dung lượng cho việc
nghiên cứu Vật tự nó trong quan niệm của I.Kant, thì hầu như cũng như các

tác giả trước, Trần Thái Đỉnh chỉ đề cập đến Vật tự nó như một phần trong lý
luận nhận thức của I.Kant chứ chưa đi sâu vào phân tích.
Trong cuốn “Triết học Immanuen Kant” của PGS.TS. Nguyễn Văn
Huyên xuất bản năm 1996, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tác giả đã trình bày
những nét tổng quát về triết học nhận thức và triết học thực tiễn của I.Kant.
Tác giả đã nêu lên những Antinomia của lý tính con người trong quá trình
nhận thức, phân tích cách giải quyết các Antinomia đó và tính biện chứng còn
được thể hiện ở mặt hình thức của các mối liên hệ các phạm trù, các nhóm


5
phạm trù. Và tác giả cũng chỉ dành một số ít trang để nói về quan niệm Vật tự
nó của I.Kant.
Năm 1997, Viện Triết học đã biên soạn và xuất bản cuốn sách: “I.Kant
– người sáng lập nền triết học cổ điển Đức”. Cuốn sách tập hợp bài viết của
14 tác giả nghiên cứu về lĩnh vực khác nhau của triết học I.Kant. Trong đó
các tác giả đã đánh giá quan niệm “Vật tự nó” của I.Kant trong tác phẩm Phê
phán lý tính thuần túy của ông.
Trong luận án tiến sỹ triết học “Vấn đề tự ý thức trong lịch sử triết học
phương Tây” (Hà Nội, 2003), tác giả Nguyễn Văn Sanh đã nghiên cứu triết
học I.Kant là sự tự ý thức của lý tính. Tác giả làm rõ ý nghĩa các khái niệm
như “tổng giác tiên nghiệm”, “cái Tôi tư duy”, “tự ý thức thuần túy” là gần
gũi về mặt ý nghĩa.
Như vậy, việc nghiên cứu về triết học I.Kant luôn thu hút sự chú ý của
nhiều học giả. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu riêng về “Vật tự nó”
của I.Kant chưa thực sự nhiều, chưa có một công trình nào dành tâm huyết và
đi sâu vào phân tích quan niệm Vật tự nó của I.Kant, có chăng chỉ là những
phân tích về phần lý luận nhận thức của ông nói chung và khi đi vào phân tích
thì các học giả còn có khá nhiều quan điểm khác nhau. Do đó, “Vật tự nó”
của I.Kant vẫn luôn là đối tượng nghiên cứu của triết học hiện đại.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Làm rõ quan niệm của I.Kant về “Vật tự nó” trong “Phê phán lý tính
thuần túy” để trên cơ sở đó, bước đầu nhận xét về những giá trị và hạn chế
của quan niệm này.


6
Nhiệm vụ:
- Phân tích những điều kiện và tiền đề hình thành quan niệm “Vật tự nó”
của I.Kant trong “Phê phán lý tính thuần túy”
- Phân tích quan niệm của I. Kant về “Vật tự nó” được thể hiện trong tác
phẩm “Phê phán lý tính thuần túy”.
- Bước đầu nhận xét về những giá trị và hạn chế trong quan niệm của
I.Kant về “Vật tự nó”.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của I.Kant về vấn đề “Vật tự nó”.
- Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề “Vật tự nó” trong quan niệm của I.Kant
trong “Phê phán lý tính thuần túy”.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm triết học Mác – Lênin về triết
học như một hình thái ý thức xã hội. Đồng thời, luận văn dựa trên những nghiên
cứu của các nhà kinh điển Mác – Lênin về lịch sử triết học nói chung, về triết học
I.Kant nói riêng; các sách, bài nghiên cứu của các tác giả về triết học cổ điển Đức,
triết học I.Kant như những chỉ dẫn quý báu về mặt phương pháp luận.
Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích, so sánh, phân tích tổng
hợp, kết hợp giữa lôgic và lịch sử, diễn dịch, quy nạp…
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân tích quan niệm của I.Kant về “Vật tự nó” trong “Phê
phán lý tính thuần túy”, luận văn bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế

trong quan niệm về “Vật tự nó” của I.Kant.


7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn đáp ứng phần nào yêu cầu về nghiên cứu ngày một tăng đối với
triết học I.Kant ở nước ta, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc học tập và nghiên cứu lịch sử triết học.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 2 chương và 7 tiết.


8
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
I.KANT VỚI TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TÚY”
1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và những tiền đề cho sự hình
thành triết học I.Kant
1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn
tại xã hội, là sự kết tinh của những tinh hoa tinh thần của một thời đại. Do
đó, sự ra đời và phát triển của mỗi học thuyết triết học luôn luôn chịu sự
chi phối và phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội nhất
định. Đó chính là tính quy luật lịch sử, là cánh cửa đầu tiên vô cùng cần
thiết và quan trọng để bước vào nghiên cứu nguồn gốc, nội dung, đặc
điểm và ý nghĩa lịch sử của một hệ thống triết học. Trong tính quy luật
chung đó, khi đi vào nghiên cứu triết học I.Kant, việc nghiên cứu điều
kiện lịch sử thời đại mà ông đang sống là một bước đệm tiên quyết để
hiểu được triết học của I.Kant.

Lịch sử các nước châu Âu thế kỷ XVII – XVIII đã bước sang một
giai đoạn mới, một loạt nước Châu Âu như Anh, Pháp, Italia, Hà
Lan…chế độ phong kiến về cơ bản đã rời bỏ vũ đài chính trị - lịch sử của
mình để nhường chỗ cho chế độ tư bản. Đặc biệt là vào nửa cuối thế kỷ
XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội mới, khẳng
định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phá tan dần các quan hệ
phong kiến, làm xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới với các nhu cầu xã
hội và cá nhân mới.


9
Cách mạng công nghiệp Anh như một biến cố kinh tế quan trọng nhất
trong đời sống kinh tế - xã hội tư bản lúc bấy giờ, đem lại sự phát triển nhảy
vọt của sản xuất, làm tăng trưởng mạnh mẽ trình độ, khối lượng và nhịp độ
sản xuất. Bên cạnh đó, các cuộc Cách mạng xã hội thế kỷ XVII – XVIII mở
đường cho phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc Cách mạng Tư
sản Pháp (1789 – 1794).
Hai cuộc cách mạng trên có ý nghĩa lịch sử rất lớn lao với thời đại:
“Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong
nhận thức thế giới, cách mạng Tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế
giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh
công nghiệp” [16, 8].
Với ý nghĩa lịch sử lớn lao, hai cuộc cách mạng đó đã có những ảnh
hưởng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước châu Âu, được đánh dấu
bằng một loạt các cuộc cách mạng liên tiếp nổ ra: cách mạng tư sản ở
Anh, Hà Lan, Pháp, Italia…chấm dứt sự thống trị của chế độ phong kiến
hàng nghìn năm gắn liền với hệ thống thần quyền và giáo luật khắt khe,
mở đầu cho sự ra đời và phát triển của chế độ tư bản. Chủ nghĩa tư bản ra
đời đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử, tỏ ra
ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội trước đó. Bước chuyển đó

đã đem lại cho châu Âu một diện mạo mới với những thành tựu khổng lồ
về kinh tế - xã hội và văn hóa nhân loại đã đạt được trong thời kỳ bình
minh đầy tính cách mạng của chủ nghĩa tư bản. Đó là những tiền đề quan
trọng thúc đẩy khoa học nói chung và triết học nói riêng phát triển. Đặc
biệt đối với triết học, sự chuyển biến được thể hiện rõ. Trong thời đại tư
bản chủ nghĩa, hệ thống thần học như một chiếc áo khoác lên, che đậy cho
chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa kinh viện giáo điều với những lý luận hoàn
toàn hướng con người tới một thế giới ảo tưởng, xa rời hiện thực cuộc


10
sống đã bị cởi bỏ, thay thế bởi chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa
duy lý. Triết học thâm nhập khám phá cuộc sống, tìm hiểu những bí ẩn
trong lý tính của con người. Các nhà tư tưởng tư sản trả lại cho con người
những quyền mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận: quyền tự do,
quyền bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu
hạnh phúc. Con người phải vươn tới trí tuệ tự do và đích thực.
Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt
công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, nước Pháp nhờ
Cách mạng Tư sản 1789, giai cấp tư bản đã tiêu diệt chế độ phong kiến,
đang tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, cả châu Âu đang phát
triển nhanh và mạnh mẽ, nhưng trái lại nước Đức vẫn triền miên trong
giấc ngủ Đông – vẫn còn là một nước phong kiến lạc hậu, với chế độ quân
chủ chuyên chế phân quyền, bị phân hóa cả về kinh tế lẫn chính trị. Triết
học I.Kant đã ra đời trong hoàn cảnh đó, một nước Đức hết sức phức tạp
và đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa. Sau khi thất bại trong chiến
tranh nông dân (1525), thế kỷ XVII, nước Đức lại trải qua cuộc chiến
tranh 30 năm kéo theo hậu quả nghiêm trọng là sự tàn phá ghê gớm, nặng
nề cả về con người và của cải. Xã hội Đức cuối thế kỷ XVIII còn là một
nước nghèo nàn, lạc hậu, phát triển trì trệ so với các nước Tây Âu xung

quanh. Tập đoàn phong kiến Đức đang thống trị độc đoán và ngoan cố.
Liên bang Đức chỉ tồn tại về hình thức, thực tế đất nước còn phân thành
nhiều tiểu vương quốc tách biệt nhau với hàng trăm cát cứ phong kiến.
Đứng đầu mỗi cát cứ là một chúa đất có quyền lực vô hạn đối với thần
dân của mình. Trong mỗi lãnh địa đều có quân đội, cảnh sát, tiền tệ và
thuế quan riêng. Sự phân tán về kinh tế, chính trị cùng với sự bảo thủ độc
đoán của triều đình Phổ là lực cản lớn của nước Đức trên con đường phát
triển tư bản chủ nghĩa.


11
Về kinh tế: nền kinh tế thị trường bị ràng buộc bởi quan hệ kinh tế
sản xuất phong kiến lạc hậu. Sự tập trung ruộng đất trong tay địa chủ,
những tàn dư của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự phụ
thuộc lẫn nhau của nhiều cát cứ nhỏ bé với các thể chế chính trị phản
động…đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm tăng thêm mức độ lạc hậu
của nước Đức so với các nước phát triển tư bản chủ nghĩa. Năng suất lao
động thấp, đời sống của đại đa số quần chúng nhân dân trở nên nghèo
nàn, cùng cực. Toàn cảnh nền kinh tế nước Đức lúc bấy giờ hết sức manh
mún, trì trệ và phân tán.
Về chính trị: Vua Friedrich Wilhem II đứng đầu triều đình Phổ lúc
bấy giờ vẫn rất bảo thủ và ngoan cố tăng cường quyền lực, duy trì chế độ
quân chủ chuyên chế hà khắc, muốn nhân dân mình quay trở về thời trung
cổ, ngăn cản đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Mặc dù vậy,
song giai cấp tư sản nước Đức lúc đó vẫn còn non nớt và yếu đuối, chưa
có đủ điều kiện chín muồi cho việc nổi dậy giành chính quyền. Chính vì
thế, cả nước Đức bao trùm một bầu không khí ngột ngạt, bất bình của
nhân dân.
Về tư tưởng: Hệ tư tưởng thần học chiếm vị trí độc tôn trên vũ đài lý
luận. Thần học là khoa cơ bản trong các trường đại học tổng hợp. Triết học và

các môn khoa học xã hội khác nhiều khi chỉ là sự biện hộ và bảo vệ cho thần
học. Người cha tinh thần của triết học Đức lúc đó là Christian Wolft, người kế
tục tư tưởng duy tâm của Lépnít. Đa số học trò của Wolft đều chiếm những vị
trí quan trọng trong các trường đại học Đức lúc bấy giờ. Triết học tiến hành
cuộc thỏa hiệp với tôn giáo và đành nhượng bộ nó trong nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn.
Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của xã hội Đức đương thời phủ một
màu xám, đúng như lời khắc họa của Ăngghen: “Không ai cảm thấy mình dễ


12
chịu…Mọi cái đều tồi tệ và tâm trạng bất mãn bao trùm cả nước. Không có
giáo dục…không có tự do báo chí, không có dư luận xã hội - không có gì cả
ngoài sự đê tiện và tự tư tự lợi, lề thói con buôn hèn mạt, xum xoe nịnh hót
thảm hại, đã xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng
sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn lấy một tia hy vọng chuyển biến tốt lên, vì dân
tộc thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết
rồi” [1, 754].
Trước ảnh hưởng như vũ bão của các cuộc cách mạng tư sản trên
thế giới, đặc biệt là Cách mạng Tư sản Pháp (1789), cùng với bối cảnh
kinh tế xã hội phức tạp, rối ren và đầy mâu thuẫn của nước Đức lúc bấy
giờ đã tác động mạnh tới tư tưởng của giai cấp tư sản Đức. Họ đã đặt ra
vấn đề cách mạng, nhưng không phải trong thực tế mà chỉ trong tư tưởng
mà thôi. Bởi vì, không giống như các nhà tư tưởng Pháp, các nhà tư
tưởng Đức không đồng thời là các nhà hoạt động cách mạng. Không như
P.H.Hôlbách, C.A.Helvêtiút hay Đ.Điđrô và các nhà hoạt động khác thời
kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm chính vì thế họ
không dám làm một cuộc cách mạng trong hiện thực mà chỉ làm cuộc
cách mạng trong tư tưởng. Giai cấp tư sản non yếu đang trong quá trình
tích lũy tư bản vẫn phải dựa vào sự bảo hộ của quý tộc nên cuộc đấu

tranh chính trị mạnh mẽ với giới quý tộc là điều mà họ chưa thể nghĩ tới.
Điều đó được phản ảnh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng
chống lại trật tự phong kiến và cuối cùng thể thiện ở sự thỏa hiệp của họ.
Các học thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức duy
tâm và yếu hèn, không thể làm cơ sở cho sự cải tạo tư sản nước Đức theo
mong muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu: tự do, trí tuệ, hạnh phúc và
quyền con người. Trong tầng lớp trí thức Đức thời bấy giờ xuất hiện tình
trạng bi quan, bất mãn và bất lực. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới tư


13
tưởng cải lương, thỏa hiệp, phủ nhận sự cải tạo xã hội cũ bằng bạo lực
cách mạng, biện hộ cho sự tồn tại của nhà nước Phổ và xã hội đương
thời. Họ lấy triết học làm vũ khí phê phán và chuyển tải tư tưởng cách
mạng. Triết học là nơi gửi gắm, thể hiện khát vọng cải tạo hiện thực của
con người. Sự tìm lối thoát trong triết học ấy đã được C.Mác nhận xét:
“Giống như các dân tộc cổ đại đã trải qua thời kỳ tiền sử của mình trong
tư tưởng, trong thần thoại, những người Đức chúng ta cũng vậy, chúng
ta đang trải qua lịch sử tương lai của chúng ta trong tư tưởng, trong
triết học…Triết học Đức là sự tiếp tục của lịch sử Đức trong ý niệm” [1,
557]. “Cũng giống như ở Pháp hồi thế kỷ XVIII, cách mạng triết học
Đức hồi thế kỷ XIX cũng đi trước một cuộc cách mạng chính trị”[3, 39],
nhưng khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư
sản Đức ngay từ đầu đã muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc
Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết
vấn đề phát triển đất nước.
Tính chất cải lương thỏa hiệp về tư tưởng chính trị của tầng lớp trí
thức Đức đương thời đã có ảnh hưởng lớn đến I.Kant. Là một học giả chỉ
nghiên cứu khoa học và triết học, bận rộn với công việc giảng dạy cũng
như giải thích các thành quả nghiên cứu của mình, I.Kant ít quan tâm đến

các vấn đề chính trị, ngại đụng chạm đến chính quyền nhà nước. Nhưng
ông lại có một tấm lòng nhân đạo cao cả, có thiện cảm với quần chúng
nhân dân lao động nghèo khổ. Trong suy nghĩ của nhà triết học diễn ra
mâu thuẫn với các câu hỏi: cần phải làm gì và làm như thế nào để đạt
được hai mục đích: 1) nói lên tư tưởng khoa học, đề cao vai trò lý tính,
phản ánh nguyện vọng muốn thay đổi chế độ quân chủ chuyên chế hà
khắc bằng một xã hội dân chủ tư sản, đem lại quyền lợi đích thực cho mọi
công dân xã hội; 2) làm vừa lòng chính thể nhà nước hiện tồn. Mâu thuẫn


14
tâm lý đó chuyển thành mâu thuẫn tư tưởng và biểu hiện một cách cụ thể
trong học thuyết triết học của I.Kant, đúng như lời nhận xét của Giáo sư
Trần Đức Thảo: “Sự bất lực trong tư tưởng của Kant phản ánh sự bất lực
của giai cấp tư sản Đức nằm trong một hệ thống châu Âu đã tiến bộ
nhiều, đã hoặc đang làm cách mạng tư sản” [40, 390]. “Tư tưởng của
Kant biểu hiện những ưu khuyết điểm của cách mạng tư sản một cách
đúng đắn” [38, 419]. Dưới sự tác động của cả hai sức ép: một bên là sự cổ
vũ mạnh mẽ của các nhà khai sáng, cách mạng tư sản Pháp- những tư
tưởng tiến bộ; một bên là sức ép chính trị của chính quyền chuyên chế
Phổ đương nhiệm với chính sách trừng trị hà khắc đối với những học giả
có tư tưởng chống đối nhà nước, I.Kant cũng đã chọn con đường cải
lương, thỏa hiệp với luận điểm: “Tôi phải dẹp bỏ nhận thức đi để dành
chỗ cho lòng tin và thuyết giáo điều trong siêu hình học” [20, 55]
Tóm lại, triết học I.Kant là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh kinh tế - xã
hội Đức đầu thế kỷ XVIII; nó phản ánh một cách đúng đắn thực trạng xã hội
Đức với những mâu thuẫn phát sinh trong lòng xã hội đó. Đồng thời triết học
I.Kant cũng là sự khai phá tiến bộ trên lĩnh vực tư tưởng, được coi là “lý luận
Đức của cuộc cách mạng tư sản Pháp”
1.1.2. Tiền đề khoa học tự nhiên

Mỗi một học thuyết triết học đều không bao giờ ra đời trên mảnh đất
hiện thực trống rỗng mà nó là sự kế thừa, tiếp tục phát triển những tư
tưởng trước đó của nhân loại. Triết học I.Kant không chỉ hình thành trong
bối cảnh lịch sử rối ren, phức tạp của nước Đức thế kỷ XVIII mà còn là sự
tiếp thu những tinh hoa tư tưởng của thời đại. Trước hết cần phải đề cập
tới những thành quả trong khoa học tự nhiên – một trong những yếu tố tác
động trực tiếp tới sự hình thành thế giới quan, phương pháp luận, quan


15
điểm của các nhà triết học. Triết học và khoa học tự nhiên luôn là hai
người bạn song hành gắn bó với nhau trong sự phát triển, chúng có sự tác
động qua lại với nhau một cách biện chứng. Những phát minh, những
thành tựu trong khoa học tự nhiên đã cung cấp cho triết học những tư liệu
sinh động, những bằng chứng cụ thể làm cơ sở để từ đó triết học khái quát
thành những khái niệm, phạm trù, quy luật, nguyên lý, đồng thời khoa học
tự nhiên cũng tạo tiền đề để triết học xây dựng những phương pháp nhận
thức: siêu hình, biện chứng, quy nạp, diễn dịch…Trong quá trình phát
triển, những khám phá, phát hiện mới của khoa học tự nhiên đã đặt triết
học trước những vấn đề lý luận với yêu cầu phải có những lý giải phù hợp
với những phát minh khoa học trong nhận thức và giải thích thế giới. Có
thể nói, I.Kant là một minh chứng điển hình cho điều đó. I.Kant nghiên
cứu về vật lý học, khoa học tự nhiên và địa chất, ông dạy môn địa lý tự
nhiên trong suốt bốn thập niên. Là một nhà khoa học tự nhiên, một nhà
triết học lỗi lạc, I.Kant không thể không chịu ảnh hưởng của những phát
minh trong khoa học tự nhiên, như chính ông khẳng định: “Con đường
triết học phải đi là con đường của sự minh triết, đồng thời cũng là con
đường của khoa học mà một khi đã khai phá sẽ không bao giờ để cho bị
vùi lấp lại và làm ta lạc hướng” [20, 1185]. “Sự tiến bộ của khoa học tự
nhiên, kỹ thuật và y học cũng như sự vén mây ảo thuật của thiên nhiên

qua những thành tựu khoa học” [20, XXXII]. Khoa học tự nhiên có lịch
sử phát triển lâu dài mà điểm khởi đầu là các tri thức toán học, thiên văn
học, vật lý học của các nhà thông thái Hy Lạp như Talét, Pitago, Ơclit,
Ácsimét. Nhà thông thái đầu tiên của triết học Hy Lạp cổ đại đã phát
minh ra các định lý hình học rất có giá trị và được Pitago tiếp tục phát
triển. Tư duy toán học Hy Lạp đạt tới đỉnh cao trong 13 cuốn “Cơ sở hình
học” của Ơclit đã tạo nên cả một thời đại phát triển rực rỡ của hình học,


16
đó là những chuẩn mực tri thức có giá trị cho quá trình xây dựng và phát
triển khoa học toán học sau này. Acsimet là người đã áp dụng những tri
thức toán học vào hành động thực tiễn và thấy rằng toán học có vai trò vô
cùng to lớn, là chìa khóa vạn năng giải quyết được mọi vấn đề. Đó là
những tư tưởng đặt nền móng cho toàn bộ hệ thống toán học cũng như
khoa học tự nhiên phương Tây. I.Kant trong quá trình nghiên cứu toán
học đã rất lưu ý đến tri thức toán học nói trên. Ông nhận xét: “Từ rất xa
xưa mà lịch sử của lý tính con người có thể vươn tới, toán học đã đi con
đường vững chắc của một khoa học nơi dân tộc Hy Lạp đáng ngưỡng
mộ…Một ánh sáng đã lóe lên trong đầu óc người đầu tiên (đó là Thales
hay có thể một tên tuổi nào khác) khi ông chứng minh tam giác cân. Đó là
khi ông thấy rằng không thể dựa vào những gì ông nhìn thấy trong hình
tam giác, hay dò theo khái niệm đơn thuần về nó để từ đó rút ra đặc điểm,
trái lại phải tạo ra hình tam giác từ những gì tự ông nghĩ ra một các tiên
nghiệm dựa theo các khái niệm, và diễn tả nó (bằng sự cấu tạo –
Konstruktion); và thấy rằng để nhận thức chắc chắn về cái gì một cách
tiên nghiệm, ông không cần phải gán cho sự vật những thuộc tính nào
khác ngoài những gì được tất yếu rút ra từ cái mà bản thân ông đã đặt
vào sự vật, phù hợp với khái niệm của ông về nó” [20, 40 – 41]. Những
nhận xét trên của I.Kant đã cho chúng ta thấy rằng, I.Kant tin vào những

định lý, tiên đề toán học cũng giống như các khái niệm, phạm trù triết học
không phải được khái quát lên từ những kết quả của sự nghiên cứu, khảo
sát trong thực tế, từ kinh nghiệm cảm tính, mà ngược lại đó là những điều
tiên nghiệm sẵn có ở trong giác tính của con người. I.Kant đã trượt sang
con đường của chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm, xa rời tính chất duy vật thể
hiện trong toán học thời kỳ Hy Lạp.


17
Nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết của đời sống sản xuất hiện thực,
khoa học tự nhiên đương thời đã tiếp tục tiến những bước vĩ đại, đã sản
sinh ra những con người khổng lồ, đáng kể là Côpécnic, Niutơn,
Đềcáctơ…Những phát minh vạch thời đại của họ đã tạo nên những bước
ngoặt trong nhận thức của nhân loại và có ảnh hưởng quan trọng đến tư
tưởng triết học của I.Kant. Năm 1543 tại BaLan nhà thiên văn học
Côpécnic đã cho ra đời tác phẩm: Về sự vận động của các thiên thể với
Học thuyết nhật tâm là hạt nhân, nó đã công kích mạnh khuynh hướng
duy tâm siêu hình, bảo thủ có phần ngây thơ của thuyết địa tâm do
Aristốt khởi xướng và Plôtêmê phát triển ở thời cổ đại. Côpécnic cho
rằng mặt trời đứng im làm trung tâm của vũ trụ, còn trái đất và một số vì
sao khác thì quay quanh mặt trời. Thuyết nhật tâm không chỉ tạo nên một
bước ngoặt quan trọng không chỉ trong lĩnh vực thiên văn học, khoa học
mà còn trong lĩnh vực triết học. Và I.Kant đã thực hiện một cuộc cách
mạng Côpécnic trong triết học, đặt nền móng sau này cho sự phát triển
của triết học cổ điển Đức nói riêng và triết học nói chung. Trong lịch sử
triết học người ta gọi đó là “cuộc cách mạng Corpecnic về lề lối tư duy”
[20, 41]. I.Kant cho rằng phương pháp của Siêu hình học “đến này chỉ là
sự mò mẫm đơn thuần, và càng tệ hại hơn, chỉ là sự mò mẫm giữa những
khái niệm suông mà thôi” [20, 43]. Chính vì thế, tư duy triết học cần
phải tiến hành một cuộc đảo lộn như Corpecnic từng làm. I.Kant viết:

“Siêu hình học như là tri thức lý luận, ít ra cũng nên thử mô phỏng điểm
cốt yêu này. Lâu này người ta giả định rằng mọi tri thức của ta phải
hướng theo các đối tượng; thế nhưng mọi nỗ lức dùng các khái niệm để
xử lý đối tượng một cách tiên nghiệm hầu qua đó mở rộng nhận thức của
ta đều đi đến thất bại cũng tại vì giả định này. Vì thế hãy thử nghiệm để
biết đâu chúng ta có thể tiến lên tốt hơn trong việc giải quyết các vấn đề


18
Siêu hình học bằng cách giả định rằng các đối tượng phải hướng theo
nhận thức của chúng ta; nhận thức ấy sẽ phù hợp tốt hơn với khả thể
được đòi hỏi của một nhận thức tiên nghiệm về đối tượng, tức loại nhận
thức xác định một cái gì đó về đối tượng trước khi đối tượng được mang
lại cho ta. Đó chính là tình hình đã xảy ra với ý tưởng đầu tiên của
Corpecnic” [20, 44]. I.Kant thực sự đã thực hiện một cuộc đảo lộn
Corpecnic trong triết học của mình, đặt nền móng cho sự chuyển hướng
trong triết học cổ điển Đức sau này.
Cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất mở đầu bằng Corpecnic và
kết thúc vào giữa thế kỷ XVIII đã bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau của
khoa học tự nhiên. Cuộc cách mạng đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với triết học đương thời. Bước đầu nó đã khắc phục những trở ngại của
phương pháp tư duy siêu hình thống trị suốt mấy thế kỷ, qua đó tạo tiền
đề cho sự hình thành một phương pháp nhận thức mới – phương pháp
biện chứng, với sự kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, giữa quy nạp và
diễn dịch, giữa trực quan cảm tính và tư duy trừu tượng nhằm nhận thức
thế giới một cách sâu sắc hơn.
Sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên tới triết học nói chung và sự lựa
chọn đi theo chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của I.Kant nói riêng được ông đề
cập tới trong “Lời tựa cho lần xuất bản lần thứ hai (1787)” cho cuốn “Phê
phán lý tính thuần túy”: “Khi Galilei cho những viên bi có trọng lượng do ông

tự lựa chọn trượt xuôi theo một mặt phẳng nghiêng, hay Torricelli để cho
không khí mang một trọng lượng mà ông tự nghĩ ra từ trước ngang bằng với
trọng lượng của một cột nước đã biết, hay muộn hơn, khi Stahl chuyển hóa
kim loại thành vôi và lại chuyển hóa thành kim loại bằng cách rút bớt đi và
cho them trở lại một cái gì đấy nơi chúng, thì cũng có một tia sáng lóe lên


19
trong đầu óc của mọi nhà nghiên cứu tự nhiên. Họ hiểu ra rằng lý tính chỉ
nhận ra những gì do bản thân nó tạo ra theo phác họa của nó…bắt buộc tự
nhiên phải trả lời cho các câu hỏi của nó, chứ không chỉ chịu để cho tự nhiên
dẫn dắt” [20, 41-42].
Gần một thế kỷ sau, tại Anh xuất hiện nhà toán cơ kiêm triết học
Niutơn, với sự ra đời của cuốn Nguyên tắc toán học có ý nghĩa không kém gì
cuốn Về sự vận động của các thiên thể của Corpecnic. Những tri thức khoa
học tự nhiên của Newton đã tác động lớn đến quan điểm khoa học của I.Kant
cả về nội dung lẫn phương pháp nghiên cứu. I.Kant cho rằng phương pháp
của Newton trong khoa học tự nhiên đã biến sự tùy tiện của các giả thuyết vật
lý thành một phương pháp nghiên cứu đáng tin cậy, là phương pháp dựa vào
kinh nghiệm và hình học. Tư duy sáng tạo mạnh mẽ của Niutơn là động lực
mạnh mẽ tiếp sức cho I.Kant trong việc nghiên cứu triết học lý luận, mà tiêu
biểu là tác phẩm Phê phán lý tính thuần túy.
I.Kant nhận thấy rằng triết học cũng giống như khoa học tự nhiên
phải dựa vào những kinh nghiệm cảm tính, quan sát thực nghiệm và cả lý
tính trong đó lý tính đóng vai trò quan trọng bậc nhất. Niutơn (Anh),
Đềcáctơ (Pháp), Lépnit (Đức) đã đưa toán học vận dụng vào sản xuất và
đời sống xã hội, đối tượng của toán học vượt ra khỏi dạng tĩnh, vươn sang
dạng động.
Các nhà khoa học đã chỉ ra một cách hệ thống những hình thức vẫn
động của vật chất vượt lên trên cách hiểu cơ học, lý học, hóa học, sinh

học. Việc phát minh ra điện và sử dụng điện năng đã góp phần tạo ra
bước nhảy vọt của phát triển sản xuất từ công trường thủ công tới công
trường cơ khí, đồng thời chứng thực những phát triển đầu tiên của khoa
học về sự bảo toàn và biến hóa năng lượng và vật chất của vũ trụ.


20
Lômônôxốp chứng minh bằng thực nghiệm luật “Bảo toàn và chuyển hóa
năng lượng”. Nhà hóa học Pháp Lavoare dựa vào những phát minh hóa
học, bác bỏ quan niệm về sự tồn tại của một vật chất đặc biệt: chất cháy
không trọng lượng, đặt nền móng cho sự cháy và ôxy hóa nói chung. Sau
sự sụp đổ của thuyết chất cháy, khoa học tự nhiên dù chưa bác bỏ hết
những “chất không trọng lượng” khác như “chất nhiệt”, “chất ánh
sáng”, “chất âm thanh”…nhưng đã khám phá ra rằng nhiệt, ánh sáng, âm
thanh…đều là những hình thức vận động khác nhau của vật chất. Với
nguyên lý cấu tạo hóa học khác nhau của vật thể do Đan tơ khám phá ở
Anh, người ta đã giải thích được rằng những thay đổi về chất của vật thể
đều phụ thuộc vào cấu tạo lượng của nó. Sự phân tích quá trình hóa học
đã làm thay đổi quan niệm máy móc coi vận động chỉ là sự chuyển dịch
đơn giản của sự vật.
Gơtơ nêu lên nhiều quan niệm tiên tiến về giải phẫu học so sánh và về
địa chất học. Nghiên cứu vật hóa thạch trong long đất, Cuviê chứng minh giới
thực vật và động vật đều có sự phát triển theo quá trình địa chất của trái đất.
Tiến hóa luận của Lamác và Vônphơ bác bỏ “dự thành luận” với quan niệm
cho rằng mọi sinh vật sinh ra đều có dự định sẵn, đều nhất thành, bất
biến…cùng với việc phát hiện ra tế bào của Lơ ven huc đòi hỏi phải có cách
lý giải mới về sự sống. Sau đó là thuyết tiến hóa của Đác uyn ra đời tạo nên
một bước ngoặt trong nhận thức về nguồn gốc các loài. Trong sinh học có dự
báo về sự phát triển trong sinh học – bào thai đã mang trong nó mọi dấu hiệu
của một sinh vật trưởng thành, do đó không có gì mới xuất hiện mà không có

nguồn gốc của nó.
Vai trò của khoa học tự nhiên đối với sự phát triển của triết học một lần
nữa được Ph.Ănghen đánh giá trong tác phẩm “Lútvich Phoiơbắc và sự cáo


21
chung của triết học cổ điển Đức”: “Trong suốt thời kỳ lâu dài từ Descartes
đến Hegel, Từ Hobbes đến Feuerbach, cái thúc đẩy các nhà triết học tiến lên
hoàn toàn không phải là sức mạnh của tư duy thuần túy như họ tưởng tượng.
Trái lại cái thật ra đã thúc đẩy họ tiến lên chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ,
ngày càng nhanh chóng và ngày càng mãnh liệt của khoa học tự nhiên và của
công nghệ”[3, 407].
Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên đạt được đã đem đến
cho I.Kant quan niệm mới về sức mạnh và khả năng trí tuệ của con người
trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Có thể nói, những điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội và khoa học tự nhiên là những động lực không thể thiếu góp
phần hình thành triết học I.Kant. Chính những điều kiện tiền đề đó đã tạo nên
diện mạo triết học cổ điển Đức nói chung và triết học I.Kant nói riêng, đặc
biệt là quan niệm về Vật tự nó độc đáo và riêng biệt trong tác phẩm Phê phán
lý tính thuần túy.
1.1.3. Tiền đề lý luận
Nằm trong lòng của thời Cận đại nước Đức với những điều kiện
kinh tế - xã hội kém phát triển nhưng “triết học I.Kant đã xuất hiện với
ánh sáng tân kỳ của một tư tưởng “tân tiến” [20, L – Dẫn luận, Thái Kim
Lan]. Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ
có thể nảy sinh trong lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn, nếu
nó biết tiếp thu thành tựu mọi mặt của các nước tiến bộ khác. Ở Pháp vào
thế kỷ XVIII, nền kinh tế kém phát triển hơn Anh, nhưng lại hình thành
chủ nghĩa duy vật F.H.Honbach, C.A.Henvitiut, R.Điđrô…do dựa trên
những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII và chủ nghĩa duy

vật Hà Lan (Xpinoza). Nước Đức cũng nằm trong sự phát triển tư tưởng
vượt thời đại ấy. Kinh nghiệm lịch sử của cuộc cách mạng Anh thế kỷ


22
XVII, cũng như của cách mạng Pháp thế kỷ XVIII đã có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của nước Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức đã tiếp thu di sản tư tưởng phong phú của triết học
nhân loại. Là một triết gia tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức, I.Kant
đã không nằm ngoài sự ảnh hưởng mạnh mẽ của dòng chảy nhân loại.
Ông đã phát triển triết học của mình như là kết quả của quá trình tiếp thu
và phê phán nhiều trào lưu triết học quá khứ và đương thời.
Một trong những bậc tiền bối ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng của
I.Kant, nhất là quan niệm về “Vật tự nó” mà I.Kant đã nêu lên trong tác phẩm
“Phê phán lý tính thuần túy” chúng ta phải kể đến Đavit Hium.
Đavit Hium (D.Hium ) (1711 – 1776) là một nhà triết học nổi tiếng
người Anh, đại biểu điển hình của thuyết không thể biết (“bất khả tri
luận”) và chủ nghĩa hoài nghi, một đại biểu của chủ nghĩa chủ quan điển
hình – chủ nghĩa duy ngã. Ông đã phê phán mạnh mẽ các khoa học và ý
thức thông thường thời đó, ông cho rằng khoa học tầm thường và ý thức
thông thường của con người ngày càng có xu hướng đối lập với triết học.
D.Hium khẳng định sở dĩ có tình trạng như vậy là do từ trước tới giờ
khoa học về con người, về nhận thức con người chưa được phát triển một
cách đầy đủ. Vì thế, D.Hium coi nhiệm vụ của mình là đưa triết học
thoát khỏi tình trạng trên bằng cách biến triết học thành học thuyết về
con người. Ông tuyệt đối hóa và đề cao vai trò của cảm giác, coi đó là
điểm xuất phát và dạng cơ bản của nhận thức. D.Hium tách rời giữa cảm
giác của con người với thế giới bên ngoài, ông cho rằng nhận thức có
nguồn gốc từ cảm giác của con người và không cần đến sự tác động của
thế giới bên ngoài - sự vật là sự phức hợp của cảm giác. Từ đó, D.Hium

cho rằng chúng ta không thể biết được gì về thế giới này cả, thậm chí

×