Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quan niệm của I. Cantơ về bản chất của nhận thức trong tác phẩm phê phán lý tính thuần tuý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

HÀ HUY TUẤN

Quan niệm của I. Cantơ về bản chất của
nhận thức trong tác phẩm phê phán lý tính
thuần tuý

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

HÀ HUY TUẤN

Quan niệm của I. Cantơ về bản chất của nhận
thức trong tác phẩm phê phán lý tính thuần tuý
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS: VŨ VĂN VIÊN


Hà Nội - 2005


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 2
Chương 1 .............................................................................................. 10
BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ CÁCH TIẾP CẬN ......................................... 10
CỦA I.CANTƠ VỀ BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC ........................... 10
TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TUÝ ................... 10
1.1. Bối cảnh lịch sử và tiền đề lý luận ra đời tác phẩm Phê phán lý tính
thuần tuý ............................................................................................... 10
1.2. Cách tiếp cận của I.Cantơ với vấn đề nhận thức luận ..................... 26
Chương 2 .............................................................................................. 36
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA I.CANTƠ VỀ BẢN CHẤT CỦA
............................................................................................................. 36
NHẬN THỨC TRONG PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TUÝ ................ 36
2.1. Một số nội dung cơ bản thể hiện bản chất của nhận thức trong quan
niệm của I.Cantơ .................................................................................. 36
2.2. Đánh giá quan niệm của I.Cantơ về bản chất của nhận thức .......... 61
KẾT LUẬN .......................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................ 79


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Immanuen Cantơ (1724-1804) là người sáng lập triết học cổ điển Đức.
Bằng lý luận nhận thức được trình bày chủ yếu trong Phê phán lý tính thuần
tuý mở đầu thời kỳ phê phán, ông được coi là người đã làm "cuộc cách mạng
Côpécníc trong triết học" khi đặt lại vấn đề bản chất của nhận thức trên cơ sở

lập ra một "toà án lý tính" xem xét những điều kiện khả thể, giới hạn và khả
năng nhận thức của con người. Lấy sự phê phán nhận thức luận của hai trào
lưu siêu hình học nổi danh đương thời là chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh
nghiệm làm tiền đề, I.Cantơ dự định xây dựng một khoa học triết học bắt đầu
từ nền tảng của nhận thức, với mong muốn tìm ra nguyên tắc bản nhiên của lý
tính; và quả thực ông đã có đóng góp vĩ đại cho lịch sử triết học với tư cách là
người tổng hợp tri thức nhân loại và làm cầu nối tư tưởng phương Tây từ cận
đại đến hiện đại.
Triết học I.Cantơ đậm tính nhân văn với mục đích đem lại cho con
người một cách nhìn mới về thế giới và về bản thân mình. Theo I.Cantơ, triết
học phải tạo lập cho con người một nền tảng thế giới quan mới, vạch ra những
nguyên tắc cơ bản của cuộc sống và những lý tưởng nhân đạo. Các vấn đề
trên đều xoay quanh năng lực của lý tính, phản ánh ba khía cạnh cơ bản nhất
trong mối quan hệ ''con người - thế giới'' là nhận thức, thực tiễn và giá trị. Vấn
đề thứ nhất: con người với tư cách chủ thể nhận thức có thể biết được những
gì về thế giới. Đây là vấn đề nhận thức luận thuần túy, được triển khai trong
triết học lý luận của I.Cantơ; trong đó, bản chất của nhận thức là một nội dung
quan trọng cần được quan tâm nghiên cứu.
Triết học I.Cantơ là nền tảng, điểm xuất phát của triết học Đức hiện
đại; chứa đựng cả những hạn chế và công lao. Ph.Ăngghen nhận xét "chính
I.Cantơ là người đầu tiên đã phá vỡ cái quan niệm hoàn toàn thích hợp với
phương pháp tư duy siêu hình và ông đã phá vỡ một cách hết sức khoa học


3
đến mức mà hiện nay phần lớn những lý lẽ của ông đã dùng để chứng minh
vẫn còn giá trị" [23, tr.86]*. Nhận xét này trước hết nhằm đề cao những tư
tưởng biện chứng của I.Cantơ giữa lúc khoa học hiện đại đang cần có một tư
duy mới vạch đường. Những tư tưởng ấy cho đến nay vẫn còn có ý nghĩa. Vì
vậy, tiếp tục nghiên cứu triết học I.Cantơ nói chung, quan niệm về bản chất

của nhận thức và tri thức nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết, đặc biệt
trong bối cảnh các khoa học về tư duy đang phát triển mạnh mẽ hướng tới nền
kinh tế tri thức hiện nay.
Phê phán lý tính thuần tuý là một tác phẩm đồ sộ, chứa đựng nhiều tư
tưởng quan trọng của I.Cantơ về nhận thức luận, lôgíc học với tham vọng đặt
nền móng cho một "môn siêu hình học mới muốn trở thành một khoa học
thực sự". Việc triển khai theo hướng nhận thức luận tiên nghiệm giúp I.Cantơ
có một cách đặt vấn đề mới về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại so với siêu
hình học truyền thống khởi từ thời kỳ tiền Xôcrát đến C.Vônphơ. Chính điều
đó đã đưa I.Cantơ đến chỗ độc đáo và trở thành triết gia có ảnh hưởng rộng
trong các trào lưu triết học phương Tây hiện đại. Đồng thời cũng là triết gia
gây nhiều tranh luận trái ngược nhất trong lịch sử triết học từ các cách tiếp
cận khác nhau về các chủ đề mà ông nêu ra. Do vậy, nghiên cứu vấn đề bản
chất của nhận thức trong tác phẩm này sẽ tạo cơ sở cho việc nghiên cứu các tư
tưởng khác của I.Cantơ và góp phần lý giải sức sống của nó trong các trào lưu
triết học phương Tây hiện đại.
Mặt khác, việc giảng dạy lịch sử triết học phương Tây ở nước ta hiện
nay đang được đẩy mạnh, đòi hỏi phải có thêm nhiều công trình đi vào tìm
hiểu, nghiên cứu mảng đề tài quan trọng và khó khăn này, phục vụ công tác
giảng dạy và nghiên cứu lý luận. Với những lý do trên, tôi chọn “Quan niệm
của I.Cantơ về bản chất của nhận thức trong tác phẩm Phê phán lý tính
thuần tuý” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
*

Từ đây: - Số đầu là số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo;


4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay ở Việt Nam đã có một số công trình viết về triết học

I.Cantơ nói chung và tác phẩm Phê phán lý tính thuần tuý nói riêng theo
nhiều phương diện khác nhau. Thứ nhất là loại công trình viết về triết học
I.Cantơ, trong đó có bàn đến nhận thức luận của ông. Ngoài bản triết học
thường thức chủ yếu trình bày giản lược tư tưởng I.Cantơ của Nguyễn Đình
Thi, trước hết, các tác giả chỉ ra việc I.Cantơ đã phân biệt tri thức khoa học
với tri thức thông thường, thực ra là phân biệt nhận thức tiên nghiệm và nhận
thức kinh nghiệm. Trần Thái Đỉnh trình bày nhận thức luận của I.Cantơ theo
trình tự lôgíc của cuốn Phê phán lý tính thuần tuý, khẳng định "tri thức đích
thực, tức tri thức khoa học bao giờ cũng chắc chắn vì tất yếu và phổ quát và
được áp dụng một cách tiên thiên tuyệt đối"; điều này được I.Cantơ chứng
minh bằng các tri thức luận lý, toán học, vật lý, và cố gắng xây dựng nó trong
môn siêu hình học [Xem: 8, tr.24]. Cách trình bày này có ưu điểm là bám sát
tác phẩm gốc của I.Cantơ nhưng chưa đánh giá mặt tích cực và hạn chế của
ông. Tác giả Nguyễn Văn Huyên khẳng định "I.Cantơ đối lập hai loại tri thức:
tri thức hạn chế và tri thức khoa học" [Xem: 14, tr.71]; đồng thời phân tích
hai cấp độ của nhận thức kinh nghiệm là kinh nghiệm thông thường và kinh
nghiệm nhận thức khoa học; hai cấp độ của nhận thức tiên nghiệm là cái có
trước kinh nghiệm và cái siêu nghiệm [Xem: 14, tr.59]. Các tác giả cũng phân
tích khá rõ khả năng nhận thức của cảm tính, giác tính và lý tính được I.Cantơ
trình bày tương ứng với khả năng nhận thức của toán học, khoa học tự nhiên
lý thuyết và siêu hình học.
Những đóng góp của các công trình khảo cứu này là chỉ ra các tư tưởng
triết học cơ bản của I.Cantơ cũng như đánh giá chung về giá trị hiện thời của
các tư tưởng ấy. Nhưng với di sản khổng lồ của triết gia này thì việc nghiên
cứu đòi hỏi phải tiếp tục đi sâu hơn nữa vào từng mảng đề tài, từng chủ đề,
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.


5
hay từng tác phẩm riêng của ông. Một số bài viết về siêu hình học, nhận thức

luận, lôgíc học và phép biện chứng tiên nghiệm của I.Cantơ được tập hợp
trong cuốn I.Cantơ - người sáng lập nền triết học cổ điển Đức do Nhà xuất
bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1997 và Hội thảo khoa học "Triết học cổ
điển Đức: nhận thức luận và đạo đức học", trường Đại học Khoa học xã hội
và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) tổ chức thành công vào tháng
12/2004 phần nào đáp ứng yêu cầu đó.
Nội dung các bài viết này khá phong phú. Vấn đề bản chất nhận thức
của I.Cantơ được tác giả Vũ Văn Viên chỉ ra là có tính chất tiên nghiệm và
tổng hợp và I.Cantơ tin rằng nhận thức luận tiên nghiệm ấy đã được hiện thực
hoá trong toán học và khoa học tự nhiên [Xem: 49]. Trong nhận thức luận
I.Cantơ, tính tích cực của chủ thể nhận thức được xem là yếu tố có giá trị cao,
hình thành trong phép diễn dịch tiên nghiệm về các phạm trù [Xem: 3, tr.78].
Bảng phạm trù của I.Cantơ có tính phổ quát và tất yếu, tương đối đầy đủ và
hệ thống, sắp xếp theo nhịp ba: tiền đề - phản đề - hợp đề, nhưng tác giả Lê
Công Sự cho rằng, các phạm trù của I.Cantơ chỉ là cách nói khác đi "ý niệm
bẩm sinh" của R.Đềcáctơ, "chân lý vĩnh cửu" của G.V.Lépnít mà thôi [Xem:
33, tr.92-93]. Học thuyết về "antinômia" và "lôgíc tiên nghiệm" của I.Cantơ
chỉ ra mâu thuẫn không thể giải quyết được của lý tính thuần tuý khiến cho lý
tính phải cậy đến lòng tin, phản ánh thực trạng phổ biến của triết học duy tâm
lúc đó là đều xuất phát từ thần học và không vượt qua khuôn khổ của thần
học; nhưng đồng thời nó cũng là điểm khởi đầu của lôgíc biện chứng khoa
học [Xem: 47, tr.66]. Như vậy, tư tưởng biện chứng của I.Cantơ cũng là một
giá trị, tác giả Đặng Hữu Toàn đánh giá: "Không chỉ "nêu lại phép biện
chứng" mà các nhà siêu hình thế kỷ XVII-XVIII đã đưa nó vào lãng quên,
không chỉ làm cho nó thoát khỏi địa vị của một thứ triết lý hão huyền, một
"nghệ thuật hùng biện" như các nhà triết học cổ đại Hy Lạp quan niệm,
I.Cantơ đã tạo ra trong hệ thống triết học duy tâm tiên nghiệm của mình một


6

hình thức mới của phép biện chứng - phép biện chứng tiên nghiệm" [41,
tr.23]. Cách tiếp cận triết học cũng là một vấn đề được các học giả quan tâm ở
I.Cantơ. Tác giả Hồ Sỹ Quý khẳng định triết học I.Cantơ mang tinh thần phê
phán hết sức rõ rệt, đã phê phán một cách trực diện và không thương tiếc toàn
bộ "linh hồn" của triết học tiền bối; triết học nào cũng ít nhiều sử dụng vũ khí
phê phán nhưng phê phán được nâng lên thành một phương thức xây dựng tư
tưởng, được hệ thống hoá thành một cách tiếp cận riêng thì chỉ có ở I.Cantơ
[Xem: 29, tr.283-284]. Tác giả Đỗ Minh Hợp chỉ ra đặc trưng của cách tiếp
cận tiên nghiệm của triết học I.Cantơ là "quay lại với ý thức chỉ được làm
sáng tỏ hơn, chỉ có tính chất đặc thù hơn", tức là một cách tiếp cận xác định
đối với việc phân tích ý thức [Xem: 12, tr.265-266]. Vấn đề "cái siêu việt",
"cái siêu nghiệm" được tác giả Phạm Minh Lăng và Phạm Văn Chung đề cập
như là sức mạnh kỳ diệu của trí tuệ cũng là nội dung mang tính thời đại.
Những hạn chế và giá trị của nhận thức luận I.Cantơ được trình bày xen kẽ,
rải rác trong các bài viết. Có thể rút ra hạn chế chủ yếu là tính chất duy tâm và
bất khả tri trong việc nhận thức thế giới. Nhưng không thể phủ nhận công lao
to lớn của I.Cantơ: đặt lại vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà cầu
nối là chủ thể nhận thức với toàn bộ tính tích cực, sáng tạo của chủ thể; phân
tích cấu trúc của trực quan và lý tính; đặt vấn đề nghiên cứu công cụ và khả
năng của nhận thức. Mặc dù tác giả Trần Văn Phòng nhận xét "những đóng
góp của I.Cantơ chủ yếu là đặt vấn đề chứ không phải giải quyết vấn đề"
[Xem: 26] song những giá trị này thực sự đã góp phần thúc đẩy triết học và
khoa học phát triển, để cho "khoa học chứng minh về chi tiết". Và sự thực là
"sự xuất hiện của các hệ thống lôgíc hiện đại và các phương pháp nhận thức
khoa học hiện đại đã chứng thực điều đó" [Xem: 49].
Những bài viết này cho thấy việc khai thác các khía cạnh trong triết học
I.Cantơ không bao giờ là đầy đủ cả. Việc đánh giá, lĩnh hội triết học I.Cantơ
một cách thực sự khách quan, chính xác và khoa học là điều không dễ vì tư



7
tưởng của ông chứa đựng rất nhiều vấn đề mới mẻ, uyên bác, phức tạp; và
trong cuộc đời sáng tạo của ông từng có bước ngoặt lớn về lập trường triết
học, những vấn đề ông nêu ra còn ẩn chứa các mâu thuẫn gây nên nhiều cách
lý giải khác nhau.
Khi tác phẩm Phê phán lý tính thuần tuý được dịch lần đầu tiên ra tiếng
Việt năm 2004, dịch giả Bùi Văn Nam Sơn đã trình bày xen lẫn phần chú giải
dẫn nhập của mình nhằm làm rõ hơn các tư tưởng vốn được xem là khá phức
tạp và khó hiểu của I.Cantơ trong cuốn sách. Đồng thời Thái Kim Lan viết bài
dẫn luận. Công trình này có thể coi là những bước đi đầu tiên trực tiếp giới
thiệu Phê phán lý tính thuần tuý - một cuốn sách được A.Sôpenhauơ đánh giá
là "quan trọng nhất trong muôn một được trước tác tại châu Âu" - với bạn đọc
Việt Nam.
Như vậy, nghiên cứu sâu và có hệ thống các đề tài được I.Cantơ gợi mở
trong Phê phán lý tính thuần tuý là công việc mới mẻ của giới học thuật ở
Việt Nam. Trong khi việc tiếp cận văn bản gốc bằng tiếng Đức còn khó khăn
thì bản dịch tiếng Việt nói trên của Bùi Văn Nam Sơn là tài liệu chủ yếu để
nghiên cứu luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Từ sự phân tích cách tiếp cận và những luận
điểm cơ bản của I.Cantơ, luận văn góp phần làm rõ quan niệm của ông về bản
chất của nhận thức trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần tuý.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
1) Phân tích bối cảnh ra đời của tác phẩm, cách tiếp cận của I.Cantơ về
nhận thức trong tác phẩm.
2) Phân tích những nội dung cơ bản nhất thể hiện quan niệm của
I.Cantơ về bản chất của nhận thức.


8

3) Đánh giá một cách khái quát quan niệm của I.Cantơ về bản chất của
nhận thức.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp và phạm vi nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý, quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử triết học.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp so sánh, lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng
hợp nhằm tái hiện và đánh giá quan niệm của I.Cantơ về bản chất nhận thức.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung làm rõ quan niệm của I.Cantơ về bản chất
của nhận thức trong Phê phán lý tính thuần tuý.
5. Đóng góp mới của luận văn
Một là, luận văn góp phần làm rõ nguồn gốc lý luận quan niệm của
I.Cantơ về bản chất của nhận thức trong Phê phán lý tính thuần tuý.
Hai là, bước đầu đánh giá những tích cực cũng như hạn chế trong nhận
thức luận của I.Cantơ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Mặc dù đã có nhiều nhà nghiên cứu viết về I.Cantơ ở các góc độ khác
nhau song để nghiên cứu ngày càng đầy đủ, sâu sắc những quan điểm triết
học của ông thì còn cần rất nhiều công trình khác. Về mặt lý luận, luận văn
hoàn thành sẽ góp một phần nhỏ cho việc nghiên cứu về lý luận nhận thức của
I.Cantơ; về mặt thực tiễn, luận văn có thể dùng làm tài liệu phục vụ tham
khảo cho công tác giảng dạy lịch sử triết học hiện nay ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn


9
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
chia làm 2 chương, 4 tiết.



10
Chương 1
BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ CÁCH TIẾP CẬN
CỦA I.CANTƠ VỀ BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC
TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THUẦN TUÝ
1.1. Bối cảnh lịch sử và tiền đề lý luận ra đời tác phẩm Phê phán lý tính
thuần tuý
Từ thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu thực hiện những bước đi
quan trọng nhằm chuyển đổi phương thức sản xuất phong kiến sang phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; và thực sự đã đạt được những thành tựu kinh
tế - xã hội to lớn, từng bước khẳng định địa vị thống trị của giai cấp tư sản. Sự
phát triển kinh tế tư bản đã phá tan quan hệ sản xuất cát cứ phong kiến trên cơ
sở xuất hiện nhiều ngành sản xuất mới, làm thay đổi phương thức tổ chức lao
động, thay đổi kết cấu giai cấp và đời sống xã hội nói chung. Điểm nhấn của
quá trình này là các cuộc cách mạng xã hội. Nếu cách mạng tư sản lần đầu
tiên nổ ra ở Hà Lan (thế kỷ XVI) báo hiệu thời kỳ Trung cổ đã suy tàn, thì
cách mạng tư sản Anh (1640-1660) là cuộc cách mạng đầu tiên có ý nghĩa lớn
đối với quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản trên phạm vi châu Âu và thế
giới. Cơ sở kinh tế của cuộc cách mạng này là các ngành công nghiệp ở Anh
đã phát triển rất mạnh mẽ, những phát minh về kỹ thuật, nhất là những hình
thức tổ chức mới trong lao động đã làm cho năng suất lao động ở các công
trường thủ công ngày càng tăng. Trong đó, ngành len dạ rất phát triển đã mở
ra cuộc xâm thực của công nghiệp đối với nông nghiệp, làm thay đổi kết cấu
giai cấp và các nhóm xã hội. Tômát Morơ [Thomas More] (1478-1535) - nhà
văn nhân đạo chủ nghĩa, nhà hoạt động chính trị, quốc vụ khanh nước Anh đã mô tả: "Những con cừu xưa kia ngoan ngoãn hiền hậu biết bao, bây giờ
đều trở thành những con vật hung hãn, tham lam. Cừu ăn thịt người, phá hoại
ruộng vườn, nhà cửa và thành thị". Tình trạng "cừu ăn thịt người" thực tế là
sự tước đoạt ruộng đất của nông dân do nhà tư bản công nghiệp và địa chủ



11
liên kết tiến hành, nhằm "biến đồng lúa thành đồng cỏ" dành cho việc chăn
nuôi cừu phục vụ ngành dệt len. Trong Tư bản, C.Mác [Karl Marx] (18181883) đã viết: "Cơ sở của toàn bộ quá trình tiến triển này chính là sự tước
đoạt ruộng đất của nông dân chỉ được tiến hành triệt để ở nước Anh thôi; vì
vậy trong sự phác hoạ sau đây của chúng ta, tất nhiên là nước Anh sẽ giữ một
địa vị bậc nhất"; và "biến đồng ruộng thành đồng cỏ, đó là khẩu hiệu chiến
đấu của lớp quý tộc mới".
Ngành thương nghiệp ở Tây Âu cũng không ngừng mở rộng, nhất là
ngoại thương, cùng với chế độ thực dân xâm chiếm thuộc địa. Một loạt các
công ty thương mại lớn ra đời như: công ty châu Phi (1553) chuyên buôn
vàng, ngà voi, nô lệ da đen; công ty Mátxcơva buôn bán dọc sông Vônga vào
Ba Tư và Ấn Độ; công ty Tây Ban Nha (1577); công ty phương Đông (1579)
buôn bán ven biển Ban Tích; công ty Thổ Nhĩ Kỳ (1581), công ty Đông Ấn
(1600) cạnh tranh với thương nhân Hà Lan và Pháp. Sở giao dịch của Trung
tâm mậu dịch và tài chính khu Xity (Luân Đôn - Anh) cũng được thành lập từ
khá sớm vào năm 1568 để đáp ứng nhu cầu phát triển trao đổi hàng hoá.
Thương nghiệp đã góp phần quan trọng vào quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư
bản và hình thành chủ nghĩa thực dân.
Sự bành trướng hệ thống thuộc địa đạt tới mức độ cao chưa từng có
trong thế kỷ XVII-XVIII, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, cùng với
cách mạng ruộng đất ở Anh; điều đó đòi hỏi một khối lượng sản phẩm công
nghiệp lớn mà nền sản xuất công trường thủ công không đáp ứng nổi. Xuất
phát từ yêu cầu khách quan của xã hội và những điều kiện sẵn có, nước Anh
bước vào giai đoạn cách mạng công nghiệp. Khởi điểm của cuộc cách mạng
này là sự xuất hiện máy móc cơ khí, là sự nhảy vọt từ lao động thủ công sang
lao động bằng máy móc dựa trên những thành tựu số học, cơ học, vật lý học,
hoá học và động lực học... kết hợp với trình độ phân công lao động, chuyên
môn hoá khá hoàn thiện của nền sản xuất. Mở đầu là các phát minh trong



12
ngành bông vải sợi. Năm 1733, nhà kỹ thuật Giôn Cây phát minh ra thoi bay
làm cho năng suất sợi tăng gấp đôi. Năm 1735, Abraham Đácbi phát minh ra
phương pháp nấu than cốc từ than đá để luyện gang, góp phần phát triển
ngành luyện kim và cơ khí. Năm 1765, người thợ dệt Giêm Hácrivơ phát
minh ra máy kéo sợi có 16 đến 18 cọc suốt so với xa kéo sợi một cọc suốt thủ
công trước đây. Năm 1769, máy kéo sợi chạy bằng sức nước ra đời mang tên
Áccraitơ sau đó được công nhân Xamyen Crơmtơn cải tiến tới trình độ cao
hơn. Nhưng hạn chế của loại máy kéo sợi này là phải xây dựng nơi sản xuất
gần nguồn nước. Cùng năm đó, một thực nghiệm viên là Giêm Oát [ James
Watt] (1736-1812) tìm ra nguyên tắc máy hơi nước mở đường cho việc giải

phóng sức lao động. Vài năm sau, máy dệt chạy bằng hơi nước ra đời có năng
suất tăng gấp 39 lần. Nhờ có những phát minh vĩ đại ấy, lao động bằng máy
đã thắng lao động bằng chân tay ở hầu hết các ngành công nghiệp chủ yếu của
nước Anh. Cách mạng công nghiệp có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội,
làm phân hoá kết cấu giai cấp, thay đổi nhận thức của con người đối với giới
tự nhiên và xã hội.
Những nét chấm phá trên cho thấy cách mạng công nghiệp Anh là một
biến cố kinh tế quan trọng nhất trong đời sống kinh tế - xã hội tư bản lúc bấy
giờ. Còn các cuộc cách mạng tư sản là điểm nút, mở đường cho sự phát triển
của hiện thực xã hội và các tư tưởng xã hội tiến bộ. Các cuộc cách mạng đó
ảnh hưởng rộng lớn đến các phong trào giải phóng ở các nước châu Âu, trong
đó có nước Đức, bao gồm các nội dung: chống chủ nghĩa phong kiến, hệ tư
tưởng tôn giáo; phát triển hệ tư tưởng tư sản mang tính chất tiến bộ thời bấy
giờ, đòi trả lại cho con người những quyền cơ bản mà nó đáng được hưởng.
Tuy nhiên, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu diệt hoàn toàn về mặt chính trị,
dẫn đến xuất hiện tư tưởng thoả hiệp của một bộ phận giai cấp tư sản yếu hèn.

Khuynh hướng thoả hiệp này biểu hiện rõ nét nhất ở nước Đức, nơi mà sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản bị cản trở bởi chính những điều kiện kinh tế,
chính trị của nó. Nước Đức hãy còn là một nước nửa phong kiến bị phân hoá


13
cả về kinh tế lẫn chính trị, như tàn tích của chế độ nông nô, chế độ phường
hội, tình trạng cát cứ của các lãnh chúa, sự tồn tại của nhiều quốc gia nhỏ phụ
thuộc lẫn nhau trong nhà nước quân chủ Phổ,... đã kìm hãm sự phát triển tư
bản chủ nghĩa ở Đức. Ph.Ăngghen [Friedrich Engel] (1820-1895) thốt lên:
"Mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn lấy
một tia hy vọng chuyển biến tốt lên, vì dân tộc thậm chí không còn đủ sức vứt
bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi" [22, tr.754]. Trong bối cảnh xã
hội Đức có trình độ lạc hậu hơn rất nhiều so với một số nước phát triển tư bản
chủ nghĩa đi đầu ở Tây Âu, triết học I.Cantơ là sự khai phá tiến bộ trên lĩnh
vực tư tưởng, được coi là "lý luận Đức của cuộc cách mạng tư sản Pháp".
Triết học I.Cantơ là một hiện tượng nằm trong bối cảnh phát triển văn
hóa và triết học cận đại, biểu thị những đặc điểm của một chặng đường phát
triển tinh thần và văn hóa của Tây Âu. Triết học I.Cantơ có liên hệ nội tại với
toàn bộ văn hóa châu Âu thời cận đại. Về ranh giới lịch đại, quan điểm chính
thống của các nhà sử học Liên Xô trước đây cho rằng thời cận đại được khởi
đầu từ cách mạng tư sản Anh giữa thế kỷ XVII. Khác với quan điểm đó, các
nhà sử học phương Tây cho rằng thời Trung cổ kết thúc vào thế kỷ XV và
bước chuyển sang thời cận đại cũng bắt nguồn từ đó với phong trào Phục
hưng và Cải cách tôn giáo. Tuy nhiên, các đặc trưng văn hóa phương Tây trở
thành bản sắc cho đến tận ngày nay chỉ được hình thành từ thế kỷ XVI trở đi.
Đặc biệt, văn hóa châu Âu cận đại có liên hệ mật thiết với phong trào Khai
sáng, - là một trào lưu tư tưởng và văn hóa đặc biệt, hình thành ở Tây Âu vào
cuối thế kỷ XVII - XVIII. Có thể coi các đại diện lớn nhất của nó là Giôn
Lốccơ [John Locke] (1632-1704), Sáclơ đờ Sơcôngđa Môngteskiơ [Charles de

Secondat Montesquieu] (1689-1755), Phrăngxoa Mari Vônte [Francois Marie
Voltaire] (1694-1778), Giăng Giắc Rútxô [Jean-Jacques Rousseau] (1712-

1778), Đênít Điđơrô [Denis Diderot] (1713-1784), Pôn Hăngri Hônbách [Paul
Henri Holbach] (1723-1789), Giôhan Gốtphrít Hécđơ [Johann Gottfried Herder]

(1744-1803), Gốthôn Êphram Létxinh [Gotthold Ephraim Lessing] (1729-


14
1781), v.v.. Tác động của phong trào Khai sáng vượt ra khỏi khuôn khổ của
thời đại mà các nhà Khai sáng hoạt động, minh chứng rõ nét là toàn bộ thế kỷ
XIX đã diễn ra dưới khẩu hiệu khải hoàn của những tư tưởng Khai sáng. Các
nhà Khai sáng coi phương tiện cơ bản để hoàn thiện con người và xã hội là
phổ biến tri thức, khoa học và giáo dục. Cơ sở thế giới quan là sự tin tưởng
vào tính hợp lý của thế giới, tin tưởng vào khả năng xây dựng xã hội phù hợp
với những nguyên tắc hợp lý trong việc giáo dục "con người hợp lý". Phong
trào Khai sáng gắn liền với sự sùng bái lý tính mà họ hiểu là những nguyên
tắc của khoa học cổ điển đương thời. Bản tính người theo họ là "cái thiện
tuyệt đối" còn những khiếm khuyết của nó gắn liền với sự không hoàn hảo
của xã hội, sự tác động xấu của môi trường xã hội. Họ phân chia xã hội thành
"giới tinh hoa hoàn hảo" và quần chúng chưa được khai sáng - những người
mà các nhà Khai sáng đồng cảm và hướng nỗ lực của mình vào việc giáo dục
họ. Đồng thời, phong trào Khai sáng định hướng việc cải tạo xã hội theo thiết
kế trên cơ sở có luận cứ khoa học. Công lao của các nhà Khai sáng là ở chỗ
họ đã nâng cao địa vị xã hội của khoa học và giáo dục. Sự đánh giá cao tri
thức và trình độ hiểu biết (trái ngược với sự ngu dốt và chủ nghĩa ngu dân) từ
đó đã không bao giờ biến mất khỏi châu Âu.
Các nhà nghiên cứu thống nhất với nhau rằng, khai sáng là đặc trưng
chủ đạo của văn hóa Tây Âu cận đại. Nội dung của khai sáng được thể hiện

tập trung trong chủ nghĩa duy lý theo nghĩa rộng nhất của từ này. Văn hóa
Tây Âu cận đại rất đề cao lý tính; thực chất là sự sùng bái lý tính. Trong đó, lý
tính khoa học hay niềm tin vào những khả năng vô hạn của khoa học trở
thành yếu tố hàng đầu. Người ta tin rằng những nguyên tắc bất biến của thế
giới nằm trong chính bản chất của lý tính, vì một lẽ hiển nhiên là lý tính
không có những nguyên tắc thì không còn là lý tính nữa. Từ đó, các nhà khoa
học tự nhiên và triết học không ngừng theo đuổi mục đích tìm ra các quy luật
khoa học, các tri thức chân lý tất yếu và phổ quát. Như vậy, sự tin tưởng vào
tính hợp lý của thế giới mở ra con đường dẫn tới sự luận chứng cho khoa học


15
về mặt phương pháp luận. Khoa học châu Âu cận đại đặt nền móng cho khoa
học tự nhiên hiện đại phát triển. Chủ nghĩa duy lý quy định trong lịch sử và
văn hóa châu Âu cận đại rằng, phương diện tư tưởng bắt đầu đóng một vai trò
đặc biệt, xã hội vận động tiến lên dưới tác động của tư tưởng.
Bên cạnh đó, thời cận đại quan niệm về bản thân văn hóa như là giới tự
nhiên thứ hai - là giới tự nhiên mới do con người sáng tạo ra, nhưng cũng
quan trọng như giới tự nhiên thứ nhất. Nếu như văn hoá cổ đại và trung cổ
hình thành theo nguyên tắc thích nghi với tự nhiên thì văn hoá cận đại hình
thành trên nguyên tắc sáng tạo tự nhiên. Nguyên tắc này định hướng thường
xuyên hoạt động của con người vào cái mới, vào việc tích lũy những sản
phẩm vật chất và tinh thần ngày càng nhiều hơn. Do đó, văn hóa châu Âu cận
đại đã tiên phong thực hiện sự đề cao tính tích cực của con người, sức mạnh
sáng tạo của chủ thể văn hoá. Sự phát triển nội tại của văn hóa châu Âu cận
đại quy định thái độ phê phán của nó đối với các thời đại trước. Thời cận đại
đã tiến hành phê phán thời trung cổ bằng bầu nhiệt huyết của lý tính; thể hiện
ở hai mặt: một mặt, coi thời trung cổ là thời đại đen tối và cuồng tín tôn giáo
nên đã loại bỏ không ít thành tựu của văn hóa trung cổ; mặt khác, xu hướng tự
phê phán dựa trên việc giữ lại những mối liên hệ với quá khứ vẫn tiếp tục có

tác động ở bên trong văn hóa cận đại mà triết học I.Cantơ là ví dụ điển hình.
Immanuen Cantơ [Immanuel Kant] sinh ngày 22/4/1724 tại thị trấn
Konixbécgơ [Kửnisberg] (miền Đông nước Phổ), mất ngày 12/2/1804 sau gần
4 tháng lâm bệnh nặng, hưởng dương 80 tuổi. Ngay từ khi còn là sinh viên,
I.Cantơ đã hấp thụ triết học tự nhiên và cơ học của Isác Niutơn [ Issac Newton]
(1642-1727), thích thú với siêu hình học kinh viện nhà trường của Gốtphrít
Vinhem Lépnít [Gottfried Wilhelm Leibniz] (1646-1716) - Crixtian Vônphơ
[Christian Wolff] (1679-1754), sau một chút là đạo đức học và lý thuyết chính
trị - xã hội của J.J.Rútxô. Có thể coi đây là những tiền đề lý luận trực tiếp để
hình thành ba bộ phận của hệ thống triết học I.Cantơ là triết học tự nhiên, triết


16
học nhận thức và triết học thực tiễn. Dù có một cuộc sống bề ngoài đơn điệu
và tẻ ngắt, I.Cantơ vẫn nổi tiếng khắp thế giới lúc sinh thời vì những bài giảng
thông tuệ đã trở thành huyền thoại, được những người say mê triết học đánh
giá là một trong số ít những triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại, cùng với Xôcrát
[Socrates] (470-399 Tr.CN) và Platôn [Plato] (427-347 Tr.CN) thời cổ đại,
Gioóc Vinhem Phriđrích Hêghen [Georg Wilhelm Friedrich Hegel] (1770-1831)
và Máctin Haiđơgơ [Martin Heidegger] (1889-1976) sau này.
Sau một loạt các tác phẩm xuất sắc gồm: Sơ luận về bất kỳ môn siêu
hình học nào trong tương lai muốn trở thành khoa học (1783), Trả lời câu
hỏi: Khai sáng là gì? (1784), Đặt cơ sở cho siêu hình học về đức lý (1785),
Các cơ sở siêu hình học đầu tiên của khoa học tự nhiên (1786), Tôn giáo bên
trong các ranh giới của lý tính đơn thuần (1793), Hướng đến nền hoà bình
vĩnh cửu (1795), Siêu hình học về đạo đức (1797), Nhân loại học dưới giác độ
thực tiễn (1798) và đặc biệt là bộ ba Phê phán lý tính thuần tuý (1781-1787),
Phê phán lý tính thực tiễn (1788) và Phê phán năng lực phán đoán (1790),
I.Cantơ ba lần được bầu vào các viện hàn lâm: Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm
khoa học Béclin (1786), Viện hàn lâm khoa học Pêtécbua (1794), Viện hàn

lâm khoa học Siena (1798). I.Cantơ là triết gia đầu tiên đồng thời là viện sĩ
hàn lâm; sau ông, cho đến thế kỷ này, không lấy làm lạ khi một triết gia luôn
có tầm cỡ của một giáo sư đại học và gần như tất cả những người xuất sắc
trong lĩnh vực này đều là nhà hàn lâm. Khuynh hướng chuyên nghiệp hoá triết
học bị phê phán gay gắt từ Áctuya Sôpenhauơ [ Arthur Schopenhauer] (17881860), nhưng dường như hiện nay khuynh hướng đó đã được thiết định không
thể nào đảo ngược.
Sự nghiệp đồ sộ của I.Cantơ được ông nung nấu từ ý tưởng tổng kết
toàn bộ tri thức triết học trong lịch sử loài người từ thời cổ đại Hy Lạp cho
đến thời đại ông trên tinh thần phê phán, gạn lọc, kế thừa những yếu tố mà
ông cho là đúng, là có giá trị; từ đó xây dựng một hệ thống siêu hình học mới


17
theo nghĩa là khoa học triết học vạn năng. Tốt nghiệp đại học năm 1746 đến
trước khi được bổ nhiệm làm giáo sư siêu hình học và lôgíc học năm 1770,
I.Cantơ khởi nghiệp bằng những lý thuyết khoa học tự nhiên, hình thành các
quan niệm về triết học tự nhiên mang tính chất duy vật tự phát - thời kỳ này
những tư tưởng phê phán ở I.Cantơ chưa rõ ràng, vì vậy gọi là thời kỳ tiền
phê phán. Từ năm 1770 cho đến cuối đời, I.Cantơ đặt ra nhiệm vụ phê phán lý
tính, phê phán các hệ thống siêu hình học trước đó, đặc biệt là siêu hình học
duy lý và siêu hình học duy nghiệm - vì vậy, thời kỳ này được gọi là thời kỳ
phê phán.
Thời kỳ tiền phê phán (trước 1770)
Đây là thời kỳ I.Cantơ tham dự sâu sắc vào các vấn đề triết học và khoa
học tự nhiên của trào lưu Khai sáng. Trong lĩnh vực siêu hình học, mặc dù
I.Cantơ đã bắt đầu tiếp cận với một khuynh hướng khác của trào lưu Khai
sáng - khuynh hướng triết học phản duy lý khởi từ J.J.Rútxô; song tựu trung
ông vẫn chấp nhận khuynh hướng duy lý thống trị mà phong trào này đã mở
ra ở Tây Âu với đỉnh cao là siêu hình học trường ốc G.V.Lépnít - C.Vônphơ.
Thậm chí trong một số luận văn, ông còn đưa ra các luận cứ chứng minh sự

hiện hữu khả thể của Thượng đế như một "đấng sáng tạo bất khả tri của toàn
thể" trên quan điểm mục đích luận rất được ưa chuộng trong giới học thuật
truyền thống.
Tuy nhiên, I.Cantơ quan tâm nhiều hơn đến các khoa học tự nhiên như
toán học, vật lý học, thiên văn học, sinh học và địa chất học. Có thể nói, trong
lý thuyết về tự nhiên, I.Cantơ về cơ bản đã thể hiện như một nhà duy vật tự
phát khi ông khẳng định thế giới được cấu tạo từ vật chất, mọi vật thể liên hệ,
tương tác lẫn nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Định luật vạn vật hấp dẫn
của I.Niutơn đã cuốn hút ông. Các nhà kinh điển của triết học Mác cũng đánh
giá rất cao công lao của I.Cantơ trong lĩnh vực này. Ph.Ăngghen viết:
"I.Cantơ là người khởi xướng ra hai giả thuyết thiên tài, mà nếu không có hai


18
giả thuyết này thì lý luận của khoa học tự nhiên ngày nay không thể tiến lên
được, - thuyết về nguồn gốc của hệ thống mặt trời [...] và thuyết thuỷ triều
làm giảm tốc độ quay của quả đất" [23, tr.492]. Trong lĩnh vực sinh học,
I.Cantơ đề xuất tư tưởng phân loại động vật theo nguồn gốc các loài dựa vào
các nhóm genotíp của chúng. Trong lĩnh vực nhân loại học, ông đưa ra tư
tưởng về lịch sử tự nhiên của loài người, - điều mà sau này, Sáclơ Rôbớt
Đácuyn [Charles Robert Darwin] (1809-1882) chứng minh về mặt sinh học qua
tác phẩm Nguồn gốc các loài qua chọn lọc tự nhiên còn Ph.Ăngghen chứng
minh về mặt xã hội bằng bài viết Tác dụng của lao động trong quá trình
chuyển biến từ vượn thành người. Tác phẩm chủ yếu của I.Cantơ thời kỳ này
là Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu trời (1755); trong đó, ông nêu lên
giả thuyết thiên tài về nguồn gốc của thái dương hệ là những khối tinh vân
gồm vô vàn các hạt vật chất, nhờ lực vạn vật hấp dẫn mà chúng khuếch tán
trong không gian rồi dần dần tụ lại thành những đám mây khổng lồ, do lực hút
và đẩy trong lòng chúng tạo ra vận tốc xoáy làm chúng đông kết lại thành
những khối cầu có kích thước khác nhau, làm nên các hành tinh trong hệ mặt

trời. Giả thuyết này cũng cho phép mở rộng ra nhiều hệ mặt trời khác tương
tự trong vũ trụ vô cùng vô tận. Sau đó không lâu, nhà thiên văn học và toán
học người Pháp Pie Ximông Laplaxơ [Pierre Simon Laplace] (1749-1827), tiến
hành nghiên cứu độc lập với I.Cantơ, cũng có giả thuyết tương tự từ những
kết luận toán học của mình. Từ đó, học thuyết tinh vân nguyên thuỷ đi vào
lịch sử với tính cách là lý thuyết vũ trụ I.Cantơ - P.S.Laplaxơ. Như vậy là
I.Cantơ đã đi xa hơn I.Niutơn bằng việc ứng dụng các nguyên tắc khoa học tự
nhiên để không chỉ giải thích kết cấu mà còn giải thích cả nguồn gốc của hệ
thống mặt trời, trong khi I.Niutơn thừa nhận không thể rút ra nguyên nhân của
bản thân sức hút cũng như các thuộc tính của chúng. Đồng thời giả thuyết của
I.Cantơ cũng là minh chứng rõ nét cho việc triết học đã làm tốt nhiệm vụ dẫn
đường cho khoa học tự nhiên như thế nào, giúp các nhà khoa học tự nhiên
"tránh khỏi lầm lạc liên miên, khỏi phải mất vô số thì giờ và công sức vào


19
những hướng sai lầm, vì trong điều phát hiện của I.Cantơ đã có cái khởi điểm
của mọi sự tiến bộ sau này" [23, tr.466].
Đương nhiên, việc truy tìm đến tận cùng nguồn gốc và bản chất của thế
giới trên cơ sở tư duy máy móc siêu hình thế kỷ XVIII rốt cuộc sẽ gặp mâu
thuẫn trong nhận thức mà tư duy ấy không thể vượt qua, - mặc dù các giả
thuyết thiên tài của I.Cantơ đã manh nha tiềm ẩn tư duy biện chứng như các
nhà kinh điển của triết học Mác nhận xét: "Vấn đề cái hích đầu tiên đã bị loại
bỏ; trái đất và tất cả hệ thống mặt trời hiện ra như là một cái gì đã hình thành
trong thời gian" [23, tr.466]; "lần đầu tiên, cái quan niệm cho rằng giới tự
nhiên không có lịch sử trong thời gian, đã bị lung lay" [23, tr.85]. Vì vậy, ông
tập trung nghiên cứu triết học tự nhiên với niềm tin rằng, triết học với tư cách
là một khoa học lý thuyết thuần tuý có khả năng lý giải mọi vấn đề của giới tự
nhiên mà không cần đến các tài liệu kinh nghiệm. Lúc đầu, I.Cantơ chịu ảnh
hưởng lớn của siêu hình học kinh viện G.V.Lépnít - C.Vônphơ và các quan

niệm máy móc của I.Niutơn, sau đó chuyển dần sang thuyết hoài nghi tư biện
của Rơnê Đềcáctơ [Réne Descartes] (1596-1650); chịu ảnh hưởng và là người
truyền bá tích cực tư tưởng Khai sáng vào nước Đức nhưng I.Cantơ còn tiến
thêm một bước là phê bình chủ thuyết Khai sáng cũng như đối tượng của nó
là lý trí và tri thức. Đó là một trong các lý do khiến I.Cantơ chuyển sự nghiên
cứu của mình từ đối tượng khách thể bên ngoài sang đối tượng lý tính bên
trong ở thời kỳ phê phán.
Thời kỳ phê phán (sau 1770)
Đây là thời kỳ I.Cantơ đặt ra một khát vọng hiểu biết vô bờ bến. Các
vấn đề khoa học tự nhiên không còn thoả mãn ông, nhất là khi trình độ nhận
thức khoa học của thế kỷ XVIII với tư duy siêu hình không thể lý giải được
các vấn đề mới mẻ như bản chất của sự sống và lý tính con người. Dường như
khát vọng hiểu biết và khả năng hiểu biết có giới hạn trở thành một mâu thuẫn
lớn mà I.Cantơ trăn trở muốn khám phá. Sự bế tắc trong việc lý giải nguồn


20
gốc sự vận động của thế giới vật chất khiến ông dần nghi ngờ rằng khả năng
nhận thức của con người về thế giới không phải không có giới hạn; và thực ra
con người có nhận thức được thế giới như là nó tồn tại không? Từ đó, ông đi
đến quan niệm về thế giới "vật tự nó" [Ding an sich] tồn tại bên ngoài mọi khả
năng nhận thức của con người và cái mà con người nhận thức được thật ra là
thế giới hiện tượng - hay là thế giới khả giác. Theo I.Cantơ, nguồn gốc của sự
vận động không phải nằm ở bản thân vật chất mà nằm ở "cái đằng sau" của
vật chất với tính cách là nguyên nhân đầu tiên. Thuyết động lực của ông thể
hiện rõ bước chuyển từ thế giới quan duy vật tự phát sang thế giới quan duy
tâm khi cho rằng cái có trước không phải là vật chất mà là một thứ lực thuần
tuý làm cho vật chất vận động. Động lực học tuyệt đối đã đuổi nguyên tử luận
với tư cách là học thuyết về cấu trúc vật chất, là cơ sở của chủ nghĩa duy vật,
ra khỏi khoa học tự nhiên. Dù vậy, yếu tố biện chứng trong thuyết động lực

I.Cantơ là quan niệm về sự thống nhất giữa hai lực hút và đẩy mới là hạt nhân
được Ph.Ăngghen đánh giá cao, và đã được các nhà triết học duy tâm Đức
tiếp thu làm nên phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức với đỉnh cao là phép
biện chứng G.V.Ph.Hêghen. Có thể nói, nếu không có sự tiên phong của
I.Cantơ trong việc phá vỡ các quan niệm siêu hình thế kỷ XVII-XVIII thì
không thể có quan niệm biện chứng được hình thành một cách tự giác và có
hệ thống từ thế kỷ XIX trở đi.
Kế thừa thuyết hoài nghi có phương pháp của R.Đềcáctơ, I.Cantơ
không những nghi ngờ tính đúng đắn của chủ nghĩa duy lý mà còn nghi ngờ
cả tính xác đáng của chủ nghĩa kinh nghiệm. Theo I.Cantơ, chủ nghĩa duy lý
đã đi quá xa trong việc tư biện để kiến thiết nên một ngôi nhà siêu hình học
không có cơ sở vững chắc từ nền móng; trong khi chủ nghĩa kinh nghiệm đã
bắt đầu đúng hướng nhưng Giôn Lốccơ trứ danh đã vội vàng khái quát mọi
nhận thức của con người chỉ vào trong một viên gạch duy nhất là kinh
nghiệm. Cả hai trào lưu này đều chỉ khư khư giữ lấy lập trường quan phương


21
của mình mà bác bỏ đối phương, tạo ra một đấu trường siêu hình học khốc
liệt. Từ sự hoài nghi về mặt nhận thức luận này mà I.Cantơ tiến hành kiểm tra
toàn bộ vật liệu của nhận thức từ cảm năng đến giác tính và lý tính để rút ra
một nhận xét làm chấn động giới triết học đương thời, đó là siêu hình học
giáo điều từ trước đến nay cần phải bị phê phán triệt để nhằm tìm ra cơ sở cho
một môn siêu hình học mới muốn trở thành một khoa học thực sự. Và I.Cantơ
đã từng bước tiến hành "cuộc cách mạng Côpécníc" trong lề lối tư duy của
mình thông qua việc phê phán các vấn đề của siêu hình học, tức của lý tính,
bằng bộ ba Phê phán nổi tiếng.
Nói gọn lại, thời kỳ tiền phê phán giúp I.Cantơ rà soát hầu hết các tiến
bộ của khoa học tự nhiên đến thời của ông để làm cơ sở cho sự phê phán
chính các lý thuyết khoa học tự nhiên đó với tính cách là những bộ phận của

nhận thức trong thời kỳ phê phán; còn thời kỳ phê phán giúp I.Cantơ khảo sát
lý tính thuần tuý để tìm ra chỗ dựa vững chắc cho sự tồn tại của khoa siêu
hình học mới với tính cách là một hệ thống tiên nghiệm phổ biến, tất yếu cho
mọi nhận thức khoa học, thực tiễn hành động và giá trị vĩnh hằng của con
người. Trong đó, Phê phán lý tính thuần tuý là đột phá khẩu cho mọi sự phê
phán.
Như vậy, tác phẩm Phê phán lý tính thuần tuý ra đời trong bối cảnh
nước Đức đang cố vùng vẫy nhằm thoát khỏi tình trạng trì trệ của nó, với sự
thôi thúc nội tại của tư tưởng Đức và tác động tích cực của các cuộc cách
mạng ở Tây Âu. Tư tưởng duy tâm của giai cấp tư sản Đức có hạn chế là hiểu
sự phát triển như một quá trình tinh thần tự thức tỉnh, là sự tự phát triển của lý
tính. Do đó, nó chưa tạo ra được những đột phá cách mạng trong hiện thực xã
hội giống như người Hà Lan, người Anh và người Mỹ đã làm. Điều này về
sau được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chỉ ra khi phê phán triết học
pháp quyền của G.V.Ph.Hêghen, cũng có ý nghĩa như là phê phán triết học
duy tâm Đức nói chung; đòi thay thế vũ khí của sự phê phán bằng sự phê


22
phán của vũ khí. Có nghĩa là tinh thần phê phán của người Đức được trỗi dậy
mạnh mẽ kể từ I.Cantơ nhưng mới chỉ dừng lại ở sự phê phán lý tính; chỉ đến
chủ nghĩa Mác, tinh thần phê phán mới thực sự hoà nhập với hiện thực xã hội,
trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp cách mạng Đức. Song, toàn bộ sự yếu
hèn của giai cấp tư sản Đức không cản trở nước Đức làm nên những thành tựu
vĩ đại trong triết học, mà công trình Phê phán lý tính thuần tuý của I.Cantơ
mang tính chất khởi đầu. Lịch sử tư tưởng đã chứng minh rằng, các học
thuyết tiến bộ có thể nảy sinh trong lòng một xã hội có trình độ kinh tế lạc hậu
hơn nếu nó biết tiếp thu thành tựu khoa học và tư tưởng của các xã hội tiến bộ
khác. Do đó, bên cạnh tiền đề kinh tế - xã hội mà đỉnh cao là các cuộc cách
mạng tư sản ở Tây Âu thế kỷ XVI-XVII tạo ra bước ngoặt về kinh tế và chính

trị, thì tiền đề lý luận tạo ra bước ngoặt về tư tưởng trong trường hợp này
đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Những bậc tiền bối trực tiếp của triết học I.Cantơ là chủ nghĩa hoài
nghi có phương pháp của R.Đềcáctơ, tư duy cơ học của I.Niutơn, chủ nghĩa
kinh nghiệm Anh của J.Lốccơ và Đavít Hium [David Hume] (1711-1766), chủ
nghĩa duy lý Đức của G.V.Lépnít - C.Vônphơ và tư tưởng của J.J.Rútxô thuộc
trào lưu Khai sáng Pháp. Tuy nhiên, triết học I.Cantơ không phải là tập đại
thành của các tư tưởng ấy, mà sự thật là đã có những bước vượt qua để mở
đường cho sự phát triển của triết học cận - hiện đại ở Đức nói riêng và
phương Tây nói chung. Rút gọn lại, tiền đề lý luận của triết học I.Cantơ là chủ
nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm, trong đó có tính đến yếu tố biện
chứng của truyền thống tư tưởng Đức kế thừa từ thời cổ Hy Lạp.
Tiền đề lý luận thứ nhất là chủ nghĩa duy lý bao gồm những học thuyết
siêu hình xuất phát từ luận điểm về sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại trên
cơ sở các quy luật lôgíc hình thức của tư duy. I.Cantơ tổng kết trào lưu duy lý
kể từ học thuyết ý niệm của Platôn đến học thuyết đơn tử của G.V.Lépnít và
rút ra điểm chung về nhận thức luận của trào lưu này là biến tư duy thành bản


23
thể của thế giới mà không đếm xỉa đến kinh nghiệm, cảm giác của con người,
biến những quy luật lôgíc hình thức của tư duy thành quy luật chung của mọi
tồn tại mà không quan tâm đến nội dung của nó. Vì vậy những ý niệm về
Thượng đế, Vũ trụ, và Sự bất tử của linh hồn chỉ là những khái niệm suông,
không có nội dung, mà các nhà duy lý tưởng tượng ra rồi không chứng minh
được sự tồn tại vững chắc của những ý niệm ấy. Như vậy, chủ nghĩa duy lý
chỉ sử dụng lý tính mà không quan tâm đến trực quan, trong khi lý tính của họ
không được kiểm tra về khả năng và phạm vi hoạt động khả hữu. Có nghĩa là
họ buông thả cho lý tính suy tưởng về mọi vấn đề xa rời khỏi lĩnh vực kinh
nghiệm, tạo ra những tri thức siêu hình, rồi đem những tri thức siêu hình ấy áp

đặt trở lại cho thế giới tồn tại. Phương thức sử dụng lý tính như thế là mang
tính giáo điều. Siêu hình học được hình thành trên cơ sở nguyên tắc lý tính
như vậy không thể trở thành khoa học thực sự. Cách đặt vấn đề ấy của
I.Cantơ đã đưa siêu hình học trường ốc G.V.Lépnít - C.Vônphơ với tư cách là
hệ thống duy lý đỉnh cao điển hình trở thành đối tượng phê phán chủ yếu của
Phê phán lý tính thuần tuý.
Chủ nghĩa duy lý cận đại không phải không có những thành công nhất
định, đặc biệt là trong việc góp phần đánh đổ hệ tư tưởng giáo hội phong kiến.
Nếu triết học kinh viện thời Trung cổ đề cao các thực thể siêu nhiên với tư
cách là tinh thần vũ trụ, thì chủ nghĩa duy lý cận đại giành lại vị trí đó cho lý
tính của con người. Tiêu biểu là R.Đềcáctơ với tham vọng hiểu biết không
giới hạn của tư duy khi ông xác lập mệnh đề "tôi có thể nghi ngờ mọi tồn tại
nhưng không thể nghi ngờ tôi tư duy, do đó tôi tư duy tôi tồn tại". Như vậy có
thể hiểu ở một góc độ nào đó, lần đầu tiên Thượng đế với tư cách là tồn tại tối
cao bị nghi ngờ từ phương diện triết học bởi một tồn tại khác vốn vẫn bị coi là
bé mọn - tồn tại tôi tư duy. Công lao đó rõ ràng thuộc về chủ nghĩa duy lý thế
kỷ XVI-XVII, dù dưới hình thức siêu hình cực đoan nhất. Tuy nhiên, bước
sang thế kỷ XVIII, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và yêu


×