ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o
KHUẤT THỊ HÒA
TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
TRONG “LUẬN NGỮ”
Luận văn thạc sĩ Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH
Hà Nội, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn Thanh Bình, có kế thừa một số kết quả
nghiên cứu liên quan đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là
trung thực, đảm bảo tính khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Khuất Thị Hòa
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, em xin trân thành
cảm ơn sự dạy dỗ của các thầy cô giáo khoa Triết học của Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Nguyễn Thanh Bình, cán
bộ giảng viên khoa Triết học đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Khuất Thị Hòa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
1. Lí do chọn đề tài 1
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 9
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 10
6. Ý nghĩa của luận văn 10
7. Đóng góp của luận văn 11
8. Kết cấu của luận văn 11
NỘI DUNG: 12
Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ
TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ 12
1.1 Bối cảnh ra đời tư tưởng đạo đức của Khổng Tử 12
1.2. Vài nét về Khổng Tử và sách Luận ngữ 23
Chƣơng 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
TRONG “LUẬN NGỮ” 36
2.1. Quan niệm của Khổng Tử về vai trò của đạo đức đối với con người và
xã hội 36
2.2. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản theo quan niệm của Khổng Tử 53
2.3. Quan niệm của Khổng Tử về phương thức thực hành đạo đức 73
2.4. Một số giá trị và hạn chế cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử83
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
1
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Nếu ví lịch sử triết học nhân loại như dòng sông cuộn chảy thì tư tưởng
Triết học phương Đông và phương Tây là hai nhánh chính của nó. Mỗi nhánh
mang trong mình những sắc thái khác nhau nhưng tựu chung lại đều giải
quyết vấn đề con người là trọng tâm. Đến với Triết học phương Tây, chúng ta
được biết đến cái cội nguồn ở nền văn minh Hi - La cổ đại gắn liền tên tuổi
những nhà khoa học tự nhiên. Sang phương Đông, ta được gặp gỡ với nền văn
minh sông Ấn và sông Hằng, nền triết học mang đậm màu sắc chính trị - xã
hội, tôn giáo và khuynh hướng hướng nội. Mặc dù vậy, mỗi tư tưởng triết học
ra đời đều gắn liền với điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội cụ thể. Như C. Mác
đã viết: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại xã hội của họ.
Trái lại, tồn tại xã hội quyết định ý thức của họ” [13, tr. 433]. Tư tưởng triết
học Trung Quốc ra đời cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chính trong cái xã
hội loạn lạc, vua không ra vua, cha không ra cha, con không ra con ở Trung
Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc đã hình thành nhiều tư tưởng, học thuyết
mà các nhà sử học Trung Quốc gọi là “Bách gia tranh minh”. Cùng với Mặc
gia, Pháp gia, Đạo gia, Âm dương gia thì Nho gia ra đời - gắn liền tên tuổi
người sáng lập là Khổng Tử.
Từ khi ra đời, Nho gia trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử. Có
thời kỳ, nó được coi là quốc giáo của Trung Quốc và ảnh hưởng sâu sắc nhiều
nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Học thuyết Nho gia lấy vấn đề giáo
dục đạo đức con người - đạo làm người làm nền tảng nhằm đưa xã hội từ loạn
sang trị, trở về trật tự, kỉ cương. Về sau, khi Khổng Tử mất, học trò của ông
đã ghi chép lại những lời dạy của thầy. Tuy nhiên đến năm 221 TCN, khi Tần
Thuỷ Hoàng lên ngôi và thực hiện chính sách “phần thư khanh nho” thì tư
tưởng của Nho gia bị vùi dập, bị cấm lưu hành. Mặc dù vậy, hệ thống tư
2
tưởng của Nho gia vẫn được lưu truyền trong dân chúng. Cho đến ngày nay,
tư tưởng đạo đức Nho gia vẫn còn nhiều giá trị rất sâu sắc mà chúng ta cần
phải suy ngẫm.
Ra đời cách đây hơn 2500 năm, hệ thống kinh điển Nho gia bao gồm các
bộ kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Dịch, kinh Xuân Thu. Trong hệ thống tư
tưởng của Khổng Tử có nhiều giá trị tích cực về mặt đạo đức như các chuẩn
mực đạo đức, phương pháp giáo dục đạo đức, phương pháp cai trị đất nước
bằng đạo đức của nhà cầm quyền mang đầy tính nhân văn. Đã từ lâu, Nho gia
du nhập vào Việt Nam theo con đường đô hộ của quân xâm lược thời Bắc
thuộc. Nó được coi là cơ sở lý luận để định ra hệ thống đường lối, chính sách
của giai cấp phong kiến thống trị sử dụng nhằm duy trì, giữ gìn địa vị thống
trị của mình. Dù gặp phải sự phản kháng song theo thời gian, dần dần nhân
dân ta đã tiếp thu và sử dụng nhiều yếu tố, nhiều giá trị của hệ thống tư tưởng
Nho gia vào đời sống và kết hợp với tinh hoa của dân tộc để chống quân xâm
lược giành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt.
Ngày nay, chúng ta đang trong thời kỳ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế
thế giới. Đặc biệt từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đất nước ta đang
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu đến năm
2020, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong bối cảnh
thế giới có nhiều biến động sâu sắc ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam như
cuộc cách mạng khoa học công nghệ; nền kinh tế tri thức…. Xu hướng toàn
cầu hoá tạo nhiều thuận lợi nhưng cũng bao hàm không ít khó khăn như mâu
thuẫn lợi ích trên thế giới diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, xu hướng
phương Tây hoá, đấu tranh vũ trang, diễn biến hoà bình, các tệ nạn xã hội….
Việt Nam muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa, tiến bộ, công bằng, dân chủ và
văn minh thì chúng ta cần ý thức rõ hơn vai trò của đạo đức, nâng cao ý thức
trách nhiệm của mỗi cá nhân.
3
Hiện nay, nước ta đang tồn tại những mặt trái của nền kinh tế thị trường
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đó là tình
trạng băng hoại đạo đức, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, tệ nạn xã hội
và tội phạm xã hội ngày một gia tăng … là những vấn đề gây nhức nhối toàn
xã hội. “Hiện trạng đạo đức suy thoái gây nhức nhối cho xã hội, làm cho lòng
dân không yên, xã hội tiềm ẩn những mất ổn định xã hội. An ninh xã hội và
an toàn cuộc sống bị đe doạ” [74, tr. 113]. Một bộ phận không nhỏ cán bộ
quản lý cũng bị tha hóa, biến chất, phẩm chất đạo đức xuống cấp trầm trọng.
“Thực trạng rất đáng buồn hiện nay là một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý
thoái hoá, biến chất về phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức lối sống và
phong cách, lề lối làm việc….Vi phạm các quy tắc quản lý của Nhà nước để
lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, vi
phạm lối sống có chiều hướng gia tăng. Trên thực tế một bộ phận tha hoá,
tham nhũng xa rời quần chúng, giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng,
dao động mất lòng tin …. Một số cán bộ lãnh đạo quản lý lời nói không đi đôi
với việc làm, nói nhiều mà làm ít, thậm chí nói một đằng làm một nẻo. Tệ hại
hơn, họ còn dùng chức quyền để cầu danh, trục lợi, đầu óc mang nặng tư lợi
cho cá nhân …” [75, tr. 42 - 45]. Vì thế dẫn đến hệ quả là, “Trong 5 năm từ
2003 đến 2007 có 16.314 cán bộ, công chức thôi việc, tập trung chủ yếu trong
lĩnh vực y tế, giáo dục ở địa phương (chiếm 88,7 %), có 310 người giữ chức
vụ lãnh đạo thôi việc (chiếm 1,9 %)” [32, tr. 200].
Trước tình hình đó, tại Đại hội Đảng lần XI, Đảng ta nhận định, cần phải
xây dựng cơ chế, chế tài ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hoá sự xâm nhập và tác
hại của các sản phẩm đồi trụy, bồi dưỡng, nâng cao sức đề kháng của nhân
dân, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Chính vì những lý do trên, việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức của Khổng
Tử có ý nghĩa hết sức cấp thiết. Trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ khoa học
Triết học, tôi xin chọn vấn đề: Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử trong
4
“Luận ngữ” làm đề tài nghiên cứu của mình với hi vọng, trên cơ sở “gạn đục
khơi trong” nhằm nêu bật những giá trị tích cực và chỉ ra mặt hạn chế của tư
tưởng đạo đức Khổng Tử trong việc xây dựng, giáo dục đạo đức cho mỗi cá
nhân, đặc biệt là thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng của Nho
giáo nói chung cũng như của Khổng Tử nói riêng. Vấn đề này ngày càng
được quan tâm hơn trong nghiên cứu và giảng dạy Nho giáo cũng như lịch sử
tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam.
Liên quan đến đề tài luận văn, có thể khái quát một số kết quả nghiên cứu
tiêu biểu ở hai loại hình chủ yếu sau:
Loại hình thứ nhất: là những công trình nghiên cứu về điều kiện, tiền đề cho
sự ra đời tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
1. Tác giả Nguyễn Thanh Bình với đề tài “Học thuyết chính trị xã hội của
Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI tới nửa đầu thế kỉ XIX)”,
trong phần 1 của chương 1, có phân tích khái quát cơ sở kinh tế - xã hội và tiền đề
tư tưởng đối với sự hình thành Nho giáo. Ở nội dung này, tác giả nêu lên những
biến đổi sâu sắc trên tất cả các mặt, các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội Trung
Quốc thời kì Xuân Thu. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu tiền đề hình thành tư tưởng
chính trị - xã hội Nho giáo về tôn giáo, chính trị, đạo đức. Trên cơ sở những tiền
đề trên, tác giả khẳng định rằng, Nho giáo ra đời với tư cách là hình thái ý thức xã
hội nhằm giải đáp nhu cầu mà thực tiễn xã hội Trung Quốc đặt ra lúc bấy giờ.
2. Cuốn Khổng Tử của tác giả Nguyễn Hiến Lê trình bày một cách khá chi
tiết về lịch sử Trung Hoa thời Khổng Tử, cuộc đời và con người của đức Khổng
Tử. Tác giả dựa vào Luận ngữ để trình bày và phân tích về tiền đề hình thành tư
tưởng của ông. Theo tác giả, “Bộ Luận ngữ là bộ đáng tin cậy nhất, còn thì bộ nào
cũng chứa nhiều tư tưởng của đời sau, không phải của Khổng Tử”[49, tr.7].
5
3. Cuốn Khổng Tử của Lý Tường Hải đã phân tích và nhìn nhận cuộc đời
Khổng Tử dưới góc độ nhân sinh quan. Ông cho rằng, cuộc đời Khổng Tử là một
chuyến lữ hành dọc đời sống gian nan và bền bỉ. Khổng Tử sáng lập ra Nho học là
một loại “học vấn của đời sống”, ông không chỉ đặt nền móng lý luận cho học
phái Nho gia mà còn thể hiện một hình tượng nhân cách rất rực rỡ. Tác giả nhấn
mạnh, “Khổng Tử đã để lại cho lịch sử nhân loại một tấm bia lớn về con người và
nhân ái” [34, tr. 13].
4. Cuốn Lịch sử Trung Quốc của hai tác giả Nguyễn Gia Phu và Nguyễn
Huy Quý, dưới góc tiếp cận của sử học, các tác giả đã trình bày một cách khá chi
tiết lịch sử Trung Quốc thời kì Xuân thu – Chiến Quốc, hoàn cảnh kinh tế - xã hội
có nhiều biến động. Đây là thời kì mà ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua,
xã hội phân chia đẳng cấp rõ rệt, mâu thuẫn xã hội diễn ra gay gắt, đời sống nhân
dân vô cùng cực khổ Các tác giả cũng trình bày về những tiền đề văn hóa, tư
tưởng của Trung Quốc thời kì này, giới thiệu tiểu sử của Khổng Tử, khái quát nội
dung tư tưởng triết học của ông.
Nhìn chung, những cuốn sách trên đây là những công trình nghiên cứu cần
thiết cho những ai quan tâm và nghiên cứu Nho giáo, đạo đức Nho giáo. Song, do
lập trường, quan điểm, thái độ, mục đích nghiên cứu về Nho giáo ít nhiều có sự
khác nhau ở mỗi tác giả, vì thế, những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tư tưởng
đạo đức của Khổng Tử chưa được trình bày và phân tích một cách toàn diện và hệ
thống; một số nhận định và đánh giá chưa thực sự khách quan và toàn diện, đòi
hỏi phải tiếp tục nghiên cứu. Cho nên, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi cố
gắng trình bày một cách hệ thống trên quan điểm triết học về các điều kiện và tiền
đề hình thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
Loại hình thứ hai: là những công trình nghiên cứu về nội dung tư tưởng đạo
đức của Khổng Tử trong Luận ngữ.
Nội dung trên được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Triết
học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Nghiên cứu lý luận, tạp chí Giáo dục….hay các
6
sách chuyên luận như: cuốn “Nho giáo” của tác giả Trần Trọng Kim, “Khổng học
đăng” của Phan Bội Châu v.v. Trong những cuốn sách này, các tác giả đã trình
bày, phân tích, đánh giá những tư tưởng cơ bản trong đó có tư tưởng đạo đức của
Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Khi đánh giá về Nho
giáo, các tác giả đều đề cao những nhân tố tích cực của Nho giáo, và cho rằng, đạo
đức Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức con người và ổn định
trật tự xã hội.
1. Cuốn Nho giáo của tác giả Trần Trọng Kim với nội dung chính là trình
bày khái quát các giai đoạn phát triển của Nho giáo và quá trình du nhập của
nó vào Việt Nam. Khi đề cập đến Khổng Tử và tư tưởng của ông, tác giả chủ
yếu thông qua sách Luận ngữ để trình bày những vấn đề đó. Tác giả chỉ ra
rằng, Luận ngữ thể hiện chủ yếu những tư tưởng cơ bản của Khổng Tử về con
người, đạo đức, giáo dục v.v. Theo Khổng Tử, bản tính con người vốn là lành,
người có tính ác là do hoàn cảnh và có thể giáo dục con người trở thành thiện;
con người phải có Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín và phải thực hiện “Chính danh
định phận”.
2.Trong cuốn Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã đề cập tới “Đạo thiệp
thế quan nhân trong Khổng học” và trình bày phương pháp phân biệt của
Khổng Tử giữa người quân tử với kẻ tiểu nhân. Bên cạnh những đóng góp
tích cực cho việc nghiên cứu Nho học, tác giả không tránh khỏi cách đánh giá
mang tính chủ quan của mình.
3. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện trong cuốn Bàn về đạo nho đã nêu lên
mặt tích cực và hạn chế của Nho giáo. Khi đánh giá về mặt tích cực của Nho giáo,
ông cho rằng, đạo Nho đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành lòng
yêu nước. Nói về những điều tâm đắc của mình khi nghiên cứu về Nho giáo, ông
đánh giá cao tính vừa phải (không thái quá) trong đạo làm người và vấn đề xử thế
(xử thế trong mọi tình huống, đối với người này, người khác…) của Nho giáo.
7
4. Cuốn Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm đề cập đến nội dung cơ bản
của đạo đức Nho giáo như tam cương, ngũ thường, ngũ luân, tác giả cho rằng,
Nho giáo, đạo đức Nho giáo có cả mặt tích cực và tiêu cực. Việc tìm ra giá trị
tích cực và hạn chế của đạo đức Nho giáo là cần thiết, để nhìn rõ một cách
khách quan, khoa học những hậu quả của nó trong cuộc sống của chúng ta
hiện nay. Bên cạnh đó, cũng đề cập tới mối quan hệ giữa Trời, Đất, Người; tới
các thuộc tính đạo đức và nhân sinh quan của con người; các mẫu người trong
Nho học. Nhìn chung, tác giả phê phán đạo đức Nho giáo là khắt khe, trói buộc
con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Tác giả cũng đề cập đến vấn đề kế thừa
những giá trị của Nho giáo, đạo đức Nho giáo.
5. Tác giả Đào Duy Anh qua Khổng giáo phê bình tiểu luận cho rằng, để
đánh giá đúng Nho giáo cần có thái độ khách quan, khoa học. Ông phê phán một
số trí thức Trung Quốc và Việt Nam đã phủ nhận hoàn toàn vai trò của Nho giáo,
cho rằng nó là vô dụng. Ông đã nghiên cứu, phân tích nội dung cơ bản của Nho
giáo và đưa ra nhận định đúng mức về vai trò của Nho giáo.
6. Cuốn Đại cương triết học Trung Quốc do tác giả Doãn Chính chủ
biên. Các tác giả trong sách này đã trình bày tư tưởng triết học của Khổng Tử
một cách có hệ thống về thế giới quan, nhân sinh quan, tư tưởng chính trị, đạo
đức. Ngoài ra, cuốn sách còn phân tích quá trình phát triển của Nho giáo từ
Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử và các thời kì phát triển sau này. Tuy nhiên,
các tác giả chưa trình bày một cách cụ thể và có hệ thống về tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử, chưa nêu bật được những giá trị và hạn chế chủ yếu của tư
tưởng đó.
7. Trong Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Bình với đề tài Học
thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI
tới nửa đầu thế kỉ XIX) đã phân tích Nho giáo với tính cách là học thuyết chính trị
- xã hội. Tác giả đã bàn đến những vấn đề của Nho giáo như con người, vai trò
của con người, xã hội lý tưởng. Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu và luận
8
giải một số chuẩn mực cơ bản của đạo làm người trong các mối quan hệ cơ
bản của Nho giáo. Đồng thời, tác giả cũng đề cập đến một số phạm trù đạo đức
cơ bản của Nho giáo như nhân, nghĩa, lễ, chính danh, dưới góc độ chính trị - xã
hội. Từ đó, tác giả đề cập đến sự thể hiện của các tư tưởng ấy dưới chế độ phong
kiến ở Việt Nam.
8. Trong Đại cương triết học Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê đã tập trung
nghiên cứu vấn đề nhân sinh quan trong học thuyết của Khổng Tử. Tác giả
còn đi sâu phân tích các khái niệm: Nhân, trí, dũng, lễ, trung, hiếu, đễ, v.v của
tư tưởng đạo đức Khổng Tử.
9. Cuốn Tư tưởng triết học phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu của Cao Xuân Huy. Từ việc trình bày lịch sử hình thành, phát triển cùng
với những nội dung, tư tưởng cơ bản của Nho giáo, tác giả cho rằng, Nho giáo
là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến. Những quy
định trong trong tam cương, ngũ thường là hằng tồn.
Ngoài ra, bên cạnh những công trình nghiên cứu trên, liên quan đến đề
tài luận văn còn có nhiều đề tài nghiên cứu, luận án, luận văn, các bài viết trên
nhiều lĩnh vực khác nhau như:
1. Bài viết Khổng Tử, Hồ Chí Minh những tương đồng và khác biệt của
tác giả Trần Ngọc Ánh. Tác giả đã chỉ rõ tư tưởng đạo đức của Khổng Tử là
một trong những nguồn gốc của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Chính vì thế,
hai tư tưởng có những điểm tương đồng và khác biệt là tất yếu.
2. Bài viết Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong Luận ngữ và Mạnh Tử
của Hoàng Thị Bình đăng trên tạp chí Triết học số 8 - 2001 đã trình bày trình
bày khái quát nội dung của hai phạm trù cơ bản: nhân, nhân nghĩa. Sự thể
hiện hai phạm trù này, theo tác giả là trong đường lối trị nước nhân chính của
Nho giáo.
3. Bài viết Quân tử và tiểu nhân trong Luận ngữ của tác giả Trần Đình
Thảo đăng trên tạp chí Triết học số 8 - 2009. Tác giả phân tích quan niệm của
9
Khổng Tử về quân tử và tiểu nhân trong sách Luận ngữ từ ba phương diện:
một là trên phương diện làm theo đạo trung dung, hai là phương diện nhận
thức về nghĩa và lợi, thứ ba trên phương diện thực hành đạo đức. Từ đó, tác
giả cho thấy mục đích giáo dục, đào tạo mẫu người quân tử của Khổng Tử nói
riêng và Nho giáo nói chung.
Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu khá nhiều nội dung, nhiều
phương diện trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu và đánh giá những nội dung trong học thuyết đạo đức của Khổng Tử chưa
được nghiên cứu một cách có hệ thống và đánh giá một cách khác quan và
toàn diện. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn này, trên cơ sở tiếp thu và kế
thừa những thành quả nghiên cứu từ những công trình nghiên cứu đã có về tư
tưởng của Khổng Tử trong sách Luận ngữ và từ phương pháp tiếp cận triết
học, tác giả luận văn cố gắng tập trung trình bày một cách có hệ thống và toàn
diện những nội dung chủ yếu trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện
trong cuốn sách này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là: thông qua việc trình bày và phân tích một
cách có hệ thống những tiền đề hình thành và nội dung cơ bản trong tư tưởng
đạo đức của Khổng Tử qua sách Luận ngữ để từ đó rút ra những giá trị và hạn
chế chủ yếu của tư tưởng này.
Xuất phát từ lý do chọn đề tài, tình hình nghiên cứu và mục đích đặt ra
cho đề tài, nhiệm vụ của Luận văn như sau:
- Trình bày khái lược về những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề hình
thành tư tưởng đạo đức của Khổng Tử và sách Luận ngữ.
- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
qua sách Luận ngữ.
- Chỉ ra và bước đầu phân tích một số giá trị và hạn chế chủ yếu trong tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử.
10
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người,
đạo đức, giáo dục v.v.
Luận văn vận dụng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin kết hợp
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: Phương pháp phân
tích - tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử, phương pháp đối chiếu - so sánh.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những nội dung cơ bản trong tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử qua sách Luận ngữ.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung chủ yếu vào sách Luận ngữ
được xếp trong bộ Tứ thư do Đoàn Trung Còn biên tập và chú giải
*
. Ngoài
sách Luận ngữ này, tư tưởng của Khổng Tử còn được thể hiện trong các sách
khác của bộ Tứ thư (sách Đại học, sách Trung dung và sách Mạnh tử) và sự
chú giải của Tăng Sâm, Tử Tư và Mạnh Tử về nhiều lời nói, lời dạy của
Khổng Tử được ghi chép trong những cuốn sách này.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn những nội dung chủ yếu, những giá trị và
hạn chế cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử (thể hiện trong sách
Luận ngữ). Qua đó, luận văn nhấn mạnh những tư tưởng và giá trị nổi bật mà
chúng ta cần kế thừa và phát huy trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta hiện
nay.
Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu và học tập về
tư tưởng đạo đức của Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung.
*
Khác với các cuốn sách dịch bộ “Tứ thư” khác, bộ “Tứ thư” của dịch giả Đoàn Trung Còn các trang trong
từng cuốn Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử được đánh số thứ tự từ trang 1 đến hết.
11
7. Đóng góp của luận văn
Những kết quả đạt được của Luận văn này sẽ là sự bổ sung cần thiết
trong việc nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện hơn tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử cũng như của phái Nho gia.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
nghiên cứu và học tập Nho giáo nói chung và tư tưởng của Khổng Tử nói
riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tư tưởng đạo đức của
Khổng Tử (2 tiết).
Chương 2: Những nội dung chủ yếu trong học thuyết đạo đức của Khổng
Tử qua sách Luận ngữ (4 tiết).
12
NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ RA ĐỜI TƢ
TƢỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ
1.1 Bối cảnh ra đời tƣ tƣởng đạo đức của Khổng Tử
1.1.1 Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội
Trung Quốc là quốc gia có lịch sử lâu đời, là một trong những cái nôi
của nền văn minh nhân loại. Nhiều tài liệu lịch sử cho rằng, trước khi xuất
hiện nhà nước đầu tiên thì Trung Hoa đã trải qua thời kì xã hội công xã
nguyên thủy với các truyền thuyết về thời Tam Hoàng, Ngũ Đế. Giai đoạn
này mọi người sống trong xã hội không có giai cấp, không có bóc lột, mọi tài
sản đều là của chung.
Bước sang nhà Hạ (2205 – 1766 TCN) - nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu
tiên của Trung Quốc ra đời. Giai cấp chủ nô đã đề ra các chính sách, cách
thức cai trị để bảo vệ, duy trì địa vị thống trị của mình. Giai cấp thống trị thi
hành chính sách thế tập, cha truyền con nối và sử dụng tư tưởng thiên mệnh
để phục vụ mục đích ấy. Trải qua quá trình phát triển, đến khoảng thế kỉ thứ
XVII TCN, Thành Thang đứng đầu nhà Thương lật đổ vua Kiệt – vị vua cuối
cùng của nhà Hạ, lập ra nhà Thương đặt đô ở đất Bạc (thuộc tỉnh Hà Nam bây
giờ). Khoảng thế kỉ XIV TCN, vua Bàn Canh nhà Thương dời đô về đất Ân,
đổi tên thành nhà Ân.
Khoảng thế kỷ XII TCN, bộ tộc Chu nổi lên ở khu vực sông Vị thuộc
tỉnh Thiểm Tây ra sức phát triển về kinh tế và lực lượng để chinh phục các bộ
tộc lân cận. Trong khi đó, nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng mâu thuẫn gay
gắt, nhiều chư hầu nổi dậy phản kháng. Vua cuối cùng của nhà Ân là Đế Tân,
hiệu là Trụ. Tới khoảng thế kỷ XI TCN, con Chu Văn Vương là Chu Vũ
Vương nổi dậy diệt vua Trụ nhà Ân, lập ra nhà Chu đóng đô tại Hạo Kinh,
phía Tây thành Tây An ngày nay. Lịch sử gọi đây là thời Tây Chu. Dưới thời
13
Tây Chu, chế độ chiếm hữu nô lệ Trung Quốc lên đến giai đoạn phát triển
cao. Vua tự phong là thiên tử, mọi quyền hành, đất đai, nhân dân đều thuộc về
nhà vua. Đến thế kỷ VIII TCN, cuối thời Tây Chu, xã hội Trung Quốc bắt đầu
khủng hoảng. Thời kì này, địa vị và uy quyền nhà Chu suy yếu, mệnh lệnh
nhà vua không ai theo, chế độ tông pháp dần dần bị xóa bỏ, các nước chư hầu
phân rã. Đây là thời kì quá độ từ sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và chế
độ phong kiến sơ kỳ hình thành. Thời kì Tây Chu đến đây kết thúc.
Năm 771 TCN, Chu Bình Vương dời đô về phía Đông đến Lạc Ấp (Bạc
Dương, Hà Nam bây giờ) - thời kì Đông Chu bắt đầu. Lúc này, xã hội Trung
Quốc bước vào thời Xuân Thu (từ 770 – 403 TCN) và thời Chiến Quốc (từ
403 – 221 TCN). Trong khi uy quyền và thế lực Đông Chu ngày càng giảm
sút, suy yếu thì thế lực của một số nước chư hầu ngày càng lớn mạnh. Đây
cũng là thời kì đã diễn ra các cuộc chiến tranh liên miên giữa các nước chư
hầu để giành quyền bá chủ, tiến tới tiêu diệt lẫn nhau để thống nhất đất nước.
Chính trong thời kì này, ở Trung Quốc xuất hiện nhiều tư tưởng, học thuyết
trong đó tiêu biểu là học thuyết đạo đức của Khổng Tử. Thời Xuân Thu –
Chiến Quốc diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị
- xã hội.
Tình hình kinh tế: Với tư cách là một hình thái tư tưởng, tư tưởng đạo
đức của Khổng Tử nảy sinh và tồn tại trên điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Trong lĩnh vực kinh tế, thời Xuân Thu – Chiến Quốc có bước phát triển mạnh
mẽ cả về nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp được thể hiện ở các
mặt sau:
Trong nông nghiệp: Ở thời nhà Hạ, Thương thì công cụ sản xuất chủ yếu
bằng đồng như cuốc, xẻng, dao, búa…Sang thời Xuân Thu, bên cạnh đồng
thau vẫn được sử dụng phổ biến thì đồ sắt đã bắt đầu xuất hiện. Một số tài liệu
có ghi rằng: “Ở nước Tề vào nửa đầu thế kỉ thứ VII TCN, Quản Trọng đã đề
nghị với Tề Hoàn Công: kim loại đẹp để đúc gươm giáo dùng chém chó ngựa,
14
kim loại xấu dùng để đúc cuốc dao dùng xới đất”. Có lẽ “kim loại đẹp” ở đây
là đồng thau, “kim loại xấu” là sắt [69, tr. 38]. Hay trong sách Quốc ngữ viết:
“Đồng thau để đúc kiêm kích, sắt để đúc quả cân …” [Dẫn theo: 17, tr. 31].
Sự xuất hiện và sử dụng khá phổ biến công cụ bằng sắt đánh dấu bước chuyển
lớn trong lĩnh vực kinh tế Trung Quốc. Đến thời Chiến Quốc, công cụ bằng
sắt được sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất. Có tài liệu khảo cổ học
ghi rằng: trong một ngôi mộ thời Chiến Quốc có “hơn 90 công cụ sản xuất
gồm cày, các loại cuốc, xẻng, liềm, dao… và hơn 70 binh khí bằng sắt” [69,
tr. 39]. Trong xã hội Trung Quốc, sự tiến bộ của công cụ lao động đồ sắt thay
thế đồ đồng và được người Trung Quốc sử dụng rộng rãi thì họ còn biết sử
dụng sức kéo bằng súc vật, như sách Quốc ngữ có chép: “Những súc vật làm
đồ hiến tế ở đền miếu có thể dùng trong công việc đồng áng” [Dẫn theo: 69,
tr. 39].
Nhờ những cải tiến, phát triển công cụ sản xuất nên sản xuất nông
nghiệp ngày càng được phát triển. Việc dùng sức kéo thay cho sức người, kỹ
thuật trồng trọt được cải tiến. Người dân Trung Quốc đã biết xây dựng các
công trình thủy lợi lớn. Các công trình này không những có tác dụng tưới tiêu
đồng ruộng xanh tốt mà còn hạn chế nạn lũ lụt, có vai trò quan trọng đối với
giao thông vận tải từ Hoàng Hà đến Trường Giang. Ở thời Xuân Thu – Chiến
Quốc, nhờ những tiến bộ về công cụ sản xuất, kĩ thuật sản xuất, nhất là việc
dùng cày có lưỡi bằng kim loại do súc vật kéo cùng với sự phát triển của hệ
thống thủy lợi nên nông dân Trung Quốc càng có điều kiện khai khẩn đất
hoang, thực hiện thâm canh tăng năng suất. Do đó, sản lượng nông nghiệp
tăng lên rất nhiều. Những nhà quý tộc có địa vị và quyền thế chiếm hữu dần
ruộng đất của công thành của riêng, từ đây chế độ tỉnh điền tan rã, thay thế
bằng chế độ tư hữu về ruộng đất.
Thủ công nghiệp: Bên cạnh sự phát triển trong nông nghiệp thì thủ công
nghiệp cũng có bước phát triển mạnh mẽ. Dưới thời Thương và Tây Chu, đồ
15
đồng được sử dụng rộng rãi chủ yếu để đúc đỉnh. Sang thời Xuân Thu, nghề
đúc đồng thau có những cải tiến rõ rệt, hình dáng thanh thoát, trang trí đẹp
mắt. Ngoài chuông, đỉnh, đồ uống rượu, trong thời kì này còn có một số sản
phẩm mới như kiếm ngắn, gươm đồng. Bên cạnh nghề làm đồng thau, các
nghề thủ công khác như đồ gốm, đồ đá, đồ ngọc, đồ da, đồ gỗ đạt đến trình độ
khá cao. Sang thời Chiến quốc, nghề thủ công mới ra đời là nghề luyện sắt và
kĩ thuật tiến bộ rất nhanh. Người Trung Quốc không chỉ biết kĩ thuật rèn mà
còn cả kĩ thuật đúc, họ luyện được cả gang, thép. Nhà nước trực tiếp quản lí
và tổ chức thành các xưởng khác nhau để tổ chức sản xuất. Những bộ phận
này đã cung cấp các loại đồ dùng hàng ngày cho quần chúng nhân dân.
Thương nghiệp: Sự phát triển của các ngành sản xuất làm cho việc trao
đổi, buôn bán cũng phát triển. Trước kia, thời Thương và Tây Chu, các sản
phẩm được đem ra trao đổi chủ yếu là súc vật, nô lệ. Sang thời Xuân Thu,
hoạt động thương nghiệp phát triển hơn trước, hình thành các trung tâm buôn
bán giữa các nước chư hầu. Thời Chiến Quốc, nhiều mặt hàng về nông sản,
hải sản, sản phẩm nghề chăn nuôi, thủ công được trao đổi trên thị trường.
Trong xã hội xuất hiện những thương nhân lớn có số vốn lên đến hàng vạn
lạng vàng. Tiền tệ bằng kim loại ra đời, vai trò của tiền tệ ngày càng phát
triển. Cuối thời Xuân Thu – Chiến Quốc số lượng tiền bằng đồng được đúc ra
ngày càng nhiều, thời Chiến Quốc còn dùng vàng để làm tiền tệ. Cùng với sự
phát triển của thương nghiệp, Trung Quốc xuất hiện các trung tâm buôn bán,
trao đổi hàng hoá rất hưng thịnh: nhiều thành thị, khu thương nghiệp buôn
bán nhộn nhịp ở Hán, Sở, Tề … Trong xã hội bắt đầu hình thành tầng lớp
thương nhân giàu có, thế lực ngày càng mạnh.
Có thể nói, kinh tế Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc có bước
phát triển mạnh mẽ, trong đó nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu, thủ công
nghiệp và thương nghiệp cũng có bước phát triển đến mức độ nhất định. Mặt
16
khác, nền kinh tế ở Trung Quốc thời cổ - trung đại chủ yếu là nền kinh tế tự
túc, tự cấp song về cơ bản, các ngành kinh tế đều có bước phát triển rõ rệt.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội: Thời Tây Chu vì ruộng đất thuộc
quyền sở hữu của nhà nước cho nên không được mua bán. Nhưng đến thời
Xuân Thu, hiện tượng mua bán ruộng đất xuất hiện. Đây là kết quả tất yếu
của chế độ ruộng đất thuộc quyền sở hữu tư nhân, đồng thời thúc đẩy ruộng
đất tư phát triển nhanh chóng. Ruộng đất ngày càng tập trung vào trong tay
địa chủ lớn, nông dân nhiều người bị mất ruộng đất: “Nhà giàu ruộng liền bờ
bát ngát, người nghèo không có tấc đất cắm dùi”[69, tr. 48]. Lúc này, trong xã
hội xuất hiện nhiều giai cấp, tầng lớp mới làm cho mâu thuẫn giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội ngày càng gay gắt. Trong xã hội phân chia thành
bốn thành phần chủ yếu: giai cấp thống trị, giai cấp nông dân, tầng lớp công
thương, giai cấp nô lệ.
Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc rất rối ren, mọi quyền
hành của nhà vua không ai phục tùng, mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng
gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc nhà Chu và giai cấp địa chủ
mới với giai cấp nông dân; mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc mới với tầng lớp
quý tộc cũ; trong nội bộ giai cấp quý tộc xuất hiện mâu thuẫn giữa các phe
phái nhằm tranh giành quyền thống trị. Trên phạm vi xã hội, mâu thuẫn giữa
thiên tử nhà Chu với các nước chư hầu.
Như thế, cục diện chính trị - xã hội ở Trung Quốc thời Đông Chu đã thay
đổi, triều đại nhà Chu đã suy sụp. Nếu như dưới thời Tây Chu, thiên tử có uy
quyền tuyệt đối như trong sách kinh Thi viết: “Đất đai thần dân dưới gầm trời
này không ở đâu không phải là của vua” [Dẫn theo: 11, tr. 13] thì đến thời
Xuân Thu, vai trò của thiên tử chỉ là hình thức, không ai tôn trọng mệnh lệnh
của nhà vua, nền chính trị rối ren, trật tự xã hội bị đảo lộn. Đây là thời kì mà
Khổng Tử cho rằng: “vua không phải đạo vua, cha không phải đạo cha, con
không phải đạo con” [19, tr. 108].
17
Trong xã hội Trung Quốc, tình trạng chính trị rối ren, lãnh thổ chia năm
xẻ bảy, nạn chư hầu, cát cứ làm cho đời sống nhân dân rất khó khăn. Dưới
thời Đông Chu, các mối quan hệ kinh tế, chính trị, quân sự giữa thiên tử và
các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, trật tự lễ nghĩa không còn được coi
trọng. Thiên tử nhà Chu hầu như không còn uy quyền, trong khi đó các nước
chư hầu tập trung phát triển kinh tế, huy động sức mạnh quân sự gây chiến
tranh thôn tính lẫn nhau nhằm tranh giành địa vị bá chủ. Dưới bầu trời nhà
Chu, cảnh tôi giết vua, con hại cha, anh em hại nhau trở nên phổ biến. Thời
Xuân Thu tồn tại khoảng 242 năm đã xảy ra 483 cuộc chiến tranh lớn nhỏ.
Đầu thời Tây Chu có hơn 1000 nước, cuối Xuân Thu còn hơn 100 nước, các
nước nhỏ bị nước lớn tiêu diệt. Sang thời Chiến Quốc, chỉ còn lại bảy nước
lớn tranh giành nhau gọi là Thất hùng: Tần, Sở, Tề, Hàn, Triệu, Ngụy, Yên.
Chiến tranh liên miên gây thảm họa chết chóc làm cho đời sống nhân
dân vô cùng cực khổ. Mặt khác, các lãnh chúa tăng cường bóc lột nhân dân
lao động, nông dân đi chiến trận, chịu sưu thuế nặng nề; đồng ruộng bỏ
hoang. Chính vì sự rối loạn của xã hội đã tạo ra tình trạng phi nhân tính, vô
đạo đức và làm cho các mối quan hệ xã hội giữa người và người bị biến dạng,
lễ nghĩa, cương thường bị đảo lộn, đạo đức suy đồi: “Chư hầu lấn quyền
Thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội
rất rối loạn” [1, tr. 25 - 26]. Đời sống nhân dân nghẹt thở, mâu thuẫn xã hội
thời Xuân Thu phát triển lên đỉnh cao làm cho phong trào biến pháp ở một số
nước phát triển mạnh nhằm ngăn chặn nguy cơ đảo lộn xã hội. Đây là thời kì
có “một không hai” trong lịch sử Trung Quốc. Chính từ trong hoàn cảnh này
đã tạo thêm những nhân tố thúc đẩy sự ra đời học thuyết đạo đức của Khổng
Tử và nhiều học thuyết khác.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội như trên, để khôi phục trật tự, kỉ cương
xã hội và địa vị thống trị của mình, các nước đều đua nhau trọng dụng kẻ sĩ.
Nhờ hình thức chiêu hiền đãi sĩ mà các học thuyết, các học phái tư tưởng ra
18
đời và phát triển mạnh. Các sử gia gọi đây là thời kỳ “bách gia tranh minh”
(trăm nhà đua tiếng). Mỗi trường phái đều đưa ra học thuyết của mình nhằm
mục đích đưa xã hội từ loạn thành trị. Nhìn chung, các học thuyết đều đạt đến
trình độ tư duy khá cao và sâu sắc. Vì đây là thời kì xã hội Trung Quốc đang
trên đà suy vi của chế độ thống trị nhà Chu, do vậy mà, vấn đề chủ yếu các
học thuyết tập trung lý giải là: Làm thế nào để xã hội trở nên thịnh trị? Làm
sao để nước mình bá chủ được thiên hạ? Để giải đáp các vấn đề lớn đó mỗi
học phái đều có lý giải riêng. Mặc gia dùng biện pháp kiêm ái: yêu thương tất
thảy đồng loại; Pháp gia chủ trương dùng pháp luật cai trị; Nho gia lại chủ
trương dùng đạo đức, trị nước dựa trên nền tảng đạo đức của nhà vua và
người cầm quyền (hay còn gọi là đức trị). Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn lạc
là do con người vô đạo, muốn xã hội thịnh trị thì phải tu dưỡng đạo đức, an
tâm, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Có như vậy, xã hội mới trở nên yên bình,
thịnh trị theo quan điểm của các nhà tư tưởng. Mỗi học thuyết ra đời thời kì
này đều có những giá trị và hạn chế nhất định song tư tưởng chính trị - đạo
đức của Khổng Tử nổi bật hơn cả. Nó có ảnh hưởng ở Trung Quốc trong thời
gian khá dài (Có thời kì, Nho giáo còn được coi là quốc giáo ở Trung Quốc)
thậm chí còn du nhập và ảnh hưởng đến nhiều nước khác trong khu vực và
trên thế giới.
1.1.2 Tiền đề văn hóa, tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng đạo đức của Khổng Tử
Mọi học thuyết, tư tưởng ra đời đều gắn liền với hoàn cảnh lịch sử, xã
hội cụ thể. Chính từ trong xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu - Chiến Quốc là
nguyên nhân cơ bản nhất của sự ra đời tư tưởng đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên,
sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không kể đến tiền đề văn hóa, tư tưởng đạo đức
truyền thống Trung Quốc tác động, ảnh hưởng đến sự ra đời tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử.
Tiền đề văn hóa: Thời cổ đại, Trung Quốc là một trung tâm văn hóa lớn
của thế giới. Từ rất sớm, nhân dân Trung Hoa đã sáng tạo ra nền văn hóa rực
19
rỡ mà chủ yếu biểu hiện ở các mặt: chữ viết, văn học, y dược, lịch
pháp….Theo truyền thuyết, từ đời nhà Thương, chữ viết đã ra đời và được
khắc trên mai rùa, xương thú (chữ giáp cốt). Thời Tây Chu, số lượng chữ
ngày càng nhiều, cách viết đơn giản hơn (gọi là chữ kim văn hay chung đỉnh
văn). Từ khi xuất hiện chữ viết, mọi hiện tượng trong đời sống xã hội đều
được con người khắc ghi lại và truyền qua nhiều thế hệ khác nhau. Chính vì
thế, thơ văn giai đoạn này phát triển mạnh mẽ, những bài thơ hay được sáng
tác từ đầu đời Chu đến giữa Xuân Thu đều được ghi lại thành một tác phẩm
gọi là Thi (tức là thơ). Tương truyền, về sau Khổng Tử đã chỉnh lý lại và trở
thành một trong những bộ kinh điển của Nho giáo gọi là kinh Thi. Tác phẩm
này không những có giá trị văn học mà còn là tấm gương phản chiếu tình hình
xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Ngoài ra, các nhà Nho còn đánh giá cao tác
dụng tư tưởng của tác phẩm này. Trong lĩnh vực thiên văn, lịch pháp, y dược,
người Trung Quốc cổ - trung đại cũng có nhiều thành tựu đáng kể. Họ biết
làm ra lịch căn cứ vào lịch số mùa màng. Một năm có bốn mùa, phân biệt các
tiết của một năm (lập xuân, lập thu, xuân phân…) có ý nghĩa lớn đối với sản
xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực y học, nhiều bài thuốc quý, phương pháp
chữa bệnh được ghi chép trong sách Thần nông bản thảo kinh và Hoàng đế
nội kinh. Những tri thức này không những góp phần thúc đẩy nền sản xuất xã
hội phát triển mà còn là tiền đề cho sự ra đời của các học thuyết triết học,
chính trị, đạo đức, tôn giáo thời Xuân Thu – Chiến Quốc, trong đó có Nho
giáo.
Tiền đề tư tưởng: Tư tưởng đạo đức Nho giáo ra đời trên cơ sở tiếp thu
và kế thừa những tư tưởng có từ trước thời Xuân Thu ở Trung Hoa như tư
tưởng tôn giáo, chính trị đạo đức.
Tư tưởng tôn giáo: Lịch sử Trung Quốc từ thời nhà Hạ, Thương – Ân và
Tây Chu là giai đoạn hình thành, phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ. Để
bảo vệ uy quyền của mình, giai cấp chủ nô dùng thế giới quan duy tâm, tôn
20
giáo với các hình tượng về thượng đế, quỷ thần, quan điểm thiên mệnh. Các
hình tượng đều được xem là lực lượng tối cao chi phối, quyết định sự tồn tại,
phát triển của vạn vật, con người. Họ còn cho rằng, con người có thể thông
đạt với thượng đế, quỷ thần thông qua tế lễ và thờ cúng tổ tiên. Quan niệm
này được truyền qua nhiều đời. Đến thời nhà Chu, để biện hộ cho nền thống
trị “phong hầu kiến địa” của mình, nhà Chu cho rằng, sự biến hoá của mọi sự
vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, đời sống xã hội và con người đều do ý chí
của thượng đế, thiên mệnh và ý chí của quỷ thần chi phối. Mọi chính quyền,
quyền tư hữu về tài sản, quyền thống trị của nhà vua đều do thượng đế ban
cho. Nhà vua tự cho mình là những con người chịu mệnh lệnh của thượng đế
để cai trị nhân dân. Họ tự xưng là con trời (Thiên tử). Tất cả nhân dân phải
tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh thiên tử vì đó là ý chí của Thượng đế, quỷ
thần, nếu không sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Giới cầm quyền nhà Chu còn
nhân cách hoá, thiêng liêng hoá các hiện tượng tự nhiên và lợi dụng để mê
hoặc, nô dịch nhân dân lao động. Để biện hộ, duy trì địa vị thống trị của mình,
nhà Chu đã tuyệt đối hoá vai trò của trời, thượng đế mang đậm tính chất tôn
giáo: kính trời, thờ thượng đế, trời và người hợp nhất. Nhà Chu cho rằng: “Vì
nhà Ân không biết mệnh trời, hành động không hợp với mệnh trời, do vậy
thượng đế đã trừng phạt và để cho nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân” [Dẫn
theo: 11, tr. 15].
Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử chịu ảnh hưởng của quan điểm duy
tâm, tôn giáo của nhà Chu là đề cao, tuyệt đối vai trò nhà vua (Thiên tử), thay
trời thống trị thiên hạ, cai trị dân nói chung, đạo bề tôi nói riêng. Có thể thấy,
tư tưởng truyền thống tôn giáo Trung Hoa trước thời Khổng Tử đã xuất hiện
tư tưởng kính thiên, mệnh trời mà về sau được Khổng Tử kế thừa trong học
thuyết chính trị đạo đức của mình.
Về chính trị: Một nhân tố nữa làm tiền đề cho sự ra đời tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử là những truyền thuyết, những huyền thoại cổ xưa về thời đại
21
hoàng kim của dân tộc Trung Hoa. Đó là những vị vua sáng như vua Nghiêu,
vua Thuấn – các ông vua sống rất đạm bạc, tao nhã, giản dị, yêu dân, giỏi
trong việc trị nước, an dân. Những vị vua có đức, có tài cai trị nhân dân thì
đời sống xã hội lúc nào cũng an lành, không có trộm cướp, mọi người thương
yêu nhau, trên dưới một lòng…. Dưới thời Tây Chu, xã hội trên dưới có thứ
bậc, trật tự kỉ cương ổn định: “Dưới bầu trời không chỗ nào không phải là đất
nhà Chu, trên mặt đất không chỗ nào không phải là tôi nhà Chu” [17, tr. 20].
Nhà Chu dựa trên chế độ chính trị thế tập để cai trị đất nước, mọi người đều
phải phục tùng mệnh lệnh của thiên tử. Xuất phát từ thực tiễn chính trị - xã
hội thời Xuân Thu vô cùng loạn lạc, Khổng Tử luôn mong muốn xây dựng
một nền chính trị ổn định, có những vị vua sáng cai trị đất nước. Chính vì thế,
học thuyết đạo đức của Khổng Tử ra đời gắn liền với vấn đề chính trị mà
người ta hay gọi là học thuyết chính trị - đạo đức.
Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo mà trọng tâm là học thuyết đạo
đức. Ông được sinh ra trong dòng dõi quý tộc sa sút, sống trong thời kỳ loạn
lạc, được tận mắt chứng kiến cảnh chiến tranh nên xuất phát từ địa vị bản thân
giai cấp mình, ông luôn ôm ấp hoài bão chính trị, xây dựng đất nước hoà
bình, thịnh trị, xã hội có trật tự, kỷ cương như thời Tây Chu. Đó là xã hội lý
tưởng, có đạo đức: quân - thần - phụ - tử. Khổng Tử đã tiếp nhận phương thức
chính trị dùng thần quyền của thời Tây Chu để củng cố và sử dụng vương
quyền trong cai trị đất nước. Học thuyết chính trị - đạo đức của Khổng Tử
thừa nhận, sử dụng thần quyền đồng thời khẳng định vương quyền đứng trên
thần quyền, từ đó khẳng định vị trí và vai trò của con người trong quá trình
biến đổi lịch sử. Như trong sách Luận ngữ, Khổng Tử cho rằng: “Như có bậc
thánh nhơn vâng mạng trời mà cai trị thiên hạ thì sau ba chục năm, nền nhân
chính phổ cập khắp cả” [19, tr. 203].
Về đạo đức: Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử ra đời trên cơ sở nền tảng
tư tưởng đạo đức truyền thống Trung Hoa từ các thời đại trước (Hạ, Thương,