Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Tìm hiểu những nội dung chính trong tác phẩm Mạnh Tử và ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.22 KB, 101 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====***=====


























TRẦN THỊ TÂM


























TÌM HIỂU NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH TRONG TÁC
PHẨM MẠNH TỬ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC



Hà Nội, 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====***=====























TRẦN THỊ TÂM



















TÌM HIỂU NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH TRONG
TÁC PHẨM MẠNH TỬ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM

Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ THỊ LAN

HÀ NỘI, 2009


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Một trong những nhân
tố làm cho nước ta có được những thành tựu to lớn đó là việc Đảng ta đã
chủ trương phát triển nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Tại Đại hội
lần thứ X (2006), Đảng ta đã xác định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và
nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế- xã hội, làm cho
văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [19, 106]. Theo
chính sách này của Đảng thì nhiệm vụ của chúng ta là khai thác và làm
giàu thêm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong xã hội hiện
đại ngày nay. Một trong những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
Việt Nam đó chính là Nho giáo.
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc do
Khổng Tử sáng lập Mạnh Tử phát triển được gọi là Nho giáo Nguyên thủy,
Nho giáo Khổng- Mạnh hay Nho giáo Tiên Tần. Khổng Tử được coi là
ông tổ của Nho giáo còn Mạnh Tử là người đã kế thừa và phát triển xuất
sắc tư tưởng của Khổng Tử. Tất cả những tư tưởng của Mạnh Tử được ghi
lại trong tác phẩm Mạnh Tử- một trong bốn tác phẩm của bộ Tứ Thư- đây là

bộ sách kinh điển của Nho giáo Trung Quốc.
Nho giáo được truyền vào nước ta hàng ngàn năm nay. Trong suốt
quá trình hình thành và phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam, đặc
biệt từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX, các triều đại phong kiến Việt
Nam đã tiếp thu và sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng và công cụ trị nước,
đào tạo ra những con người phù hợp với yêu cầu và mục đích của giai cấp
phong kiến thống trị. Từ nửa cuối thế kỷ XIX trở lại đây, mặc dù cái bệ đỡ
của Nho giáo là chế độ phong kiến không còn nữa nhưng một số nội dung
của Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng ở một số lĩnh vực trong đời sống xã hội ở
nước ta. Nho giáo là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội nên nó
có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội và con người Việt Nam.

2
Hiện nay, trước những biến động hết sức phức tạp của đời sống xã
hội, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đã có xu hướng nghiên cứu trở lại vấn
đề Nho giáo trên tinh thần phê phán nhằm tiếp thu những yếu tố có giá trị
chung của Nho giáo.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu những nội dung chính trong tác phẩm
Mạnh Tử nhằm góp phần tìm hiểu Nho giáo một cách đầy đủ hơn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ta hiện nay. Bởi vì, có như vậy, chúng ta mới góp phần giải quyết
đúng đắn mối quan hệ truyền thống và hiện đại- một trong những nhân tố
thúc đẩy sự phát triển của đất nước ta.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu sự ảnh hưởng của những nội
dung chính trong tác phẩm Mạnh Tử ở Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều yếu
tố khác nhau mà các công trình đó chưa cho chúng ta một cái nhìn khái
quát, toàn diện về sự ảnh hưởng của những nội dung này đối với lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề: Tìm hiểu những
nội dung chính trong tác phẩm Mạnh Tử và ảnh hưởng của nó đối với lịch
sử tư tưởng Việt Nam làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình nhằm đóng

góp, bổ sung để làm giàu thêm nhận thức về tác phẩm Mạnh Tử và sự ảnh
hưởng của những nội dung đó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu Nho
giáo nói chung và sách Mạnh Tử nói riêng. Chúng tôi có thể khái quát một số
thành quả nghiên cứu sau:
Các công trình nghiên cứu về Nho giáo nói chung và tác phẩm Mạnh
Tử nói riêng có: Nho giáo của Trần Trọng Kim, Khổng học đăng của Phan
Bội Châu, Khổng giáo phê bình tiểu luận của Đào Duy Anh. Các công trình
này đã phản ánh những quan điểm cơ bản của Mạnh Tử về chính trị, xã hội,
về triết học, về nhân sinh quan. Tuy nhiên, ở các tác phẩm này, các tác giả đã
thể hiện những thái độ cực đoan về Nho giáo, hoặc phủ nhận hoàn toàn những
giá trị tích cực của Nho giáo, hoặc là muốn làm sống lại những giá trị của

3
Nho giáo. Tác phẩm Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm đã có cái nhìn biện
chứng về Nho giáo, theo ông, Nho giáo có cả mặt tích cực và hạn chế.
Mặc dù những công trình trên đây vẫn mang tính chất chủ quan của
người nghiên cứu nhưng chúng ta không thể phủ nhận những giá trị của các
công trình này. Tuy nhiên, các công trình trên vẫn chưa trình bày đầy đủ về
các phạm trù, nội dung của Nho giáo nói chung, của Mạnh Tử nói riêng nên
việc tiếp tục tìm hiểu tác phẩm Mạnh Tử là một việc làm cần thiết.
Những tác phẩm nghiên cứu Mạnh Tử gồm có: Mạnh Tử linh hồn của
nhà Nho của Nhà Xuất Bản Đồng Nai, Những câu nói bất hủ của Mạnh Tử của
Đỗ Anh Thơ, Mạnh Tử tư tưởng và sách lược của Trí Tuệ, Mạnh Tử của Nguyễn
Hiến Lê. Các công trình này đã trình bày những luận điểm chính trong tư tưởng
của Mạnh Tử. Tuy nhiên, phần trình bày còn chưa đầy đủ, ở một vài chỗ trong
những tác phẩm này còn thể hiện tính chủ quan của tác giả khi bàn về những câu
nói của Mạnh Tử. Bên cạnh những công trình trên còn có các bài báo khác như:
Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng của Nguyễn Thanh Bình đăng trên tạp

chí Triết học, (số 3) năm 2001, Những điểm tương đồng và dị biệt trong học
thuyết “tính người” của Nguyễn Thanh Bình đăng trên tạp chí Triết học, (số 9)
năm 2002. Tuy nhiên, các bài viết này cũng mới chỉ đề cập và đánh giá một cách
khái quát nhất từng nội dung cụ thể của Nho giáo chứ chưa đề cập hoàn toàn toàn
tới tác phẩm Mạnh Tử. Bên cạnh đó còn có các bài báo khác như Mạnh Tử quan
niệm về nhân nghĩa của Hoàng Ngọc Yến đăng trên tạp chí Tia sáng, Từ tư tưởng
nhân nghĩa đến đường lối“nhân chính” trong học thuyết chính trị- xã hội của
Mạnh Tử của Bùi Xuân Thanh đăng trên chí Triết học, (số 2) năm 2008. Hai bài
báo này chủ yếu đề cập tới tư tưởng nhân nghĩa của Mạnh Tử nhưng chưa đầy đủ.
Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của tư tưởng Mạnh Tử đối với lịch sử
nước ta thời phong kiến có các công trình sau: Lịch sử tư tưởng Việt Nam do
Nguyễn Tài Thư chủ biên, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến cách mạng tháng Tám, tập I do Trần Văn Giàu chủ biên, Nho học và
Nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư, Nho học ở Việt Nam- Giáo dục và
thi cử của Nguyễn Thế Long, Học thuyết chính trị- xã hội của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX) của

4
Nguyễn Thanh Bình, Đặc điểm của Nho Việt của Nguyễn Hùng Hậu đăng
trên tạp chí Triết học, (số 5) năm 1998. Các công trình này phần này đã trình
bày được sự ảnh hưởng của của Nho giáo nói chung và tư tưởng của Mạnh Tử
ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến.
Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của Nho giáo ở nước ta thời kỳ hiện đại
có các công trình sau: Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình
mới ở Việt Nam hiện nay của Minh Anh đăng trên tạp chí Triết học, Khai thác các
giá trị của truyền thống Nho học phục vụ sự phát triển của đất nước trong điều
kiện toàn cầu hoá của Nguyễn Trọng Chuẩn đăng trên tạp chí Triết học. Nghiên
cứu Nho giáo trong bối cảnh khu vực và thời đại của Phan Văn Các, Đạo đức Nho
giáo với việc rèn luyện và nâng cao phẩm chất đạo đức cộng sản, của Nguyễn
Thanh Bình, đăng trên tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, (số 4) năm

2000, Nho giáo với vấn để phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội của Nguyễn Thanh Bình.
Các công trình trên đã nghiên cứu một cách khái lược về ý nghĩa của Nho
giáo đối với việc hoàn thiện đạo đức của con người Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, sự ảnh hưởng của tư tưởng của Mạnh Tử về đường lối đức trị đối với người
cầm quyền, về vấn đề tu thân rèn luyện đạo đức của con người hiện nay như thế
nào là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng
của Mạnh Tử và vận dụng nó để hoàn thiện đạo đức con người đáp ứng sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay của đất nước là một việc làm cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Đề tài tập trung làm rõ những nội dung chính trong tác
phẩm Mạnh Tử và ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam.
- Nhiệm vụ của luận văn là:
+ Phân tích và khái quát những nội dung cơ bản trong tác phẩm Mạnh Tử
+ Làm rõ ảnh hưởng của những nội dung đó trong tác phẩm Mạnh Tử đối
với lịch sử tư tưởng Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những nội dung chính trong tác phẩm Mạnh
Tử và ảnh hưởng của chúng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

5
- Phạm vi nghiên cứu: Tác phẩm Mạnh Tử và lịch sử tư tưởng Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá,
lịch sử. Luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học
Mác-Lênin trong nghiên cứu xã hội, con người và nghiên cứu lịch sử triết học.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể, như các phương pháp: phân tích- tổng hợp; lôgíc- lịch sử;
đối chiếu- so sánh

6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ và hệ thống hoá những nội dung chính trong
tác phẩm Mạnh Tử và ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu Nho
giáo nói chung và tư tưởng của Mạnh Tử nói riêng, đặc biệt là ảnh hưởng của
nó đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam
7. Kết cấu cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần
Nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Những nội dung chính trong tác phẩm Mạnh Tử, gồm 2 tiết.
Chương 2: Ảnh hưởng của những nội dung chính trong tác phẩm
“Mạnh Tử” đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam, gồm 2 tiết.








6
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH TRONG TÁC PHẨM MẠNH TỬ
1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội và tiền đề tƣ tƣởng cho việc hình thành
nên tƣ tƣởng của Mạnh Tử
1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội
Trong lịch sử Trung Quốc thời kỳ cổ đại, Xuân Thu- Chiến Quốc được
coi là thời kỳ có nhiều biến động, rối ren nhất.
Thời Xuân Thu- Chiến Quốc kéo dài từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III
TCN. Xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc đánh dấu bước chuyển từ

việc sử dụng đồ đồng sang sử dụng đồ sắt và việc dùng bò làm sức kéo trở thành
phổ biến. Việc sử dụng công cụ bằng sắt là chủ yếu trong quá trình sản xuất đã
đem lại sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp.
Trên cơ sở phát triển thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng phát triển
hơn trước, tiền tệ đã xuất hiện. Đây là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương
nghiệp. Ở Trung Quốc, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều thành thị buôn bán
nhộn nhịp ở các nước Hàn- Tề- Tần- Sở. Thành thị đã có một cơ sở kinh tế
tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thị tộc. Thành thị của quý
tộc là những đơn vị khu vực kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên.
Sự biến động trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn đến
các lĩnh vực của chính trị- xã hội. Nó làm xuất hiện một cục diện mới trong
xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc. Vai trò của nhà Chu không
còn được như trước nữa, thiên tử nhà Chu chỉ là vua bù nhìn. Đến thời Chiến
Quốc thì nhà Chu hoàn toàn mất hết quyền lực.
Các nước chư hầu của nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh,
không chịu cống nạp mà mang quân thôn tính lẫn nhau, tự xưng là bá. Xuân
Thu- Chiến Quốc là thời kỳ “vương đạo suy vi”, “bá đạo” nổi lên lấn át
“vương đạo”. Mặt khác, chiến tranh kéo dài liên miên giữa các nước chư hầu
đã làm cho đời sống nhân dân càng ngày càng thêm khổ cực, trật tự xã hội bị
rối loạn, lễ nghĩa nhà Chu bị phá hoại.

7
Thời Chiến Quốc kéo dài từ năm 403 TCN đến năm 221 TCN. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra thời gian ra đời thời kỳ Chiến Quốc
nhưng phần đông mọi người đều cho rằng thời gian ra đời thời Chiến Quốc là
năm 403 TCN. Năm 403 TCN, nước Tấn (là nước mạnh nhất trong số các
nước chư hầu) bị chia thành ba nước nhỏ là Hàn, Triệu, Nguỵ. Triều đình bất
lực nhà Chu bắt buộc phải công nhận quyền lực của họ, ba nước này cũng lần
lần lượt xưng vương. Chiến Quốc cũng là thời kỳ chứng kiến cục diện thất
hùng- bảy nước Tần, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Nguỵ, Yên tranh giành quyền lực,

tàn sát lẫn nhau nhưng ba nước mạnh hơn cả là Tề, Sở, Tần.
Trong ba nước ấy, Tề đất đai nhỏ hơn cả nhưng có một vị trí rất tốt;
nằm trên hạ lưu sông Hoàng Hà, gồm nhiều đồng ruộng phì nhiêu đã được
trồng trọt từ lâu, dân chúng được khai hóa, khéo tay và thuần tính; quyền
hành dễ được tập trung vào triều đình, không thường bị xẻ cho các lãnh chúa
như tại các nước nhiều núi non hiểm trở. Một nguồn lợi rất lớn của Tề là
muối, nhờ bờ biển rất dài; các ruộng muối do triều đình khai thác rồi thương
nhân chở đi bán khắp miền đông Trung Hoa, và phải đóng thuế cho nhà vua
50% giá bán. Tề còn có mỏ sắt, cũng do triều đình khai thác. Do đó, Tề là
nước giàu nhất, văn minh nhất trong thất hùng. Từ thế kỷ VII TCN, Tề Hoàn
Công (685- 643 TCN) nhờ tướng quốc Quản Trọng, một chính trị gia đại tài,
tổ chức lại chính quyền, quân đội, nhất là kinh tế, mà hùng cường, thành một
vị bá trong các chư hầu, thao túng các nước khác, mười một lần hội các chư
hầu để ra mệnh lệnh cho họ, chẳng hạn tuyên bố phạt Sở hoặc trừng trị chư
hầu không chịu phục tùng. Tới thế kỷ thứ tư, thời Mạnh Tử đã suy vì các vua
bất tài, nhưng vẫn còn là nước giàu nhất.
Đất đai rộng lớn nhất là Sở, phía đông từ Đông Hải, phía tây tới Hán
Trung, giáp với Tần; phía bắc giáp Hà, Tống, Lỗ, Tề, ở phía trên sông Hoài;
phía nam tới Động Đình Hồ, ở dưới sông Dương Tử; diện tích bằng diện tích
Tề, Yên, Triệu, Ngụy, Hàn nhập lại. Nhưng miền đó chưa khai phá, đa số là
rừng hoang và đầm lầy, dân chúng thưa thớt mà còn dã man, nên sự cai trị là

8
rất khó khăn. Thế kỷ V- TCN, vua Sở đã nhiều lần muốn tổ chức lại chính
quyền và quân đội, nhưng phần lớn là không thành công, cho nên Sở lăm le
muốn tiến lên hướng bắc, chiếm miền trung nguyên (Hàn, Ngụy, Tống, Lỗ,
Tề) mà không được.
Tần nằm về phía tây, đất đai cũng rất rộng, chỉ kém Sở (nhất là sau
khi nghe lời Tư Mã Thác; Tần Huệ Vương đem quân chiếm được đất Ba
Thục). Tuy đất đai gồm nhiều rừng núi, dân chúng cũng còn bán khai,

nhưng được lợi thế là có cửa Hà Cốc, một hẻm núi rất hiểm trở, và khi
đóng lại thì quân địch dù có thiên binh vạn mã cũng không qua được, thành
thử Tần không bị các nước ở phía đông (Hàn, Ngụy, Tống ) tấn công, có
thể yên ổn tổ chức sự cai trị, khai khẩn đất đai, trữ lương, luyện binh để
chờ thời. Nhất là từ năm 362 TCN, Tần Hiếu Công dùng Thương Ưởng, áp
dụng biến pháp của Thương ưởng thì Tần càng mau mạnh. Thương Ưởng
đặt ra pháp lệnh rất công bình, vô tư; phạt thì không kiêng kẻ có uy quyền
lớn, thưởng thì không vì tình riêng.
Không chỉ cố vấn về pháp luật, Thương Ưởng còn giúp nhà Tần đề ra
những chính sách khuyến nông, chính sách thuế khóa hiệu quả. Điều này đã
giúp cho nước Tần trở thành nước hùng mạnh nhất trong các nước.
Dùng biến pháp mười sáu năm, Tần đã mạnh lên rất nhiều. Năm 343
TCN, Hiếu Công xưng bá, nhiều chư hầu bắt đầu thấy nguy cơ. Năm 333
TCN, Yên, Triệu, Hà, Ngụy, Tề, Sở theo mưu kế của Tô Tần, hợp tung để
chống Tần, nhưng chỉ được một năm phe hợp tung tan, Tần càng đắc thế.
Năm 325 TCN, Tần xưng vương. Năm 311 TCN, Trương Nghi đề xướng
thuyết liên hoành, liên kết các nước từ đông sang tây và đứng về phe Tần để
phá các nước khác, và lần lần nhờ tướng Bạch Khởi, Tần thắng được Ngụy,
Hàn, hạ được Sở, uy hiếp được Tề, diệt được Triệu, chiếm được Chu. Năm
256 TCN, nhà Chu dâng đất cho Tần. Từ đó, nhà Tần thôn tính lần lượt các
nước khác và thống nhất Trung Quốc năm 221-TCN.

9
Thời Chiến Quốc, chiến tranh không còn giữ cái luật “quân tử”- không
giết kẻ bại- như ta thường thấy ở thời Xuân Thu, mà có tính cách dã man,
rừng rú: tàn phá cho thật nhiều, đổ máu cho thật nhiều, chiếm đất bắt dân lành
làm nô lệ, còn lính địch thì giết hàng ngàn, hàng vạn. Dân chúng bị nạn chiến
tranh bất tuyệt, già nửa phải đi lính, còn kẻ ở nhà thì phải nộp thuế gần hết
phần hoa lợi. Các vua chúa, đại thần, hầu hết đều truỵ lạc, sống cực kì xa hoa
trên xương máu của dân. Những bức tường do những quốc gia xây dựng nên

để ngăn chặn các bộ lạc du mục phía Bắc và ngăn chặn lẫn nhau là tiền thân
của Vạn lý trường thành sau này.
Chính trong thời đại lịch sử với những biến đổi toàn diện về các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội như vậy đã dẫn đến sự thay đổi cơ bản về tư tưởng,
đặt ra nhiều vấn đề triết học, chính trị, xã hội, lý luận đạo đức… kích thích
các bậc tài sĩ đương thời quan tâm lý giải. Họ tranh luận, phê phán lẫn nhau
về biện pháp khắc phục tình trạng vô đạo của xã hội đương thời và kiến tạo xã
hội tương lai. Chiến Quốc là một thời đại loạn, nhưng cũng là thời tư tưởng
Trung Quốc phát triển mạnh, như đang lên men.
Trừ ở nước Tần ra thì ở các nước khác ngôn luận được hoàn toàn tự do.
Các vua chúa đã không nghi kị, mà còn tôn trọng kẻ Nho sĩ, mời họ làm cố
vấn, tuy không theo chính sách của Khổng gia, nhưng đãi họ rất hậu; còn
hạng biện sĩ như Tô Tần, Trương Nghi, Phạm Tuy, Công Tôn Diễn thì một
bước lên chức tướng quốc. Người đời sau gọi đây là thời kỳ “Bách gia tranh
minh”- trăm hoa đua nở, trăm nhà lên tiếng. Chính trong quá trình đó đã xuất
hiện nhiều nhà tư tưởng vĩ đại hình thành nên những trường phái triết học như
Nho gia, Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia…
Có một điều chúng ta cần biết là thời Chiến Quốc có một điểm tiến bộ
hơn thời Xuân Thu. Nếu như ở thời Xuân Thu, chỉ có tầng lớp quý tộc được
đề cao thì ở thời Chiến Quốc vì tranh đấu để tồn tại, các vua chư hầu phải
dùng những người tài giỏi về chính trị, ngoại giao, kinh tế, võ trang… ở bất
kỳ trong giai cấp nào. Chính vì vậy, địa vị của kẻ sĩ được thăng tiến, địa vị

10
của hàng quý tộc giảm dần, các giai cấp được tương đối bình đẳng về pháp
luật. Điều này đã hình thành nên những quan niệm của Mạnh Tử về cách đối
xử của nhà vua với quân thần.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
Không có một học thuyết nào được ra đời trên mảnh đất trống không
mà sự ra đời của nó là sự kế thừa những tư tưởng triết học trước đó. Tư tưởng

Mạnh Tử ra đời cũng không nằm ngoài quy luật này.
Thứ nhất, Mạnh Tử kế thừa nhiều tư tưởng của Nho giáo. Khổng Tử
(551- 497 TCN) được coi là ông tổ của Nho giáo. Trong tư tưởng của mình,
Khổng Tử bàn nhiều về chính trị- xã hội, về đạo làm người. Trong đó, ông tập
trung nhiều vào chữ Nhân. Mạnh Tử được coi là người đã kế thừa và phát
triển xuất sắc học thuyết Nho giáo. Từ chữ Nhân của Khổng Tử, Mạnh Tử đã
phát triển thành tư tưởng thuyết tính thiện, đường lối trị nước vương đạo nhân
chính và nhân nghĩa.
Mạnh Tử còn là người có công lớn trong việc phát triển và truyền bá tư
tưởng của Nho giáo ở thời kỳ Chiến Quốc. Mạnh Tử còn bác bỏ các tà thuyết
dị đoan và công kích các học phái không cùng quan điểm chính trị với Nho
giáo như học phái Mặc gia, học phái Dương Chu.
Tuy nhiên, khác với Khổng Tử, Mạnh Tử thấy thuở ấy nhà Chu đã suy
nhược lắm rồi, vua các nước chư hầu không ai biết đến vua nhà Chu nữa, cho
nên, không những ông không nói đến sự tôn nhà Chu như Khổng Tử, mà lại
khuyên các vua các nước nên làm điều nhân chính để làm vương thiên hạ.
Thứ hai, Mạnh Tử chịu ảnh hưởng của phái Mặc gia. Mặc Tử (480- 420
TCN) là người sáng lập ra phái Mặc gia. Mặc Tử đề cao đức kiêm ái, coi mọi
người như mình, phải yêu thương giúp đỡ mọi người như người thân của
mình, như bản thân mình. Nếu ai cũng theo đạo kiêm ái được thì thiên hạ sẽ
trị, sẽ không còn sự tranh cướp lẫn nhau. Bên cạnh đó, Mặc Tử còn đề cao tư
tưởng thượng đồng và phi công. Thượng đồng là cái gì trên cho là phải thì ở
dưới cũng phải nhận là phải, cái gì người trên cho ra trái thì người dưới cũng

11
phải nhận là trái. Tư tưởng phi công là không thích chiến tranh, chém giết lẫn
nhau. Thời Chiến Quốc bấy giờ, vua chúa các nước đều để chí vào sự doanh
tư, mưu lợi, không ai nghĩ đến sự cứu dân, ai cũng chỉ lo việc tranh quyền
cướp nước, gây ra chiến tranh, làm cho thiên hạ thật là khổ sở. Chịu ảnh
hưởng tư tưởng phi công của Mặc gia, Mạnh Tử hết sức công kích chiến tranh

và những người vị danh, vị lợi mà làm hại dân. Công kích chiến tranh, thì
Mạnh Tử nói: “Có kẻ khoe rằng: “Tôi giỏi bày trận, tôi chiến đấu giỏi”. Đó là
tội rất lớn vậy” [29, 1340]. Như vậy, đứng trên lập trường chủ trương ôn hoà,
ông không ủng hộ chiến tranh của nhà cầm quyền.
Mạnh Tử ủng hộ thuyết phi công của Mặc Tử nhưng lại đả kích tư
tưởng thượng đồng vì theo ông trong xã hội người cầm quyền phải lắng
nghe ý kiến của dân, “dân vi quý” còn “quân vi khinh”. Ngoài ra, Mạnh Tử
còn đả kích tư tưởng Kiêm ái của Mặc gia. Theo ông, chủ nghĩa Kiêm ái
của Mặc gia là không hợp nhân tình, là coi cha mẹ người như cha mẹ mình,
tức là không có cha. Trong mắt không có vua, trong mắt không có cha mẹ,
thế thì thành cầm thú rồi.
Mạnh Tử đề cao quan hệ thân tình, theo ông, đối đãi người nhà và
người ngoài phải khác nhau. Trong chương Ly lâu, tập hạ, ông nói: “Nếu có
người trong nhà đánh nhau, ta dù có liều mình xông vào cứu họ, cũng là
chuyện nên làm. Nếu ngoài đường đang đánh nhau, cũng liều mình đi cứu, đó
chính là người hồ đồ” [55, 132]. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là
Mạnh Tử là người ích kỷ, chỉ biết đến người thân mà không biết đến người
khác, không biết đến đồng loại vì phương châm của ông là thương yêu người
thân, nhân ái với mọi người, yêu quý vạn vật, ông nói: “Người quân tử đối với
loài vật thì yêu quý, nhưng không có lòng nhân, đối với người thì nhân hậu
mà không nhân ái. Thương yêu người thân rồi mới nhân hậu với người, nhân
hậu với người rồi mới yêu quý loài vật” [29, 1334].
Sở dĩ Mạnh Tử đề cao quan hệ thân thuộc, tình yêu thương gia đình và
người thân bởi vì ông thấm nhuần quan điểm của Nho giáo “tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ”. Gốc của nước là nhà, trị gia tốt là tiền thân của trị quốc tốt.

12
Thương yêu người thân, tôn kính bề trên vốn là nguyên tắc của trị gia. Theo
Mạnh Tử, trị quốc cũng phải noi theo nguyên tắc của trị gia vì quốc gia chính
là một đoàn thể do vô số gia đình hợp thành.

Thứ ba, Mạnh Tử chịu ảnh hưởng của phái Dương Chu. Tư tưởng của
phái Dương Chu họ là phong phú và đa dạng nhưng đều đồng nhất với nhau ở
một điểm là, lợi ích cao nhất của cá nhân là gì, và làm thế nào để đạt tới lợi
ích cho cá nhân, tức là họ chủ trương vị ngã. Mạnh Tử đã phê phán tính cực
đoan của Mặc Tử và Dương Chu. Trong chương Tận Tâm, tập thượng, Mạnh
Tử nói: “Dương Tử chủ trương thuyết “vị ngã”- nhổ một sợi lông mà làm lợi
được cho thiên hạ cũng không nên làm. Mặc Tử theo thuyết “kiêm ái”- dẫu
phải sứt trán, mòn gót mà làm được lợi cho thiên hạ cũng nên làm. Tử Mạc
theo thuyết chấp trung. Chấp trung thì gần với đạo. Nhưng chấp trung mà
không quyền biến thì cũng như chấp nhất vậy. Điều đáng ghét ở tính chấp
nhất là làm hại đạo. Được một điều thì hại trăm điều” [29, 1314].
Và theo Mạnh Tử, đời nay suy đồi, đạo mờ tối, những tà thuyết, hành
động bạo ngược nổi lên. Những chuyện bề tôi giết vua, con giết cha là do
bị ảnh hưởng một phần bởi những học thuyết này. Chính vì điều này nên
Mạnh Tử rất lo lắng muốn bảo vệ học thuyết của Nho giáo, phản đối học
thuyết của Dương Chu và Mặc Tử. Trong khi nói chuyện với Công Đô Tử,
Mạnh Tử nói rằng: “Thánh vương chẳng dấy lên, các vua chư hầu buông
thả, những kẻ sĩ ẩn dật tha hồ bàn ngang nói dọc. Lời lẽ của Dương Chu,
Mặc Định tràn ngập thiên hạ. Những lời trong thiên hạ ngày nay không
theo họ Dương thì cũng theo họ Mặc. Dương thị chủ trương thuyết vị ngã,
ấy là kẻ không vua, Mặc thị nêu thuyết kiêm ái, ấy là kẻ không cha. Không
cha, không vua là cầm thú vậy” [29, 1002].
Thứ tư, Mạnh Tử chịu ảnh hưởng của phái Đạo gia. Lão Tử được coi là
một trong những người sáng lập ra Đạo giáo. Sử sách ghi lại là ông sống cùng
thời với Khổng Tử. Trong tư tưởng triết học của mình, Lão Tử đã đưa ra
phạm trù Đạo. Có nhiều cách lý giải khác nhau về “Đạo” nhưng nhìn

13
chung đều thống nhất ở luận điểm, theo Lão Tử, “Đạo” là “tính quy luật
của tự nhiên”, là “thực thể” tinh thần tuyệt đối sinh ra vạn vật, con người

hành động cũng đều phải theo “Đạo”. Mạnh Tử cũng bị ảnh hưởng bởi tư
tưởng “Đạo” của Lão Tử, sau này ông phát triển thành thuyết “thiên mệnh”.
Tuy nhiên, về mặt chính trị- xã hội thì Lão Tử lại chủ trương “vô vi” xa
rời chính trị, trốn tránh hiện thực. Ông nói, “Chính phủ yên tĩnh vô vi, thì
nhân dân sẽ biến ra chất phác; chính phủ tích cực làm việc thì nhân dân sẽ có
tai họa” [63, 45] hoặc “thánh nhân vô vi, do đó, họ sẽ không bị thất bại; cái gì
cũng không có, do đó, họ không mất gì cả” [63, 45]. Ngoài ra, Lão Tử còn
phủ định vai trò của tri thức và khuyên con người nên trở về với trạng thái tự
nhiên chất phác của con trẻ, cần “vô danh”.
Về điều trên, Mạnh Tử phê phán Lão Tử. Theo Mạnh Tử, con người
cần phải tu dưỡng rèn luyện không ngừng để trở thành người quân tử, trở
thành Thánh nhân. Ngoài ra, trước tình cảnh xã hội biến loạn như thời Chiến
Quốc thì người quân tử nên tu dưỡng rèn luyện, tham gia vào công việc chính
trị, giúp vua trị nước an dân.
Thứ năm, Mạnh Tử chịu ảnh hưởng của phái Pháp gia. Cuối thời Chiến
Quốc là giai đoạn hình thành quan hệ sản xuất phong kiến. Giai cấp địa chủ
đã giành được vai trò chủ đạo ở cơ sở hạ tầng của xã hội, nhiệm vụ còn lại
của họ là lật đổ kiến trúc thượng tầng, hoàn thành quá trình phong kiến hóa.
Giai cấp địa chủ muốn dùng bạo lực nhanh chóng kết thúc cục diện phân tán,
các chư hầu thôn tính lẫn nhau để thống nhất đất nước, quyền lực tập trung
một mối, trật tự phải được sắp xếp lại, sức lao động cần phải được bảo vệ…
Pháp gia coi trọng việc dùng hình pháp để trừng trị kẻ có tội. Pháp luật phải
được thi hành rộng rãi, nghiêm minh. Có như vậy thì xã hội mới trở nên thanh
bình được. Tư tưởng của Pháp gia là phản ánh tư tưởng, ý chí của giai cấp địa
chủ vào cuối thời Chiến Quốc.
Như đã nói ở trên, chính cách dùng biến pháp của Thương Ưởng, coi
trọng việc thi hành luật pháp công minh nên nhà Tần dưới sự giúp đỡ cố vấn

14
của Thương Ưởng đã nhanh chóng lớn mạnh vượt trội so với các nước trong

khu vực. Điều này cũng ảnh hưởng tới Mạnh Tử.
Theo Mạnh Tử, pháp luật cũng có vai trò quan trọng trong xã hội. Ông
cũng yêu cầu pháp luật phải nghiêm minh, không được vì tình riêng. Trong
chương Tận tâm, tập thượng, khi trả lời học trò Đào Ứng về mối quan hệ giữa
tình cảm và pháp luật thì một mặt Mạnh Tử thể hiện sự coi trọng đạo đức là
nhiệm vụ hàng đầu của vua, nhưng mặt khác, Mạnh Tử cũng không thể phủ
nhận tính trọng yếu của pháp luật. Vua đã không thể vì tình ruột thịt mà
không coi trọng pháp luật, lại không thể dùng pháp luật để làm tổn hại đến
tình ruột thịt. Ông ta chỉ còn cách duy nhất là vứt bỏ ngôi vua, như vậy, vừa
bảo vệ được nhân luân, lại không đến nỗi công nhiên coi thường pháp luật.
Cho nên, người làm vua nên giải quyết ôn hòa cả hai mặt đạo đức và pháp
luật vì theo Mạnh Tử: “Chỉ có lòng thiện thì không đủ cai trị dân, chỉ có luật
pháp thì không đủ thi hành” [29, 1015]. Rõ ràng, ở đây Mạnh Tử đã đề cao
việc kết hợp cả đạo đức và pháp luật. Về điều này, ông đã tiến xa hơn các nhà
Nho trước đó, hầu hết họ đều đề cao và tuyệt đối hóa phương pháp đức trị,
chưa đánh giá đúng đắn vai trò của pháp trị.
Xuân Thu- Chiến Quốc là thời kỳ đánh dấu sự nở rộ và phát triển của
các học thuyết Nho giáo, Mặc giáo, Đạo giáo, Pháp gia. Mạnh Tử sinh vào
cuối thời Chiến Quốc nên những học thuyết này ít nhiều đều ảnh hưởng tới tư
tưởng của Mạnh Tử. Và chính những học thuyết là tiền đề tư tưởng hình
thành nên tư tưởng của Mạnh Tử về tất cả các vấn đề trong cuộc sống.
1.1.3. Tác giả và tác phẩm Mạnh Tử
Tác giả: Mạnh Tử (390- 305 TCN) tên là Kha, tự là Tử Dư. Ông là người
nước Châu, sát nước Lỗ (nay là huyện Châu thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc).
Mạnh Tử được sinh ra trong một gia đình quý tộc sa sút vào thời Chiến
Quốc, ông thuộc dòng dõi quý tộc. Nhưng tới đời ông cha, chi của ông sa sút
nên tuy là quý tộc mà sống như bình dân. Ông mồ côi cha, tuy nhiên ông lại
được sự vỗ về, quan tâm của mẹ. Mẹ của Mạnh Tử là người phụ nữ hiểu biết

15

lễ nghĩa, hiền từ và nhân ái. Bà dồn hết lòng vào việc chăm sóc Mạnh Tử và
mong Mạnh Tử học hành thành đạt. Điển tích có ghi Mạnh mẫu đã ba lần
chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học
tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Dư, tức là
Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
các tư tưởng Khổng giáo. Trong cuộc đời của mình, Mạnh Tử giành phần lớn
thời gian vào việc đi chu du các nước giảng đạo lý cho các bậc cầm quyền để
giúp họ có phương pháp trị nước hiệu quả mà nhân đạo, nhân chính.
Về cuối đời, ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một
trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo.
Tác phẩm: Tất cả các quan niệm chính trị- xã hội của Mạnh Tử đều
được ghi lại trong tác phẩm Mạnh Tử nên việc tìm hiểu nguồn gốc xuất xứ
của tác phẩm Mạnh Tử là việc làm hết sức cần thiết.
Mạnh Tử là một trong bốn tác phẩm hợp thành bộ Tứ Thư (Luận ngữ,
Mạnh Tử, Đại học, Trung dung). Về tác phẩm Mạnh Tử ở Việt Nam hiện nay có
nhiều bản dịch như bản dịch Tứ Thư của Đoàn Trung Còn, bản dịch Tứ Thư Tập
chú của Chu Hy do Nguyễn Đức Lân dịch; bản dịch Tứ Thư do Trần Trọng Sâm-
Kiều Bách Vũ Thuận dịch; bản dịch Tứ Thư của Viện Hán Nôm… Trong các bản
dịch Tứ Thư trên thì Tứ Thư Tập chú của Chu Hy được đánh giá là hay và sát
nghĩa hơn. Chúng tôi nghiên cứu tác phẩm Mạnh Tử thông qua bản dịch này.
Tác phẩm Mạnh Tử ghi lại toàn bộ lời nói của Mạnh Tử. Tác phẩm này
đã và đang gây ra nhiều cuộc tranh cãi về xuất xứ. Như Hàn Dũ đời Đường,
Thôi Thuật đời Thanh cho rằng Mạnh Tử không viết mà chỉ có Vạn Chương
và Công Tôn Sửu là cùng nhau viết. Lương Khải Siêu trong cuốn “Cổ thư
chân nguỵ cập kì niên đại” đã bác bỏ lý lẽ của Thôi Thuật và cho rằng Mạnh
Tử cũng tham gia viết tác phẩm này. Mặc dù đã có nhiều tranh cãi về nguồn
gốc của tác phẩm theo các hướng khác nhau nhưng hiện nay chúng ta phần
đông vẫn thừa nhận quan điểm cho rằng phần nhỏ bộ Mạnh Tử do Vạn
Chương, Công Tôn Sửu viết theo kí ức; một phần lớn hơn do Mạnh Tử kể cho


16
họ chép lại (như các cuộc đàm thoại với Lương Huệ Vương, Tuề Tuyên
Vương, Đằng Văn Công…), sau cùng ông duyệt lại.
Về đường học vấn của Nho giáo thì sách Mạnh Tử rất có giá trị. Theo
như Trình Y Xuyên đời nhà Tống nói: “Kẻ đi học nên lấy sách Luận ngữ và
sách Mạnh Tử làm cốt. Đã biết được hai bộ sách ấy, thì không cần phải học
năm Kinh cũng rõ được đạo của thánh hiền” [36, 264].
Về kết cấu, tác phẩm gồm 7 chương, Chu Hy lại phân mỗi quyển làm
hai tập thượng và hạ. Chính vì vậy, sách Mạnh Tử được chia thành 14 tập
thượng và hạ.
1.2. Tƣ tƣởng về con ngƣời và chính trị- xã hội trong tác phẩm Mạnh Tử
1.2.1. Tư tưởng về con người
Học thuyết “Tính thiện”
Tìm hiểu quan điểm của Mạnh Tử về tính người là rất quan trọng vì
đây là nền tảng xây dựng nên các quan điểm khác của Mạnh Tử.
Tính người là một vấn đề quan trọng được Nho giáo đề cập nhiều
trong lịch sử triết học Trung Quốc. Đây được coi là vấn đề trung tâm của
Nho giáo, là nền tảng để giải quyết các vấn đề khác. Nguyễn Đăng Thục cho
rằng vấn đề này là “vấn đề trọng đại trong triết học phương Đông” [6, 22].
Vấn đề tính người được đặt ra và giải quyết trên các nội dung cơ bản
sau: Bản tính của con người là gì? Do đâu mà có? Chúng ta có thể cải tạo
được tính người hay không? Và cải tạo vấn đề này nhằm mục đích gì?
Trong cuốn sách Trung dung, Khổng Cấp đã đưa ra một nguyên lý cơ
bản về tính người: “Mệnh Trời ban cho gọi là tính, noi theo tính gọi là đạo, tu
theo đạo gọi là giáo” [29, 85]. Từ mệnh đề này, phần lớn các nhà Nho đều
cho rằng “tính” của con người có nguồn gốc từ trời, là nguyên lý tự nhiên mà
trời phú cho con người và con người bẩm thụ lấy. Theo đó, tính là cái bẩm
sinh ban đầu, là cái nguyên sơ mà con người có được nhờ trời. Như vậy, tính
của con người là thiện hay ác là phụ thuộc chủ yếu vào sự tu dưỡng, giáo dục
của con người.


17
Khi nói đến “tính người”, Khổng Tử cho rằng: “Bản tính người ta gần
giống nhau, thói quen khiến xa nhau” [29, 614]. Rõ ràng, theo Khổng Tử tính
của con người khi mới sinh ra là hoàn toàn ngây thơ, trong trắng, tự nhiên,
chưa bị thay đổi bởi ngoại cảnh và các yếu tố xã hội. Và cái bản tính ấy do
bẩm thụ được ở trời, cho nên mọi người đều có cùng bản tính này. Đặc biệt,
ông khẳng định rằng, cái bản tính ban đầu ấy của con người có thể bị biến đổi
bởi các điều kiện, yếu tố ngoại cảnh, bởi sự tu dưỡng đạo đức của con người.
Như vậy, mặc dù Khổng Tử chưa luận bàn, giảng giải gì nhiều về vấn
đề tính người nhưng quan niệm về tính của ông là tư tưởng cơ bản, đặt nền
tảng ban đầu để từ đó các nhà Nho về sau kế thừa, phát triển.
Từ thời Chiến Quốc trở về sau, xã hội có nhiều biến loạn, lúc đó vấn đề
tính người mới thực sự được các nhà Nho quan tâm với nhiều quan niệm khác
nhau. Sự khác nhau này là do điều kiện lịch sử và nhu cầu cai trị của giai cấp
phong kiến thống trị quy định.
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, “bản tính con người là gì?” Cáo Tử cho
rằng: “Bản tính người ta như nước chảy, khơi sang Đông thì sang Đông, khơi
sang Tây thì sang Tây. Bản tính người ta không phân biệt thiện với bất thiện,
cũng như nước chẳng phân biệt Đông, Tây vậy” [29, 1193]. Như vậy, ở đây
Cáo Tử cho rằng tính người không thiện, không ác.
Trong sách Mạnh Tử, Mạnh Tử bàn nhiều về thuyết tính thiện ở
chương Cáo Tử. Để trả lời câu hỏi “bản tính con người là gì?”, Mạnh Tử xuất
phát từ những giá trị có tính xã hội và thiên về đạo đức nên khẳng định bản
tính của con người là thiện. Ông nói: “Nước đúng là không phân biệt Đông
Tây, nhưng há không phân biệt cao thấp hay sao? Bản tính người ta vốn thiện,
cũng như nước phải chảy xuống thấp vậy. Người ta chẳng ai là bất thiện, như
nước luôn luôn chảy xuống thấp vậy” [29, 1193]. Trong chương Cáo Tử,
Mạnh Tử đã rất nhiều lần phê phán quan điểm “tính vô thiện, vô bất thiện”
của Cáo Tử. Ông nói: “Bản tính của mọi sinh vật đều gọi là tính cả thì tính

của con chó cũng như tính của con bò, tính của con bò cũng như tính của

18
người ta, chứ gì?” [29, 1195]. Chúng ta thấy rằng, Mạnh Tử đã kịch liệt phê
phán quan điểm tính không thiện không ác của Cáo Tử bằng những ngôn từ
rất sắc sảo và với thái độ khắt khe.
Giải thích vì sao tính người là thiện thì theo Mạnh Tử cứ theo cái bản
năng của người ta, thì ai cũng có thể làm lành, cho nên nói là thiện. Nếu có
điều gì bất thiện thì không phải là cái tội ở cái bản năng của người ta. Vì ông
đưa ra hình ảnh minh hoạ, đó là đứa trẻ khi mới sinh ra vốn đã sẵn có tình
cảm quyến luyến với cha mẹ, lòng yêu mến anh chị em của mình, ai cũng
động lòng thương xót và muốn cứu đứa trẻ khi nhìn thấy nó sắp té xuống
nước. Và từ đây mở rộng ra, theo Mạnh Tử, ai cũng có Tứ đoan hay Tứ thiện
tâm. Ông nói rằng: “Lòng trắc ẩn ai ai cũng có, lòng tu ố ai ai cũng có, lòng
cung kính ai ai cũng có, lòng thị phi ai ai cũng có. Lòng trắc ẩn là đầu mối
của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng cung kính là đầu mối của lễ,
lòng thị phi là đầu mối của trí vậy. Nhân, nghĩa, lễ, trí chẳng phải ở ngoài đổ
khuôn vào ta, mà ta có sẵn cả, chẳng qua không nghĩ tới mà thôi” [29, 1205].
Rõ ràng, theo quan niệm của ông thì nhân, nghĩa, lễ, trí của con người là các
đức khi con người sinh ra đã có sẵn rồi.
Như vậy, ở đây Mạnh Tử khẳng định bản tính con người là thiện và cái
thiện là do trời phú cho con người, nó thuộc về bản năng con người, sinh ra
con người đã có sẵn.
Bàn về tính người là gì, ngoài thuyết tính thiện của Mạnh Tử ra thì thời
kỳ Chiến Quốc còn xuất hiện thuyết tính ác của Tuân Tử.
Trong sách Nho giáo của Trần Trọng Kim có nói rằng, sau Mạnh Tử độ
bốn mươi năm có Tuân Tử là đại biểu nổi tiếng về học thuật Nho giáo. Theo
Tuân Tử: “tính của người là ác, những điều thiện là người đặt ra” [34, 305].
Tuân Tử viện các lẽ để bác cái thuyết tính thiện của Mạnh Tử. Theo ông, vì
cái tính vốn ác nên thánh nhân mới đặt ra nhân nghĩa lễ phép để kiểu sức cho

cái tính thiện, chứ nếu tính con người là thiện thì còn cần gì đến bậc thánh bậc
vương và nhân nghĩa lễ phép làm gì nữa. Ông cho rằng, có thể giáo dục giáo

19
hoá để thay đổi bản tính ác của con người vì “Tính là cái ta không thể làm ra
được, nhưng có thể hoá đi được. Tính là không phải tự nhiên ra có được,
nhưng có thể làm cho có được. Chú ý làm lụng, tập thành thói quen để hoá cái
tính” [34, 308]. Lý do Tuân Tử khẳng định và bảo vệ thuyết tính ác là vì Tuân
Tử sinh sau Mạnh Tử và khi đó xã hội Chiến Quốc đã rối ren và loạn lạc hơn.
Vậy, bản tính của con người có bị thay đổi không? Mạnh Tử cho rằng
có. Bản tính của con người là thiện, nhưng hoàn cảnh làm cho bản tính đó thay
đổi. Mạnh Tử lấy ví dụ chứng minh rằng: “Những năm no đủ, bọn con em phần
lớn hiền lành, những năm đói kém, bọn con em phần lớn hung bạo. Chẳng phải
tại trời phú cho tính chất khác nhau như thế. Chỉ tại hoàn cảnh nhấn chìm con
tim mới ra như vậy” [29, 1209]. Con người sở dĩ thành bất thiện là do hoàn
cảnh tác động làm cho cái tâm tính bị lu mờ hoặc sai lệch tính thiện của con
người làm cho con người không còn phân biệt phải trái, thiện ác.
Hoàn cảnh làm cho bản tính của con người thay đổi nhưng con người
lại có thể cải tạo bản tính đó để đưa nó thành thiện, Mạnh Tử cho rằng: “nếu
khéo bồi dưỡng, vật nào cũng sinh trưởng, nếu mất bồi dưỡng vật nào cũng
tiêu ma” [29, 1214]. Ở đây, chúng ta nhận thấy Mạnh Tử đề cao việc giáo dục
giáo hoá, bồi dưỡng đạo đức của con người để con người từ cái mầm thiện
vươn tới cái chí thiện để sánh ngang với trời đất. Theo Mạnh Tử, để đạt tới
cái chí thiện đó thì con người phải tồn tâm, dưỡng tính, phát huy hết bản thân.
Mục đích của việc cải tạo tính người là nhờ có việc cải tạo tính người
mà con người có thể nhận biết được tính, nhận biết được tính thì có thể nhận
biết được trời đất vì cái lý của muôn vật đều có đủ nơi tâm tính mình. Nhờ có
giáo dục mà con người trở nên tốt đẹp hơn, đưa con người trở thành bậc quân
tử, đưa xã hội từ “vô đạo” thành “hữu đạo”.
Tuy nhiên, trong quan niệm về tính thiện của Mạnh Tử ít nhiều bộc lộ

lập trường giai cấp khi ông cho rằng: một mặt, tính thiện là điểm chung, vốn
có của tất cả mọi người, mặt khác ông lại cho rằng, chỉ có bậc quân tử mới
giữ được tính thiện ấy còn bậc thứ dân hay tiểu nhân thường bị dục vọng,

20
ngoại cảnh che lấp, cho nên ngay từ đầu, cái bản tính thiện do trời phú ấy dễ
bị đánh mất. Đó là điểm khác nhau giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân. Sở dĩ
có điều này là do ông muốn bảo vệ lập trường giai cấp của mình để duy trì
trật tự xã hội cũ. So với Khổng Tử, quan niệm tính thiện của Mạnh Tử có
khuynh hướng duy tâm hơn, nhìn nhận bản chất con người thiên về các
phương diện tinh thần, đạo đức.
Trong “thuyết tính thiện” và “thuyết tính ác” của Mạnh Tử và Tuân Tử,
dù có những yếu tố và cách lý giải khá hợp lý nhưng không thể tránh khỏi
tính chất trực quan, máy móc, siêu hình. Mạnh Tử thì thiên về mặt xã hội, đạo
đức, còn Tuân Tử thì thiên về mặt bản năng, tự nhiên của con người để lý giải
bản tính vốn có của con người. Rõ ràng, các ông chưa nhận thức được rằng,
bản chất, bản tính của con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa cái
sinh vật và cái xã hội. Chính sự khác nhau và hạn chế cơ bản này đã dẫn tới
sự đối lập giữa “thuyết tính thiện” và “thuyết tính ác” trong Nho giáo.
Mặc dù vậy, sự lý giải về bản tính con người của Tuân Tử và Mạnh Tử
trái ngược nhau nhưng đó không phải là sự đối lập nhau hoàn toàn. Cả hai đều
thống nhất ở chỗ là, có thể nhờ giáo dục, giáo hoá để hướng con người ta
hướng tới điều thiện. Quang Đạm nhận xét rằng: “Trong học thuyết tính
người, hai thầy Mạnh và Tuân chỉ khác nhau ở khía cạnh nhận xét và trình
bầy chứ không hoàn toàn là quan điểm của hai cá nhân riêng lẻ nào đó, mà là
những quan điểm phản ánh trạng thái đầy mâu thuẫn của hệ tư tưởng xã hội
nước Trung Hoa cổ đại thời Xuân Thu- Chiến Quốc suốt trên dưới hai thế kỷ
trong hoàn cảnh thiên hạ vô đạo” [20, 26]. Mặt khác, các ông đều giống nhau
ở luận điểm cho rằng, hoàn cảnh xã hội làm thay đổi bản tính con người và có
thể giáo dục, giáo hoá làm cho bản tính con người trở nên tốt hơn,

Như vậy, khẳng định bản tính người là thiện, Mạnh Tử đã đặt người
thống trị và người bị trị ở quan hệ bình đẳng nhận thấy họ đều có tính thiện
phổ biến. Thánh nhân cũng như người dân, người dân có thể tu dưỡng đạo
đức để trở thành các bậc Thánh nhân. Đây là tư tưởng rất mới, rất nhân đạo,
nhân ái của Mạnh Tử so với xã hội Trung Quốc thời Chiến Quốc lúc bấy giờ.

21
Chính học thuyết tính thiện là nền tảng, là cơ sở lý luận cho rất nhiều
các học thuyết khác của Mạnh Tử.
Tư tưởng tồn tâm, dưỡng tính, luyện khí
Như đã trình bày ở trên, Mạnh Tử cho tính là bản nguyên của Trời phú
cho tức là thiên lý chí linh chí diệu. Bởi cái lý tưởng ấy mà ông lập ra cái tâm
học triết lý rất cao.
Tâm là cơ quan để suy nghĩ, tâm là trái tim. Người xưa cho rằng tâm là
chủ thể của tình cảm, người Việt có khi gọi là “con tim” có khi lại nói tới
“tấm lòng”. Ở chương Cáo Tử, tập thượng, Mạnh Tử nói: “Tâm là cơ quan để
suy nghĩ, suy nghĩ thì hiểu được đạo lý, không suy nghĩ không hiểu được đạo
lý. Đó là điều trời ban cho ta. Trước nhất thiết lập được phần lớn lao, ắt
những phần nhỏ nhoi không thể lấn lướt nổi. Chỉ nhờ vậy mà thành bậc đại
nhân mà thôi” [29, 1230]. Để hiểu rõ cái tâm thì ta phải biết rõ cái tính, biết rõ
cái tính, thì biết rõ trời đất và vạn vật. Người ta có tâm ấy mà hiểu hết được
cái toàn thể của trời, đừng để cái tư ý chế lấp mất, thì ta biết rõ cái tính; biễt
rõ cái tình là biết rõ trời vậy. Tâm với tính được hiểu như là một vậy. Mạnh
Tử cho rằng bốn đầu mối của “tính thiện” là “trắc ẩn chi tâm”, “tu ố chi tâm”,
“từ nhượng chi tâm”, “thị phi chi tâm”. Mà tâm với tính là một cho nên bốn
đức nhân, nghĩa, lễ, trí đều thuộc về tâm; có bốn đức ấy là có “lương tâm”-
hiểu theo nghĩa gốc là cái lòng thiện.
Không học mà làm được, thuộc về lương năng, không suy nghĩ mà biết
được, thuộc về lương tri. Con bồng trên tay, mà không đứa bé nào không biết
yêu cha mẹ, đến khi lớn lên, không đứa nào không biết kính anh. Yêu cha mẹ

là sự phát hiện đầu tiên của lòng nhân, kính trọng người lớn là sự phát hiện
đầu tiên của lòng nghĩa. Không có gì lạ, hai mối tính đó, trong thiên hạ không
ai không có. Những danh từ lương tâm, lương năng, lương tri đều do Mạnh
Tử tạo ra, trước ông không ai có ý niệm ấy. Lương tâm với tính thiện là một.
Ông nói rằng: “Người nào tận tâm của mình thì biết được bản tính của mình.
Biết được bản tính thì hiểu được thiên lý vậy. Tồn tâm của mình, dưỡng tính
của mình là để thờ trời” [29, 1285].

22
Khi biết được cái tâm của Trời, thì nên giữ cho cái tâm ngay chính,
nuôi cái tính cho hoàn toàn sáng suốt, nhất động nhất tĩnh đều thuận theo cái
thiên lý tự nhiên, đó chính là sự chân thực thờ trời. Theo Mạnh Tử, khi ta đã
biết tính, biết trời, thì ta chỉ chuyên nhất ở sự nuôi tính và sự sửa mình cho
toàn cái của Trời đã phú cho ta, rồi cứ an vui mà đợi mệnh Trời, chứ không
lấy sự thọ yểu mà làm hại cái bản nguyên chí thiện. Ấy là cách lập mệnh.
Lập mệnh là lập theo cái chính mệnh, chứ không phải làm càn làm bậy
mà gọi là lập mệnh. Mạnh Tử nói: “Chẳng có điều gì là không do số mệnh.
Hãy thuận theo ý trời mà chấp nhận số mệnh chính đáng. Vì thế, người nào
biết mệnh trời thì không đứng dưới bức tường sắp đổ. Hết lòng giữ đạo mà
chết, là do số mệnh chính đáng. Chịu gông cùm mà chết, chẳng phải do số
mệnh chính đáng” [29, 1287]. Học để giữ lấy cái tâm nuôi lấy cái tính, biết rõ
lẽ trời mà theo cái chính mệnh của mình, ấy là biết cái tinh thần của Nho giáo.
Chính vì đề cao cái học duy tâm ấy, cho nên Mạnh Tử rất chú trọng vào
sự dưỡng tính, tồn tính, dưỡng khí và trì khí.
Việc quan trọng nhất là dưỡng tâm, dưỡng tâm tức là dưỡng tính- tức là
nuôi dưỡng bốn đức nhân, lễ, nghĩa, trí. Người ta sở chủ có cái tâm, vạn sự hay
dở đều ở cái tâm, vậy nên sự học của quân tử cần phải tồn tâm tức là giữ cái tâm
của mình. Trong chương Ly Lâu, tập hạ, Mạnh Tử nói: “Quân tử sở dĩ khác
người thường là ở chỗ tồn tâm. Quân tử dựa vào điều nhân để tồn tâm, dựa vào
lễ để tồn tâm. Người nhân yêu người, người có lễ kính trọng người. Yêu người

thì người ta thường yêu lại, kính trọng người thì người ta thường kính trọng lại”
[29, 1088]. Giữ lấy cái tâm rồi nuôi nó lên cho càng ngày càng sáng suốt.
Tiếp theo, Mạnh Tử nói, muốn nuôi cái tâm thì không gì bằng quả dục:
“Trong các phép bồi dưỡng con tâm, không gì tốt bằng ít ham muốn” [30,
1371]. Lòng dục cần bớt đi ở đây là lòng dục phàm tục: thích ăn ngon, mặc
đẹp, thích thanh, thích sắc, thích danh, thích lợi… Loài người khi mới
sinh ra, có thể nói là quả dục nhất, không có tư dục, vì chưa biết gì cả nên
Mạnh Tử khuyên phải giữ được cái lòng như hồi mới sinh. Trái lại có

23
những cái dục cao thượng thì rất nên bồi dưỡng: “Sự sống là điều ta ham
muốn, nhưng có những điều ham muốn còn hệ trọng hơn mạng sống nữa,
nên không thể làm cẩu thả để được sống. Chết là điều ta vẫn ghét, nhưng
có những điều đáng ghét sợ hơn cả ghét sợ chết, vì thế có những tai nạn ta
chẳng tìm cách tránh vậy” [29, 1220].
Ngoài việc bỏ bớt những thị dục phàm tục đi, nuôi những thị dục cao
thượng thì Mạnh Tử khuyên con người phải chuyên cần. Mạnh Tử mắng môn
đệ là Cao Tử bỏ bê việc dưỡng tính, để cho tư dục làm bế tắc cả tâm: “Trên
núi, người ta vạch một lối nhỏ mà đi, dùng tới không lâu sẽ trở thành một con
đường lớn. Nếu một thời gian không sử dụng tới nữa, ắt cỏ mao che lấp lối đi.
Nay trong tim của ông, cỏ mao đã che lấp rồi đó” [29, 1353]. Ở đây, Mạnh Tử
đề cao sự chăm chỉ chịu khó của người học
Theo lý thuyết ấy, sự học vấn cần nhất là phải tìm lấy cái tâm của mình
đã để sổ ra mất. Để nó thất lạc mà không biết tìm nó thì thật đáng thương hại.
Người ta để con gà, con chó sổ ra thì biết mà tìm về, lẽ nào mình để cái tâm của
mình sổ ra mà không tìm. Bởi vậy, Mạnh Tử nói: “Phương pháp học vấn chẳng
có điều gì khác: cốt tìm lại con tim thất lạc mà thôi” [29, 1224]. Vậy, theo
Mạnh Tử, sự tồn tâm là lấy giữ cái bản nguyên cho hoàn toàn để có cái minh
giác linh diệu của trời ban cho mà ứng với vạn sự cho hợp đạo lý.
Theo như ở phần trên đã nói, tính là phần tối linh diệu của trời phú cho

con người để hiểu đạo lý. Song tính phải có khí thì mới có hình thể và mới có
sinh trưởng.
Quan niệm về “khí” xuất hiện ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ IV trước
thời Chiến Quốc. Cáo Tử và Mạnh Tử đứng về phương diện tâm lý để lý giải
khí. Mạnh Tử chú trọng vào chí khí, vào sự luyện chính khí, như ngày nay
chúng ta nói về nghị lực, khí lực tinh thần, cái dũng của tinh thần.
Khí là sự vận dụng của lý, lưu hành khắp cả vũ trụ ngưng tụ lại thành ra
hình, tức là thành ra vạn vật. Vạn vật sinh trưởng là nhờ có khí lưu hành trong
các thân thể. Vậy khí là để nuôi sự sinh hoạt của vạn vật. Song khí phải tuỳ

×