ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ HỌC
TÁC ĐỘNG CỦA CNH, HĐH ĐÔI VỚI sự THAY
ĐỔI CÁC ClA TRỊ TRUYỀN THÔNG CỦA
NCƯỜI VIỆT NAM
Chuyên ngành : CNDVBC và CNDVLS
Mã sô : 5.01.02
LUẬN VÃN THẠC sĩ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học
TS. Dương Văn Thịnh
HÀ NỘI - 2003
NHỮNG CHỮ Vlếr TẮT
- CNTB Chủ nghĩa tư bán
- CNXH
Chủ nghĩa xã hội
- XHCN
Xã hội chủ nghía
- CNH
Công nghiệp hoá
-HĐH
Hiên đai hoá
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DƯNG 5
CHƯƠNG 1: GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI
VỆT NAM TRONG SựNGHỆP CNH, HĐH 5
1.1- Một số vấn đề về CNH, HĐH hiện nay của Việt Nam. 5
1.2- Giá trị truyền thống của người Việt Nam. 20
1.3- Quan hệ giữa CNH, HĐH với các giá trị truyền thống 43
CHƯƠNG H: MỘT s ố GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIEN
GIÁ TRỊ TRUYỀN THÔNG CỦA NGƯỜI V ỆT NAM 50
2.1- Quá trình chuyển biến các giá trị truyền thống trong
sự nghiệp CNH, HĐH 50
2.2- Giải pháp nhằm phát huy giá trị truyền thống
của người Việt Nam hiện nay. 70
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
MỞ ĐẦU
I- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI
Bước sang thế kỷ XXI với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công
niỉhệ nhân loại đã tạo ra những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá làm cho đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày
càng được nâng cao. Trong xu thế đó Việt Nam đi lên CNXH từ một nước
nòng nghiệp lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN chúng ta không còn
con đường nào khác là phải đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã một lần nữa khảng định đẩy mạnh
sự nghiệp CNH, HĐH là con đường tất yếu để đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Không những
thế với xu thế toàn cầu hoá như hiện nay CNH, HĐH được xem như động lực
mạnh mẽ nâng cao vị thế và chủ quyền của Việt Nam trên trường quốc tế, góp
phần củng cố và giữ vững độc lập dân tộc.
Thực tế cho thấy quá trình thực hiện CNH, HĐH trong những năm qua
bên cạnh những thắng lợi to lớn đã đạt đựơc vẫn còn tồn tại những bất cập
trong cách nghĩ, lối sống đặc biệt là sự lựa chọn các thang giá trị mới.
Những giá trị truyền thống như lòng yêu nước, lối sống tình nghĩa, tinh
thần cố kết cộng đồng trước đây vốn là những “khuôn mẫu” cho mọi hành
vi cứa người Việt Nam, đến nay đang đứng trước thách thức. Do chạy theo lối
sống thực dụng mà một bộ phận không nhỏ người Việt Nam hiện nay đã lấy
dồng tiền làm thước đo cho mọi giá trị. Chỉ vì tiền mà họ sẩn sàng đánh mất
lương tri, phẩm giá trà đạp nên những tình cảm tốt đẹp trong quan hệ giữa
người và người.
Về mặt lý luận liệu sự thay đổi trong quá trình lựa chọn giá trị như vậy
có ảnh tới việc xây dựng con người mới hay không ? Mục tiêu xây dựng
CNXH ở Việt Nam có đạt được hay không ? Bời con người Việt Nam chính là
chủ thè’ cúa quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Việc phân tích sự chuyển biến các giá trị truyền thống trứơc tác động của
CNH, HĐH và các yếu tố của thời kỳ hiện đại là một vấn đề hết sức cấp thiết
nhầm phát huy sức mạnh tiềm tàng trong con người Việt Nam, đồng thời giữ
gìn nét đẹp trong bản sắc văn hoá dân tộc, để nâng nó lên một tẩm cao mới
xứng đáng với yêu cẩu của thời kỳ hiện đại. Với những lý do như trên nên tôi
đã chọn vấn đề: “tác động của CNH, HĐH đối với sự thay đổi các giá trị
truyền thống của người Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình nhằm
nhạn thức rõ sự chuyển biến đó góp phần nhỏ bé vào việc phát huy các giá
truyền thống, thông qua sự nghiệp giảng dạy thế hệ trẻ nơi mình côngtác.
II- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨƯ CỦA ĐỂ t à i
Vấn đề con người từ lâu đã thu hút nhiều lĩnh vực nghiên cứu đặc biệt là
triết học. Trên nền tảng này mối quan hệ giữa con người với sự nghiệp CNH,
HĐH đã được nghiên cứu cả bề rộng, cả bể sâu, con người vừa với tư cách là
chủ thể của CNH, HĐH vừa như là mục tiêu của sự nghiệp ấy.
Liên quan đến hướng để tài này có rất nhiều công trình khoa học đã
nghiên cứu tiêu biểu như: Phạm Minh Hạc chủ biên (cb) "vấn đề con người
trong sự nghiệp CNH, HĐH" chương trình KX07; Phạm Tất Dong (cb) "định
hướng phát triển đội ngũ trí thức’Việt Nam trong CNH, HĐH" chương trình
KX04; Nguyễn Văn Phúc,"về sự khấc phục những tác động tiêu cực của CNH,
HĐH đối với sự phát triển nhân cách" triết học số 1/1998; Nghiên cứu xã hội
học ,"vai trò của con người trong sự nghiệp CNH, HĐH" NXB CTQG Hà Nội
1996; Dương Phú Hiệp, "sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt
Nam trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị
trường", tạp chí triết học số 4/1992; Đi sâu vào việc nghiên cứu những thay
đổi của con người Việt Nam trước sự nghiệp CNH, HĐH đặc biệt là những
thay đổi về giá trị, định hướng giá trị cũng ngày càng được quan tâm như các
công trình. Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay (KX 07 -
02, Hà Nội 1994). Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị
(KX07 - 04, Hà Nội 1994); Nguyễn Trọng Chuẩn "Đôi điểu suy nghĩ về giá trị
và sự biến đổi các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường" triết
học sỏ 1/1995; Nguyễn Thế Kiệt, "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc
2
định hướng các giá trị đạo đức hiện nav" triết học số 6/1996; Nguyễn Quanti
Uẩn, "nghiên cứu về định hướng giá trị của con người Việt Nam" triết học số
1/1995; Nguyễn Trọng Chuẩn "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì
mục tiêu phát triển", triết học số 2/1998; Đặng Hữu Toàn "hướng các giá trị
đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị chân - thiện - mỹ trong bối cảnh
toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường" triết học số 4/2001; Trần Nguyên
Việt "giá trị nhân vãn truyền ihống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá"
triết học số 4/2001; Mai thị Quý "vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị
truyền thống Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá” triêt học số 6/2001; Đỗ
Huy "Giá trị truyền thống Việt Nam trước thách thức của toàn cầu hoá" triết
học sô' 8/2001.
Như vậy, vấn đề con người Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH, nhất là
vấn đề vai trò con người và phát huy các giá trị truyền thống trong quá trình
CNH,HĐH đã được nghiên cứu và lý giải khá nhiều. Song sự đề cập có tính chất
chuyên biệt về giá trị truyền thống trước tác động của CNH, HĐH còn chưa được
quan tâm đúng mức. Vì vậy vấn đề này cần được nghiên cứu và đi sâu hơn nữa
nhàm làm sáng tỏ cơ chế tác động giữa chúng trên cơ sở đó vận dụng vào việc
phát huy sức mạnh con người Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
III- PHẠM VI NGHIÊN cứ u
Nghiên cứu "tác động của CNH, HĐH đối với sự thay đổi một số giá trị
truyền thống trong con người Việt Nam" tác giả chủ yếu xem xét nó dưới khía
cạnh triết học. Phân tích nguyên nhân làm biến đổi các giá trị truyền thống
trong con người Việt Nam là do sự thay đổi của sản xuất.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một Luận văn thạc sỹ tác giả không thể nghiên
cứu khảo sát tất cả những giá trị đã và đang thay đổi. Công trình đó phải được
nghiên cứu ở cấp cao hơn nữa. Trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ xem xét
một số giá tiị tiêu biểu. Qua đó nêu ra một số giải pháp mang tính gợi mở để xây
dựng và phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
IV- MỤC ĐÍCH VÀ NHIÊM v u CÚA LUẬN VĂN
Mục đích: Luận vãn làm rõ tác động của CNH, HĐH đến sự biến đổi các
giá trị truyền thống của con người Việt Nam.
Để đạt được mục đích này nhiệm vụ của Luận vãn là:
- Trình bầy đặc điểm của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam và sự tác
động của CNH, HĐH đối với đời sống kinh tế - xã hội.
- Chỉ ra những thay đổi cúa các giá trị truyền thống và sự lựa chọn
những giá trị mới trong con người Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát triển giá trị ưuyền thống
trong điều kiện hiện nay, nàng cao bán linh của con người Việt Nam hiện đại.
V- C ơ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NHIÊN c ứ u
- Cơ sở lý luận của Luận văn là những quan điểm của chủ nghía Mác-
Lènin, của Đảng cộng sản Việt Nam, của Hồ Chí Minh về CNH, HĐH về
con người phát triển toàn diện và một số công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học Việt Nam có liên quan đến nội dung được đề cập trong luận vãn.
- Luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phương pháp logic
kết hợp với phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp
đối chiếu so sánh.
VI- ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VÃN
Góp phần làm rõ sự tác động của CNH, HĐH đến đời sống kinh tế - xã
hội dẫn đến những thay đổi về các giá trị truyền thống trong con người Việt
Nam hiện nay.
Để xuất một số giải pháp có tính định hướng đến việc gìn giữ và nâng
cao giá trị truyền thống nhằm phát huy sức mạnh con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu
giảng dạy vấn đề CNH, HĐH và vấn đề con người cũng như sự nghiệp xây
dựnu con người mới ở nước ta hiện nay.
VII- KẾT CÂU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mớ đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảọ, luận văn gồm
02 chương, 05 tiết.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA CON NGƯỜI VIÊT NAM TRONG s ự
NGHIỆP CNHJHDH
1.1- MỘT SỔ VẤN ĐỂ VỂ CNH, HĐH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.1- Sơ ỉược quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam
Lịch sử cho chúng ta thấy muốn chuyển biến một xã hội với nền sản xuất
n ông nghiệp lạc hậu lên xã hội công nghiệp hiện đại tất yếu phải thực hiện
CNH.
Nhận thức rõ tẩm quan trọng đặc biệt đó ngay từ những năm 60 tại đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) Đảng ta đã chỉ rõ "muốn cải tiến tình
trạng nông nghiệp lạc hậu hiện nay của nước ta, đưa nước ta từ c hế độ sản
xuiất nhỏ là chủ yếu lên sản xuất lớn XHCN, chúng ta không có con đường nào
kihác ngoài con đường C NH XHCN. Vì vậy CNH XHCN là nhiệm vụ trung
tãm của thời kỳ quá độ ở nước ta" [14, 74]. Tuy nhiên trong thời kỳ đó chỉ có
m iền Bắc mới có điều kiện để tiến hành CNH còn miền Nam vẫn phải tiếp tục
thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. CNH XHCN ở miền Bắc nhằm
m ục tiêu
"xảy diciig một nền kinh tể XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công
nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, lũi tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phút triển nông
nghiệp vả công nghiệp nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc
hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại" [42,
199, 200J.
CNH XHCN trong đó lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát
tri'ển công nghiệp nặng là chiến lược nhất quán, xác định lâu dài từ đại hội III
và được chỉnh sửa, bổ sung qua đại hội IV (12/1976) đại hội V (1981). Với
chủ trương CNH như trên trong suốt thời gian từ 1960 đến 1981 chúng ta đã
đạ t được nhữniì thành tựu to lớn đánh thắng hai lẩn chiến tranh phá hoại của
Mỹ ở miền Bác, tập trunu sức nu ười sức của tri viện cho miền Nam xứng đáng
là hàu phươnu vữnu chác để thống nhất đất nước. Đồng thời đã xây dựng được
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH đặc biệt là các ngành thuộc công nghiệp
nặng như: công nghiệp giao thông, xây dựng Từ năm 1975 tình hình xã hội
có nhữnLỊ thay đổi, trong uiai đoạn này đất nước đã hoàn toàn thống nhất, cư
sứ kinh tế - xã hội của 02 miền có những đặc trưng không giống nhau. Đồng
thời chúng ta phải đối mặt với những thách thức mới đó là nguồn viện trợ từ
Liên xỏ và các nước XHCN bị cắt giảm, đế quốc Mỹ thực hiện chính sách
cấm vặn đối với Việt Nam. Trước tình hình đó lẽ ra CNH phải có sự thay đổi
cho phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu
nâng cao đời sống nhân dàn, theo kịp với quá trình phát triển chung của thế
giới. Nhưng do vẫn duy trì chú trương "lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng" quá lâu, hậu quả là làm cho nền kinh tế
chậm phát triển, cơ cấu kinh tế bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng, nông
nghiẹp yếu kém không đáp ứng được những yêu cầu trong nước. Công nghiệp
nặng đầu tư lớn nhưng không phát huy tác dụng. Đời sống nhân dân vốn đã
nghèo do hậu quả của chiến tranh để lại, cộng với sự "thắt lưng buộc bụng"
để đầu tư vốn cho công nghiệp nặng khiến cho nó càng trở nên nghèo khó
hơn, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước bị giảm sút.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (6/1986) đã thực hiện một bước ngoặt
lứn cho sự nghiệp CNH. Tuy vẫn xác định CNH là con đường đưa đất nước đi
lèn CNXH nhưng nội dung CNH đã chuyển hướng sang chú trọng vào 3
chương trình lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
CNH từ đây được thực hiện trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý ở tầm vĩ
mô của nhà nước theo định hướng XHCN.
Trải qua các kỳ đại hội Đảng VII, VIII, IX nội dung CNH đã có sự bổ
sung, sứa đối phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước cũng như bối
cảnh quốc tế hơn.
Đường lối "đổi mới" toàn diện cùng với cơ chế thị trường được áp dụng
kết hợp với những nội dung CNH phù hơp với điều kiện hoàn cảnh đất nước,
nhờ Vày trong nhữnií năm qua đã khơi dậy được mọi tiềm năng trong sản xuất.
6
đ ặ j biệt là tiềm nãrm sức lao ilộniỊ, tạo động lực to lớn thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng và phát triến.
Đánh giá thành tựu 10 nãrn tiến hành đổi mới tại đại hội Đánỵ toàn quốc
lần thứ VIII, Đảng ta đã khárm định
"tình trạng đình đốn trong sân xuất, rối ren trong lim thông được khấc
pluic, kinh tê'táng trưởng nhanh, nhịp.độ tảng tổng sản phẩm trong nước GDP
bình quân hàng núm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,2%, lạm phát đẩy lùi từ
77-1,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995 lương
thực không nhữìig đủ ủn mù cỏn xuất khẩu được mối năm khoắng 02 triệu tấn
gạo" [17,10].
Việc xác định mỏ hình, nội dung đúng đấn của CNH cùng với cơ chế thị
trường định hướng XHCN là một chủ trương hết sức khoa học, làm động lực
to lớn đưa nước ta nhanh chóng ổn định nển kinh tế, chính trị xã hội. Trên cơ
sở đó quốc phòng, an ninh được củng cố, quan hệ đối ngoại phát triển mạnh
mẽ, phá thế bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ, mở rộng hợp tác và tham gia
tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
Như vậy, CNH là nhiêm vu trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta nhằm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, phát
triển phàn công lao động xã hội, khắc phục tình trạng manh mún phân tán của
sản xuất nông nghiệp, tạo cơ cấu kinh tế hợp lý nâng cao đời sống vật chất và
vãn hoá tinh thần cho nhân dân.
Những thành công của sự nghiệp đổi mới một mặt giúp chúng ta đánh giá
đúng những ưu nhược điểm của CNH thực hiện trong cơ chế quan liêu bao
cấp, mặt khác đó cũng là cơ sở để chúng ta định ra những bước đi cho CNH
trong thời kỳ mới.
CNTÍ giai đoạn từ 1960 - 1986 bên cạnh những thành công đã đạt được
vẫn còn mắc phải những hạn chế, sai lầm trong việc xác định mục tiêu, mô
hình, bước đi, tổ chức thực hiện trong thực tế.
Hạn chế của quá trình CNH ử Việt Nam giai đoạn 1960 - 1986 cụ thể
như s au:
7
Thứ nhất: xác định mỏ hình CNH còn chưa thích hợp, quá cổng kềnh
thiên về công nghiệp nặng, áp dụng một cách máy móc mỏ hình CNH của
Liên Xỏ không tính đến hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Lẽ ra
CNH ở nước ta phải coi nông nghiệp là mật trận hàng đầu, kết hợp hài hoà
phát triển nông nghiệp với các ngành kinh tế khác. Bởi Việt Nam có đến
>80% dân số sống bằng nông nghiệp cộng với chiến tranh phá hoại ác liệt,
CNH thời kv này chưa coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu do vậy chưa kết
hợp nguồn lực trong nước với ncuồn lực thế giới, giữa sản xuất cho thị trường
trong nước với sản xuất cho xuất khẩu. Theo thống kê "sản lượng lương thực
binli quản đầu người dưới 300kg; GDP bình quản đầu người khoảng dưới
Ị00USD" [14, 73J.
Thứ hai: do tập trung vào việc đầu tư công nghiệp nặng, ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng nên cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ bất
hợp lý. Nông nghiệp chậm phát triển, dịch vụ hầu như không phát triển duy
chí có một số mặt hàng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu được nhà
nước phân phối thông qua hình thức tem phiếu. Hình thức này chỉ phù hợp
trong điều kiện chiến tranh. Khi thống nhất đất nước cơ cấu kinh tế trên phải
chuyển đổi nhưng quá trình chuyển đổi diễn ra còn chậm, chủ yếu vẫn đầu tư
tiếp tục cho công nghiệp nặng.
Thứ ba: công nghiệp nặng tuy đầu tư vốn lớn nhưng chưa có trọng tâm
trọng điểm cho nên không phát huy được nguồn vốn, hiệu quả kinh tế không
cao, nhiều xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ kéo dài, tỷ trọng đóng góp của
công nghiệp vào GDP còn nhỏ bé "năm 1976 là 25,3%, năm 1980 lả 20,2%,
năm 1986 là 28,1%'' [14, 12].
Thứ tư: CNH trong thời kỳ này không thấy được đặc điểm của nước ta
khi đi vào CNH vẫn chỉ là một nước có nền kinh tế lạc hậu chủ yếu dựa vào
nông nghiệp. Nếu lấy CNH nồng nghiệp là mặt trận hàng đầu chúng ta sẽ tận
dụng được nguồn lao động dồi dào cũng như các tiềm năng khác trong lĩnh
vực nông nghiệp như thị trường, cơ sở vật chất - kỹ thuật, nhất là đầu tư còn ít.
Trên cơ sở đó sẽ phát huy dược thế mạnh trong nước, góp phần chuyển dịch
lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
8
'ĩhứ năm: các bước đi của quá trình CNH diễn ra còn chậm, chưa kết hợp
CNH với HĐH, chưa biết "đi tắt" "đón đầu" những thành tựu của khoa học
công nghệ hiện đại. CNH mà trọng tâm là công nghiệp nặng chỉ ở trình độ CƯ
khí hoá trong khi thế giới đã bước sang tự động hoá
Rõ ràng mặc dù CNH được xem là trọng tâm để xây dựng thành công
CNXH nhưng nhận thức về CNH còn đơn giản, phiến diện, máy móc. Mục
tiêu CNH đề ra quá lớn, dàn trải quá nhiều nội dung đặc biệt tập trung quá
nhiều nguồn vốn vào phát triển công nghiệp nặng. Mặt khác CNH lại được
thực hiện theo kiểu khép kín hướng nội, trong co chế bao cấp khóng chú ý đến
lợi ích người lao động, triệt tiêu nguồn lực từ các thành phần kinh tế khác đã
ỉàrn cho quá trình CNH thời kỳ 1960-1986 chưa phát huy hiệu quả.
1.1.2- Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay
Quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay được đánh dấu bằng mốc
thời gian từ nãm 1986. Đương nhiên chủ trương CNH, HĐH trong giai đoạn
hiện nay có những đặc điểm không giống với CNH XHCN mà trước đây
chúng ta đã tiến hành, cũng không dập khuôn một cách máy móc bất cứ mô
hình CNH nào trên thế giới. CNH trong giai đoạn hiện nay được xác định rõ
trong nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khoá VII là
"CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thú công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghệ, phương tiện và phươìig pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ của khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao
động xã hội cao "[16, 65].
Cần khẳng định nội dung, cách thức, con đường, mục tiêu của quá trình CNH
đã được "đổi mới" điều chỉnh cho phù hợp với tình hinh kinh tế - xã hội, điều kiện
cụ thể của Việt Nam, theo kịp với xu thế phát triển chung của nhân loại.
Thực tế cho thấy CNH ở Việt Nam trong những năm qua đã đạt được
những thành tựu rất lớn, song so với thế giới chúng ta còn thua kém một
khoảng cách rất lớn: Nền sản xuất nước ta chủ yếu vẫn là nền sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp nhỏ bé, kỹ thuật thủ công lạc hậu. Nước ta vẫn thuộc loại
9
nước nghèo trên thố giới. Cu thể thu nhập quốc dân tính đến nãm 2000 là 400
USD/1 người/1 năm
"trong khi đó ở các nước công nghiệp phút triển tại năm 1988 thì Anh lù
9620 USD/1người/1nám; Pháp là 10.780 USD/1người/1năm; Đức là 11.400
USD/1 người/ ỉ năm; Nhật lả 10.500 USD/ỉ người/1 năm; Mỹ lù 14.010
USD/lnqườHInăm, còn Trung Quốc là 2.500 USD/1 người/1 năm" [21, 29].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: để thoát khỏi tình trạng nghèo
nàn và lạc hậu, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, hội nhập vào khu vực
và trên thế giới chúng ta không còn con đường nào khác ngoài coil đuờiig tiếp
tục thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Như vậy quan điểm của Đảng về CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay đã
được khẳng định tại văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX
cùng nhiều hội nghị trung ương. Song về cơ bản đặc điểm của CNH, HĐH
trong giai đoạn hiện nay là:
Thứ nhạt: CNH phải đi liền với HĐH:
Trong giai đoạn hiện nay CNH không thể thực hiện một cách tuần tự mà
lịch sử nhân loại đã trải qua từ thủ công —> nửa cơ khí —> cơ khí —» tự động
hoá. Chúng ta cũng không thể tiến hành CNH với kỹ thuật cổ điển và cơ chế
quản lý cũ. Cả 2 cách làm như vậy sẽ làm cho nước ta ngày càng trở nên lạc
hậu. Đảng ta đã chi rõ bối cảnh thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn trên
mọi lĩnh vực nguyên nhân chính là do cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
diễn ra như vũ bão. Nếu chúng ta tiến hành CNH theo con đường mà các nước
công nghiệp đã đi qua thì mãi mãi chúng ta chỉ là nước lạc hâụ, lệ thuộc, thậm
chí sẽ trở thành bãi thải công nghiệp của thế giới.
Việc tiến hành CNH đi liền với HĐH cho phép rút ngắn khoảng cách lạc
hậu, bằng cách kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với những bước
dột phá nhằm tranh thủ những cơ hội để đi tắt, đón đầu nắm bắt những công
nghệ mới phát triển theo chiều sâu tạo nên những nghành mũi nhọn theo kịp
với trình độ tiến triển của khoa học - công nghệ hiện đại.
Lịch sử CNH trên thế giới cho chúng ta thấy không thể tiến hành CNH
theo những bước đi tuần tự cũng như cách quản lý cũ.
10
Để tiến hành CNH nước Anh phải mất tới 120 năm mới đạt được một nền
côn ụ nghiệp dẫn đầu thế giới ở thế kỷ XVIII. Nhưng đối với nước Mỹ thời
gian CNH lại được rút ngắn còn 90 năm. Đối với Nhật Bản thời gian cho CNH
được rút ngắn hơn nữa chỉ còn 50 nám. Các nước NIEs đi sau như Hàn Quốc,
Hồng Kỏntí, Đài loan, Singapore v.v thời gian tiến hành CNH được rút ngắn
hơn nữa chí còn 30 năm. Ngày nay đối với các nước ASEAN con đường CNH
rút ngắn còn 20 năm. Như vậy từ bài học lịch sử của các quốc gia tiến hành
CNH chúng ta có thể khẳng định rằng những nước đi sau nếu biết tiếp thu
kinh nghiệm và tận dụng lợi thế về vốn, thị trường công nghệ của các nước đi
trước thì thời gian CNH sẽ được rút ngắn rất nhiều (các nước ASEAN tiến
hành CNH sc với nước Anh rút ngấn được 0Ỉ Ihế kỷ). Việt Nam thực hiện
CNH như là thành viên "đi sau của các nước đi sau" vì vậy
"Đủng ta chủ
trương không lặp lại nhữìig mô hình CNH cổ điển, mà tự tìm lấy mội mô hình
pliù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện th ế giới ngày nay" [4 /.
Thứ hai: CNH, HĐH được thực hiện trong nền kinh tế hàng hoá vận
động theo cơ c hế thị trường định hướng XHCN
Trong khi nghiên cứu lịch sử xã hội loài người C.Mác đã chỉ ra rằng: ở mỗi
giai đoạn lịch sử cụ thể quan hệ sản xuất phải thích ứng với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đây được coi như quy luật của sự phát triển xã
hội. Ở nước ta việc thực hiện CNH , HĐH chính là thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển song do tính chất không đồng đều về trình độ giữa các vùng miền nên
việc thiết lập các thành phần kinh tế vận động theo cơ chế thị trường chính là tạo
ra quan hệ sản xuất phù hợp tương ứng với tình trạng đó.
Kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường là mô hình
kinh tế tiến bộ, là nấc thang cao hơn kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc. Trong kinh
tế thị trường định hướng XHCN phải có sự quản lý của nhà nước, đây "là mô
hình kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện trên thị
trường có sự quản lý của nhà nước" (40, 170).
Trước 1986 CNH được thực hiện trong nền kinh tế chỉ huy, do chỉ có
hai thành phần kinh tế là quốc doanh và tập thể, lại cộng với sự bao cấp từ
trên xuống dưới, từ đầu vào đến đẩu ra của sản phẩm, nên đã không kích thích
được việc nâng cao tay nghề, áp dụng khoa học - công nghệ vào trong quá
11
trình sản xuất kinh doanh, khiến cho việc thực hiện CNH chưa đạt hiệu quả
cao. Mật khác CNH thời kỳ này chỉ tập trung ở công nghiệp nặng còn nông
nghiệp dịch vụ không trú trọne do đó không huy động được sức mạnh toàn
dàn trong việc thực hiện CNH.
Thực hiện kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan để khắc phục
những hạn chế mà hậu quả của nền kinh tế bao cấp để lại và đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH đất nước.
Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường,
định nướng XHCN trong giai đoạn hiện nay ở nước ta bao gồm 6 thành phần
kinh tế; Ngoài thành phần kinh tế Nhà nước, tập thể còn có sự tham gia của
thành phần tư bản và tư nhân. Đa dạng hoá các thành phần kinh tế thực chất là
huy động mọi nguồn lực, tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ của toàn dân
cùng nguồn lực của thế giới nhằm tranh thủ thời cơ vượt qua thách thức phát
huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Cơ chế vận hành của
kinh tế ở nước ta là thị trường. Căn cứ vào thị trường nhất là các quy luật của
nó (quy luật giá trị, quy luật cung câù, quy luật cạnh tranh .V.V ) các chủ thể
phải tính đến hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Muốn thu nhiều lợi
nhuạn nhất về phía mình buộc các chủ thể phải huy động sức mạnh về vốn, áp
dụng công nghệ, khoa học cũng như trình độ quản lý tiên tiến, nâng cao khả
náng cạnh tranh trên thị trường. Sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường là đòn
bẩy đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Thực tế cho thấy CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường vừa có
mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. v ề mặt tích cực nó có tác dụng kích thích
mạnh sự quan tâm thường xuyên đến việc đổi mới áp dụng khoa học - công
nghệ, trình độ quản lý , tính nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Nó bình
tuyển các doanh nghiệp, cá nhân giỏi tiếp nhận những nhân tố tích cực tiến
hộ, đào thải những nhân tố lạc hậu. Trên phương diện này nó đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH đất nước, về mặt tiêu cực : do chạy theo lợi nhuận các nhà
sán xuất không tính đến mật trái của các thành tựu khoa học công nghệ gây ra.
Quan hệ giữa con người và con người bị " dìm xuống dòng nước lạnh" của sư
12
tính toán ích kỷ, tình trạng nhân phẩm đạo đức coi nhẹ, tôn thờ đồng tiền, tàn
phá thiên nhiên một cách không thương tiếc.
Như vậy thực hiện CNH , HĐH trong điều kiện kinh tế hàng hoá mà
giai đoạn cao là kinh tế thị trường như con dao hai lưỡi song vấn đề là người
sử dụng nó là ai và nhằm mục đích gì? Đương nhiên con dao trong tay bác sĩ
sẽ cứu được người, còn trong tay sát thủ sẽ giết chết người, ở đây nhà nước
có vai trò quyết định trực tiếp đến mục tiêu của CNH, HĐH.
CNH trong chủ nghĩa tư bản đẻ ra sự phân hoá giầu nghèo một cách quá
đáng giữa một bên là giai cấp tư sản sở hữu phần lớn của cải trong xã hội với
một bên là giai cấp vô sản sống trong cảnh nghèo đói bần cùng. Chẳng hạn
hiện nay, theo báo cáo của OECĐ (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) thì
"tài sản của 3 tỉ phú hàng đầu nhiều hơn tổng GNP của tất cả các nước đang
phát triển với 600 triệu dân của họ" {69,3]-
Rõ ràng vơí phương thức bóc lột, giai cấp tư sản tạo ra sự nghèo khổ
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn cả thế giới.
Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
ĐCS Việt Nam trong thời kỳ qúa độ tồn tại là một tất yếu. C.Mác đã từng chỉ
rõ "giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biêh
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời
kỳ quá độ chính trị, trong đó nhà nước không thể là cái gì khác hơn là chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản" [ 6,31,32].
Nhận thức vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển lực lượng
sản xuất xã hội, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước của kinh tế thị
trường Đảng ta đã khẳng định: " Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH,
mà là thảnh ticii phát triển của nền văn minh nhân loại, tổn tại khách quan
cần thiết cho cô tỉ % cuộc xây dioig CNXtỉ và cả khi CNXH đã được xây dipĩg"
[17, 97]
Với các chủ chương chính sách và hệ thống pháp luật mà nhà nước sử
dụng đã và đang tiếp tục đẩy nhanh quá trình CNH , HĐH đất nước.
Thứ ba: CNH, HĐH dựa trên sức mạnh của nhân tỏ con người.
13
Thông thường đối với mỗi quốc gia, điều kiện để phát triển kinh tế - xã
hội là điều kiện địa lỷ, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất kỹ thuật hiên
đại Nhưng tự bản thân các yếu tố ấy không thể phát huy tác dụng nếu thiếu
sự tác động của con người. Song ở những giai đoạn lịch sử khác nhau vai trò
và vị trí của các yếu tố cũng khác nhau.
Trong khi nghiên cứu lịch sử xã hội loài người AlvinToffer đã chỉ ra rằng
trong nền văn minh nông nghiệp (ở đây AlvinToffer phân chia lịch sử xã hội
ra thành các nền văn minh còn Mác phân chia lịch sử xã hội thành các hình
thái kinh tế - xã hội, tương ứng với văn minh nông nghiệp là hình thái kinh tế -
xã hội Cộng sản nguyên thuỷ, Chiêm liũu nô lệ, Phong kiến) vai trò quyết
định sự phát triển là do điều kiện địa lý và tài nguyên thiên nhiên. Ông chỉ rõ
"nền văn minh nông nghiệp chỉ phát triển ở những đâu có điều kiện tự nhiên
thuận lợi nhất, thường ở bên những dòng sông với các cánh đồng phì nhiêu
màu mỡ" [49,14]. Còn ở làn sóng thứ 2 - nền văn minh công nghiệp (tương
ứng với hình thái kinh tế - xã hội TBCN, từ giai đoạn đầu đến hết thế kỉ XIX)
vai trò quyết định sự phát triển lại do trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã
hội. Ông khẳng định "máy móc và trình độ máy móc - kỹ thuật cơ khí đã tạo
ra sức mạnh mới cho con người, nhân bội trình độ khống chế tự nhiên của con
người, mini lợi ích ngày càng tăng cho mình" [49 ,15].
Ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, với sự xuất hiện
của văn minh tin học thì vai trò và vị trí quyết định đến sự phát triển xã hội
chính là con người, đặc biệt là trí tuệ của họ. Bởi lẽ tài nguyên thiên nhiên dù
giàu có đến nhường nào, nguồn vốn có nhiều đến bao nhiêu khi khai thác và
sử dụng sẽ bị cạn kiệt .
Kinh nghiệm thành công của Nhật Bản cho thấy một quốc gia tài nguyên
thiên nhiên hầu như không có gì, quanh năm bị động đất núi lửa, nhưng nhờ
biết phát huy sức mạnh của nhân tố con người đã nhanh chóng trở thành
cường quốc về kinh tế. Ngược lại các nước Châu Phi tài nguyên thiên nhiên
giàu có nhưng không phát huy được sức mạnh của nhân tố con người, không
có chính sách phát triển thích hợp nên vẫn chỉ là những nước nghèo.
14
Trong xu thế phát triển khoa học và công nghệ như hiện nay vấn đề trung
tâm của sự nghiệp CNH, HĐH chính là vấn đề công nghệ. Nước nào làm chú
khoa học công nghệ tiên tiến, nước đó sẽ là nước công nghiệp hiện đại. Đồnỵ
thời do xu thế phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ khiến những
nước tiên tiến phải chuyển giao những công nghệ cho các nước đi sau. Song sự
chuyển giao về công nghệ không hề đơn giản.
Một mặt sự chuyển giao được thực hiện trên nguyên tắc hai bên cùng có
lợi, hay đúng hơn theo những nguyên tắc của CNTB dựa trên cơ sở lợi nhuận.
Mặt khác những nước có công nghệ cao không bao giờ chuyển công
nghệ mới cho các nước đi sau.
Việt Nam là một nước đang tiến hành CNH, HĐH do đó vấn đề công
nghệ cũng là vấn đề trung tâm. Nếu chúng ta tiến hành CNH, HĐH chỉ dựa
vào sự chuyển giao công nghệ thì vinh viễn vẫn chỉ là nước lạc hậu đi sau và
khả năng về vốn cũng có hạn. Nhưng nếu chúng ta tự mình sáng tạo ra công
nghệ mới thì trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa cho phép. Mâu thuẫn đật
ra cần phải giải quyết là làm sao vừa khắc phục sự lạc hậu trước mắt vừa phải
nhanh chóng trở thành nước phát triển dựa trên trình độ công nghệ tiên tiến.
Để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã chỉ rõ "cần khai thác và sử dụng nhiều
nguồn lực khác nhau trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất có vai trò
quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật
chất còn hạn hẹp, nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề
thảnh thạo có phẩm chất tốt đẹp" [18, 9].
Trí tuệ là bản chất, là đặc tính chỉ riêng con người mới có. Nhờ có trí tuệ
con ngưừi có khả năng sáng tạo ra thế giới thứ hai, thế giới vật chất và văn hoá
tinh thần của chính mình. Chính trí tuệ là tiêu chí để phân biệt con người và
con vật, khẳng định "con người là thước đo của mọi vật"[67, 151]. Ngày nay
vai trò của trí tuệ có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Trí tuệ giúp cho con người linh hoạt, nhạy bén nhanh chóng nắm bắt tình
huống một cách dẻ dàng, tạo ra tính ổn định và chuyển hướng kịp thời giúp
con người cải biến và thích nghi với hoàn cảnh mới. Chúng ta đều biết rằng sự
nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam không thể thực hiện được nếu không có đội
nu ũ đông đáo những cổng nhân lành nghề, những nhà khoa học kỹ thuật tài
năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những
nhà lãnh đạo quản lý biết nhìn xa trông rộng. Nhưng trong thời kỳ CNH, HĐH
jất nước bản thân người lao động có trình độ trí tuệ cao chưa đủ. Đương nhiên
như Alvin Toítlcr nhận định trong 3 công cụ của quyền lực thì "hữii dụng hmi
'lết vẫn là tri thức" [1,36]. Nhờ có tri thức con người tạo ra bạo lực, cải biến
jái "không thể" thành cái "có thể". Nếu chỉ có trí tuệ mà không có đạo đức thì
íất có thể người lao động đó dùng trí tuệ mưu lợi cho cá nhân gây ra bệnh
quan liêu, hủ hoá, tham ô.
Đạo đức là một phạm trù lịch sử, ở các thời đại khác nhau nội dung của
[•hạm trù này cũng khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta đạo đức của
r.gười cách mạng được xác định đó chính là biết đặt lợi ích tập thể lên trên lợi
í:h cá nhân. Người lao động hiện nay ở nước ta vừa là người có trình độ trí tuệ
cao, tay nghề thành thạo vừa có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Chính phẩm chất
dạo đức tốt đẹp là động cơ thúc đẩy người lao động làm việc, cống hiến cho
Tổ quốc, đặt lợi ích của mình trong sự thống nhất với lợi ích Tổ quốc.
Để tạo ra những con người vừa có trình độ trí tuệ cao, tay nghề thành
thạo vừa có phẩm chất đạo đức cao đẹp khồng có lĩnh vực nào khác ngoài vai
trì của giáo dục và đào tạo. Trong các nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta đã khẳng
đinh "coi giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu"
bới "muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục -
iđco tạo" [ 14, 19J. Chính giáo dục - đào tạo có vai trò "nâng cao dân trí, đào
Itạ) nhân lực và bồi dưỡng nhản tài". Trong khi nhấn mạnh đến tính tự chủ lựa
chọn các mô hình CNH sao cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước và điều kiện
t:hế giới ngày nay, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng nêu "Đảng ta chủ
V.rVơng không lặp lại những mô hình CNH cổ điển Đ ể làm được việc ấy giáo
dụ: và khoa học phải tạo ra những con người đủ kiến thức và năng lực lựa
clun, thích nghi và sủng tạo công nghệ mới, từ làm chủ công nghệ nhập, biến
c híng thành công nghệ của mình đến tạo ra công nghệ mới và hiện dại lioú
Ìiiìũng còng nghệ truyền thống” [4],
16
Như vậy việc nhận thức, đánh lĩiá vai trò và vị trí của giáo dục, đào tạo
của Đảng đã thể hiện sự sáng suốt, khoa học trong sự nghiệp lãnh đạo và phát
triển đất nước. Trong thời đại hiện nay chỉ có quan tâm, đẩu tư vào giáo dục
dào tạo để nâng cao chất lượng người lao động mới là con đường ngắn nhất
lỊÌúp chúng ta thoát khỏi nghèo nàn, rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thực hiện
thành công sự nghiệp CNH, HĐH, thoát khỏi "vòng luân quẩn" mà các nước
nghèo đang gặp phải hiện nay là do thiếu vốn không có điều kiện đầu tư cho
người lao động, không có đủ trình độ khoa học công nghệ nên không thể phát
triển kinh tế xã hội. Viêc đánh giá đúng yếu tố quyết định để thoát "vòng luẩn
quẩn" mà Đáng đã đưa ra giúp chúng ta ưánh xa được nguy cơ của các nước
nghèo, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững. Bởi nếu chúng ta có nhiều
vốn đến đâu, sự đầu tư cho khoa học công nghệ đến nhường nào cũng không
có tác dụng nếu thiếu đi vai trò điều khiển của con người. Cùng với giáo dục -
đào tạo, văn hoá cũng có vai trò quan trọng hình thành nên phẩm chất đạo đức
của con người. Một xã hội văn minh khống chỉ dừng lại ở khả năng công nghệ
hay sức mạnh kinh tế mà chủ yếu là lối sống có văn hoá đặc biệt là chúng ta -
một đất nước nằm trong khu vực Phương Đông. Quan điểm của Đảng về vâih đề
này là xây dựng kinh tế đi đôi với xây dựng văn hoá. Nền văn hoá mới được xây
dựng phải biết kế thừa những giá trị quý báu của dân tộc, đồng thời phù hợp với
thời đại, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại. Đó chính là "một nền văn Itoá
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc".
Thứ tư: CNH, HĐH được thực hiện trong xu th ế “mỏ cửa "
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “toàn cầu hoá kinh tế là
xu thế khách quan lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc
đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế” [Tr 157]
Quan điểm trên của Đảng đã khẳng định một sự thực là toàn cầu hoá đã
trớ thành một tất yếu khác quan phổ biến trong xu thế hiện nay. Các quốc gia
trên thế giới dù muốn hay không đều bị lôi cuốn vào “dòng xoáy” chung đó.
Mặt khác “toàn cầu hoá” không chỉ riêng ở lĩnh vực kinh tế mà nó còn
(diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sốngrẴíLhội. Rõ ràng sự nghiệp CNH,
V - U / 4 C S , 17
HĐH nước ta không nằm ngoài bối cảnh chung đó. Muốn tổn tại để phát triển
chúng ta không còn con đường nào khác phái chủ động hội nhập để tranh thủ
thời cơ vượt qua những thách thức. Do đó “Mở cửa” là con đường đưa sư
nghiệp CNH, HĐH của chúng ta đến thành công.
Bài học lịch sử cho thấy vào thế kỷ XIX Nhật Bản do biết chủ động
“mở cửa” đón nhận thành tựu văn minh phương Tày đã trở nên giàu có với tốc
độ “thần kỳ”. Tuy nhiên để làm được điều đó Nhật Bản đã phải thực hiện hàng
loạt các chính sách trong nước như bãi bỏ chế độ phong kiến, xây dựng nhà
nước pháp quyền quán chủ theo mỏ hình phương Tây, cải cách thể chế trong
nước và tích cực du nhập các yếu tố văn hoá phương Tây. Ngược lại với Nhật
Bán, Trung Quốc đã thực hiện chính sách “đóng cửa” tự cho mình là tiến bộ,
cố duy trì chế độ phong kiến hà khắc không chịu tiếp thu thành tựu của văn
minh phương Tây, kết quả là nền kinh tế bị suy sụp và bị các nước phương
Tày thôn tính. Cần nhấn mạnh là lúc này ở phương Tây Đại công nghiệp đã
phát triển rất mạnh.
Ở nước ta trước thời kỳ “đổi mới” do chủ quan duy ý chí, sự nghiệp
CNH cũng được thực hiện theo mô hình “hướng nội” mà chủ yếu là công
nghiệp nặng trong phạm vi các nước XHCN, cộng với mô hình kinh tế chỉ huy
đã khiến cho sự nghiệp CNH khó phát huy tác dụng và phát triển chậm; các
công trình thuộc kết cấu hạ tầng, cơ sở công nghiệp trọng yếu ít được xây
dựng, có chăng chỉ ở một số thành phố lớn. Đời sống của nhân dân khó khăn,
kinh tế xã hội rơi vào khủng hoảng.
Từ khi thực hiện “đổi mới” CNH được thực hiện trong xu hướng “mở
cửa” hội nhập đã phát huy tác dụng. Nhờ có “mở cửa”, vốn, khoa học công
nghệ và trình độ quản lý tiên tiến của thế giới mới được du nhập nâng cao hiệu
quả kinh tế trong nước. Đánh giá thành công của sự nghiệp CNH, HĐN trong
xu thế mở cửa Đảng ta đã kết luận:
“Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phút triển quan hệ kinh tể với
hầu hết các nước, gia nhập vả có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ
chức kinh í ế quốc tế vù khu vực Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khấu gần gấp
18
3 nhịp độ GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bèn ngoài cùng
nhiêu công nghệ vá kinh nghiệm quản lý tiên tiến ” [Tr 150 Ị
Tuy nhiên, CNH, HĐH được thực hiện trong xu thế “mở cửa” đòi hỏi
chúng ta phải chủ động, nghĩa là nâng cao khả năng độc lập tự chủ trong quá
trình hội nhập. Bởi “toàn cầu hoá” và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình
vừa hợp tác để phát triển vừa đấu tranh rất phức tạp giữa các nước nhàm báo
vệ lợi ích của mình. Nếu chúng ta khôns nâng cao khả năne độc lập tự chủ sẽ
bị lôi kéo vào con đường của CNTB hoặc sẽ bị “đánh chìm” trở thành nước lạc
hậu đi sau. Một trons những vẽu tô tạo nôn nền kinh tế độc lập tự chú theo
quan điểm của Đảng phải: đẩy mạnh CNH, HĐH tạo tiềm lực kinh tế, khoa
học và công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật đủ mạnh.
Như vậy, sự nghiệp CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá được thực
hiện theo xu hướng mở cửa, nhưng phải nâng cao khả năng độc lập tự chủ nhằm
tranh thủ thời cơ để phát triển, đồng thời vẫn giữ vững được nguyên tấc bảo vệ
độc lập dân tộc và CNXH, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc.
Thứ năm: CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là mặt trận hàng đẩu.
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trinh xây dựng, phát triển cơ
sở vật chất - kỹ thuật, chuyển từ lao động thủ công là chủ yếu sang lao động
sử dụng máy móc, với kỹ thuật, công nghệ tiến tiến và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế - xã hội nông thôn ngày càng hợp lý theo hướng tiến lên hiện đại, gắn
nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ cho phép khai thác, phát huy có hiệu
quả các nguồn lực và lợi thế so sánh đất nước trong sự mở rộng quan hệ kinh
tế quốc tế.
Việc thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn được coi như mặt
trận hàng đầu có ý nghĩa mang tầm chiến lược, then chốt và cấp bách. Bởi lẽ
nước ta có tới 80% dân số và hơn 70% lao động sống ở nông thôn, song ruộng
đất bình quan theo đầu người còn thấp lại cộng với quá trình đô thị hoá khiến
cho đời sống của họ vẫn còn khó khăn. Nếu thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp nòng thôn sẽ giải quyết việc làm cho lao động dư thừa, tăng thu nhập
cho người lao động. Mặt khác, tình trạng kinh tế nông nghiệp nông thôn còn ở
19
tình trạng kém phát triển, trình độ khoa học - công nghệ yếu kém làm cho
hiệu quá sản xuất - kinh doanh nông nghiệp thấp, sức cạnh tranh của nông sản
trên thị trường yếu, năng suất lao động thấp (llao động nông nghiệp nước ta
nuôi được 2 người, Mỹ là 80 người, Hà Lan 60 người, Anh là 55 người, Nhật
Bán là 22 người)
Mặt khác số lượng nông sản chiếm 45% giá trị hàng xuất khẩu, nếu
chúng ta áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ vào việc nâng cao chất
lượng mẫu mã sẽ tăng tích luỹ vốn, nhất là khi nước ta đi lên CNXH từ một
nước nôns nghiệp lạc hậu. Hơn nữa đây là thị trường rộng lớn, muốn CNH,
HĐH bền vừng phải dựa vào thị trường nông nghiệp, nóng thôn. Đồng thời
nông nghiệp, nông thổn cũng là nguồn cung cấp nhân lực quan trọng để thực
hiện CNH, HĐH theo hướng lao động công nghiệp tăng và lao động nông
nghiệp giảm.
Như vậy, việc lấy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là mặt trận hàng
đầu thể hiện quan điểm sáng suất của Đảng, nhờ đó trong những nãm qua
nông nghiệp, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: Hệ
thống cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng được tăng cường, đời sống nhân dân bước
đầu được cải thiện tình hình chính trị, xã hội ổn định.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ nông nghiệp, nông thôn nước ta vẫn
đang ở tình trạng chậm phát triển so với công nghiệp, dịch vụ ở thành thị. Vì
vậy quan điểm chỉ đạo của Đảng vẫn khẳng định “Trong mọi tình huống, tư
tưởng chỉ đạo và quyết tâm của chúng ta lả: tiếp tục công cuộc đổi mới; đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ” [ 71 ]
1.2- GIÁ TRỊ TRUYỂN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
1.2.1- Khái niệm giá trị và giá trị truyền thống
Giá trị - theo từ điển Bách khoa triết học của Liên Xô, được hiểu là "Khái
niệm triết học và xã hội dùng đ ể chỉ ihứ nhất tầm quan trọng có lính khẳng
định hay phủ định một khách thể nào đố, khúc với đặc tính tồn tại vù cliất
20
Iượniị của kliáclỉ thể này (
), thứ hai khía cạnh chuẩn mực, mệnh lệnh, đánh
ÍỊÌÚ của cúc hiện tượng V thức xã hội" [57, 7j.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết thì "Giá trị lù sự khẳng (lịnh hay
phú định V nghĩa của các đối tiíựìig thuộc thế giới chung quanh đối với con
người, giai cấp, nhỏm hoặc loàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định
không phàì bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút
(lỏi cuốn) của cúc thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người,
phạm vi cúc híùig thú và nhu cấu, cúc quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phươtig
íliức đanh giá V nghĩa nói trên được biếu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn
mực đạo đức, trong lý tưởỉỉg, tâm thế và mục đích" [66, 51, 52J.
Trong tiếng Anh có 2 thuật ngữ dùng để chỉ khái niệm giá trị là Value và
Worth, hai khái niệm này có khác nhau ở chỗ: Value chỉ có nghĩa là giá trị,
giá cả, ý nghĩa, còn Worth ngoài nghía giá trị, giá cả còn có nghĩa là phẩm
chất, phẩm giá.
Trong một số từ điển Viêt Nam và một số từ điển nước ngoài khác khái
niệm giá trị được định nghĩa là "phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ
tính ý nghĩa tích cực hay tiêu cực của khách thể đối với con người, giai cấp,
nhóm, xã hội nói chung được phản ánh vào cúc nguyên tắc và chuẩn mực đạo
lý, lý tưởĩig, tâm thế, mục đích" [26, 124].
Đối với các công trình nghiên cứu về giá trị ở Việt Nam ví như của Giáo
sư Trần Văn Giàu, Giáo sư Phạm Minh Hạc đều quan niệm "Giá trị là tính
có V nglũa tích cực, tốt đẹp, đáng quỷ, cố ích của các đối tượng VỚI các chủ
thể" [27, 301].
ở đây chúng tôi đổng ý với định nghĩa của từ điển tiếng Việt như đã nêu
trên về giá trị. Do đó, giá trị chính là hiện tượng xã hội đặc thù thể hiện sự
đánh giá của con người về đối tượng có ý nghĩa thoả mãn nhu cầu của con
người. Giá trị bao giờ cũng là một hiện tượng nhận thức nảy sinh trong quan
hệ chủ thể - khách thể.
Giá trị là một khái niệm mang tính người, nghĩa là nó chỉ tồn tại trong xã
hội loài người, thông qua sư đánh giá của con níười. Cho nên toàn bộ thê giới
21
khách quan trong quan hệ với con người được nhìn nhận như là thế giới của
các giá trị mà khòng đưn thuần là thế giới của đổ vật. Bất cứ cái gì cũng có thể
và phái được thẩm định về mặt giá trị. Mọi hành vi, hành động hay sự biến
nào xảy ra đều mang giá trị đối với con người bới nó luôn nằm trong mối quan
hệ uiữa chủ thể và khách thể. Con người nhận thức, đánh giá thẩm định đặt
Chuns vào những thang bậc của báng giá trị như Đẹp - xấu, nhân nghĩa hay
bất nhân, chân hay nguỵ Vì vậy, giá trị luôn tồn tại trong đời sống xã hội và
là người bạn đồng hành cùng với con người từ xa xưa đến nay. Đ. Điđơrô nhà
triết học khai sántỊ Pháp thế kỷ XVIII đã từng cho rằng bản thân sự tồn tại của
con người đã làm xuất hiện sự tồn tại của các giá trị và con người chính là giá
trị cao nhất.
Như vậy, khái niệm giá trị nảy sinh, tồn tại trong xã hội loài người được
con người sử dụng khi đánh giá về đối tượng khách thể. Khách thể mang giá
trị khi chủ thể nhận thức và có tác dụng thoả mãn nhu cầu kích thích chủ thể
hành động. Bất kỳ sự vật nào cũng có thể được coi là “có giá trị” dù đó là vật
thể hay tư tưởng, là vật thưc hay vât ảo nếu nó được các thành viên trong xã
hội thừa nhận, xem xét như biểu tượng quan trọng trong đời sống tinh thần
của họ và cần đến họ như một nhu cầu thực thụ. v ề mặt lý luận, giá trị mang
tính 2 mặt. Một mật giá trị gắn liền với cái tốt, cái hay, cái đúng, cái đẹp. ở
phương diện này giá trị định hướng tích cực cho hoạt động của con người theo
hướng chân - thiên - mỹ. Thông thường, giá trị đánh giá ở khía cạnh này.
Mặt khác, giá trị cũng tiềm ẩn những cái tiêu cực phản ánh giá trị. Chẳng
hạn kinh tế thị trường có giá trị tích cực đối với nhân loại thúc đẩy tiến bộ xã
hội nhưng nó cũng bao hàm mặt phản giá trị đó là do chạy theo lợi nhuận
quan hệ giữa người và người trở nên xấy đi.
Giá trị nảy sinh, phát triển và kiểm nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
Trong quá trình hoạt động con người tác động vào đối tượng làm bộc lộ những
thuộc tính, tính chất trên cơ sở đó con người nhận thức và cải tạo chúng cho
phù hợp với mục đích của mình. Sự vật càng nhiều thuộc tính càng mang
nhiều giá trị. Tuy nhiên mỗi một đưn vị giá trị có ý nghĩa, vai trò khác nhau
đối với bản thân sự vật do đó có những giá trị cơ bản và không cơ bàn. Những
22