ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN VĨNH PHÚ
SỰ CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA PHAN BỘI CHÂU TRƯỚC NĂM 1917
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2006
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN VĨNH PHÚ
SỰ CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG CHÍNH THỂ
CỦA PHAN BỘI CHÂU TRƯỚC NĂM 1917
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80
Người hướng dẫn khoa học: TS Đỗ Thị Hòa Hới
HÀ NỘI - 2006
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 8
CHƢƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ CHUYỂN BIẾN TƢ
TƢỞNG CHÍNH THỂ Ở PHAN BỘI CHÂU TRƢỚC NĂM 1917 8
1.1. Lƣợc sử chính thể ở Việt Nam đến đầu thế kỷ XX 10
1.1.1. Lược sử chính thể ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm
lược 10
1.1.2. Bối cảnh xã hội thuộc địa nửa phong kiến ở Việt Nam cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX 23
1.2. Lƣợc sử tƣ tƣởng chính thể dân chủ tƣ sản ở phƣơng Tây cận
đại ảnh hƣởng đến Việt Nam 31
1.2.1 Lược sử tư tưởng chính thể dân chủ tư sản ở phương Tây cận
đại 31
1.2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng chính thể dân chủ tư sản của phương
Tây thời cận đại đến Việt Nam 37
CHƢƠNG 2 QUÁ TRÌNH VÀ NỘI DUNG CHUYỂN BIẾN TƢ
TƢỞNG CHÍNH THỂ CỦA PHAN BỘI CHÂU TRƢỚC NĂM 1917 47
2.1. Giai đoạn tƣ tƣởng chính thể quân chủ của Phan Bội Châu
(1900 - 1904) 48
2.1.1. Nguyên do hình thành và nội dung tư tưởng chính thể quân chủ
của Phan Bội Châu 48
2.1.2. Ảnh hưởng của tư tưởng quân chủ trong những hoạt động yêu
nước của Phan Bội Châu 56
2.2. Giai đoạn tƣ tƣởng chính thể quân chủ lập hiến của Phan Bội
Châu (1904 - 1912) 59
2.2.1. Nguyên do hình thành và nội dung tư tưởng chính thể quân chủ
lập hiến sơ khai của Phan Bội Châu 59
2.2.2. Nguyên do hình thành và nội dung tư tưởng chính thể quân chủ
lập hiến của Phan Bội Châu thời kỳ sau 1906 69
2.3. Giai đoạn tƣ tƣởng chính thể cộng hoà của Phan Bội Châu
(1912 - 1917) 80
2.3.1. Nguyên do hình thành tư tưởng chính thể cộng hoà của Phan
Bội Châu 80
2.3.2. Nội dung tư tưởng chính thể cộng hoà dân chủ của Phan Bội
Châu 93
2.4. Ảnh hƣởng và ý nghĩa của tƣ tƣởng chính thể của Phan Bội
Châu đối với xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. 94
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phan Bội Châu (1867 - 1940) là “nhà cách mạng dân tộc, nhà văn yêu
nước, nhà tư tưởng dân chủ lớn nhất Việt Nam đầu thế kỷ XX” [6, 9]. Di sản
của ông để lại cho hậu thế thật đa dạng, sâu sắc và đã đóng góp phần quan
trọng vào kho tàng di sản lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, nên đã thu hút từ
lâu nhiều sự quan tâm, nghiên cứu, trong đó có nhiều công trình có giá trị.
Tuy nhiên cùng với sự phát hiện và phát hành khối tư liệu phong phú trong di
thảo của ông, đó là sự đổi mới phương pháp tư duy, nên việc phát hiện nhiều
phương diện mới trong tư tưởng của ông, vẫn cần sự tiếp tục đi sâu tìm hiểu.
Có thể nói rằng hướng nghiên cứu về tư tưởng của ông luôn là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thời sự cấp bách.
Tất cả tài năng, trí tuệ và sự cống hiến của Phan Bội Châu cũng chỉ
nhằm một mục đích lớn nhất là sự nghiệp chính trị giải phóng dân tộc, xây
dựng xã hội Việt Nam độc lập. Là nhà cách mạng chuyển giao giữa hai thời
đại: truyền thống và hiện đại nên sự lựa chọn chế độ chính trị, hình thức
chính thể nào để con đường cách mạng giành độc lập thành công là một
trong những chủ đề trọng tâm xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng và
sáng tạo tư tưởng ở Phan Bội Châu.
Sự chuyển biến của tư tưởng chính thể, một bộ phận trong tư tưởng
triết học chính trị ở Phan Bội Châu là một quá trình trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau, không hoàn toàn cố định mà nó có sự hình thành, chuyển biến
theo từng hoàn cảnh cách mạng, điều kiện nhận thức mà ông trải qua, song
nhận định về điều này trong kết qủa của nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn chưa
thống nhất.
2
Trong cách tiếp cận triết học qua nhiều công trình lớn, nhỏ từ trước tới
nay, sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực tư tưởng chính thể chính trị của Phan
Bội Châu của các nhà khoa học còn chưa nhiều, mà chủ yếu là nghiên cứu
những lĩnh vực đặc sắc khác của Phan Bội Châu như văn học, sử học, hay
quan niệm khái quát chung về vũ trụ quan, nhân sinh quan, tư tưởng triết học
nói chung… Vì vậy, chúng tôi thấy đi vào vấn đề này đây là việc làm có ý
nghĩa để làm rõ hơn tư tưởng của Phan Bội Châu trong vấn đề chính thể chính
trị và hơn nữa bước đầu nêu lên được một số ý nghĩa của tư tưởng chính thể,
nhất là chính thể cộng hoà dân chủ của Phan Bội Châu đối với xã hội Việt
Nam thời bấy giờ.
Hơn thế nữa, đất nước ta hiện nay đang trong sự nghiệp đổi mới thì
việc nghiên cứu tư tưởng chính thể của Phan Bội Châu còn có một ý nghĩa
thời sự rất quan trọng. Bởi vì đi sâu tìm hiểu sự trăn trở lựa chọn mô hình
chính thể nào cho phù hợp hoàn cảnh đất nước, thời đại của Phan Bội Châu
mang đậm dấu ấn thực tiễn xã hội, dân tộc Việt Nam chúng ta, chúng ta sẽ có
thêm căn cứ, tiền đề, gợi ý để tiếp tục “thiết kế” một mô hình chính thể ngày
càng hoàn thiện, hợp lý đáp ứng các yêu cầu mới của dân tộc trong bối cảnh
hiện nay. Với những lý do trên chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Sự
chuyển biến tƣ tƣởng chính thể của Phan Bội Châu trƣớc năm 1917 làm
hướng nghiên cứu cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lịch sử Việt Nam thời cận đại ghi nhận vị trí rất quan trọng của tư
tưởng Phan Bội Châu. Chúng ta biết đến ông như là một nhân vật lịch sử tài
năng ở các lĩnh vực văn thơ, triết học, chính trị, lịch sử. Vì thế, tư tưởng của
Phan Bội Châu là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài
nước với khối lượng rất lớn. Trong những thời gian gần đây có nhiều cuộc
3
hội thảo khoa học lớn về tư tưởng Phan Bội Châu. Năm 1997, nhân kỷ niệm
lần thứ 130 năm ngày sinh của Phan Bội Châu, trường Đại học Khoa học Xã
hội - Nhân văn tổ chức hội thảo khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của ông,
có sự phối hợp với với trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, Hội Khoa học lịch
sử Việt Nam, Bảo tàng cách mạng Việt Nam. Hội nghị có sự tham gia của
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu trung ương và địa phương. Mới đây,
tháng 9 năm 2005, nhân kỷ niệm 100 năm phong trào Đông Du, Ban Tuyên
huấn tỉnh uỷ Nghệ An và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây đã tổ chức
hội thảo kỷ niệm 100 năm phong trào Đông Du và Phan Bội Châu. Tháng 11
năm 2005, trường Đại học Khoa học Xã hội - Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà
Nội) phối hợp với Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam và trường Đại học
Waseda Nhật Bản tổ chức hội thảo khoa học “Quan hệ văn hoá, giáo dục
Việt Nam - Nhật Bản và 100 năm phong trào Đông Du”, trong đó đánh giá
vai trò vô cùng quan trọng của Phan Bội Châu đối với quan hệ Việt Nam -
Nhật Bản thông qua những hoạt động của ông ở Nhật Bản.
Chỉ với hướng nghiên cứu về tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu
nhưng cũng đã có nhiều công trình. Riêng đi sâu lý giải cội nguồn các tư
tưởng ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng chính trị Phan Bội Châu, các
công trình đó đều thừa nhận ảnh hưởng quan trọng của cội nguồn tư tưởng
triết học phương Đông nổi bật, nhất là tư tưởng triết học Nho giáo. Tiêu biểu
nhất là các tác phẩm: “Phan Bội Châu và Nho giáo” của Lê Sỹ Thắng (trong
cuốn “Nho giáo xưa và nay”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991), “Sự phát
triển của tư tưởng Việt Nam giữa thế kỷ XX đến cách mạng tháng 8”, t.2, Trần
Văn Giàu, (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978), Bùi Đăng Duy, Chương
Thâu, Nguyễn Đức Sự “Phan Bội Châu, tư tưởng chính trị, tư tưởng triết
học”, (Nxb Khoa học xã hội, HN, 1967), “Mấy vấn đề lịch sử tư tưởng Việt
Nam” của Nguyễn Tài Thư (tạp chí Triết học, số 4/1984), “Bảo vệ giá trị
4
truyền thống dân tộc” của Nguyễn Tài Thư (Tạp chí Cộng sản, số 6/1994),
“Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam” do Phan Đại Doãn chủ biên, (Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1998).
Các công trình trên đã tìm hiểu quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị
của Phan Bội Châu dần dần thay đổi theo từng bước hoạt động cách mạng của
ông. Đặc biệt các tác giả nhấn mạnh chuyển hướng tư tưởng ở Phan Bội Châu
sau khi tiếp nhận cội nguồn tư tưởng phương Tây mới qua: “Tân thư”, “Tân
văn”, nên có một số công trình nghiên cứu của tư tưởng ông trong khía cạnh
này tiêu biểu có: “Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX”
do Đinh Xuân Lâm chủ biên, ( Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997), “Ảnh
hưởng của “Tân thư” trong tư tưởng của Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh” của Lê Sỹ Thắng (tạp chí Triết học số 12/1997). Một số công trình
khác đặt tư tưởng chính trị Phan Bội Châu trong sự tương phản với tư tưởng
chính trị Phan Châu Trinh để nổi bật tư tưởng chính trị của ông như: “Tìm
hiểu Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh” của Tôn Quang Phiệt (Nxb Văn,
Sử, Địa, Hà Nội, 1956), “Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh” của Trần Hồng Hạnh (tạp chí Khoa học xã hội, số
1/1995). “Tư tưởng triết học và tư tưởng chính trị của Phan Bội Châu” của
Nguyễn Văn Hòa, (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005), luận án tiến sĩ
triết học “Thế giới quan của Phan Bội Châu” của Lê Ngọc Thông, (Nxb Lao
Động, Hà Nội, 2005).
Các công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu rất nhiều nhưng chưa có
công trình nào dành đi sâu nghiên cứu sự chuyển biến của tư tưởng chính thể
ở Phan Bội Châu.
Đáng chú ý trong kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 130 năm ngày
sinh của Phan Bội Châu, năm 1997, được trường Đại học Khoa học xã hội và
5
nhân văn xuất bản, “Phan Bội Châu con người và sự nghiệp” có một bài báo
cáo đề cập đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng chính thể nhà nước
của Phan Bội Châu: “Tìm hiểu một số quan điểm của Phan Bội Châu về vấn
đề nhà nước”của Vũ Thị Phụng. Báo cáo trên đã phân định các mô hình chính
thể nhà nước mà Phan Bội Châu lựa chọn cũng như những tác động đến sự
lựa chọn ấy. Do giới hạn trong một bài báo hội thảo nên báo cáo đã chưa có
sự phân tích đầy đủ hơn các nguyên do về sự lựa chọn ấy.
Và cũng với lý do như vậy, nên trong những báo cáo gần đây nhất:
“Tìm hiểu yếu tố dân chủ trong tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu” của
Trần Văn Thức và “Phan Bội Châu - bước đầu con đường cách mạng của
mình” của Đinh Văn Niêm trong kỷ yếu kỷ niệm 100 năm phong trào Đông
Du và Phan Bội Châu tại thành phố Vinh năm 2005, có đề cập đến một cách
gián tiếp và sự chuyển biến của tư tưởng về chính thể, nhưng chưa làm rõ gì
hơn về lý do, điều kiện, nội dung quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
về chính thể của Phan Bội Châu.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu đã trình bày trên từ các mức độ
đậm nhạt khác nhau đều là sự khám phá có sức gợi ý lớn đối với chúng tôi khi
đi sâu triển khai nội dung nghiên cứu của luận văn này. Trong chú ý của
mình, luận văn sẽ tập trung vào sự tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển
của tư tưởng về chính thể của Phan Bội Châu, cần được làm rõ các tiền đề,
các điều kiện cũng như biểu hiện cụ thể của sự vận động tư tưởng đó. Điều
này chúng tôi hy vọng cũng có những gợi ý có thể đóng góp đối với lý luận và
thực tiễn đổi mới hiện nay.
Do điều kiện nhận thức và thời gian hạn hẹp, trong khuôn khổ của luận
văn này, chúng tôi sẽ đi sâu hơn phân tích quá trình hình thành và phát triển
tư tưởng chính thể của Phan Bội Châu, theo từng “bước chân” hoạt động cách
mạng và sáng tạo tư tưởng của Phan Bội Châu giai đoạn trước năm 1917. Bởi
6
lý do, sau năm 1917 cùng với sự ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga,
thế giới và Việt Nam đều có những biến đổi lớn, riêng với Phan Bội Châu do
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, tư tưởng của ông cũng có những biến đổi về nội
dung, vai trò, tính chất. Sự chuyển biến tư tưởng ấy cần được khảo sát kỹ hơn
các giai đoạn tiếp theo trong một công trình dài hơn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích.
Mục đích của luận văn là làm rõ quá trình chuyển biến tư tưởng về
chính thể chính trị của Phan Bội Châu trước năm 1917. Từ đó, chỉ ra được
phần nào ảnh hưởng của tư tưởng đó đối với xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày các cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận thể hiện ở hoàn cảnh lịch
sử, kinh tế, chính trị, tư tưởng xã hội Việt Nam và thế giới đến cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tư tưởng
chính thể của Phan Bội Châu.
- Phân tích quá trình chuyển biến tư tưởng về chính thể của Phan Bội
Châu trước năm 1917: Các nguyên do, nội dung và ảnh hưởng của nó đối với
xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX.
4. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý khoa học cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam về vấn đề nghiên cứu, kế
thừa di sản truyền thống dân tộc.
4.2. Luận văn chủ yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như
lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh và hệ thống hoá…
7
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu quá trình chuyển biến tư tưởng chính thể của Phan Bội Châu
giai đoạn trước năm 1917.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Các di thảo của Phan Bội Châu và các tài liệu liên quan đến quá trình
hình thành và phát triển tư tưởng chính trị, chính thể của Phan Bội Châu.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá quá trình chuyển biến tư tưởng về chính thể của Phan Bội
Châu trước năm 1917.
- Phân tích một cách đầy đủ hơn nguồn gốc, điều kiện các tiền đề và nội
dung của sự thay đổi về tư tưởng của Phan Bội Châu về chính thể chính trị
trước năm 1917.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn tư tưởng của Phan Bội Châu – một nhân
vật tiêu biểu của lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận đại.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho học tập và nghiên cứu cho
những ai quan tâm đến lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận đại.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.
8
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ CHUYỂN BIẾN TƢ TƢỞNG
CHÍNH THỂ Ở PHAN BỘI CHÂU TRƢỚC NĂM 1917
Khái niệm về chính trị, chính thể
Chính trị là lĩnh vực hoạt động được coi là ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ
đời sống xã hội. V.I.Lênin cho rằng: “Chính trị là sự tham gia vào những công
việc nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, là việc xác định những
hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước” [45, 404]. Chính trị
gắn chặt với những hoạt động của xã hội có giai cấp, nó thể hiện lợi ích của
mỗi giai cấp, của mọi người trong xã hội. Trong chính trị thì vấn đề thể chế
chính trị là một trong những nội dung chính yếu nhất. “Thể chế chính trị là hệ
thống các định chế, các giá trị, chuẩn mực hợp thành những nguyên tắc tổ
chức và phương thức vận động của một chế độ chính trị, là hình thức thể hiện
các thành tố của hệ thống chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng, là cơ sở chính
trị - xã hội quy định tính chất, nội dung của chế độ xã hội nhằm bảo vệ quyền
lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền” [59, 19]. “Trong thể chế chính trị thì
thể chế nhà nước là quan trọng nhất, bởi vì, người ta thường căn cứ chủ yếu
vào hình thức chính thể nhà nước – căn cứ vào hình thái biểu hiện của thể chế
nhà nước để phân loại các thể chế chính trị. Tên gọi của hình thức chính thể
nhà nước cũng chính là tên gọi của thể chế chính trị” [59, 21].
Hình thức nhà nước là phạm trù được quan tâm đầu tiên trong hoạt động
tổ chức chính trị, bởi nó chứa đựng nội dung hình thức chính thể. Hình thức
nhà nước là cách thức tổ chức và thiết chế quyền lực nhà nước.
Hình thức nhà nước được chia làm 3 bộ phận: Hình thức chính thể, chế
độ chính trị, và hình thức cấu trúc nhà nước.
9
Hình thức chính thể là sự tổ chức quyền lực nhà nước tối cao, những cơ
quan của quyền lực tối cao đó, cơ cấu và trình tự thiết lập những cơ quan ấy,
mối quan hệ qua lại của chúng với nhân dân và mức độ tham gia của nhân dân
vào quá trình thành lập những cơ quan đó.
Có thể dựa vào hai tiêu chí: Quá trình thành lập cơ quan nhà nước tối
cao (nguyên thủ quốc gia) bằng con đường nào và sự tham gia của nhân dân
vào quá trình ấy và cũng như quyền lực nhà nước mà có thể chia làm 2 loại
chính thể : Chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.
Trong chính thể quân chủ, vua được thành lập bằng con đường thừa kế
thế vị, mà nhân dân không được tham gia bầu cử. Còn trong chính thể cộng
hoà thì nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra nguyên thủ quốc gia bằng con
đường bầu cử tự do.
Hình thức chính thể bị quy định bởi chế độ chính trị: Nói về mục đích
của chế độ nhà nước là gì? những biểu hiện cụ thể thông qua hệ thống tổ chức
hoạt động như thế nào. Chế độ chính trị được chia làm hai loại: Dân chủ và
phi dân chủ, chuyên chế độc tài. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi
của quần chúng nhân dân.
Tư tưởng chính trị là sự phản ánh những quyền lợi của các giai cấp, các
lực lượng xã hội và những hoạt động xã hội khác để bảo vệ các quyền lợi ấy.
Ở Việt Nam, những quan niệm chính thể chính trị trên được hình thành là
một quá trình đấu tranh, xây dựng lâu dài của các nhà tư tưởng và lịch sử đấu
tranh của dân tộc. Và Phan Bội Châu là một trong những người hoạt động cách
mạng đầu tiên đưa ra những tư tưởng chính thể chính trị tiến bộ ấy vào thực tiễn,
dù là ở mức độ hạn chế. Bởi vì, ông xác định rằng muốn làm cách mạng thành
công thì “trước hết phải chọn chủ nghĩa cho vững vàng” [9, 156]. Vấn đề chính
10
thể là tư tưởng được Phan Bội Châu đề cập rất nhiều lần, ông đã từng xác định:
“Phải xóa bỏ chính thể quân chủ, vì đó là một chính thể rất xấu xa vậy” [8, 135].
Trong tôn chỉ của Việt Nam Quang Phục Hội do Phan Bội Châu xây dựng đã
khẳng định: “Chính thể dân chủ cộng hòa là một chính thể rất tốt đẹp” [8, 135].
Để thấy được đóng góp của Phan Bội Châu trong lĩnh vực này trước hết chúng ta
khảo sát khái lược lịch sử vấn đề chính thể tại Việt Nam đến đầu thế kỷ XX.
1.1. Lƣợc sử chính thể ở Việt Nam đến đầu thế kỷ XX
1.1.1. Lược sử chính thể ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược
Sự ra đời của công xã nông thôn và nhu cầu thủy lợi, tự vệ đã đưa đến sự
hình thành lãnh thổ chung và tổ chức nhà nước đầu tiên của Việt Nam là nhà
nước Văn Lang vào khoảng thế kỷ thứ VII, thứ VI TCN. Sau đó là nhà nước
Âu Lạc khoảng đầu thế kỷ III TCN.
Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc tổ chức theo chế độ lạc hầu, lạc tướng,
đứng đầu Nhà nước là vua: Thủ lĩnh của liên minh các bộ lạc Việt theo chế độ
thừa kế thế vị, nhà vua sống rất gần gũi, chan hoà với dân chúng. Trong triều
có các lạc hầu giúp vua cai quản đất nước, ở địa phương do các lạc tướng
đứng đầu quản lý. Trong thời kỳ này, phân tầng giai cấp chưa rõ, mâu thuẫn
xã hội còn hoà dịu, do đó nó còn mang đậm tính sơ khai của nhà nước.
Từ khi Triệu Đà xâm lược năm 179 TCN và tiếp theo là các triều đại
phong kiến phương Bắc đô hộ, nhà nước Văn Lang - Âu lạc bị biến thành
quận huyện của nhà nước phong kiến Trung Quốc. Chế độ lạc hầu, lạc tướng
bị xoá bỏ và được tổ chức lại theo kiểu nhà nước phong kiến Trung Quốc ở
bộ máy trung ương. Theo đó mà hệ tư tưởng Nho giáo tìm cách thâm nhập
vào Việt Nam bắt đầu từ những thế kỷ đầu công nguyên nhằm đáp ứng nhu
cầu cai trị của phong kiến Trung Quốc đối với nước ta.
11
Nho giáo – hệ tƣ tƣởng của chính thể quân chủ chuyên chế phƣơng Đông
“Nho giáo là sự tổng hợp những tư tưởng, triết lý, luân lý, đạo đức và thể
chế cai trị ở Trung Quốc có từ những thế kỷ VI – V TCN” [63, 79] do Khổng
Tử (551 – 479 TCN) sáng lập, sau đó được Mạnh Tử (372 – 289 TCN), Đổng
Trọng Thư (thế kỷ II TCN), Chu Đôn Di (1017 - 1073), Chu Hy (1130 -
1200)… kế thừa và phát triển cho phù hợp với chế độ phong kiến mỗi thời kỳ,
hình thành các loại Hán Nho, Tống Nho
Nho giáo xây dựng mô hình nhà nước quân chủ tập quyền chuyên chế
phương Đông. Bên cạnh đó, Nho giáo chủ trương dùng “Nhân trị”, “Đức trị”
là cách thức điều hành xã hội. Khổng Tử rất chú trọng điều đó: “Dùng đạo
đức làm đường lối chính trị thì như là sao Bắc cực ở một chỗ nhất định mà
các sao khác đều vây quanh” (Tử viết vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần, cư kỳ
sở nhi chúng tinh củng chi. Luận Ngữ - thiên Vi Chính) [17, 60]. Nho giáo
chủ trường xây dựng một xã hội với các nguyên tắc “tam cƣơng, ngũ
thƣờng” theo đẳng cấp thứ bậc, mỗi thứ bậc có danh riêng và mỗi người phải
“chính danh” thực hiện bổn phận theo điạ vị của mình: “Vua ra vua, bề tôi ra
bề tôi, cha ra cha, con ra con” (quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, Luận ngữ
- thiên Nhan Uyên) [17, 42], như thế xã hội mới ổn định. Nho giáo phù hợp
với các nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ở phương Đông, vì chủ
trương bề tôi phải phục tùng tuyệt đối vua chúa. Đến thời Hán, Tống Nho về
sau thì qui tắc ấy càng thêm nghiệt ngã “vua khiến bề tôi chết mà bề tôi không
chết là bất trung, cha khiến con chết mà con không chết là bất hiếu” (quân sử
thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu) (Nhị trình
nhị thư – cuốn 22). Con người lý tưởng của Nho giáo là con người theo khuôn
mẫu quân tử, dùng phẩm hạnh đạo đức để thu phục nhân tâm, cai trị xã hội.
12
Tƣ tƣởng “Thần dân”
Nếu như Nho giáo Tiên Tần (Nho giáo nguyên thủy) còn ít nhiều chứa
đựng các yếu tố thân dân, nhân bản, nền cai trị lấy Nhân Chính làm mực
thước, thì từ Hán, Tống Nho trở về sau có sự pháp điển hóa, thể chế hóa.
“pháp luật” hóa các quan niệm Lễ trị - Đức trị - Nhân trị đó theo xu hướng
ngày càng nghiệt ngã, xơ cứng. Tuy nhiên, trong thời kỳ nước ta bị lệ thuộc
phong kiến phương Bắc hàng nghìn năm, với ý chí độc lập nhân dân ta đã
không ngừng nổi dậy chống lại phong kiến phương Bắc và ý thức hệ Nho
giáo áp đặt đó. Vì vậy ảnh hưởng Nho giáo chỉ ở một số nhỏ tầng lớp trên.
Nho giáo từ Hán, Tống là một ý thức hệ về xây dựng con người “Thần
dân” tuyệt đối. Đổng Trọng Thư, Chu Hy hình dung dân chúng là một tập
hợp vô danh, không tồn tại với tư cách là các cá nhân cụ thể. Trong thế giới
đó, người chủ cao nhất là Trời, “hoạch tội vụ thiên, vô sở đảo giáo” (phạm tội
với Trời thì không cầu đảo vào đâu được nữa). Ông chủ thứ hai là thiên tử -
vua, vì vua là con trời, thay trời hành đạo (đại thiên hành hoá, thế thiên hành
đạo). Dưới vua là chư hầu, đại phu và cuối cùng là dân, là tất cả đều “thần
dân” bề tôi lệ thuộc vào thiên tử. Đó là trật tự tất yếu, do Trời sắp đặt. Người
quân tử chính là người do thực hiện bổn phận theo trật tự đó. Tư tưởng “thần
dân” ảnh hưởng rất lớn đến hành xử của người quân tử, và chừng mực nào đó
đã ảnh hưởng đến ứng xử của người dân.
Từ thế kỷ X, nước ta giành được độc lập tự chủ. Cùng với sự phát triển
của lực lượng phong kiến Việt Nam trải qua các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê,
quan niệm chính thể của Nho giáo dần được giai cấp thống trị duy trì, vận
dụng vào và góp phần đáng kể vào sự hưng thịnh của chế độ phong kiến Việt
Nam. Thế kỷ XI trở đi khi triều đại nhà Lý thành lập chế độ phong kiến phát
13
triển mạnh mẽ thì hệ tư tưởng Nho giáo càng dần được chú ý đề cao. Năm
1070 Văn Miếu được xây dựng, năm 1076 tổ chức thi tam giáo…
Nho giáo với các khái niệm: Trung, Nghĩa, Lễ, Hiếu… được vận dụng
vào lĩnh vực xã hội và củng cố chính trị nước ta ngày càng thêm vững chắc.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia thống
nhất, người có địa vị quyền lực tối thượng là vua, hoàng đế hay quốc vương.
Vua được coi là thần khí đối với vận mệnh quốc gia và cuộc sống của thần
dân; vua là người có tài, đức và phúc lớn mà trời giao phó. Do đó người nắm
quyền đó được coi là thừa mệnh trời, nhận mệnh trời để trị nước an dân, thay
trời hành đạo. Họ tự coi mình là Thiên tử - con trời.
“Nội dung cơ bản tư tưởng chủ đạo của vương quyền dưới chế độ quân
chủ Việt Nam được thể hiện ở những tờ sắc chiếu, phủ dụ toàn dân trong
nước khi các vị vua lên ngôi ban hành. Tất cả các tờ sắc chiếu đều bắt đầu
bằng: Thừa Thiên Hưng Vận, Hoàng Đế sắc chiếu…” (tuân theo mệnh Trời
để làm cho vận nước hưng thịnh hơn lên. Hoàng đế giáng chiếu như sau…)
hoặc “Thế Thiên hành đạo” (thay thế Trời để thi hành đạo của Trời).
Để duy trì địa vị và quyền lực tối cao, các triều đại phong kiến Việt Nam
đã khéo khai thác triệt để những yếu tố thần bí từ tư tưởng của Tống Nho. Tư
tưởng này giải thích nguồn gốc của bậc đế vương là do thiên mệnh hay do
Trời. Do vậy, vấn đề căn bản triết lý về chế độ quân chủ ở nước ta cũng dựa
vào cơ sở lý luận ấy. Điều đó tạo ra nét đặc trưng của chế độ quân chủ Việt
Nam. Nếu như trong chế độ quân chủ phương Tây, nhà vua tập trung cả ba
quyền, lập pháp, hành pháp và tư pháp thì ở Việt Nam, vua không chỉ nắm
giữ ba quyền đó trong tay mà còn là vị giáo chủ cao nhất. Nhà vua thâu tóm
cả thần quyền và thế quyền. Vua là người ban hành pháp luật bắt buộc dân
chúng phải thi hành; là vị thủ lĩnh cao nhất của nền hành chính nhà nước có
14
quyền khen thưởng, trừng phạt và bãi miễn tất cả các chức quan; là vị thẩm
phán tối cao có quyền quyết định đến các vụ án hình sự và dân sự và là vị
giáo chủ độc đoán duy nhất. Thậm chí tất cả quỷ thần trong nước đều phục
tùng ý chí của nhà vua. Vua có quyền tế Trời, còn thần dân chỉ được thờ quỷ
thần và tổ tiên. Vua có quyền phong sắc cho bách thần và khiển trách bách
thần, khiển trách bằng sắc hoặc phá hủy đền thờ. Quyền tế Trời hàng năm gọi
là tế Nam Giao, chủ tế thuộc về Hoàng đế. Quyền lực trong tay vua là tuyệt
đối. Chế độ quân chủ ấy được xem là chế độ quân chủ “tôn quân quyền”[16,
70-71].
Chính thể quân chủ chuyên chế phong kiến Việt Nam coi các quy phạm
pháp luật là mang tư tưởng chính trị - đạo đức nho giáo như Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trung, Tín làm một bệ đỡ bất khả xâm phạm. Những bề tôi được sử sách lưu
danh vì họ đã xả thân vì vua chúa như Trần Bình Trọng, Trần Quốc Tuấn, Lê
Lai, Tô Hiến Thành…
Câu thơ Trương Hán Siêu còn vang vọng mãi trong lòng dân tộc:
“ Những người bất nghĩa tiêu vong.
Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh”
Hay như tuyên bố của Nguyễn Công Trứ:
“ Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ,
Không quân, thần, phụ tử đếch ra người”.
Hệ tư tưởng trên đã đi vào huyết khí, nếp nghĩ của kẻ học thức trong xã
hội phong kiến Việt Nam. Ảnh hưởng đó không dễ gì thay đổi, khi mà chế độ
chính trị ấy và quy phạm đạo đức ấy được nâng lên thành “Lễ”, và dần dần
“Pháp” hóa trong các bộ luật phong kiến: Quốc triều hình luật, Hoàng triều
hình luật.
15
Cơ sở kinh tế của chính thế quân chủ chuyên chế phong kiến Việt Nam
Chế độ phong kiến Việt Nam có cơ sở kinh tế bao gồm 2 phương diện.
Về mặt chính thống là sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất, vua là chủ sở
hữu duy nhất tối cao (đại địa chủ). Quan hệ giữa vua và thần dân là quan hệ
bóc lột địa tô của đại địa chủ với nông dân tá điền. Ngoài ra, trong xã hội xuất
hiện tầng lớp địa chủ tư hữu (bao gồm địa chủ, quí tộc và một số quan lại)
phát canh thu tô trực tiếp nông dân tá điền. Nông dân tá điền chiếm đa số
trong dân chúng thì không có ruộng đất thì bị chịu sự bóc lột nặng nề.
Ruộng đất mà tầng lớp quý tộc, địa chủ quan lại có xét cho cùng đều do
vua “ban phát” theo kiểu phong tước kiến địa nên họ cũng chịu sự ràng buộc
rất lớn từ vua - đại địa chủ.
Và như vậy, quyền lực kinh tế tối thượng của chế độ phong kiến Việt
Nam là thuộc về vua và đây là là cơ sở kinh tế của chính thể quân chủ chuyên
chế phong kiến. Trong chế độ phong kiến Việt Nam, người dân luôn được
giáo huấn thân phận “thần dân”, tuyệt đối tin vào sự phán quyết của nhà vua.
Vì thế nên tư tưởng Nho giáo về quân quyền chuyên chế tạo dựng và góp
phần củng cố thêm chế độ phong kiến Việt Nam.
Điều đáng chú ý là trong thực tế: Vua chỉ là người “sở hữu” tối cao đối
với ruộng đất, bên cạnh đó, trong làng xã Việt Nam qua các thời đại khác
nhau có sự biến đổi, song bao giờ cũng song song tồn tại loại hình “sở hữu”
thứ hai là chế độ ruộng công làng xã rất đặc thù của Việt Nam. Đây là cơ sở
kinh tế cho tư tưởng dân chủ kiểu làng xã Việt Nam.
Tƣ tƣởng dân chủ làng xã ở Việt Nam
Quần chúng lao động đông đảo trong xã hội Việt Nam là nông dân công
xã và nông dân tá điền, có kinh tế riêng, nhưng hầu như không có quyền sở
16
hữu ruộng đất. Đặc điểm kinh tế, xã hội đó có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc
đấu tranh xã hội của nông dân và quá trình nảy sinh, phát triển cũng như nội
dung tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam.
Trong quá trình phong kiến hóa công xã nông thôn từ thế kỷ X đến thế
kỷ XV, đã xuất hiện những cuộc đấu tranh của nông dân vào cuối đời Lý và
cuối đời Trần với những tư tưởng đòi bình đẳng xã hội và cứu giúp người
nghèo. Tư tưởng đó thể hiện trong cuộc khởi nghĩa Lê Văn cuối thế kỷ XII và
khởi nghĩa Ngô Bệ cuối thế kỷ XIV. Lê Văn tung tin thấy vết chân trâu trắng
trên cây để đoán rằng: “Trâu trắng là vật ở dưới nước, nay lại ở trên cây, thế
là điềm kẻ dưới lên ở trên”, để cổ vũ quần chúng. Ngô Bệ nêu khẩu hiệu
“chẩn cứu người nghèo” để tập hợp quần chúng nổi dậy chống triều Trần.
Đến giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, trong cuộc chiến tranh nông
dân thế kỷ XVIII và nữa đầu thế kỷ XIX tư tưởng dân chủ nông dân được
phát triển lên trình độ mới với khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho dân
nghèo”, phản ánh yêu cầu bình đẳng tài sản và tâm lý bình quân chủ nghĩa
của những người tiểu nông trong điều kiện kinh tế hàng hóa tương đối phát
triển. Tư tưởng đó biểu thị rõ nét trong phong trào Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII,
nhất là trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa. Một điểm đáng lưu ý là trong
phong trào nông dân ở giai đoạn cuối của phong kiến Việt Nam không thấy
xuất hiện khẩu hiệu ruộng đất như trong phong trào nông dân nhiều nước Tây
Âu ở hậu kỳ phong kiến hay phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc
giữa thế kỷ XIX. Khuynh hướng chung của nông dân Việt Nam là muốn
củng cố chế độ ruộng đất công của làng xã với một quy chế quân điền
bình đẳng, đảm bảo cho mọi người có ruộng đất, khẩu phần đủ để cày cấy,
nộp tô thuế vừa phải cho nhà nước. Điều đó có thể giải thích bằng tâm lý
của người nông dân công xã mà những tàn dư của nó được bảo lưu lâu dài
trong xã hội phong kiến.
17
Về mặt chính trị, tư tưởng dân chủ cao nhất của nông dân là bạo động
chống lại chế độ chuyên chế, lật đổ bọn bạo chúa, tham quan, cường hào với
ước mơ một xã hội công bằng có vua sáng, tôi hiền. Đó là tư tưởng:
- Được làm vua, thua làm giặc.
- Bao giờ dân nổi can qua.
Con vua thất thế lại ra quét chùa.
Tư tưởng đó cũng dội vào nhận thức của một số nhà văn hóa mang
nặng tấm lòng nhân đạo như:
Thà rằng bạo động bất lương,
Còn hơn chết đói nằm đường thối thây.
Như vậy là trong đấu tranh xã hội, tư tưởng dân chủ của nông dân Việt
Nam chỉ dừng lại ở yêu cầu bình đẳng xã hội, bình đẳng tài sản mà mức độ
phát triển cao nhất là chủ nghĩa bình quân về kinh tế - xã hội và tư tưởng bạo
động về mặt chính trị. Tư tưởng đó gắn liền với tâm lý người nông dân công
xã, người sản xuất nhỏ, nó có mặt chính đáng và tích cực của nó trong cuộc
đấu tranh chống chế độ chuyên chế, chống những bất công của xã hội phong
kiến, những cũng bộc lộ mặt không tưởng và bất lực của người nông dân
trong sự nghiệp tự giải phóng mình.
Một đặc điểm quan trọng của xã hội Việt Nam cổ truyền là sự tồn tại và
bảo lưu lâu dài tàn dư của công xã nông thôn. Đây là công xã nông thôn thuộc
loại hình Á châu mà trong giai đoạn đầu, đặc điểm cơ bản của nó là quyền sở
hữu công xã về toàn bộ ruộng đất và công xã đem phân chia ruộng đất đó cho
các gia đình và thành viên cày cấy. Bộ máy quản lý công xã do các thành viên
cử ra mà đứng đầu là một già làng hay Bồ Chính.
Về sau chế độ tư hữu ruộng đất phát triển, thu hẹp dần chế độ ruộng đất
công của làng xã và sự phân hóa xã hội bên trong cũng ngày càng nâng cao.
Quá trình đó diễn ra cùng với quá trình phong kiến hóa công xã nông thôn.
18
Nhưng nói chung, tàn dư của công xã nông thôn ở những mức độ tồn
tại khác nhau tùy từng lúc, từng nơi vẫn được bảo lưu lâu dài trong xã hội
Việt Nam cổ truyền. Tất nhiên ở đây có sự khác biệt giữa làng xã miền Bắc và
miền Nam do nhiều hoàn cảnh và điều kiện lịch sử quy định.
Trên cơ sở quan hệ cộng đồng công xã đó, hình thành và bảo tồn một
loạt phong tục tập quán gọi chung là “lệ làng” ít nhiều phản ánh tính chất dân
chủ công xã. Nó được biểu thị trong mối quan hệ tương đối bình đẳng giữa
các thành viên trong việc chia ruộng đất công và trong các sinh hoạt cộng
đồng, trong sự tôn trọng người già bất cứ đẳng cấp nào, trong việc thừa nhận vai
trò to lớn của người mẹ và người phụ nữ trong đời sống gia đình và làng xã.
Những lệ làng mang tính dân chủ công xã đó được phản ánh rõ nét
trong kho tàng văn hóa dân gian, nhất là trong ca dao, tục ngữ mà nhiều người
đã dẫn chứng. Trong bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) gồm 722 điều
luật được xây dựng trong thế kỷ XV và được áp dụng lâu dài cho đến cuối thế
kỷ XVIII (dĩ nhiên có sự bổ sung và sửa chữa ít nhiều), một số phong tục tập
quán dưới dạng luật tục dân gian có hiệu lực lâu đời đã được ghi nhận và
pháp chế hóa thành những điều luật của nhà nước phong kiến. Điều này được
thể hiện tập trung nhất trong những điều luật về quyền lợi của người phụ nữ
trong gia đình và xã hội, trong việc thừa hưởng gia tài, kế thừa hương hỏa và
phân chia tài sản khi vợ chồng phải ly dị. Nhiều nhà luật học phương Tây đã
ghi nhận đây là những điều luật đặc biệt của bộ luật Hồng Đức và nêu cao
tinh thần dân chủ của nó, những dĩ nhiên họ không giải thích được nguồn gốc
lịch sử của nó và do đó sự đánh giá cũng có mặt không thỏa đáng.
Trong một số hương ước xưa của người Việt Nam cũng thể hiện tính
chất sơ khai của dân chủ làng xã. Nội dung các hương ước cổ hiện sưu tầm
được thường đặt ở vị trí hàng đầu những quy phạm về tổ chức bộ máy quản lý
19
làng xã: Phạm vi chức năng, nhiệm vụ của toàn thể bộ máy cũng như trách nhiệm,
nghĩa vụ, quyền lợi của từng chức danh, thủ tục hoạt động của tổ chức đó.
Hội đồng tộc biểu là những đại biểu do dân cử ra. Nó mang tích chất
như cơ quan lập pháp của làng. Các họ họp nhau lại thành làng, bởi thế việc
làng do các họ cử người thay mặt gọi là tộc biểu. Tùy theo họ nhiều, họ ít
người mà mỗi họ cử ra 2 hoặc 3 người”. Một số hương ước quy định: “Vô
luận là họ to, họ nhỏ, kể từ tráng đinh trở lên cứ 20 người phải bầu lấy một
người tộc biểu”. Các tộc biểu lại họp đại hội và cử ra hai người là chánh
hương hội và phó hương hội. Hầu hết các hương ước đều quy định chỉ những
nam giới tuổi từ 25 trở lên, có học vấn, không can án, có gia sản mới được
làm tộc biểu, mỗi hạn là 3 năm, có nơi 6 năm. Nghiên cứu nội dung hoạt động
của hội đồng tộc biểu có thể nói đây chính là “nghị viện” của làng. Trong các
cuộc họp của hội đồng tộc biểu còn có đại biểu các Giáp, hương trưởng các
thôn. Hội đồng tộc biểu là cơ quan thông qua việc soạn thảo, ban hành, sửa
đổi, bổ sung hương ước, giám sát việc thi hành hương ước. Hội đồng tộc biểu
là cơ quan bàn bạc và quyết định mọi công việc như: Quân cấp điền thổ của
làng, tổ chức và tiến hành việc đấu giá bán hoặc cho thuê tài sản của làng
(thuê đất ruộng, ao, hồ của làng). Phân bổ sưu thuế và chọn người làm nghĩa
vụ binh dịch. Hòa giải các vụ tranh chấp xảy ra trong làng xã. Chánh phó
hương hội là người thay mặt dân làng khi có việc tiếp xúc với chính quyền
Phủ, huyện hoặc các làng xã khác…
Hội đồng trị sự (hay hội đồng kỳ biểu) giống như một cơ quan hành
pháp hay “chính phủ” của làng. Vì mang tính chất như là cơ quan hành pháp,
chấp hành ý chí tối cao của dân làng là hội đồng tộc biểu, nên nó bao gồm
nhiều chức vụ:
Lý trưởng và phó lý là những người được hội đồng tộc biểu bầu chọn.
Họ là những người có học vấn, có tài sản, không can án. Bầu lý và phó lý
20
trưởng thì phải chọn những người cẩn cán lại biết chữ ở trong hạng đinh nội
tịch của làng 6 năm là một khóa. Lý trưởng, phó lý là những người chịu trách
nhiệm cao nhất về mặt hành pháp của làng. Họ thực hiện mọi nhiệm vụ của
chính quyền cấp trên giao về xã, thực hiện thu thuế và giữ gìn an ninh trật tự,
nghĩa vụ binh dịch… Trong mọi việc, lý trưởng và phó lý không được tự
mình quyết định. Thư ký là người có học vấn, có nhiệm vụ giữ gìn sổ sách,
ghi chép biên bản các cuộc họp hội đồng tộc biểu. Có hương ước quy định là
thư ký có thể kiêm nhiệm chức vụ của hộ lại hoặc chưởng bạ.
Thủ quỹ, có nơi gọi là hương bản, phải là người giàu có trong làng,
được bầu làm người giữ tiền công và xuất tiền quỹ cho việc chi tiêu của làng.
Chưởng bạ là người giữ sổ sách địa bạ, địa chính và đăng ký theo dõi
những thay đổi về điều sản trong làng.
Hộ lại, có nơi gọi là hương bộ, là người giữ sổ sách và đăng ký các việc
sinh tử, giá thú trong làng. Hộ tịch và dân số của làng do hộ lại theo dõi. Thời
vua Lê Thánh Tông, việc đăng ký hộ tịch, kê khai nhân khẩu trong toàn quốc
được làm rất chặt chẽ theo những quy định của vua từ năm 1470. Việc nắm vững
dân số trong một xã có liên quan chặt chẽ đến việc nắm vững dân số của một
quốc gia. Vì vậy vai trò của hộ lại trong các hương ước cổ rất được coi trọng.
Trương tuần, có nơi gọi là Khán thủ hay hương kiểm, là người chỉ huy
các tuần phiên, canh phòng bảo vệ an toàn, an ninh làng xã. Các hương ước
quy định việc chọn người làm Trương tuần phải là người mạnh bạo, thực thà,
có gia sản, mới giao việc. Ngay trong việc cắt cử tuần phiên thì những tráng
đinh nào có mang tiếng xấu sẽ không cho đi tuần.
Thủ lộ là người coi đường xá, đê điều thuộc địa giới của làng, nếu hư
hỏng báo với hội đồng tộc biểu xin chỉ thị để tổ chức cho dân tu bổ, mở
mang thêm.
Cai vạn là chức dịch bầu ra ở những làng có sông nước thuyền bè qua
lại. Cai vạn thì trông nom các thuyền bè của những người trong làng và sửa
21
sang các bến bãi. Những thuyền chở đánh số hiệu và thu tiền nộp vào công
quỹ. Những thuyền nào mục nát thì cấm không được chở nữa.
Bên cạnh việc định ra các chức danh vừa nêu của bộ máy quản lý làng
xã, các hương ước còn có mục “Quân kỷ”, là những điều quy định về kỷ luật
của bộ máy quản lý làng xã mà ngày nay khoa học pháp lý gọi là “quy chế
công vụ”. Nội dung quân kỷ bao gồm các điều quy định về tiêu chuẩn bầu
chọn người, đạo đức tác phong làm việc, khen thưởng và kỷ luật đối với
những người được bầu chọn ra làm việc cho làng
Trong quá trình phong kiến hóa công xã nông thôn, nhất là từ thế kỷ
XV trở đi “phép vua” ngày càng can thiệp và áp đặt vào đời sống cộng đồng
của làng xã, từ đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa “phép vua” với “lệ làng”. Xu
thế chung là “phép vua” ngày càng thắng thế và chi phối, nhưng không thể
xóa bỏ được “lệ làng”, và “lệ làng” tỏ ra rất bướng bỉnh, nhiều khi “phép vua”
thua “lệ làng”.
Tư tưởng dân chủ công xã có mặt tích cực của nó trong đời sống xã hội
lúc bấy giờ, nhưng cũng gắn liền với tính cục bộ, địa phương của công xã và
những hẹp hòi của các hình thức dân chủ công xã. Công xã chỉ thừa nhận
quyền bình đẳng và dân chủ giữa các thành viên khi họ là thành viên của công
xã, là bộ phận tạo thành của cộng đồng, nhưng hoàn toàn không công nhận
quyền của cá nhân của con người với tư cách là một thực thể độc lập. Dân chủ
công xã không dựa trên sự giải phóng con người và tôn trọng quyền của con
người mà trói chặt con người trong quan hệ cộng đồng và chỉ bảo đảm quyền
lợi bình đẳng của con người với tư cách là thành viên của cộng đồng.
Cho đến thế kỷ XV, nhất là trong thời Lý, Trần, chế độ quân chủ tập
quyền đã được xác lập vững vàng, nhưng chưa mang tính chất chuyên chế,
quan liêu nặng nề. Chế độ đó dựa trên nền tảng công xã nông thôn, phổ biến
và bền vững trên đường phong kiến hóa.