Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong hoạt động của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.58 KB, 89 trang )


Viện khoa học xã hội việt nam
Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học
xã hội và nhân văn

Viện triết học



Đặng Minh Tiến



Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong Hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp
ở nước ta hiện nay


Chuyên ngành : Triết học
Mã số : 60 22 80





Luận văn thạc sĩ Triết học













Hà Nội - 2005



1

MỤC LỤC

Mở đầu 3
Chương 1 9
Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan 9
trong hoạt động của doanh nghiệp 9
1.1. Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan 9
1.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan 9
1.1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan 20
1.2. Vai trò của nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong hoạt động của
doanh nghiệp 30
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước đối với sự
phát triển nền kinh tế quốc dân 30
1.2.2. Vai trò của nhân tố chủ quan đối với hoạt động doanh nghiệp 35
1.2.3. Vai trò của nhân tố khách quan đối với hoạt động doanh nghiệp 44
Chương 2 51

Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát huy 51
Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan 51
ở các doanh nghiệp nước ta hiện nay 51
2.1. Thực trạng việc phát huy nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan ở các doanh
nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay 51


2
2.1.1. Trước đổi mới ( 1986 ) 51
2.1.2. Sau đổi mới ( từ 1986 đến nay) 54
2.2. Một số nhóm giải pháp nhằm phát huy nhân tố chủ quan và nhân tố khách
quan trong các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay 69
2.2.1. Nhóm giải pháp nhằm phát huy nhân tố khách quan 69
2.2.2. Nhóm giải pháp phát huy nhân tố chủ quan 75
Kết luận 87


















3
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết, doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế. Nó hoạt
động và vận hành trong cơ chế thị trường. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng
phải tự đề ra cho mình một hệ thống các mục tiêu như: lợi nhuận, phát triển, an
toàn, kéo dài tuổi thọ, bảo đảm và không ngừng nâng cao thu nhập cho các thành
viên, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thiên nhiên… Mục tiêu cao nhất mà các doanh nghiệp hướng tới là tối đa hóa lợi
nhuận và phát huy thế mọi thế mạnh về nguồn lực con người để duy trì tối đa lợi
nhuận lâu dài đó. Một doanh nghiệp, để tiến hành kinh doanh có hiệu quả, phải
biết tận dụng triệt để các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan nhằm tối đa
hóa lợi nhuận và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất.
Thực tế đã chứng minh rằng, ở Việt Nam, trong những năm đổi mới trở lại
đây, sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước phụ thuộc rất lớn vào sự
phát triển lớn mạnh của các doanh nghiệp. Nếu như nền kinh tế quốc dân được
coi như một bức tranh tổng thể, thì các doanh nghiệp được xem như là các bộ phận
hữu cơ, các chi tiết cấu thành nên bức tranh tổng thể đó.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ta không thể đứng ngoài quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế đang diễn ra trên khắp toàn cầu. Hội nhập kinh tế
quốc tế, một mặt, tạo ra những cơ hội thuận lợi để các doanh nghiệp nước ta mở
rộng quan hệ, tiếp cận những phương thức quản lý tiên tiến, tiếp thu khoa học -
công nghệ mới của thế giới; mặt khác, buộc các doanh nghiệp phải đương đầu với
nhiều cạnh tranh và thách thức không nhỏ. Quá trình hội nhập cũng sẽ là đòn bẩy
để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải tiến hành đổi mới, xóa bỏ tính trông
chờ, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, tạo động lực sản xuất trong nước phát triển. Vì vậy, vai trò của doanh

nghiệp trong sự phát triển kinh tế nói riêng, của đất nước nói chung là không thể
phủ nhận.


4
Vậy thì, làm thế nào để doanh nghiệp ngày càng trở lên vững mạnh và phát
triển bền vững trong quá trình toàn cầu hoá, cũng như góp phần vào công cuộc
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay? Điều này trước hết phụ thuộc
rất lớn vào chính bản thân các doanh nghiệp trong việc phát huy nhân tố chủ quan
và nhân tố khách quan đem lại. Mặt khác, nó còn phụ thuộc vào chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế - thương mại khu
vực và quốc tế. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… Điều này được
khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đại hội đánh dấu
quá trình đổi mới kinh tế đất nước từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nói cách khác, việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã trở thành chủ trương lớn trong đường lối, sách lược phát triển đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng
ta khẳng định: “ Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương phát triển mạnh các
thành phần kinh tế: xoá bỏ phân biệt đối xử; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh
bình đẳng minh bạch, ổn định chính sách, thông thoáng và thuận lợi hơn, bảo đảm
quyền của mọi người dân được tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà
pháp luật không cấm “ 15, tr.81*
Có thể nói, việc nhận thức và đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan và mối quan hệ giữa chúng, nhằm khai thác tác
động tích cực của nhân tố khách quan; đồng thời, phát huy tính chủ động, năng

động sáng tạo của nhân tố chủ quan trong hoạt động kinh doanh ở các doanh
nghiệp nước ta hiện nay sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển ổn định, lâu dài

* Từ đây: - Số đầu chỉ nguồn tài liệu.
- Số giữa chỉ tập trong tài liệu trích dẫn (nếu có).


5
- Số cuối chỉ trang trong tài liệu trích dẫn.
của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung.
Với lý do như trên, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: “Nhân tố chủ quan và
nhân tố khách quan trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở nước ta
hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan cũng như vai trò của chúng
trong hoạt động của con người không đựơc các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin
bàn và viết trong những tác phẩm, bài viết riêng. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm
thấy những luận giải và chỉ dẫn hết sức quan trọng về vấn đề này trong các tác
phẩm kinh điển mà Mác, Ăngghen và Lênin để lại. Những tư tưởng đó của các
ông đã được các học giả Liên Xô (trước đây) tiếp tục kế thừa, nghiên cứu và phát
triển trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của Đảng
Cộng sản, Nhà nước XôViết và nhân dân lao động trong thập niên 70 của thế kỷ
XX. Có thể kể đến nhiều bài viết và tác phẩm quan trọng như: “Cái khách quan và
cái chủ quan ” cuả V.Ph.Cudơmin, Mátxcơva, 1975; “Biện chứng của cái khách
quan và cái chủ quan trong sự biểu hiện của các quy luật xã hội ” của
A.Ph.Iaxkevích, Minxcơ, 1982; “Cái chủ quan và cái khách quan trong các quá trình
xã hội” của B.A.Vôrônôvích, Tạp chí khoa học Triết học, số 03/1984; “Phép biện
chứng duy vật - phương pháp luận của các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và
khoa học kỹ thuật ” của I.u.K.Pletnhicốp, Mátxcơva, 1983…
Các công trình nghiên cứu được nêu trên đã xem xét những nội dung cơ bản

của các khái niệm “chủ thể ”, “khách thể ” , “chủ quan” , “khách quan” , “nhân tố
chủ quan” , “nhân tố khách quan”. Tuy nhiên, về nội dung của các khái niệm này,
đặc biệt là các khái niệm “nhân tố chủ quan” , “nhân tố khách quan” cũng có nhiều
ý kiến chưa thống nhất hoàn toàn.
Ở Việt Nam, vấn đề nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan tuy cũng được
nghiên cứu và đề cập tới trên cả bình diện lý luận và thực tiễn nhưng chưa nhiều.
Vào những năm trước đổi mới, khi nói đến bệnh chủ quan duy ý chí thì vấn đề


6
nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan được bàn đến nhiều ở nước ta. Sau này
trên các sách báo và tạp chí lý luận cũng đã có nhiều bài viết đề cập đến việc phát
huy nhân tố chủ quan. Nghiên cứu về vấn đề này có thể kể đến một số công trình
sau: “ Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn tác dụng năng động của nhân tố chủ
quan ” của Lê Hữu Tầng, trong cuốn “ Đại hội V, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1984; “ Nhân tố chủ quan trong cơ chế vận dụng
và trong hoạt động của các quy luật xã hội ” của Lương Việt Hải, Tạp chí Triết
học, số 04/1986; “ Những yếu tố cơ bản tăng cường chất lượng của nhân tố chủ
quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ” của Trần Bảo, Tạp chí Triết học, số
03/1991; “ Vị trí, vai trò của nhân tố chủ quan trong cơ chế tác động của quy luật
xã hội ” của Phạm Văn Đức, Tạp chí Triết học, số 03/1989; “ Về nhân tố chủ
quan và nhân tố khách quan: một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay
”, Luận án tiến sỹ triết học của Phạm Ngọc Minh.
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã xem xét rất nhiều khía cạnh và nội dung
khác nhau của mối quan hệ giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan; giữa tác
động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan… Tuy vậy, trong các công
trình nghiên cứu đó cũng có nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Tóm lại, việc nghiên cứu nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan các tác
giả chỉ dừng lại ở bình diện nghiên cứu lý luận chung mà chưa nghiên cứu một
cách có hệ thống trên tất cả các lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội. Vì

vậy, việc nghiên cứu nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong hoạt động
doanh nghiệp ở nước ta hiện nay mang một ý nghĩa thiết thực; qua đó, góp phần
vào việc tìm ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao, phát huy vai trò của nhân tố
chủ quan trong mối quan hệ với nhân tố khách quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu mối quan hệ biện
chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


7
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề có liên
quan tới việc phát huy nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong loại hình
doanh nghiệp Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Làm rõ vị trí, vai trò của nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ta. Trên
cơ sở đó, góp phần xác định, luận chứng một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
đặc biệt là việc phát huy nhân tố con người trong doanh nghiệp Nhà nước ở nước
ta hiện nay.
Để đạt mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ như sau :
1) Phân tích, làm rõ nội dung khái niệm nhân tố chủ quan, nhân tố khách quan
và mối quan hệ biện chứng giữa chúng trong hoạt động của con người nhằm phát triển
xã hội.
2) Phân tích, làm rõ khái niệm doanh nghiệp và vai trò của nhân tố chủ quan
và nhân tố khách quan trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
3) Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan ở các doanh nghiệp, trong đó tập trung vào việc phát huy nhân tố chủ

quan ở các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đó là sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc
biệt là các quan điểm về tồn tại xã hội và ý thức xã hội; chủ thể và khách thể; nhân
tố chủ quan và nhân tố khách quan; kết hợp với các quan điểm, lý luận, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về mối quan hệ biện chứng giữa
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nước để phân tích vai trò của nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan trong hoạt động doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay.


8
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp lôgíc; đồng thời, kết hợp với phương pháp của một số môn khoa học
khác như kinh tế học, khoa học quản lý ; qua đó, tạo ra cách tiếp cận tổng hợp để
nghiên cứu các hiện tượng xã hội cụ thể nhằm phân tích, làm rõ các nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở
nước ta hiện nay. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác, như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, hệ thống hoá và khái quát hoá…
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần:
Một là, xác định vai trò của nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan trong
hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước đối với sự phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hai là, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan ở các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đường lối đổi mới và xây
dựng, phát triển kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện
nay, đặc biệt là việc chú trọng và phát huy nhân tố con người trong hoạt động của

doanh nghiệp Nhà nước.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo học tập và giảng dạy phục vụ
cho nghiên cứu về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, đồng thời góp phần
khai thác, phát huy nhân tố con người trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà
nước ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 4 tiết.


9
Chương 1
Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan
trong hoạt động của doanh nghiệp

1.1. Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan
1.1.1. Khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan
Trong giới nghiên cứu mácxít hiện nay, khi đề cập tới cơ sở lý luận của các
khái niệm “nhân tố chủ quan” và “nhân tố khách quan”, thường có nhiều ý kiến
khác nhau. Nhưng tựu trung lại, có hai khuynh hướng cơ bản sau đây:
Khuynh hướng thứ nhất coi mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội là cơ sở lý luận cho các khái niệm trên.
Khuynh hướng thứ hai xuất phát từ chính trong hoạt động thực tiễn của con
người, coi đó là cơ sở lý luận khi xem xét các khái niệm này.
Nhìn chung, cả hai khuynh hướng trên đều có những yếu tố hợp lý của nó.
Đa số các học giả cho rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội và tư tưởng về phép biện chứng duy vật… là cơ sở phương pháp luận trực tiếp
để xem xét và nghiên cứu các khái niệm trên.
Để có thể nhận thức đúng đắn và nắm vững các khái niệm nhân tố chủ quan,

nhân tố khách quan, bao giờ cũng phải gắn với các hoạt động nói chung của con người
không chỉ ở trong hoạt động nhận thức mà ngay cả trong hoạt động thực tiễn nữa.
Cặp khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan có liên quan đến một loạt
các cặp phạm trù khác, như: chủ thể - khách thể, khách quan - chủ quan…Vì vậy, để có
thể hiểu rõ khái niệm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, chúng ta cần phải làm rõ
các phạm trù chủ thể và khách thể, khách quan và chủ quan cũng như mối quan hệ giữa
các phạm trù này.


10
Chủ thể - đó là con người nhận thức và cải tạo thế giới xung quanh cũng như
chính bản thân mình. Nhìn chung, tuyệt đại đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất với
nhau về nội dung này của khái niệm chủ thể. Chỉ có sự tác động vào thế giới xung quanh
( cả giới tự nhiên và đời sống xã hội ), chỉ có thông qua hoạt động cụ thể của con người,
con người mới bộc lộ mình với tư cách là chủ thể. Mặt khác, tuỳ thuộc vào các cấp độ
xem xét mà chủ thể có thể là loài người, có thể là một giai cấp, một dân tộc, một nhóm
người hay một cá nhân nào đó…
Con người ở đây với tư cách là chủ thể, là một thực thể xã hội có quan hệ với thế
giới xung quanh. Nói cách khác, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là
chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Hoạt động của con người nhằm thể hiện sức mạnh bản
chất của nó thông qua việc nắm và sử dụng được các công cụ, phương tiện của họat
động nhận thức và hoạt động thực tiễn mà các thế hệ trước để lại.
Chủ thể không phải là con người chung chung, trừu tượng, mà là con người cụ
thể gắn liền với những điều kiện xã hội, với kinh nghiệm và trình độ học vấn nhất định.
Khách thể - đó là đối tượng của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của
chủ thể. Đó là những sự vật, hiện tượng hay các quá trình cụ thể của thế giới hiện thực
tồn tại ở bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể và có tác động qua lại với
chủ thể. Khách thể không phải là toàn bộ thế giới hiện thực, mà chỉ là một bộ phận nhất
định của hịên thực, đã và đang tác động qua lại với chủ thể, tham gia vào mối quan hệ
với chủ thể, được đưa vào hoạt động của chủ thể. Khách thể, một mặt, được hiểu là một

bộ phận vật chất được tham gia vào hoạt động của con người; mặt khác, nó còn bao gồm
thực tại chủ quan ( quan hệ ý thức, tư tưởng…) không phụ thuộc các chủ thể, và một bộ
phận sản phẩm của họat động trước đó của chủ thể cũng tham gia và trở thành khách thể.
Khách thể luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Mỗi giai đoạn
phát triển của xã hội lại đưa thêm những khách thể mới vào trong cả hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát về khái niệm chủ thể và khách
thể như sau: khách thể là tất cả những gì chủ thể tác động vào nó; chủ thể là con người


11
với những cấp độ tồn tại khác nhau của nó, đang thực hiện hoạt động nhằm tác động
vào khách thể.
Giữa khách thể và chủ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng chỉ tồn tại
với tư cách là chủ thể và khách thể khi làm tiền đề của nhau. Khách thể tồn tại không
phụ thuộc vào chủ thể; tuy vậy, khách thể không phải là mặt đối lập hoàn toàn với chủ
thể, mà chủ thể luôn luôn tích cực hoạt động cải tạo khách thể. Mặt khác, hoạt động tích
cực của chủ thể là điều kiện khiến cho bộ phận này hay bộ phận khác của hiện thực trở
thành khách thể của chủ thể. Do vậy, theo một nghĩa nhất định, khách thể là cái mà tự nó
không thể có được, mà chỉ là kết quả sáng tạo của chủ thể.
Những quan niệm như trên về cặp phạm trù khách thể và chủ thể là cở sở để
xem xét cặp phạm trù khách quan và chủ quan. Triết học mácxít đã giải quyết mối
quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong phạm vi hoạt động của con người,
xem xét nó thông qua mối liên hệ qua lại giữa chủ thể và khách thể. Sự phân tích
cặp phạm trù khách thể và chủ thể được coi là xuất phát điểm cho sự phân tích cặp
phạm trù khách quan và chủ quan.
Các phạm trù khách quan và chủ quan đều gắn liền với đặc trưng của chủ thể và
khách thể, cũng như những liên hệ qua lại giữa chúng. Khách quan và chủ quan được thể
hiện như những đặc trưng của hoạt động của con người. Chủ thể và khách thể, chủ quan
và khách quan chỉ xuất hiện khi xem xét trong mối quan hệ với hoạt động của con

người.
Khách quan là tất cả những gì tồn tại bên ngoài ý thức của chủ thể, không phụ
thuộc vào chủ thể, được tham gia vào hoạt động của chủ thể. Hay nói cách khác, khách
quan là tất cả những gì tồn tại ngoài chủ thể, độc lập với ý thức của chủ thể mà chủ thể
phải tính đến hay phải sử dụng vào hoạt động của mình. Trong quá trình tác động của
chủ thể vào khách thể, những phẩm chất của chủ thể được khách thể hoá. Do đó, khách
quan bao giờ cũng thuộc về khách thể ( ví dụ yếu tố tự nhiên trong xã hội ), cũng như cái
mà nó đóng vai trò là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể ( ví dụ
những sản phẩm của sản xuất vật chất ).


12
Chủ quan là tất cả những gì phụ thuộc vào năng lực và ý chí của chủ thể. Hay nói
cách khác: Chủ quan là tất cả những gì phụ thuộc vào chủ thể, hoặc được chủ thể sử
dụng như một bộ phận hữu cơ của chủ thể để tác động vào khách thể.
Để có thể phân biệt được chủ quan và khách quan, người ta có thể dựa vào các
đặc điểm của chúng. Đặc điểm của chủ quan là tính chất thuộc về chủ thể và sự lệ thuộc
vào nó; còn đặc điểm của khách quan không chỉ là sự tồn tại ngoài chủ thể, mà còn có
tính độc lập với chủ thể.
Theo cách định nghĩa trên thì những cái thuộc về khách quan trước hết là
điều kiện địa lý, phương thức sản xuất ra của cải vật chất, các quy luật của tự
nhiên và các quy luật của xã hội. Tất cả những điều kiện này đều tham gia vào
hoạt động của con người, là mặt cần thiết, tất yếu trong hoạt động của con người.
Thuộc về chủ quan là mục đích, động cơ bên trong thôi thúc hoạt động của chủ
thể. Chủ quan và khách quan có mối quan hệ chặt chẽ gắn bó mật thiết với nhau.
Nguồn gốc của chủ quan nằm ngay ở trong khách quan và chủ quan được quy định
và được thúc đẩy bởi khách quan. Như vậy, khách quan và chủ quan thống nhất
một cách biện chứng trong hoạt động của con người, nhưng đó là sự thống nhất
của các mặt đối lập. Vì vậy, giữa chúng có sự khác nhau và có giới hạn nhất định.
Dưới góc độ triết học, giữa cặp phạm trù khách quan - chủ quan và cặp phạm trù

vật chất - ý thức có sự khác biệt tương đối. Cặp phạm trù khách quan - chủ quan được
phát sinh từ cặp khái niệm khách thể - chủ thể; còn cặp phạm trù vật chất - ý thức lại
phản ánh hai hiện tượng chung nhất của thế giới, bởi vậy không thể đồng nhất tuyệt đối
vật chất với khách quan, ý thức với chủ quan hay tồn tại xã hội là khách quan và ý thức
xã hội là chủ quan. Ý thức là cái chủ quan so với vật chất, với tồn tại xã hội, nhưng nếu
xét một trạng thái ý thức như một thực tế xã hội cần cải tạo bởi một chủ thể (tập đoàn,
giai cấp, chính đảng…) nào đó thì nó trở thành cái khách quan so với chủ thể cải tạo nó.
Mặt khác, phạm trù chủ quan không chỉ bao hàm những hiện tượng ý thức, mà còn bao
hàm cả hành động, tổ chức của chủ thể cải tạo.
Như vậy, khi vận dụng vào những sự việc cụ thể, những quan hệ cụ thể thì cái
khách quan và cái chủ quan chỉ là tương đối. Cái khách quan không chỉ là những hiện


13
tượng vật chất và cái chủ quan không chỉ là những hiện tượng ý thức. Khi gắn với chủ
thể nhận thức và hành động thì tuỳ cấp độ khác nhau của chủ thể mà cấp độ khách quan
và chủ quan cũng khác nhau.
Việc thừa nhận tính tương đối của sự phân biệt giữa khách quan và chủ quan
không được mở rộng đến mức xoá nhoà ranh giới thế giới quan giữa chúng. Tính chất
tương đối này không được che mờ ý nghĩa tuyệt đối của tính đối lập giữa khách quan và
chủ quan trong phạm vi vấn đề cơ bản của triết học. Tính tuyệt đối ấy thể hiện ở chỗ,
khách quan luôn là tính thứ nhất và chủ quan bao giờ cũng là tính thứ hai.
Phạm trù khách quan bao hàm các mặt chủ yếu như: điều kiện khách quan,
quy luật khách quan và khả năng khách quan. Sự phân chia các mặt như vậy chỉ
mang tính tương đối, vì mặt này thâm nhập vào mặt kia, thậm chí bao hàm cả mặt
kia. Tuy nhiên, việc xác định giới hạn của từng mặt ở đây có nhiều ý nghĩa cụ thể:
hoạt động của con người bao giờ cũng phải nắm các quy luật khách quan trong
một hoàn cảnh cụ thể để phát hiện các khả năng khách quan, đấu tranh ngăn chặn
các khả năng có hại và khai thác những khả năng có ích, chuyển nó thành hiện
thực cần thiết cho con người.

Phạm trù chủ quan bao hàm các mặt chủ yếu là tri thức, tình cảm và ý chí và tổ
chức hành động.
Cặp phạm trù khách quan và chủ quan được cụ thể hoá bởi các cặp khái
niệm nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Hiện nay, đang có những ý kiến
khác nhau khi sử dụng các cặp khái niệm nhân tố khách quan - nhân tố chủ quan,
điều kiện khách quan - nhân tố chủ quan. Một số ý kiến cho rằng, đồng nhất khái
niệm điều kiện khách quan và nhân tố khách quan là ngăn trở nhận thức cấu trúc
của các quá trình xã hội, vì như thế đã đặt dấu bằng giữa những hoàn cảnh phản
ánh tính quyết định hoạt động của con người và những nhân tố khách quan mà nó
thể hiện trong đó với tính cách là thực tiễn; hoặc điều kiện khách quan chỉ trở
thành nhân tố khách quan trong quá trình tác động qua lại giữa chủ thể và khách
thể bằng cách đóng vai trò những đặc trưng căn bản của chúng [Xem 33, tr.20].
Thực ra, sự phân biệt giữa “điều kiện” và “nhân tố” ở đây chỉ là tương đối. Trong


14
mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của hoạt động, chúng đều được hiểu theo
một nghĩa giống nhau - đó là những hoàn cảnh quy định hoạt động của con người.
Vì vậy, việc sử dụng khái niệm “điều kiện khách quan” ngang bằng với khái niệm
“nhân tố khách quan” và đặt nó trong sự đối lập biện chứng với khái niệm “nhân tố
chủ quan” đều có sự hợp lý nhất định. Dựa trên cơ sở như vậy, chúng ta có thể làm
rõ các khái niệm “nhân tố khách quan” và “nhân tố chủ quan” với tư cách là các
phạm trù triết học - xã hội học.
- Nhân tố khách quan:
Xuất phát từ sự phân tích mối quan hệ chủ thể - khách thể để luận giải các
khái niệm “nhân tố khách quan” và “nhân tố chủ quan”, chúng ta có thể đưa ra
định nghĩa nhân tố khách quan như sau: Nhân tố khách quan là tất cả những gì tồn
tại bên ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể và tham gia
trực tiếp vào hoạt động của chủ thể.
Thuộc về nhân tố khách quan, trước hết bao gồm: các hiện tượng, điều kiện,

đối tượng vật chất tồn tại một cách khách quan trong hoạt động của con người; các
hiện tượng tinh thần tồn tại với tư cách là cái con người phải tính đến trong hoạt
động của mình.
Không chỉ những điều kiện vật chất mà ngay cả các hiện tượng tinh thần
cũng tham gia cấu thành nhân tố khách quan. Tuy nhiên, nếu như các điều kiện vật
chất bao giờ cũng là điều kiện khách quan đối với ý thức, thì các nhân tố khách
quan được xác định cụ thể với chủ thể lại không phải chỉ là những điều kiện vật
chất, mà còn gồm cả những điều kiện, những hiện tượng tinh thần cùng với những
điều kiện vật chất tạo nên một hoàn cảnh hiện thực tác động và quy định những
hoạt động của chủ thể.
Hơn thế nữa, khi nói về khách thể với tư cách là những điều kiện, những
hiện tượng tinh thần, ý thức thì nhân tố khách quan dù có được xem xét và giải
quyết trên mọi bình diện nào trên nữa, cũng chỉ có thể được vạch ra thông qua sự
phân tích đặc trưng về chất của những khách thể lịch sử. Khách thể đó phải là
những hiện tượng tinh thần, tồn tại với tư cách là đối tượng mà chủ thể tác động


15
tới; chúng tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí, ý muốn của chủ thể
đang tác động và đóng vai trò là nhân tố khách quan.
Theo nghĩa đó, trong nhân tố khách quan còn có cả những điều kiện, những
hiện tượng tinh thần, như trình độ đã có được của sự phát triển khoa học, nghệ
thuật, văn hoá tinh thần; những dấu ấn của tư tưởng, tâm lý, truyền thống tập quán
của thế hệ trước. Tính khách quan của những hiện tượng tinh thần trên không thể
chỉ hiểu như tính khách quan của vật chất đối với ý thức, mà phải được hiểu nó là
khách quan đối với chủ thể cụ thể.
Để lý giải vấn đề này, chúng ta có thể đưa ra một ví dụ thực tế: Chúng ta
đang tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ thể hoạt động là con người, dân tộc
Việt Nam. Trong đời sống xã hội, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn tồn tại một số
hạn chế nhất định, ví dụ những phong tục, tập quán lạc hậu, những chuẩn mực đạo

đức cũ… Những hiện tượng tinh thần cũ, lạc hậu này đang là một lực cản ngăn trở
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta, chúng đang tồn tại thực tế
ngoài ý muốn của chúng ta. Để cải tạo chúng, phải có một quá trình lâu dài và
phức tạp. Như vậy, những hiện tượng tinh thần cũng có thể đóng vai trò là những
nhân tố khách quan trong chừng mực chúng độc lập với chủ thể hoạt động nhất
định và tác động đến hoạt động của chủ thể đó. Ở đây cũng không loại trừ ý thức
riêng của từng người trong chừng mực ý thức đó đóng vai trò khách thể.
Như vậy, nhân tố khách quan luôn mang tính cụ thể, là điều kiện cho tất cả
những gì tồn tại bên ngoài chủ thể, không phụ thuộc vào ý thức chủ thể, là hoạt
động cụ thể của chủ thể. Vai trò quan trọng, quyết định của nhân tố khách quan
thể hiện ở chỗ, con người trong hoạt động của mình, khi đề ra những mục đích của
mình phải lấy điều kiện khách quan, những quy luật khách quan làm cơ sở; nếu
không sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí. Hơn thế nữa, khi đã có những mục đích
đúng đắn, con người phải sử dụng những lực lượng vật chất khách quan, những
biện pháp phù hợp với hiện thực khách quan thì hoạt động mới thành công.
Trên cơ sở xác định rõ mức độ tác động của nhân tố khách quan, chủ thể
hoạt động có thể quyết định tiến hành hoạt động như thế nào để đạt được kết quả


16
cao nhất, để tránh khỏi những sai lầm, và trên cơ sở đó phát huy cao nhất sức
mạnh của nhân tố chủ quan.
- Nhân tố chủ quan:
Về khái niệm nhân tố chủ quan, đã có rất nhiều quan điểm với những nội
dung và mức độ khái quát khác nhau. Sự khác nhau trong những quan điểm về
nhân tố chủ quan nói lên tính phức tạp của khái niệm này, đòi hỏi phải có sự tiếp
tục nghiên cứu.
Có ý kiến cho rằng, nhân tố chủ quan đồng nhất với hoạt động có ý thức của
con người nói chung. “Nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội là hoạt động có ý
thức của những con người, những giai cấp, những chính Đảng sáng tạo ra lịch sử”

[Xem 33, tr.18]. Một định nghĩa về nhân tố chủ quan như vậy không cho phép làm rõ
đặc trưng của nhân tố chủ quan, bởi vì hoạt động có ý thức của con người không chỉ
bị chi phối bởi nhân tố khách quan, mà còn chịu tác động của nhân tố chủ quan. Chỉ
có thể hiểu một cách đúng đắn nhân tố chủ quan của hoạt động trong mối liên hệ với
nhân tố khách quan của nó. Quan niệm này không vận dụng phạm trù “những nhân tố
khách quan của hoạt động” mà xét hoạt động có ý thức như là nhân tố chủ quan
tương ứng với các hoàn cảnh khách quan trong đó hoạt động diễn ra.
Có quan điểm lại đồng nhất nhân tố chủ quan với ý thức, tư tưởng, với ý
thức xã hội [Xem 33, tr.19]. Mặt khác, nhân tố vừa là nguyên nhân, vừa là điều
kiện, vì vậy, nhân tố chủ quan phải là nguyên nhân và điều kiện xuyên suốt. Nếu
hiểu nhân tố chủ quan như vậy thì không thể đồng nhất hoàn toàn nhân tố chủ
quan với ý thức, tư tưởng. Mặc dù ý thức, tư tưởng dưới các hình thức khác nhau
thực sự là một bộ phận tất yếu, quan trọng của nhân tố chủ quan, nhưng ý thức, tư
tưởng - tự bản thân nó nếu thiếu hoạt động của con người, sẽ không trở thành
nguyên nhân làm thay đổi đời sống xã hội. Để thay đổi thế giới cần có hoạt động tích
cực, trong đó có những khả năng vật chất và tinh thần, những chất lượng, thuộc tính
của chủ thể tác động trở thành lực lượng cải biến, kiểm tra và điều chỉnh quá trình
hoạt động.


17
Như vậy, nếu chỉ thấy nhân tố chủ quan là ý thức, tư tưởng thì cùng lắm
cũng chỉ thấy được nhân tố chủ quan trong việc “ giải thích thế giới ”. Hơn thế
nữa, một quan niệm về nhân tố chủ quan như trên thì phạm trù nhân tố chủ quan
cũng giống phạm trù ý thức và bàn đến nó trong quan hệ với phạm trù vật chất mà
không phải với “những điều kịên khách quan”. Quan điểm này mới chỉ nêu được
mặt ý thức của nhân tố chủ quan trong đời sống xã hội. Sự phát triển của đời sống
xã hội chính là quá trình hoạt động của chủ thể xã hội, của nhân tố chủ quan trong
những hoàn cảnh lịch sử khách quan, là quá trình vận động biện chứng của nhân tố
chủ quan và nhân tố khách quan.

Có quan điểm coi nhân tố chủ quan bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, cả lĩnh vực vật chất và lĩnh vực tinh thần [Xem 33, tr.20]. Trong nhân
tố chủ quan nổi lên hai mặt rõ rệt: một mặt, là những hiện tượng thuộc lĩnh vực tác
động qua lại có tính vật chất của con người và tự nhiên; một mặt, là lĩnh vực đời
sống tinh thần. Do đó, cần phải tiếp cận nhân tố chủ quan với tính cách là sự thống
nhất biện chứng giữa vật chất và tinh thần, trong đó vật chất là cái có trước, chủ
yếu, quyết định và sinh ra tinh thần. Nếu coi nhân tố chủ quan gồm cả lĩnh vực vật
chất và lĩnh vực tinh thần như vậy thì có nghĩa là trong đời sống xã hội mọi cái
đều được bao quát bởi khái niệm này, và do đó, trên thực tế, đã không thừa nhận
các nhân tố chủ quan trong đời sống xã hội. Đây là cách giải thích quá mở rộng về
nhân tố chủ quan; vì vậy, mang lại rất ít giá trị về mặt phương pháp luận để phân
tích đời sống xã hội.
Nhận thức được hạn chế của các quan điểm trên, phần lớn các tác giả xác
định nhân tố chủ quan thông qua phạm trù hoạt động. Tuy vậy, giữa những người
có cùng quan điểm này cũng không có sự thống nhất về việc xếp hoạt động nào
vào nhân tố chủ quan.
Có ý kiến đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động tự giác của con người,
thậm chí chỉ thừa nhận hoạt động tự giác dựa trên ý thức khoa học; có ý kiến lại
đồng nhất nhân tố chủ quan với hoạt động của con người nói chung, hoạt động đó
bao gồm cảm mặt hoạt động tự phát lẫn hoạt động tự giác…[Xem 33, tr.18].


18
Việc xác định nhân tố chủ quan thông qua phạm trù hoạt động như trên có
những hạn chế nhất định. Quan niệm coi nhân tố chủ quan chỉ là hoạt động tự giác
có hạt nhân hợp lý là đặt hoạt động tự giác là yếu tố thực sự có ảnh hưởng mạnh
mẽ và sâu sắc hơn đến tiến trình phát triển lịch sử so với hoạt động tự phát. Song,
nó cũng có những điểm không hợp lý. Trong lịch sử, khái niệm hoạt động tự giác
thường được hiểu là một hoạt động không gắn liền với ý thức cá nhân, bởi tất cả
mọi người đều đặt ra cho mình những mục đích nhất định và theo nghĩa này, tất cả

mọi hoạt động đều có mục đích, gắn liền với ý thức xã hội khi con người được chỉ
đạo bằng những mục đích và những nhiệm vụ chung đối với một giai cấp, một xã
hội nhất định. Quan niệm như vậy về tính tự giác là hết sức quan trọng để phân
biệt với tính tự phát. Quy nhân tố chủ quan về hoạt động tự giác cũng có nghĩa là
chỉ thừa nhận nhân tố chủ quan gắn liền với hoạt động dựa trên tính tất yếu của
quy luật đã được nhận thức, và theo nghĩa đó thì nhân tố chủ quan chỉ xuất hiện ở
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Tuy nhiên, trên thực tế, nhân tố chủ
quan lại luôn luôn tồn tại ở mọi giai đoạn lịch sử. Xem xét nhân tố chủ quan
không phải là xem vấn đề sự có mặt hay vắng mặt của nó, mà là vấn đề sức mạnh
và chiều sâu của sự tác động vào sự phát triển xã hội. Quy nhân tố chủ quan chỉ
còn là hoạt động tự giác, thậm chí là hoạt động dựa trên ý thức khoa học là làm
nghèo nội dung của nhân tố chủ quan.
Như vậy, dừng lại ở quan niệm coi nhân tố chủ quan bao gồm cả hoạt động
tự phát là đúng đắn? Thật ra, quan niệm như vậy mới chỉ thấy tính chất hoạt động
nói chung, mà chưa xét hoạt động của chủ thể trong mối tương quan với khách
thể, và do đó, chưa đi vào thực chất của vấn đề nhân tố chủ quan. Mặt khác, nếu
hiểu nhân tố chủ quan là cả hoạt động tự phát lẫn hoạt động tự giác, chúng ta sẽ
thấy có những bất hợp lý nảy sinh. Chẳng hạn, chúng ta sẽ buộc phải đi đến thừa
nhận việc phát huy cả những hành động mù quáng, phá hoại khi chủ trương phát
huy vai trò nhân tố chủ quan và như vậy, sẽ đi đến những sai lầm nghiêm trọng
trong việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn.


19
Thực chất của vấn đề nhân tố chủ quan là toàn bộ hoạt động của chủ thể phụ
thuộc vào ý thức của chủ thể. Nhân tố chủ quan chỉ là những hoạt động tinh thần,
chính trị hay là cả những hoạt động vật chất và tổ chức? Nhân tố chủ quan chỉ là
những hoạt động nhận thức, hay là cả những hoạt động thực tiễn? Chỉ trên cơ sở
nhận thức rõ những vấn đề này mới thấy hết được vai trò của nhân tố chủ quan
trong cả tính chất tự phát lẫn tự giác của nó. Cần lưu ý rằng, toàn bộ hoạt động của

chủ thể phụ thuộc vào ý thức của chủ thể không phải với nghĩa là chủ thể muốn
làm gì tuỳ ý, bất chấp các điều kiện khách quan, mà với nghĩa là trong các điều
kiện khách quan cụ thể nào đó thì chủ thể cần phải làm gì và tiến hành những hoạt
động đó như thế nào để đạt được kết quả cao nhất. Do vậy, sự phụ thuộc vào ý
thức ở đây là việc chủ thể ý thức được về hành động của mình và những phương
thức mà mình sẽ tiến hành hoạt động. Loại trừ sức mạnh của ý thức ra khỏi nhân
tố chủ quan cũng sai lầm như ý kiến quy toàn bộ nhân tố chủ quan về sức mạnh
của ý thức. Hoạt động thực tiễn của con người là có tính khách quan, hoạt động
thực tiễn cùng với hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người. Cũng
chính vì chỉ coi hoạt động đích thực của con người là hoạt động lý luận, nên các
nhà triết học trước Mác đã chỉ “giải thích” thế giới mà không thể thấy vấn đề “cải
tạo” thế giới. Bởi vậy, hoạt động thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người,
của chủ thể và nhờ đó, con người sáng tạo nên lịch sử của mình. Việc khẳng định
hoạt động thực tiễn là nhân tố chủ quan càng khẳng định tính thống nhất biện
chứng trong hệ thống hoạt động của chủ thể. Nếu tách rời hoạt động thực tiễn khỏi
nhân tố chủ quan thì chính là đã tách rời, chia cắt hệ thống chủ thể, là sự siêu hình
hoá quá trình biện chứng của sự nhận thức chân lý, là sự tách rời giữa lý luận và
thực tiễn. Hoạt động thực tiễn không phải là cái khách quan, mà là phần cơ bản
nhất của nhân tố chủ quan, chịu sự tác động trực tiếp của những nhân tố khách
quan, và chính vì thế, nó là cơ sở hiện thực để chủ thể ngày càng hoàn thiện quá
trình nhận thức của mình.
Qua sự phân tích nêu trên, có thể sơ bộ đi đến kết luận rằng, nếu xác định
nhân tố chủ quan thông qua phạm trù hoạt động thì có thể định nghĩa nhân tố chủ


20
quan như sau: Nhân tố chủ quan là toàn bộ hoạt động của chủ thể, từ hoạt động
nhận thức đến hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện những mục đích của mình trong
những điều kiện khách quan. Nói cách khác, nhân tố chủ quan trong đời sống xã
hội là toàn bộ hoạt động của chủ thể nhằm thực hiện mục đích của mình.

Cách định nghĩa như vậy về nhân tố chủ quan là khoa học, nhưng chưa đầy
đủ, bởi vấn đề nhân tố chủ quan trong lịch sử dù tiếp cận việc giải quyết nó về mặt
nào và ở bình dịên nào cũng chỉ có thể được vạch ra thông qua sự phân tích đặc
trưng về chất của chủ thể. Đó là những thuộc tính, những phẩm chất, những trạng
thái của chủ thể biểu hiện trong hoạt động. Nhân tố chủ quan không phải là ý thức
nói chung, mà là ý thức đã trở thành sự chỉ đạo, sự kích thích và phương châm
hoạt động, nói cách khác là ý thức đã biến thành đặc điểm nhất định của hành vi,
của hoạt động của chủ thể. Rõ ràng là không thể loại trừ sức mạnh của ý thức (thể
hiện ở những thuộc tính, phẩm chất, trạng thái của chủ thể hoạt động) ra khỏi nhân
tố chủ quan.
Từ toàn bộ sự phân tích trên về khái niệm nhân tố chủ quan, chúng ta phải
xác định nhân tố chủ quan từ hai khía cạnh. Thứ nhất, phải xét từ phạm trù hoạt
động trên cơ sở mối quan hệ giữa chủ thể - khách thể. Thứ hai, phải xét từ chính
bản thân thuộc tính, phẩm chất, trạng thái của chủ thể được biểu hiện qua hoạt
động. Theo nguyên tắc đó, có thể định nghĩa nhân tố chủ quan như sau: Nhân tố
chủ quan là những gì thuộc về chủ thể và tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt
động của chủ thể cũng như bản thân sự hoạt động đó.
1.1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan
Cơ sở lý luận của mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố
khách quan xuất phát từ quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan là
biểu hiện cụ thể của mối quan hệ rộng hơn: đó là mối quan hệ giữa khách quan và
chủ quan. Trong mối quan hệ đó, khách quan bao giờ cũng giữ vai trò cơ sở và


21
quy định chủ quan trong mọi phạm vi hoạt động, chủ quan tác động trở lại nhưng
không quy định được khách quan. Nguyên tắc thế giới quan này của chủ nghĩa duy

vật biện chứng vẫn được biểu hiện đầy đủ trong mối quan hệ biện chứng giữa
nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
- Nhân tố khách quan có vai trò chủ đạo và quyết định đối với nhân tố chủ quan
Trong phép biện chứng của nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan thì vai
trò chủ đạo và quyết định thuộc về nhân tố khách quan. Chính nhân tố khách quan
quy định những đặc điểm và phương hướng phát triển của nhân tố chủ quan. Vai
trò đó thể hiện ở chỗ: các nhân tố khách quan bao giờ cũng là cơ sở khách quan, là
tiền đề của nhân tố chủ quan. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, nhân tố khách quan, một mặt, quy định nhiệm vụ lịch sử của nhân
tố chủ quan, mặt khác, nó tạo ra những tiền đề, những khả năng hiện thực để giải
quyết chúng.
Bằng hoạt động thực tiễn, nhân tố chủ quan cải tạo thế giới khách quan, quá
trình cải tạo đó lấy nhân tố khách quan làm tiền đề. Nhân tố chủ quan chỉ là sự
phản ánh và thực hiện những nhu cầu đã chín muồi của đời sống xã hội. Những
nhiệm vụ mà nhân tố chủ quan phải giải quyết là những nhiệm vụ do lịch sử đề ra
và quy định nội dung, cũng như những biện pháp giải quyết.
Nhân tố chủ quan không thể đề ra cho mình nhiệm vụ một cách tuỳ hứng,
một cách ảo tưởng và tuỳ tiện. Khi tiến hành giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn
nào đó, nhân tố chủ quan phải xem những điều kiện vật chất khách quan cho việc
giải quyết nhiệm vụ đó đã có hay chưa, không thể giải quyết ngay nhiệm vụ đó khi
những điều kiện khách quan cần thiết chưa có. C.Mác cho rằng, những cá nhân
hành động trong những giới hạn tiền đề và điều kiện thực chất nhất định, không
phụ thuộc vào ý chí của họ.
Như vậy, mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào những nhân tố
khách quan nhất định, không có những nhân tố khách quan cần thiết thì mọi cố
gắng chủ quan cũng không thể đem lại những hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.


22
Con người không thể bất chấp các nhân tố khách quan, mà chỉ có thể hành động

thành công trong những giới hạn mà các nhân tố khách quan cho phép. Đúng như
C.Mác đã khẳng định rằng, con người làm ra lịch sử của mình, nhưng không phải
theo ý muốn tuỳ tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy mà làm
theo những điều kiện nhất định, trực tiếp, sẵn có do lịch sử để lại.
Nhân tố khách quan quy định tính chất, nội dung hoạt động, sự trưởng thành
và tiến hoá của các nhân tố chủ quan tương ứng. Nhân tố chủ quan phải lấy các
nhân tố khách quan làm tiền đề cải tạo. Vai trò tích cực của nhân tố chủ quan chỉ
biểu hiện khi nó dựa vào những quy luật khách quan và xuất phát từ những quy
luật ấy, khi nó được củng cố bằng những điều kiện vật chất tất yếu đã chín muồi
trong đời sống xã hội và khi nó thể hiện những hoạt động cần thiết của mình một
cách đúng lúc, hợp thời điểm. Nhân tố khách quan đưa ra trước chủ thể xã hội
những nhiệm vụ cần giải quyết và chính bản thân nó lại tạo ra những tiền đề,
những khả năng hiện thực để giải quyết chúng.
Thứ hai, nhân tố khách quan quy định mục đích của nhân tố chủ quan, là cơ
sở để con người định ra mục đích của mình. “Mục đích của con người là do thế
giới khách quan sản sinh và lấy thế giới khách quan làm tiền đề ” [26, 29, tr.201].
Thứ ba, nhân tố khách quan quy định phương pháp, phương thức, biện pháp
tác động của nhân tố chủ quan đối với nhân tố khách quan. Phương pháp, ngay từ
đầu đã lệ thuộc vào lôgíc khách quan của các sự vật mà ta tác động, nghĩa là phải
phù hợp với tính chất và các quan hệ, các quy luật của chúng.
Thứ tư, nhân tố khách quan quy định phương tiện tác động của nhân tố chủ
quan với nhân tố khách quan. Quá trình tác động của nhân tố chủ quan đối với
nhân tố khách quan không phải bằng chính nó mà bằng các lực lượng vật chất,
bằng chính các nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan phải vận dụng những yếu tố
của nhân tố khách quan để tác động, chứ không thể dùng chủ quan tuỳ tiện. Chỉ
với những phương tiện đó mà nhân tố khách quan mới được biến đổi. Trong quá
trình sản xuất, biểu hiện của sự tác động này là: con người bằng công cụ lao động


23

tác động vào đối tượng lao động, gây nên những biến đổi nhất định trong hiện
thực phù hợp với nhu cầu của họ.
Tóm lại, nhân tố khách quan là cơ sở, là tiền đề của nhân tố chủ quan.
Trong quá trình hoạt động của con người, chỉ khi nào có những quan hệ vật chất
cần thiết đã phát triển chín muồi, hay đang hình thành thì mới có cơ sở khách quan
để giải quyết vấn đề. Vì vậy, mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào
những nhân tố khách quan nhất định đem lại. Sự quy định của nhân tố khách quan
đối với nhân tố chủ quan chính là quá trình con người học tập tự nhiên để cải tạo
tự nhiên và đồng thời, cũng chính là quá trình con người cải tạo xã hội.
Như vậy, có thể quan niệm về mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan như là tính thứ nhất và tính thứ hai của mối quan hệ biện
chứng giữa cặp phạm trù vật chất và ý thức; giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội;
trong đó, tính thứ nhất thuộc về nhân tố khách quan, tính thứ hai thuộc về nhân tố
chủ quan. Đây chính là cơ sở để xem xét giới hạn vai trò của nhân tố chủ quan,
chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, chống tác động tùy tiện, chủ quan, ảo tưởng
trong hoạt động thực tiễn.
- Vai trò tích cực, chủ động sáng tạo của nhân tố chủ quan
Trong sự tác động, ràng buộc lẫn nhau giữa nhân tố khách quan và nhân tố
chủ quan thì nhân tố khách quan bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là nhân tố chủ quan chỉ có vai trò thụ động hoàn toàn và lệ
thuộc vào nhân tố khách quan. Nhân tố chủ quan có thể chuyển hoá được các nhân
tố khách quan thành nội dung hoạt động tự do sáng tạo của mình, bởi vậy nó đóng
vai trò như là lực lượng sáng tạo lịch sử.
Lịch sử loài người là một quá trình kép, bao gồm quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên và quan hệ giữa con người với nhau, trước hết là mối quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất. Nhân tố chủ quan thể hiện vai trò của nó
trên cả hai phương diện đó. Một mặt, “thế giới không thoả mãn con người, và con
người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình” [26, 29, tr.229]. Nhân
loại đã trải qua một quá trình chinh phục tự nhiên và ngày càng gia tăng quyền lực



24
của mình như một sức mạnh chi phối các lực lượng tự nhiên. Tác động vào tự nhiên,
con người biến đổi những kết cấu vật thể, tạo nên những dạng tồn tại mới ở chúng,
phù hợp với nhu cầu bảo tồn và phát triển của con người. Con người sắp xếp, tổ chức
lại hiện thực theo mục đích của mình, con người ngày càng có khả năng thay đổi
nhanh chóng bộ mặt của tự nhiên. Con người không những tạo ra những dạng có sẵn
trong tự nhiên, mà còn tạo ra những dạng không thể có sẵn trong tự nhiên. Con người
là một phần của tự nhiên, nhưng con người biết in dấu ấn, bàn tay, khối óc của mình
vào thế giới tự nhiên. Vì vậy, đã có ý kiến phê bình Phoiơbắc, người tiêu biểu nhất
của chủ nghĩa duy vật trực quan, là ông đã không thấy rằng, thế giới vật chất xung
quanh không phải là một vật đã có từ khi khai thiên lập địa, bất di bất dịch, mà là sản
phẩm của công nghiệp và trạng thái xã hội.
Ở đây, theo Phoiơbắc, trước giới tự nhiên, con người chỉ đóng vai trò cảm
quan thụ động, ông đã không thấy được mặt thực tiễn trong hoạt động của con
người. Mặt khác, quan hệ giữa con người với nhau là điều kiện tất yếu để họ cải
tạo tự nhiên, tiến hành hoạt động sản xuất. Trong tương quan này, con người đóng
vai trò hoàn thiện các quan hệ xã hội. Sự tác động của nó làm cho các chế độ xã
hội thay thế lẫn nhau theo khuynh hướng phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn
của con người.
Khi đã có những nhân tố khách quan cần thiết và chín muồi thì nhân tố chủ
quan đóng vai trò quyết định sự chuyển hoá khả năng thành hiện thực. Biến đổi
khách quan phải đồng thời với biến đổi chủ quan, nếu không, bất kỳ sự kiện nào
cũng chỉ nằm trong dạng khả năng mà thôi. Để giải quyết một nhiệm vụ nào đó,
cần thiết phải có sự chín muồi không những của nhân tố khách quan mà cả sự chín
muồi của nhân tố chủ quan (cụ thể là những phẩm chất khoa học, quyết tâm, tính
tích cực tự giác và tổ chức chặt chẽ của chủ thể hành động). Nếu đã có những
nhân tố khách quan cần thiết nhưng nhân tố chủ quan chưa đạt đến chín muồi thì
chưa thể có sự biến đổi nhất định ở khách thể, đối tượng. Khi những nhân tố khách
quan đã chín muồi thì nhân tố chủ quan mới có đủ điều kiện để phát huy sức mạnh

tối đa của mình. Sự kết hợp giữa nhân tố khách quan đã chín muồi và nhân tố chủ

×