Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Những đặc điểm của Nho giáo Việt Nam thời Lý Trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.14 KB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ NHƯ



NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHO GIÁO
VIỆT NAM THỜI LÝ - TRẦN



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




NgH


HÀ NỘI - 2009


MỞ ĐẦU 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 7


5. Đóng góp của luận văn 7
6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn 7
7. Kết cấu của luận văn 7
NỘI DUNG 8
CHƯƠNG 1: SỰ DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN NHO GIÁO TẠI
VIỆT NAM (TỪ THỜI BẮC THUỘC ĐẾN THỜI LÝ - TRẦN) 8
1.1. Nho giáo thời Bắc thuộc 8
1.1.1. Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam 8
1.1.2. Sự phát triển của Nho giáo trong thời Bắc thuộc 11
1.2. Sự phát triển của Nho giáo thời Lý - Trần 21
1.2. Điều kiện cho sự phát triển Nho giáo thời Lý - Trần 21
1.2.2. Diện mạo của Nho giáo thời Lý - Trần 29
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO THỜI
LÝ - TRẦN 56
2.1. Nho giáo thời Lý - Trần có đặc điểm chịu sự quy định của tư tưởng yêu nước 56
2.1.1. Quan niệm về xã hội lý tưởng 60
2.1.2. Quan niệm về xây dựng thể chế nhà nước phong kiến 64
2.1.3. Tư tưởng “đức trị” 74
2.1.4. Lĩnh vực ngoại giao độc lập, tự chủ 84
2.2. Nho giáo thời kỳ Lý - Trần đề cao phạm trù đạo đức “trung nghĩa” 89
2.3. Nho giáo thời Lý - Trần có sự kết hợp một cách hài hoà với Phật giáo,
Đạo giáo và tư tưởng bản địa 100
KẾT LUẬN 123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 126

1



Nho học, Nho giáo là hướng đề tài được giới học thuật rất chú trọng.

Công trình của người trước để lại rất nhiều. Nghiên cứu Nho giáo tại Việt
Nam lại càng là một hướng nghiên cứu quan trọng, luôn có ý nghĩa lý luận
và tính thời sự cấp thiết. Bởi vì, Nho giáo chủ yếu là một học thuyết chính trị
- xã hội có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng ngay từ rất sớm, nó đã được du
nhập vào nước ta và dần chiếm một vị trí quan trọng trong kiến trúc thượng
tầng của xã hội phong kiến Việt Nam, đã ảnh hưởng và tác động tới mọi mặt
của đời sống xã hội. Nó là bộ phận cơ bản trong toàn bộ nội dung tri thức
của các tầng lớp sĩ phu thời phong kiến. Nho giáo phát triển trong mối quan
hệ xoắn xuýt với Phật giáo và Đạo giáo, tác động mạnh mẽ vào các lĩnh vực.
Nó thâm nhập vào đời sống tinh thần của nhân dân và ảnh hưởng sâu sắc
đến tâm lý của dân tộc. Biểu hiện những ảnh hưởng đó trên nhiều lĩnh vực
còn để lại tới tận ngày nay. Tuy nhiên, vị trí, vai trò ảnh hưởng của Nho giáo
đối với xã hội và con người Việt Nam không hoàn toàn giống nhau ở mọi
thời kỳ lịch sử, và chúng ta không thể phân tích, đánh giá những hiện tượng
tư tưởng bằng bản thân tư tưởng. Để hiểu rõ hơn vai trò, vị trí, đánh giá
những ảnh hưởng của Nho giáo, chúng ta phải đặt nó trong những điều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể mà ở đó nó tồn tại và phát triển. Vì vậy, việc cần thiết
phải đi sâu vào việc nghiên cứu thời kỳ Việt Nam khôi phục nền độc lập tự
chủ, xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt và với việc giai cấp phong
kiến Việt Nam đã chủ động sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng là hướng tiếp
cận quan trọng, có ý nghĩa bản lề. Có điều, qua tìm hiểu các công trình
nghiên cứu về Nho giáo tại Việt Nam chúng tôi thấy rằng, các công trình tìm
hiểu đặc điểm riêng của Nho giáo thời Lý - Trần còn chưa nhiều và có nhiều

2
vấn đề còn bỏ ngỏ. Chúng tôi cho rằng, cần có sự nghiên cứu và xem xét sâu
hơn, tìm hiểu Nho giáo ngay từ thời kỳ nó có những bước phát triển mạnh
mẽ ban đầu và trên nhiều mặt (Nho giáo thời Lý - Trần). Chính sự khởi sắc
của Nho giáo thời ấy đã tạo đà và chuẩn bị những điều kiện thiết yếu để nó
trở thành hệ tư tưởng chủ đạo của chế độ phong kiến Việt Nam ở các thế kỷ

sau. Hơn nữa, việc nghiên cứu Nho giáo trong thời Lý - Trần còn giúp ta
hiểu được khí phách tự lập trong học phong, học thuật của ông cha ta lúc bấy
giờ cũng như bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong việc tiếp thu các yếu tố
văn hoá ngoại nhập. Từ đó, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý giá về
quá trình bảo vệ và phát triển đời sống tư tưởng dân tộc trong hội nhập và
giao lưu quốc tế.
Hiện nay, để phục vụ mục tiêu đổi mới và hội nhập vào xu thế toàn
cầu hoá thành công, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà
vẫn không bị hoà tan, bị mất bản sắc văn hoá thì việc nghiên cứu di sản Nho
giáo ở Việt Nam nói chung, Nho giáo thời Lý - Trần nói riêng càng trở thành
một nhu cầu thiết yếu. Việc nghiên cứu ấy nhằm đưa ra những căn cứ để
đánh giá một cách khách quan về đặc điểm và nội dung, những ảnh hưởng
và giá trị của Nho giáo đối với đời sống tinh thần dân tộc, từ đó có thái độ và
căn cứ đúng đắn trong việc tiếp thu những di sản của quá khứ để xây dựng
một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vì những lý do
trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu đặc điểm của Nho giáo Việt Nam
thời Lý - Trần làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình. Hơn thế nữa
chúng tôi hiểu rằng, đi sâu tìm hiểu Nho giáo thời Lý - Trần trong bối cảnh
hiện nay thực chất là góp phần tìm hiểu vai trò của nó trong công cuộc đổi
mới của đất nước.

Ở Việt Nam, nghiên cứu về Nho giáo không phải là một đề tài mới.
Đã có nhiều công trình tiếp cận từ nhiều góc độ về Nho giáo như:

3
Loại thứ nhất: Là những công trình nghiên cứu về Nho giáo thông
qua những tác phẩm kinh điển, sách vở của các nhà Nho. Tiêu biểu cho
loại hình này có thể kể đến cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim, Nho giáo
xưa và nay của Quang Đạm. Ở những tác phẩm này, các tác giả đã trình
bày khái quát nguồn gốc hình thành, phát triển và những nội dung cơ bản

của Nho giáo. Qua đây, chúng ta có thể có được những hiểu biết cơ bản
nhất về Nho giáo. Tuy nhiên, do lập trường, thái độ và mục đích nghiên
cứu Nho giáo ít nhiều có sự khác nhau ở mỗi tác giả, nên những tư tưởng,
phạm trù của Nho giáo chưa được trình bày và phân tích một cách toàn
diện và có hệ thống; một số nhận định đánh giá về Nho giáo chưa thật
khách quan, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu.
Loại hình thứ hai: Các công trình nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam
như: cuốn Nho giáo tại Việt Nam của Viện Triết học, do Lê Sỹ Thắng chủ
biên ; cuốn Nho giáo xưa và nay do Vũ Khiêu chủ biên; cuốn Nho giáo và
phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu; cuốn Nho học và Nho học ở Việt Nam
(một số vấn đề lý luận và thực tiễn) của Nguyễn Tài Thư; cuốn Nho giáo với
văn hoá Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy; cuốn Ảnh hưởng của Nho giáo
đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống của Trần Thị Hồng
Thuý đã sơ lược trình bày quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
và ảnh hưởng của nó trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Những công
trình này ở những mức độ khác nhau đã nghiên cứu sự thể hiện của Nho giáo
trong đời sống tinh thần và xã hội Việt Nam thời kỳ Lý - Trần. Các tác giả
tuy không trình bày về đặc điểm của Nho giáo Việt Nam thời kỳ này nhưng
đã đề cập đến bản lĩnh của con người Việt Nam trong việc tiếp thu các yếu
tố văn hoá ngoại nhập và chính bản lĩnh đó tạo nên nét khác biệt giữa Nho
giáo tại Việt Nam với Nho giáo tại quê hương của nó.
Nghiên cứu về Nho giáo Việt Nam (trong đó có Nho giáo thời Lý -
Trần) đáng chú ý có cuốn sách của tác giả Nguyễn Thanh Bình: Học thuyết

4
chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ X
đến nửa đầu thế kỷ XIX); luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Vinh: Một số nội
dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời Trần. Trong công trình
của mình, tác giả Nguyễn Thanh Bình đã trình bày ảnh hưởng của Nho giáo
trong lĩnh vực tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến, mà

thời kỳ Lý - Trần là giai đoạn đầu trong quá trình xác lập chế độ phong kiến
đó. Tác giả đã chỉ rõ, do xuất phát từ thực tiễn xây dựng và phát triển đất
nước mà các triều đại phong kiến Lý - Trần chủ yếu tiếp thu những yếu tố
tiến bộ trong học thuyết chính trị - xã hội Nho giáo và cải biến đi cho phù
hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Vì vậy, Nho giáo thời kỳ này thể hiện sự
khác biệt căn bản với Nho giáo truyền thống và khắc phục được tính chất
khắc nghiệt, duy tâm thần bí vốn có của Nho giáo. Tác giả Vũ Văn Vinh thì
trình bày những điều kiện kinh tế, xã hội và những tiền đề văn hoá, tư tưởng
cho sự phát triển của Nho giáo thời Trần, qua đó nêu lên những nội dung cơ
bản của Nho giáo thời kỳ này. Các nội dung mà tác giả trình bày đã cho thấy
sự tiếp thu Nho giáo của người Việt Nam là sự tiếp thu có chọn lọc và cải
biến để vận dụng cho phù hợp với những vấn đề mà thực tiễn chính trị trong
nước đặt ra. Ngoài ra, nghiên cứu về Nho giáo thời kỳ Lý - Trần còn có
nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học: tạp chí Triết học, Văn
học, Nghiên cứu Lịch sử, Giáo dục lý luận
Nghiên cứu về đặc điểm của Nho giáo tại Việt Nam nói chung, Nho
giáo thời Lý - Trần nói riêng có một số công trình như: PGS.TS Đỗ Thị Hoà
Hới có bài “Về một số đặc điểm của Nho giáo thời Lý” (tạp chí Triết học, số
9/2001); PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu có bài “Một số suy nghĩ về đặc điểm
của Nho giáo ở Việt Nam” (tạp chí Triết học, số 5/1998) và bài “Đặc điểm
của Nho Việt” (tạp chí Triết học, số 3/2003); GS Phan Đại Doãn có bài
“Một số đặc điểm của Nho giáo Việt Nam” (tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số

5
2/1999) Do hạn chế bởi khuôn khổ của bài báo, cho nên các tác giả chỉ
trình bày những nét cơ bản nhất về đặc điểm của Nho giáo tại Việt Nam.
Qua điểm lại tình hình những công trình nghiên cứu trên đây cho thấy,
vấn đề Nho giáo nói chung, đặc điểm của Nho giáo thời Lý - Trần nói riêng
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm từ nhiều góc độ. Tuy nhiên, chúng
tôi thấy rằng, những công trình và những bài viết đó do được tiếp cận từ

những góc độ khác nhau với mục đích khác nhau nên vấn đề đặc điểm của
Nho giáo Việt Nam thời Lý - Trần - vấn đề mà luận văn nghiên cứu chưa
được nghiên cứu nhiều, nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống. Đồng
thời, qua những công trình nghiên cứu ấy, ngoài những quan điểm thống
nhất, vẫn còn tồn tại không ít những quan điểm nhìn nhận khác nhau. Điều
này cho thấy, việc nghiên cứu đặc điểm của Nho giáo Việt Nam nói chung,
Nho giáo Việt Nam thời Lý - Trần nói riêng để thấy được tinh thần độc lập
tự chủ của dân tộc ta trong việc tiếp thu các yếu tố văn hoá được du nhập từ
bên ngoài vào là một vấn đề phức tạp đòi hỏi phải được nghiên cứu, tìm hiểu
thêm. Chính vì những lý do như vậy, chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu
Những đặc điểm của Nho giáo Việt Nam thời Lý - Trần làm đề tài cho luận
văn thạc sĩ của mình.

Mục đích của luận văn là trình bày một cách có hệ thống về một số
đặc điểm của Nho giáo ở Việt Nam thời Lý - Trần. Để đạt được mục đích
đó, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, phân tích những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá cho sự phát
triển của Nho giáo thời Lý - Trần và diện mạo của Nho giáo Việt Nam thời kỳ
này.
Hai là, từ các căn cứ trên hệ thống hoá và phân tích một số đặc điểm
chủ yếu của nội dung Nho giáo thời kỳ này, chủ yếu là trong lĩnh vực tư
tưởng chính trị - đạo đức.

6

Luận văn dựa vào cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về lịch sử tư
tưởng dân tộc.
Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn này là phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp lôgic - lịch sử, phương pháp quy nạp, diễn

dịch, phương pháp đối chiếu, so sánh, phương pháp lịch sử cụ thể.

Tiếp cận Nho giáo từ góc độ triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, luận văn hệ thống hoá, phân tích những đặc điểm cơ bản của Nho
giáo thời Lý - Trần do điều kiện thực tiễn Việt Nam quy định. Qua đây, luận
văn cũng cho ta thấy được cách thức tiếp nhận, phổ biến và sử dụng Nho
giáo ở Việt Nam thời kỳ này. Từ đó, luận văn góp phần làm rõ những đặc
điểm của Nho giáo trong thời Lý - Trần sẽ làm nền tảng cho các giai đoạn về
sau.

Những kết quả trong luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung
và lịch sử tư tưởng triết học thời Lý - Trần nói riêng.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết:
Chương 1:      
- .
Chương 2: - .

7

***


- 

1.1.1. Sự du nhập Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo hay còn gọi là Khổng giáo, do Khổng Tử (Khổng
Khâu: 551- 479 trước công nguyên), nhà tư tưởng lớn của Trung Quốc cổ

đại sáng lập ra. Sau Khổng Tử, các học trò của ông đã phát triển Nho giáo
theo nhiều hướng khác nhau. Mạnh Tử (khoảng 372-289 trước công nguyên)
phát triển về phía duy tâm và Tuân Tử (khoảng 325-238 trước công nguyên)
phát triển về phía duy vật. Nho giáo từ Khổng Tử đến Tuân Tử gọi là Nho
Tiên Tần hay Nho nguyên thuỷ, đặc điểm của nó là chưa thần bí hoá và chưa
khắc nghiệt nhiều. Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư (thế kỷ II trước công
nguyên), đại biểu tư tưởng của chế độ phong kiến trung ương tập quyền
chuyên chế Hán đã phát triển Nho giáo theo hướng duy tâm thần bí và gia
tăng tính chất đẳng cấp nghiệt ngã, gọi là Hán Nho. Thời Ngụy, Tấn, Nam
Bắc Triều (thế kỷ III - VI), đạo Nho kết hợp với đạo Lão - Trang trở thành
Huyền học. Đến thời Tống, Chu Đôn Di (1017- 1073), Trình Hạo (1032-
1085), Trình Di (1033-1107) và nhất là Chu Hy (1130-1200) kết hợp Nho
giáo truyền thống với tư tưởng của Phật giáo thành Nho học mới, gọi là
“Tống Nho” hay “Lý học”…
Trải qua các giai đoạn phát triển ngay tại Trung Quốc, Nho giáo đã
khác nhiều so với lúc nó mới xuất hiện. Tuy nhiên, có thể nêu lên một số đặc
điểm chung của Nho giáo như sau:

8
Thứ nhất, đó là một học thuyết chính trị - đạo đức của giai cấp phong
kiến Trung Quốc. Nó chủ trương dùng “nhân trị”, “đức trị”, “lễ trị” để quản
lý xã hội.
Thứ hai, Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Khổng - Mạnh, nêu lên một
xã hội lý tưởng, xã hội “đại đồng”, xem đó là mục tiêu phấn đấu của mình.
Thứ ba, Nho giáo xây dựng ý thức tôn ti trật tự trong xã hội. Thể hiện
trong các quan niệm về “lễ”, “chính danh”.
Thứ tư, Nho giáo chủ trương bất bình đẳng xã hội, dưới phải tuyệt đối
phục tùng trên, nữ phải tòng phục nam. Thể hiện qua các khái niệm: tam
cương, cương thường, trung hiếu, tiết nghĩa.
Thứ năm, càng về sau xu hướng Nho giáo là một học thuyết có tính

chất tôn giáo càng rõ.
Với những đặc điểm đó, buổi đầu du nhập, Nho giáo hoàn toàn không
phù hợp với một xã hội vừa thoát thai từ thời Văn Lang - Âu Lạc, với chế độ
lạc hầu, lạc tướng như xã hội nước ta hồi đầu Bắc thuộc. Nho giáo vào nước
ta lúc đầu là do sự áp đặt của bọn thống trị Trung Quốc. Song dần dà một bộ
phận các trí thức Nho học đã lánh nạn sang Giao Châu, một bộ phận giai cấp
thống trị bị Việt hoá đã khiến tình hình đổi khác.
Có thể tính dấu mốc mà Nho giáo vào nước ta là từ thế kỷ II trước
công nguyên, khi người Hán đặt chân lên đất nước ta. Năm 179 trước công
nguyên, Triệu Đà, vua nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (nay thuộc
Quảng Đông, Trung Quốc) sang xâm chiếm nước Âu Lạc (Việt Nam ngày
nay), chia Âu Lạc ra thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Theo Hà Thành
Hiên trong Nho học Nam truyền sử thì Triệu Đà là “nhân vật đầu tiên mở
màn cho Nho học vào Lĩnh Nam” [65, 6]. Ông được xem là “từ tư tưởng đến
hành động đều chịu ảnh hưởng của Nho học”. Chính sách cai trị của ông

9
theo nguyên tắc “dĩ hoà vi quý” của Nho giáo. Ông rất tích cực truyền bá
chữ Hán. Hai lần Giả Nghị (nhà nho đời Hán) đến thuyết phục ông thần
phục nhà Hán theo tư tưởng Nho giáo, ông đều chấp thuận…Tuy nhiên, phải
đến năm 111 trước công nguyên, khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị nhà
Hán thôn tính, nước Việt trở thành một quận của nhà Hán, thì quá trình xâm
nhập và ảnh hưởng của văn hoá Hán (trong đó có Nho giáo) mới có thêm
điều kiện thuận lợi và dần rõ nét trong đời sống tinh thần của người Việt.
Còn theo Đại Việt sử ký toàn thư thì việc truyền bá Nho giáo vào
nước ta với việc “dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa” bắt đầu từ đầu công nguyên,
thời Tích Quang và Nhâm Diên làm thái thú ở hai quận Giao Chỉ và Cửu
Chân:
Tích Quang là người quận Hán Trung, khi ở Giao Chỉ lấy lễ
nghĩa dạy dân. Sau nhà Hán lại lấy Nhâm Diên làm thái thú

Cửu Chân. Diên là người Uyển Huyện. Tục người Cửu Chân
chỉ làm nghề đánh cá đi săn, không biết cày cấy. Diên mới dạy
dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ.
Dân nghèo không có sính lễ thì Diên bảo các trưởng lại trở
xuống bớt bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến
2000 người. Diên coi việc 4 năm thì bị gọi về. Người Cửu Chân
làm đền thờ. Những người đẻ con đều đặt tên là Nhâm. Phong
hoá văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy [54,
108-109].
Đến cuối thế kỷ II, khi Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ thì việc học
Nho ở nước ta đã tương đối phổ biến. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: Nước ta được thông thi thư, tập lễ nhạc làm một

10
nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở
đương thời mà có thể truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?” [54, 126].
Như vậy, có thể thấy rằng, buổi đầu du nhập Nho giáo vào Việt Nam
chủ yếu theo “con đường của vó ngựa xâm lược”. Chính quyền Hán muốn
núp dưới chiêu bài “khai hóa” để nô dịch nhân dân ta. Mục đích của việc
truyền bá Nho giáo ở nước ta lúc bấy giờ là để đào tạo nên những người làm
việc cho chính quyền đô hộ, để đồng hoá dân tộc Việt. Nói như Lê Sỹ Thắng
thì khi đó ở nước ta, Nho giáo “làm thêm chức năng là công cụ tinh thần của
giặc ngoại xâm” [85, 109].
1.1.2. Sự phát triển của Nho giáo trong thời Bắc thuộc
Thời kỳ đầu, khi mới du nhập vào nước ta, Nho giáo vấp phải sự phản
kháng mãnh liệt của nhân dân với tư tưởng và nếp sống truyền thống của
người Việt. Bởi vì, Nho giáo với tư tưởng Tam cương, Ngũ thường, tư tưởng
Thiên mệnh hết sức khắc nghiệt và phản động đã được quân xâm lược
phương Bắc sử dụng như một công cụ chủ yếu để thống trị, nô dịch nhân
dân ta. Đồng thời, Nho giáo còn đóng vai trò thiết yếu trong quá trình hợp

thức hoá chế độ Bắc thuộc và biến nước ta thành quận, huyện của Trung
Quốc, biến văn hoá nước ta phụ thuộc và là một bộ phận của văn hoá Hán.
Vì vậy, ngay từ đầu, nhân dân ta đã căm ghét, xa lánh Nho giáo. Cũng vì vậy
mà, chống Nho giáo, chống Hán hoá đã trở thành một bộ phận, một mục tiêu
quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh chống quân xâm lược phương Bắc, bảo
vệ sự sống còn của dân tộc ta trong suốt thời kỳ Bắc thuộc. Với ý thức về
một nền văn hoá riêng, lâu đời và phát triển khá cao (từ trước khi bị thuộc
Bắc) cùng ý chí quật cường, hành động dũng cảm của những người Việt yêu
nước quyết tâm bảo vệ nền văn hoá riêng của mình, khôi phục chủ quyền
dân tộc đã đẩy lùi được chiều hướng tư tưởng bị áp đặt bởi kẻ xâm lược.

11
Nho giáo gặp trở ngại nên rất khó bám rễ được vào đời sống của nhân dân
ta, nó đã thất bại trong nhiệm vụ chiến lược là thực hiện chính sách “đồng
hoá” mà chính quyền đô hộ giao cho, nó chỉ có thể ảnh hưởng ở những nơi
mà giai cấp phong kiến phương Bắc đặt ách thống trị.
Hơn nữa, do vị thế ở ngã ba các đường lan truyền, giao thoa kinh tế,
văn hoá mà tại Việt Nam không chỉ có Nho giáo mà nhiều dòng tư tưởng
khác cũng được du nhập vào như Phật giáo, Đạo giáo…trong đó Phật giáo
với nội dung và đặc tính từ bi, bình đẳng cho nên ngay từ đầu, Phật giáo đã
có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng
lớp trên xung quanh chính quyền ngoại bang, bào chữa cho sự xâm lược của
chúng, thuyết phục nhân dân ta quy thuận sự thống trị của phương Bắc, thần
phục nhà vua của nước lớn, gò bó con người vào trật tự chính trị đương
thời…thì Phật giáo lại thuận lợi trong việc thâm nhập vào các tầng lớp nhân
dân, đứng về phía những người đau khổ. Phật giáo không hoàn toàn là công
cụ của kẻ xâm lược. Với tư tưởng bình đẳng bác ái, Phật giáo đã đóng vai trò
là vũ khí tinh thần để đoàn kết nhân dân lao động, khuyến khích tinh thần
chiến đấu chống lại ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa. Nhiều tư tưởng
của đạo Phật khá gần gũi với những tập quán, tín ngưỡng dân gian của người

Việt, nên nó nhanh chóng được người Việt chấp nhận, phát triển khá nhanh
mà hầu như không gặp phải sự phản ứng và chống đối gay gắt từ phía nhân
dân. Bên cạnh đó, cũng giai đoạn này, Đạo giáo mà nhất là Đạo giáo phù
thuỷ gần với tín ngưỡng ma thuật của người Việt cổ cũng được tiếp nhận và
ảnh hưởng khá sâu rộng trong nhân dân. Như vậy, trong giai đoạn đầu, Nho
giáo chưa vào sâu được trong dân gian. Trong đời sống tinh thần, ưu thế vẫn
thuộc về Phật giáo và Đạo giáo.
Ở buổi đầu, ý thức về vai trò của Nho giáo đối với việc cai trị, hai thái
thú Tích Quang và Nhâm Diên, một số quan lại Trung Quốc đã “dựng học

12
hiệu để dạy lễ nghĩa” ở Giao Chỉ và Cửu Chân. Tuy nhiên, các sách kinh điển
của Khổng giáo được dùng chủ yếu để giảng dạy cho con em quan lại địa chủ
Hán tộc. Ngoài ra, cũng có một số là con em tầng lớp trên của xã hội Việt
Nam tham gia học. Nhưng số người học hành đỗ đạt còn ít và đều được tuyển
lựa vào bộ máy cai trị, một số được đưa về Trung Quốc sử dụng.
Để đạt mục tiêu bóc lột và đồng hoá nhân dân ta, nhà Đông Hán đã
củng cố và hoàn thiện chính quyền đô hộ ở Giao Chỉ, muốn xoá bỏ lối “dùng
tục cũ mà cai trị”, áp dụng pháp luật Hán ở Giao Chỉ để trói buộc nhân dân
và hạn chế quyền hành của Lạc tướng (thời Tích Quang và Nhâm Diên làm
thái thú ở Giao Chỉ và Cửu Chân vẫn để cho các lạc tướng làm chủ trong các
lạc ấp của họ). Thái thú Giao Chỉ Tô Định thay thế Tích Quang, là kẻ tàn
bạo, tham lam. Hắn ra sức vơ vét thuế khoá, khống chế, đè nén các lạc tướng
và con cháu họ, khiến cho cả quý tộc cũ và nhân dân đều oán hận chính
quyền đô hộ. Hành vi bạo ngược của Tô Định đã dẫn tới phong trào nổi dậy
của nhân dân trên toàn đất nước ta mà đỉnh cao nhất là cuộc khởi nghĩa của
Hai Bà Trưng. Cuộc khởi nghĩa đó thể hiện sự phản kháng của người Việt
trước ách đô hộ ngoại xâm, cũng qua đó mà phản kháng công cụ tinh thần
mà nhà Hán sử dụng. Sự phản kháng này là tự nhiên và tất yếu của một cộng
đồng tự trị. Tuy nhiên, không lâu sau, khi Mã Viện đem quân sang xâm lược

nước ta, đàn áp nghĩa quân của Hai Bà Trưng, đất nước ta lại mất quyền độc
lập. Sự thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng cho thấy, mô hình chính trị -
văn hoá thời các Vua Hùng mà Hai Bà khôi phục lại đã trở nên bất cập trước
đòi hỏi của lịch sử. Đồng thời, sự thất bại đó cũng đem lại một bài học lớn:
trước một kẻ thù hùng mạnh gấp nhiều lần cả về quân sự và văn hoá là đế
quốc Trung Hoa, dân tộc ta cần có một thời gian để trưởng thành về mặt tư
duy và tích luỹ kinh nghiệm. Quá trình vận động này diễn ra trong điều kiện
nhà Hán thi hành nhiều chính sách hiểm độc nhằm đồng hoá cộng đồng Việt

13
về mọi mặt văn hoá, chính trị, xã hội…nên hết sức gay go, trải qua nhiều
bước thăng trầm và lâu dài mà ở mỗi giai đoạn, tư duy dân tộc lại tiến thêm
một bước phù hợp hơn cho việc giải quyết thách thức mà lịch sử đặt ra là:
bảo vệ chủ quyền dân tộc và chống lại sự đồng hoá. Vì vậy, bắt đầu từ khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, trong tư duy người Việt luôn song song tồn tại hai xu
hướng vừa đấu tranh, vừa hội nhập với các yếu tố tinh thần ngoại nhập. Hai
xu hướng này tương tác với nhau đã đưa đến một diện mạo mới trong thế
giới quan, nhân sinh quan của người Việt trong điều kiện kinh tế, văn hoá xã
hội mới của đất nước thời Bắc thuộc sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
Sĩ Nhiếp là một điển hình cho khuynh hướng hội nhập các yếu tố văn
hoá ngoại lai trong đời sống tinh thần của người Việt ở ba thế kỷ đầu công
nguyên. Ông gốc là người Quảng Tín, Thương Ngô, quận Giao Chỉ. Thủa
nhỏ theo học ở kinh sư nhà Hán, chuyên chú vào tác phẩm Tả thị Xuân Thu,
đậu Hiếu liêm, được bổ làm Thượng thư lang. Năm 187 đời Hán Linh Đế,
được cử làm thái thú Giao Chỉ. Trong thời Sĩ Nhiếp, Nho giáo đã được phổ
biến rộng rãi hơn trong tầng lớp quí tộc và nhằm ổn định nền thống trị ở
Giao Châu. Nhà nho nước ta đời sau đã đề cao Sĩ Nhiếp tôn là Sĩ Vương, lại
gọi ông là “Nam giao học tổ”. Điều đó cho thấy, đến thời kỳ này, tri thức
Hán học của tầng lớp ưu tú trong xã hội đã có một bước tiến khá dài cũng
như mức độ ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá Hán vào cộng đồng Việt đã

đậm nét hơn trước. Chính sách cai trị Sĩ Nhiếp không chỉ thu hút các nhân sĩ
tài ba của Trung Nguyên xuống Giao Chỉ lánh nạn và qua đó truyền bá các
yếu tố của văn hoá Hán trong đó có Nho giáo, mà ông còn tạo ra một môi
trường thuận lợi để người Việt chủ động tiếp thu các yếu tố đó. Bằng tấm
gương Hán học thông tuệ và chính sách cai trị khôn ngoan, ông đã khởi
xướng cho một hướng đi mới trong việc giải bài toán chính trị - lịch sử: làm
thế nào để bảo vệ nền tự chủ của Giao Chỉ trước một thế lực lớn?

14
Sĩ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ,
được người thân yêu mà đạt đến quý thịnh một thời. Lại hiểu lễ
nghĩa, thức thời, tuy tài và dũng không bằng Triệu Vũ Đế,
nhưng chịu nhún mình thờ nước lớn, để giữ vẹn bờ cõi, có thể
coi là người trí [54, 228].
Đường hướng cai trị này thực chất là sản phẩm kết hợp giữa lối tư duy
mềm dẻo yêu hoà bình, chuộng sự hoà hợp của người Việt với việc vận dụng
các chuẩn mực đạo đức - chính trị Trung Hoa vào thực tiễn xã hội Việt Nam.
Nhìn chung, sau mấy trăm năm cho đến thời Sĩ Nhiếp làm thái thú
Giao Chỉ, Nho giáo đã có bước phát triển trong tầng lớp trên của xã hội. Đã
có nhiều người Việt thành danh theo con đường Nho học, khoa cử ở triều
đình Trung Hoa. Đời Hán Minh Đế (năm 68-75), một người Giao Châu tên
là Trương Trọng được các sử gia đánh giá là có học vấn, trí mưu, dũng cảm.
Ông được cử làm Kê lại (chức quan coi sổ sách) ở Nhật Nam (thuộc Nghệ
An, Hà Tĩnh ngày nay) và sau được làm thái thú ở Kim Thành, Trung Quốc.
Thế kỷ II có Lý Tiến, người Cao Hưng quận Giao Chỉ, thông hiểu kinh
truyện, được bổ làm chức công tào ở quận, rồi thăng dần lên chức kỵ đô uý.
Năm 137, được bổ làm thái thú quận Linh Lăng, Trung Quốc và khoảng năm
184-189 được cử làm thứ sử Giao Châu. Bấy giờ ở Giao Châu có nhiều Hiếu
liêm, Mậu tài được cử làm trưởng lại ở Giao Châu theo lời xin của Lý Tiến,
nhưng không được làm quan ở Trung Nguyên vì Hán Đế sợ “người phương

xa nói láo mà chỉ trích triều đình Trung Quốc” [54, 121]. Thế kỷ III có Lý
Cầm là người Giao Châu làm túc vệ ở điện đài, sau làm đến chức tư lệ hiệu
uý.
Tuy nhiên, sự mở rộng đó của Nho giáo chỉ là trong một phạm vi nhỏ
thuộc tầng lớp trên được ưu đãi, những người Việt đỗ đạt đều trở thành những

15
người phục vụ cho chính quyền đô hộ. Còn trong dân gian, phong tục, tập
quán tín ngưỡng và tình cảm Lạc Việt vẫn là gốc rễ phổ biến và bền chặt.
Người dân Việt lúc đó vẫn ở nhà sàn chứ không ở nhà đất, đi đất mà chẳng đi
giày, chèo thuyền, cưỡi voi chứ không đi xe cưỡi ngựa, đúc trống đồng chứ
không đúc đỉnh vạc, mở hội làng mà chẳng tế Nam giao, hôn nhân nam nữ
còn tương đối bình đẳng, tự do chứ chưa biến hẳn phụ nữ thành món hàng để
bán mua sai khiến, hát giao duyên nam nữ mà chẳng tấu nhạc cung
đình…Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta lúc ấy thể hiện rõ nét sự hoà
đồng giữa người với người trong cộng đồng của mình chứ chưa bị ràng buộc
bởi cái tôn ti trật tự hà khắc mà Nho giáo áp đặt…Tóm lại, thời kỳ đầu công
nguyên đã diễn ra cuộc đấu tranh dưới nhiều dạng thức giữa văn hoá cổ
truyền của dân tộc với sự xâm nhập của Nho giáo. Cuộc đấu tranh đó khi thì
âm ỉ, khi thì bùng nổ thành các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ khác nhau nhằm đưa
đất nước ta thoát khỏi ách thống trị của Trung Hoa cũng như âm mưu đồng
hoá của chúng.
Đáng chú ý là, ngoài con đường du nhập Nho giáo mang tính chất áp
đặt, cưỡng bức như đã trình bày ở trên, trong thời kỳ Bắc thuộc còn diễn ra
con đường du nhập “hoà bình” thông qua những trí thức, binh lính, lái buôn,
thợ thủ công, nông dân Trung Quốc. Những tầng lớp người này vì những lý
do khác nhau đã sang định cư hẳn ở nước ta. Họ đã mang vào nước ta nhiều
yếu tố của văn hoá Hán tộc, trong đó có Nho giáo, vì họ thường chịu ảnh
hưởng của Nho giáo, hệ ý thức thống trị ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Nghiên
cứu các truyền thuyết dân gian nảy sinh ở nước ta trong thời Bắc thuộc có

thể thấy, thứ Nho giáo đã “dân gian hoá” ở Trung Quốc được văn hoá dân
gian Việt tiếp thu dễ hơn là thứ Nho giáo trong các sách kinh điển mà quan
lại và nho sĩ Trung Quốc “dạy dỗ” cho dân ta. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
các tầng lớp nhân dân lao động Trung Quốc khi nhập cư có đem theo những

16
yếu tố này nọ của văn hoá Trung Hoa như vậy, nhưng cuối cùng thì họ đã
không đồng hoá được nhân dân ta vào Hán tộc. Trái lại, để có thể thích nghi
với môi trường thiên nhiên và xã hội, họ đã phải đồng hoá vào nhân dân
Việt, vào văn hoá Việt, một nền văn hoá có bản sắc độc đáo, thể hiện sự hài
hoà giữa những con người trong môi trường xã hội…Một dẫn chứng tiêu
biểu cho tình hình ấy là sự kiện sau khi chiến thắng được Hai Bà Trưng thì
tướng giặc là Mã Viện đã thiết lập ở nhiều nơi trên đất nước ta những cụm
cư dân người Hán để dễ bề kiểm soát và kìm kẹp người Việt. Sử cũ gọi đó là
dân Mã Lưu, tức là dân Hán do Mã Viện lưu ở Giao Chỉ. Nhưng dân Mã
Lưu đã không đồng hoá được người Việt vào Hán tộc mà rút cục họ lại hoà
nhập vào nhân dân Việt. Và cái tên Mã Lưu chỉ lưu lại trong sử sách một thí
nghiệm thất bại của đế chế Hán trong việc thiết lập những cụm thực dân với
mục đích Hán hóa nhân dân Việt.
Mặc dù mục đích truyền bá Nho giáo của chính quyền xâm lược để
khuất phục, đồng hoá dân tộc Việt không thành công, nhưng nó cũng làm
cho người Việt quen với Nho giáo, rồi từ đó có sự thay đổi trong nhận thức,
trong thái độ đối với Nho. Từ thế kỷ VI trở đi, cùng với sự trưởng thành của
ý thức độc lập của người Việt, việc tiếp thu các giá trị phù hợp với dân tộc
trong Nho giáo trở nên một nhu cầu thực tế của đất nước. Chính sự thống trị
cưỡng bức của nhà Hán và các điều kiện xã hội dần được xác lập ở Việt
Nam gần giống với xã hội Trung Quốc thời Hán mà ở mức độ nhất định,
Nho giáo đã có ảnh hưởng đến văn hoá và tư tưởng (đặc biệt là tư tưởng
chính trị - xã hội) của người Việt. Số người Việt chống đối Nho và xa lánh
Nho vẫn còn, nhưng bên cạnh đó đã xuất hiện khuynh hướng học Nho để sử

dụng kiến thức Nho học vào việc chống lại ách thống trị của người Hán.
Kinh điển của Nho giáo đã cung cấp cho người Việt một tư duy chính trị,
lịch sử, xã hội mang tính lý luận cao và bằng chính tư duy lý luận đó, người

17
Việt ngày càng tự ý thức rõ hơn về con đường đấu tranh giành lại chủ quyền
cho dân tộc. Nhận thức rõ âm mưu thống trị của Trung Hoa và dã tâm đồng
hoá của kẻ ngoại bang, các thế hệ thủ lĩnh người Việt dần dần từ bỏ con
đường thoả hiệp, hoà bình với kẻ thù và đã không ngừng tận dụng những cơ
hội lịch sử có được để nổi dậy giành lại quyền tự chủ. Hơn nữa, với sự tiếp
thu Nho giáo, tầng lớp ưu tú người Việt đã nâng ý thức cộng đồng, ý thức
dân tộc, ý thức độc lập tự chủ lên một tầm lý luận mới cao hơn để tự ý thức
này ngày càng trở thành động lực, thành chất keo liên kết các thành viên
trong cộng đồng Việt đấu tranh không mệt mỏi vì độc lập và chủ quyền dân
tộc. Ý thức cộng đồng dần dần phát triển thành tinh thần yêu nước nồng nàn.
Sự tôn trọng thủ lĩnh đã dần phát triển thành lòng trung thành với vị quân
vương đại diện cho lợi ích của dân tộc. Ý thức độc lập, tự chủ đã triển khai
thành các đường lối chiến lược đấu tranh và những dự án xây dựng đất nước
ngang tầm với kẻ thù phương Bắc. Những bước phát triển đó cho thấy,
người Việt lúc này không chỉ chống sự xâm lược, đồng hoá của kẻ thù mà
còn biết tận dụng những thành tựu tư duy văn hoá của kẻ đi xâm lược, biến
nó thành vũ khí lý luận tinh thần chống lại chính kẻ thù đó. Triều đại Tiền
Lý của Lý Bí chính là được xây dựng theo xu hướng theo, tinh thần của Nho
giáo, từ tư tưởng của Châu Công, Khổng Tử. Lý Bí tự xưng đế (Nam Việt
Đế), có nghĩa là ngang hàng với đế vương phương Bắc, lấy niên hiệu là
“Thiên Đức”, có nghĩa là đức chính của triều Lý có nguồn gốc tự trời, chịu
mệnh ở trời. Tư tưởng “Thiên mệnh”, “Đức trị” là những tư tưởng cơ bản
của Nho giáo. Khổng Tử từng cho rằng, chỉ có đức trị mới quy tụ được lòng
người. Mô hình về triều đại của Nam Việt Đế Lý Bí là sự thử nghiệm đầu
tiên về việc dùng lý thuyết chính trị của Nho giáo để cai trị đất nước. Các

triều đại phong kiến Việt Nam về sau cũng cơ bản lựa chọn mô hình này.
Nội dung và hình thức của các tổ chức nhà nước qua các thời kỳ “độc lập”

18
ngắn ngủi do Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Khúc
Hạo…lập nên đã chứng tỏ điều đó. Như vậy, từ thế kỷ VI nửa cuối thời kỳ
Bắc thuộc, Nho giáo đã từng bước đi sâu vào đời sống tư tưởng người Việt
trên phương diện một nhãn quan chính trị - xã hội, cung cấp cho người Việt
những tri thức và kinh nghiệm hữu ích về lịch sử, về cách thức tổ chức xã
hội, Nhà nước…
Nho học thời kỳ này cũng được truyền bá sâu hơn trong tầng lớp trên
của xã hội. Những người Việt có điều kiện học hành cũng đỗ đạt cao. Số
người thi vào cấp bậc cao của hệ thống Nho học ngày một nhiều. Đến nỗi
năm 845, nhà Đường phải quy định: sĩ tử An Nam thi khoa tiến sĩ không
được quá 8 người, thi khoa minh kinh không được quá 10 người. Tiêu biểu
cho những nhà nho có học vị cao và có trình độ thực lực Nho học ở cuối thế
kỷ VIII đầu thế kỷ IX dưới triều đại nhà Đường là hai anh em Khương Công
Phụ và Khương Công Phục. Công Phụ đậu tiến sĩ, làm quan đến Gián nghị
đại phu, sau vì thẳng thắn can gián vua Đường, bị giáng chức. Công Phục
cũng đậu tiến sĩ, làm đến Bắc bộ thị lang.
Cũng từ thế kỷ VI, VII trở đi, từ Trung Quốc vào, Phật giáo đã mang
trong mình nó những yếu tố văn hoá phương Bắc, trong đó có Nho giáo.
Phật giáo đã thông qua những nhà trí thức biết đọc chữ Hán để phổ biến kinh
sách của nó. Chính vì thế mà những trí thức Phật giáo thường am hiểu cả
Nho giáo. Họ nghiên cứu văn hoá Trung Quốc, viết văn và làm thơ bằng chữ
Hán. Kinh Phật có khi còn được chú dịch, lý giải theo quan điểm kinh điển
Nho gia và được biện chính bằng lịch sử văn hoá Trung Quốc. Còn Nho
giáo lúc này thì đã mang tính chất huyền học (pha Đạo giáo và Phật giáo).
Như vậy, mối quan hệ giữa Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đã trở nên khá
gần gũi và đó là một nhân tố, điều kiện của sự “chuẩn bị cho chính sách Tam

giáo đồng nguyên thời Lý - Trần” [48, 12].

19
Vào cuối thời thuộc Đường, những cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc liên tiếp diễn ra, như cuộc khởi nghĩa của Dương Thanh ở đầu thế kỷ thứ
IX, cuộc tự xưng Tiết độ sứ của Khúc Thừa Dụ ở đầu thế kỷ thứ X, sau đó là
của Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ làm lung lay nền thống trị của phong kiến
phương Bắc và cuối cùng là cuộc quyết chiến của Ngô Quyền đánh tan quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng giành lại độc lập cho đất nước. Khởi nghĩa
kế tiếp phát động, việc học tập, nhất là học Nho ở cấp cao, không có điều
kiện tiến hành. Vì vậy, lúc này tập trung cho việc giành lại chủ quyền dân
tộc, cho nên không có cơ sở để xuất hiện các nhà Nho Việt Nam có tên tuổi.
Tình hình này đã góp phần cắt nghĩa vai trò chính trị - xã hội mờ nhạt của
nhà Nho ở thời kỳ đầu của nước Đại Việt độc lập.
Tóm lại, trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, truyền thống văn hoá Việt mà
chủ yếu là văn hoá dân gian đã là một sức mạnh chống lại ách cai trị và
chính sách đồng hoá của các chế độ phong kiến Trung Hoa, đã là một trong
những nguồn sinh lực nuôi dưỡng cuộc đấu tranh lâu dài, khi thì âm ỉ, khi thì
bùng nổ, với hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ mà đỉnh cao là các phong
trào của Hai Bà Trưng (cuối thời Tây Hán), bà Triệu (thời Tam Quốc), Lý
Bôn và Triệu Quang Phục (thời Nam Bắc triều), Mai Thúc Loan và Phùng
Hưng (thời Đường), Khúc Hạo Và cuộc đấu tranh ấy cuối cùng đã đi tới
thành công hoàn toàn với chiến thắng Bạch Đằng (năm 938) của Ngô
Quyền. Suốt một nghìn năm ấy, Nho giáo với tư cách là hệ tư tưởng chính
thống, là một công cụ thống trị của quân xâm lược đã không thể ăn sâu, bám
rễ được vào đời sống của người dân Việt mà chỉ là một lớp váng mỏng đọng
lại ở tầng lớp trên của xã hội. Tuy nhiên, Nho giáo cũng chỉ là công cụ tinh
thần, vấn đề là ở chỗ lập trường của người sử dụng nó như thế nào. Chính vì
vậy mà từ nửa cuối thời kỳ Bắc thuộc, mặt thứ hai Nho giáo không chỉ với
tư cách là công cụ của kẻ thống trị mà nó còn được người Việt tiếp biến và


20
sử dụng làm công cụ chống lại chính những kẻ thống trị ấy. Với tư cách này,
Nho giáo đã có những ảnh hưởng nhất định đối với văn hoá và tư tưởng của
người dân Đại Việt. Nhưng đất nước lúc bấy giờ còn chưa đủ sức phục hưng
để khẳng định nền độc lập, vẫn còn lệ thuộc phương Bắc, cho nên Nho giáo
chưa thể có điều kiện đủ để được tiếp nhận, phát triển mạnh mẽ mà phải đợi
đến khi đất nước hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của phong kiến Trung
Hoa qua một thời gian nữa (đặc biệt là từ thời Lý - Trần) thì mới hội đủ
những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng thúc đẩy Nho giáo phát
triển tại Việt Nam.
- 
1.2. Điều kiện cho sự phát triển Nho giáo thời Lý - Trần
Từ năm 938, chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch
Đằng đã chấm dứt vĩnh viễn thời Bắc thuộc và mở ra kỷ nguyên độc lập,
tự chủ của dân tộc. Trong thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo được đưa vào nước
ta chủ yếu là theo vó ngựa quân xâm lược, đóng vai trò là công cụ của
giai cấp thống trị nhà Hán trong âm mưu đồng hoá dân tộc ta, cho nên thái
độ nhân dân ta là phản ứng lại Nho giáo nhằm bảo vệ, khẳng định nền độc
lập và chủ quyền đất nước, bảo tồn nòi giống, tín ngưỡng, phong tục và di
sản văn hoá cổ truyền của dân tộc. Trong thời gian đó, Phật giáo được du
nhập và được nhân dân tiếp nhận rộng rãi, nó góp phần vào việc khôi
phục chủ quyền đất nước. Điều này lý giải vai trò nổi bật của Phật giáo
trong ba triều đại: Ngô - Đinh - Tiền Lê (thế kỷ X - XI). Tuy nhiên, Phật
giáo được vận dụng vào cai trị đất nước khó lòng thiết lập trật tự, kỷ
cương một cách có hiệu quả, vì vậy, từ khi đất nước độc lập, đặc biệt là từ
thời Lý, Nho giáo dần được nhà nước phong kiến Việt Nam thừa nhận và
chú trọng phát triển. Đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà nó
xuất phát từ những nhu cầu tổ chức, quản lý xã hội đặt ra lúc bấy giờ, đó
là:


21
Trước hết, việc chú trọng phát triển Nho giáo xuất phát từ nhu cầu xây
dựng và phát triển bộ máy chính quyền nhà nước quân chủ quý tộc lớn mạnh
và nhu cầu thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, ổn định đời sống nhân dân, đảm
bảo nền độc lập dân tộc.
* Ngay từ khi được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột của chính
quyền đô hộ vào thế kỷ thứ X, việc xây dựng nhà nước phong kiến tập
quyền đã được đặt ra. Bộ máy hành chính đô hộ cũ bị xoá bỏ, được thay thế
bằng bộ máy chính quyền độc lập, tự chủ đối với phương Bắc và được hoàn
thiện dần. Khác với họ Khúc, họ Dương, Ngô Quyền đã lập ra một nhà nước
riêng biệt mà “tính chất căn bản của Nhà nước đó là một nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền” [117, 213]. Tuy nhiên, dưới các triều đại Ngô,
Đinh, Tiền Lê, công việc đó mới chỉ làm được những bước đầu tiên và chưa
được đẩy mạnh. Những gì mà các vương triều đạt được trong thời gian này
cũng chỉ như một bản dạo đầu cho sự phục hưng quốc gia Đại Việt, nền văn
hoá dân tộc đạt được cũng chỉ dừng lại ở những yếu tố mang tính chất khởi
động, bản lề. Mặt khác, chế độ phong kiến ấy chưa hoàn toàn vững chắc,
trong lòng nó còn chứa đựng nhiều mầm mống, nguy cơ làm cho chế độ đó
suy yếu và tan rã. Cung cách cai trị, quản lý xã hội của các ông vua trong
thời kỳ này là khá tuỳ hứng, mang vóc dáng của một thủ lĩnh hữu dũng mà
chưa thấy ở họ những mưu tính, những kế sách lâu dài cho dân tộc, chưa có
ở họ tầm vóc của một vị Hoàng đế và một triều đại với điển chế hoàn bị.
Không những thế, qua Đại Việt sử ký toàn thư, các ông vua thời kỳ này còn
tuỳ ý sử dụng hình phạt hết sức tàn khốc trong việc cai trị và bảo vệ ngai
vàng. Ở họ, thiếu hẳn đi một đường lối, một lý luận cai trị làm nền, làm cái
căn bản. Chế độ sở hữu ruộng đất - cơ sở kinh tế của chế độ phong kiến, ít
nhiều chứa đựng trong bản thân nó những yếu tố phân tán và đây là nguyên

22

nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng rối loạn, đe doạ sự ổn định xã hội và sự
thống nhất đất nước. Nạn 12 sứ quân cát cứ các vùng diễn ra sau thời Ngô,
nạn phế lập liên tục xảy ra trong các triều đại ấy là những minh chứng cho
điều này. Trong khi đó, nạn lũ lụt ở đồng bằng sông Hồng, thiên tai diễn ra
hàng năm đe doạ đến sản xuất và đời sống đòi hỏi phải tập hợp trí tuệ và lực
lượng của dân tộc để khắc phục. Ngoài ra, mặc dù đất nước đã được độc lập,
nhưng nạn ngoại xâm vẫn thường xuyên xảy ra đe doạ nền độc lập và chủ
quyền quốc gia, đòi hỏi phải tập hợp, đoàn kết và động viên sức mạnh của
toàn dân tộc để đối phó thành công. Tình hình trên đặt ra một yêu cầu khách
quan là phải xây dựng, củng cố và phát triển chế độ phong kiến trung ương
tập quyền, phải tập trung và thống nhất quyền lực chính trị vào một dòng họ
có thế lực, có sức mạnh. Nhưng để xây dựng và phát triển chế độ phong kiến
trung ương tập quyền mạnh mẽ, duy trì sự ổn định và phát triển đất nước, đè
bẹp những hành động xâm lược từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của giai cấp phong kiến thống trị, vào tâm lý và nguyện vọng chủ
quan của con người. Muốn thực hiện được những yêu cầu và đòi hỏi khách
quan đó, trước hết và chủ yếu là phải có một học thuyết, một lý luận soi
đường. Các triều đại phong kiến cần phải tìm ra cho mình một hệ tư tưởng
làm chỗ dựa trong việc cai trị, quản lý xã hội để đưa đất nước từng bước
vững chắc trên con đường phát triển. Yêu cầu và đòi hỏi khách quan đó đã
tạo tiền đề kinh tế - xã hội thuận lợi cho không chỉ Phật giáo mà chủ yếu là
Nho giáo có vị trí lớn hơn so với các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê. Nho giáo
với tư tưởng thiên mệnh, tôn quân quyền, với thuyết tam cương - ngũ
thường, đường lối đức trị cùng nhiều bài học kinh nghiệm được đúc rút ra
từ thực tiễn cai trị và quản lý xã hội lại đáp ứng được những yêu cầu và đòi
hỏi trên. Vì vậy mà, các triều đại phong kiến Lý - Trần và cả các triều đại

23
phong kiến về sau đã chọn Nho giáo với tư cách là học thuyết chính trị - xã
hội làm chỗ dựa tư tưởng trong việc cai trị, quản lý xã hội, trong việc kiến

tạo, duy trì và phát triển chế độ phong kiến về mọi mặt.
* Đến cuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI, để củng cố và phát triển đất nước
về mọi mặt, một trong những điều kiện có ý nghĩa quyết định là triều đại
phải thiết lập và duy trì xã hội có trật tự kỷ cương, ổn định. Có như vậy mới
tạo ra những động lực, tạo đà để phát triển. Muốn thực hiện và đáp ứng được
đòi hỏi này không thể không dựa vào một hình thái tư tưởng nhất định làm
căn cứ cho sự định hướng và chỉ đạo.
Như trên đã nói, cùng với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo cũng sớm
du nhập vào Việt Nam. Đặc biệt, đến thời Lý - Trần, Phật giáo đã có sự phát
triển khá thịnh, được nhà nước phong kiến suy tôn, chọn làm quốc giáo.
Nhưng trong bản chất và nội dung học thuyết của nó, Phật giáo và Đạo giáo
chủ yếu không phải là đạo trị nước. Với những quan niệm về sinh, lão, bệnh,
tử, luân hồi, nghiệp báo của Phật giáo; với phương pháp tu luyện trường
sinh bất tử và thuật phù thuỷ đầy tính chất mê tín, dị đoan của Đạo giáo khó
có một vai trò đáng kể trong việc tổ chức, duy trì và phát triển bộ máy Nhà
nước phong kiến, duy trì trật tự, kỷ cương và ổn định xã hội, cai trị, quản lý
xã hội và xây dựng, phát triển đất nước Trong khi đó, Nho giáo với tư cách
là một học thuyết chính trị - xã hội, đã trở thành công cụ hữu hiệu để giải
quyết những vấn đề thiết thân của việc xây dựng củng cố nhà nước phong
kiến như vấn đề tôn quân quyền, sử dụng bề tôi, những quy định, các điển
chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình trung ương cho đến địa
phương Nho giáo chủ trương quyền hành phải thống nhất, tập trung vào
thiên tử, bảo vệ sự chính thống mà trên thực tế là bảo vệ các vương triều với
quyền lợi của dòng họ thống trị và các địa vị tôn quý của nó. Đồng thời, nó
còn đưa ra những quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho hành vi ứng xử của con

×