Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Những đặc điểm của phật giáo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.03 KB, 13 trang )

Những đặc điểm của Phật giáo Việt Nam

Cổng chùa Bà Đanh
1. Tính tổng hợp
Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng nổi bật nhất của Phật giáo Việt
Nam.
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, và do
vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ pháp” thực ra vẫn chỉ là những
đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây-Mưa-Sấm-Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc phổ biến
của chùa Việt Nam là “tiền Phật, hậu Thần” với việc đưa các thần, thánh, các thành hoàng, thổ địa,
các anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Có những chùa còn có cả bàn thờ cụ Hồ Chí Minh ở Hậu
tổ. Hầu như không chùa nào là không để bia hậu, bát nhang ho các linh hồn, vong hồn đã khuất.
Phật giáo Việt Nam là tổng hợp các tông phái lại với nhau. Ở Việt Nam, không có tông phái Phật
giáo nào thuần khiết. Tuy chủ trương của Thiền tông là bất lập ngôn, song ở Việt Nam chính các
thiền sư đã để lại nhiều trước tác có giá trị. Dòng Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mẫu giáo,
nhiều thiền sư phái này, nhất là những vị sống vào thời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn
Minh Không, đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài biến hóa thần thông. Phật giáo Việt Nam cũng
tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông.
Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng mấy chục pho tượng Phật, bồ
tát, la hán của các tông phái khác nhau. Ở phía Nam, Đại thừa và Tiểu thừa kết hợp mật thiết với
nhau: nhiều chùa mang hình thức tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo
giáo lý Đại thừa, bên cạnh Phật Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh áo vàng vẫn có đồ
nâu lam.
Phật giáo Việt Nam tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho, với Đạo, tạo thành
quan niệm Tam giáo đồng nguyên (3 tôn giáo cùng phát nguyên từ một gốc) và Tam giáo đồng
quy (3 tôn giáo cùng quy về một đích).
Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ với việc đạo và việc đời. Vốn là một tôn giáo xuất thế, nhưng
vào Việt Nam, Phật giáo trở nên rất nhập thế: Các cao tăng được nhà nước mời tham chính hoặc cố
vấn trong những việc hệ trọng. Sự gắn bó đạo – đời không chỉ thể hiện ở việc các nhà sư tham gia
chính sự, mà ngược lại còn có khá nhiều vua quan quý tộc đi tu. Trong 6 thế hệ đệ tử của phái
Thảo Đường thì đã có tới 9 người là vua quan đương nhiệm. Không phải ngẫu nhiên mà ở sân chùa


Phổ Minh, quê hương nhà Trần, lại có chiếc vạc đồng lớn (1 trong “An Nam tứ đại khí”) tượng
trưng cho quyền lực.


Vẫn với truyền thống gắn bó với đời, đầu thế kỷ XX, Phật tử
Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoạt động xã hội (như
cuộc vận động đòi ân xá Phan Bội Châu và đám tang Phan
Châu Trinh). Thời Diệm – Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham
gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lập
dân tộc, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống đường đấu tranh
phản đối nền độc tài của gia đình họ Ngô, đỉnh cao là sự kiện
hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963.
2. Khuynh hướng thiên về nữ tính
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam
biến thành Phật Ông – Phật Bà. Bồ tát Quán Thể Âm đã được
biến thành Phật Bà Quan Âm với nghìn mắt nghìn tay – vị
thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước Đông Nam Á
(nên còn gọi là Quan Âm Nam Hải). Ở một số vùng, ngay cả
Phật tổ Thích Ca cũng được coi là phụ nữ (người Tày Nùng
Phật bà nghìn mắt nghìn tay
gọi là “Mẹ Pựt Xích Ca”). Người Việt Nam còn tạo ra những
“Phật bà” riêng của mình: Đứa con gái nàng Man, tương truyền sinh vào ngày 8-4 được xem là
Phật Tổ Việt Nam, bản thân bà Man trở thành Phật Mẫu. Rồi còn những vị Phật bà khác nữa như
Quan Âm Thị Kính, Phật bà chùa Hương. Lại còn rất nhiều các bà bồ tát như Bà Trắng chùa Dâu,
các thánh mẫu…
Việt Nam có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa Bà Đậu, chùa Bà Tướng,
chùa Bà Dàn, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh… Tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia là các bà: Trẻ vui
nhà, già vui chùa là nói cảnh các bà.
Chùa hòa nhập với thiên nhiên, bao giờ cũng là nơi phong cảnh hữu tình; bởi vậy mới có cách nói
ví “vui như trảy hội chùa”. Cảnh chùa hữu tình, hội chùa vui, cửa chùa rộng mở, cho nên cũng là

nơi chở che cho trai gái tình tự: “Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa
Thầy”.
3. Tính linh hoạt
Ngay từ đầu, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo cho riêng mình: nàng Man, cô gái
làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo, trở thành Phật tổ với ngày sinh
là ngày Phật đản 8-4.
Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa:
Thứ nhất là tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù xây chín bậc phù đồ, Không bằng làm
phúc cứu cho một người; coi trọng truyền thống thờ cha mẹ, ông bà hơn là thờ Phật: Tu đâu cho
bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới là chân tu; đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật: Phật trong nhà
không thờ đi thờ Thích ca ngoài đường (Tục ngữ).
Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng
cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa: Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời, Đương cơn hoạn nạn
độ người trầm luân; làm nên mây mưa sấm chớp để mùa màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ pháp);
ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự: Tay bưng quả nếp vô chùa, Thắp nhang lạy
Phật xin bùa em đeo); ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ
phật và hái lộc lúc giao thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu
kinh và làm lễ tiễn đưa người chết).


Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt
Nam có khi phá cả giới Phật giáo. Có nơi, do muốn
buộc ông sư phải gắn bó với làng mình để giữ chùa,
cúng lễ; dân làng đã tổ chức cưới vợ cho sư, khiến
ngôi chùa gần như trở thành một gia đình.
Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với
những tên gọi rất dân gian: ông Nhịn ăn mà mặc
(Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di-lặc
to béo), ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc quăn)… Nhiều
pho tượng được tạc theo lối ngồi không phải trên

Đức Phật Di-lặc
tòa sen mà là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản
dị. Trên đầu Phật Bà chùa Hương còn lấp ló lọn tóc đuôi gà truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Ngôi chùa Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền với hình thức mái cong có
3 gian 2 chái… Chùa Một Cột như một lễ vật dâng lên Phật Bà với hình bông sen thanh thoát ở
trên và trụ đá tròn trong hồ vuông ở dưới biểu hiện ước vọng phồn thực (no đủ và đông đúc).
Cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành công trình công cộng quan trọng thứ hai ở mỗi làng. Người
dân đi bất kỳ đâu có thế ghé chùa xin nghỉ tạm hoặc xin ăn.

Theo Sách Cơ sở Văn hóa Việt Nam (PGS. Trần Ngọc Thêm, 1999
Chùa Dâu, được xây dựng ở cổ thành Luy Lâu từ thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, là ngôi chùa
cổ nhất và là nơi khởi nguồn của đạo Phật Việt Nam.

Chùa nằm phía nam cổ thành Luy Lâu, trên một khu đất rộng bên bờ sông Thiên Đức cũ (nay
thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Xa xưa người
dân ở đây thường sống bằng nghề trồng dâu, nuôi tằm và cấy lúa nước nên dân gian xưa gọi là
vùng dâu hoặc Kẻ Dâu.
Ban đầu chùa có tên là Pháp Vân Tự. Theo sự tích dân gian, Man Nương vào tu tại chùa Linh
Quang (thuộc huyện Tiên Sơn ngày nay) từ năm 12 tuổi. Một hôm Man Nương đang nằm ngủ,
nhà sư Khâu Đà La người Tây Trúc (Ấn Độ) vô tình bước ngang qua người. Bà Man Nương có
mang, sau 14 tháng thì sinh ra một cô con gái. Trước khi về Tây Trúc sư Khâu Đà La đã trao cho
Man Nương một cây gậy tầm xích dặn là khi nào hạn hán mang ra cắm xuống đất sẽ cứu được
mọi sinh linh và niệm chú gửi bé gái vào một hốc cây dâu bên bờ sông Thiên Đức.
Sau khi sư về Tây Trúc, hạn hán kéo dài ba năm. Man Nương liền dùng gậy tầm xích cắm xuống
đất tạo ra mưa. Cây dâu bị đổ trôi về thành Luy Lâu và trôi vào bờ khi nghe tiếng bà Man Nương
gọi. Man Nương cho xẻ tạc cây thành bốn tượng Phật gọi là tứ pháp, đặt phật hiệu là Pháp Vân,
Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng trưng cho mây, mưa, sấm, chớp. Khi tạc đến khúc giữa,
những người thợ gặp phải hòn đá bèn ném xuống sông. Ban đêm, lòng sông sáng rực lên. Thì ra
đó là người con gái của Khâu Đà La gửi vào cây dâu đã hóa đá. Hòn đá nhảy vào thuyền bà Man
Nương và được bà đưa lên thờ, gọi là đức Thạch Quang (đá tỏa sáng).

Man Nương sau được tôn là Phật mẫu, tu ở chùa Tổ (Mãn xá), còn tứ pháp được thờ ở bốn chùa


khác nhau trong cùng một khu vực.
Pháp Vân Tự - Chùa Dâu là nơi tu hành đắc đạo của nhiều vị cao tăng nổi tiếng. Với ý nghĩa là
một Trung tâm Phật giáo từ đầu Công nguyên, nơi đây đã đào tạo 500 vị tăng ni, dịch 15 bộ kinh
phật và xây dựng hàng chục bảo tháp uy nghiêm. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ trì
như Mâu Bát, Tì Ni Da Lưu Chi, Khang Tăng Hội, Pháp Hiền.
Chùa Dâu được coi là một ngôi chùa rất thiêng nên còn được gọi là chùa Diên Ứng (diên là câu,
ứng là hiệu, tức cầu gì được nấy). Các đời vua của các triều đại xa xưa đã từng về chùa Dâu để
rước tượng Pháp Vân về chùa Báo Thiên (Hà Nội) để cầu đảo (cầu mưa cầu gió). Vua Lý Thánh
Tông cũng đã về chùa cầu tự, khi đi thuyền trên sông đã gặp nguyên phi Ỷ Lan.
Chùa Dâu ngày nay là kiến trúc tu sửa từ thế kỷ 17-18, thời Hậu Lê. Chùa chính được bố cục
theo kiểu "nội công ngoại quốc", nằm trong khuôn viên hình chữ nhật 30x70m, bao gồm tiền
đường, tháp Hòa Phong, tả trường lang, hữu trường lang, đại bái đường, Phật điện, cung cấm,
hậu đường, Thạch Quang am.
Trải qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Dâu và hội Dâu vẫn luôn là điểm đến của Phật tử cả
nước. Du khách đến với chùa Dâu như về với cội nguồn của đạo Phật nước Nam, để cầu khẩn
một sự bình yên trong tâm hồn như cái tên bình dị, mộc mạc của ngôi chùa cổ trên đất Bắc Ninh.
Theo TTXVN
Việt Báo

Chùa Dâu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Chùa Pháp Vân.

Chùa Dâu
延應寺 (Diên Ứng tự)
法雲寺 (Pháp Vân tự)


Chùa Dâu nhìn từ tam quan, tháp Hòa Phong ở
chính giữa

(Theo_Thanh_Nien


Thông tin
Khởi
lập

đầu Công nguyên

Địa chỉ xã Thanh Khương, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh
Quốc
gia

Việt Nam

Chủ đề:Phật giáo
Chùa Dâu, còn có tên là Diên Ứng (延應寺), Pháp Vân (法雲寺), hay Cổ Châu, là một ngôi
chùa nằm ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30 km.
Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Duyên
ứng tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích
vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại.
Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo
Việt Nam. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân (法雲寺, "mây pháp"),
chùa Đậu thờ Pháp Vũ (法雨寺, "mưa pháp"), chùa Tướng thờ Pháp Lôi (法雷寺, "sấm pháp"),
chùa Dàn thờ Pháp Điện (法電報寺 "chớp pháp") và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp.

Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ các nữ thần.
Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung
trong chùa Dâu.

[sửa] Lịch sử
Chùa được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên. Các nhà sư Ấn Độ đầu tiên đã từng đến đây. Vào
cuối thế kỷ 6, nhà sư Tì-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc đến chùa này, lập nên một phái Thiền ở Việt
Nam. Chùa được khởi công xây dựng năm 187 và hoàn thành năm 226, là ngôi chùa lâu đời nhất
và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam, được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử ngày
28 tháng 4 năm 1962.
Chùa Dâu gắn liền với sự tích Phật Mẫu Man Nương thờ tại chùa Tổ ở làng Mèn, Mãn Xá cách
chùa Dâu 1 km.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp theo. Vua Trần
Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp
chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tòa thượng điện, chỉ còn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà
Trần và thời nhà Lê.

[sửa] Kiến trúc


Tượng Pháp Vân chùa Dâu, phía trước là hộp đặt Thạch Quang Phật
Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại
quốc". Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu
hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian
thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc
Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho
tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa
chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2 m
được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới

những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ.
Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ
Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị Pháp phá hủy, nên tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở
chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên
đại thế kỷ 18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng được đặt trên một bệ gỗ
hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được
nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay
chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt
trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m.
Tầng dưới có 4 cửa vòm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh
đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia
vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu
vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Có câu thơ lưu truyền dân gian:.
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.


Ngày hội chùa Dâu được tổ chức rất long trọng và quy mô, tuyến hành hương về nơi đất Phật còn
mở rộng tới chùa Phúc Nghiêm - chùa Tổ - nơi thờ Phật Mẫu Man Nương.

[sửa] Liên kết ngoài
Chùa Dâu- ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam
(VOV) - Chùa Dâu tọa lạc ở xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 30km.
Chùa có nhiều tên gọi: Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Đình tự, Cổ Châu tự. Nơi đây là trung tâm thành cổ

Luy Lâu từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên.

câu
thơ

ai
đi
Hễ
trông
thấy

ai
buôn
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu

lưu

truyền

dân

đâu
tháp chùa

về
Dâu

bán

thì

trăm

gian:
đâu
về,
nghề

Theo ghi chép trong sách sử và bia đá, đây là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, là nơi giao lưu của hai luồng văn
hóa Phật giáo, một từ Ấn Độ sang, một từ phương Bắc xuống. Chùa được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 (khởi công xây
dựng năm 187 và hoàn thành năm 226) dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú. Chùa Dâu thờ nữ thần Pháp Vân nên gọi là
chùa Pháp Vân và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với truyện cổ tích Tứ
pháp của người Việt xưa.
Vào đầu công nguyên, các tăng sĩ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu Đà La, đã tới Dâu – tức Luy Lâu tiến hành truyền bá đạo
Phật, lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu – trung tâm Phật giáo lớn nhất và cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa tháp
được xây cất nguy nga bên cạnh thành quách, đền đài, cung điện, lầu gác, phố chợ sầm uất của đô thị Luy Lâu, trong
đó chùa Dâu là trung tâm trong hệ thống các chùa thờ Phật và thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện),
một nét độc đáo trong sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian của người Việt. Chùa Dâu trở thành
trung tâm của Thiền phái Tì ni đa lưu chi – Thiền phái đầu tiên của Phật giáo Việt Nam.

Tiền đường Chùa Dâu

Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tiếp
theo. Vua Trần Anh Tông đã sai trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa trăm gian, tháp chín
tầng, cầu chín nhịp. Bao quanh tòa điện chính hình chữ công là những dãy nhà ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội
công ngoại quốc.


Tháp Hòa Phong

Chính giữa sân chùa trước bái đường, Mạc Đĩnh Chi đã cho dựng ngôi tháp Hòa Phong cao chín tầng, nay chỉ còn ba.

Ngôi tháp vuông xây bằng gạch trần, dáng chắc khỏe nổi bật giữa khung cảnh xung quanh. Tháp tượng trưng cho
ngọn núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên vương trấn giữ, trên tháp treo một khánh đồng cổ.

Thượng điện nhìn từ bên ngoài
Ban thờ Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi

Tháp Hòa Phong Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành.
Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi
thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hòa Phong tháp". Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7
m. Tầng dưới có 4 cửa vòm. Từ "Hoà Phong" có nghĩa là ngọn gió mát mẻ, tốt lành.


Trong tháp có treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời- cao 1,6 m ở bốn góc

Con cừu đá

Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Điều
này làm ngạc nhiên nhiều du khách, bởi xưa kia nước Việt không có con cừu. Truyền sử kể rằng: vào thời Luy Lâu còn
là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của cả nước ta, có vị sư người Tây Thiên sang nước ta tu hành truyền bá đạo
Phật. Ông dắt theo 2 con cừu. Một hôm sơ ý để 2 con đi lạc, 1 con lạc đến chùa Dâu, 1 con lạc đến lăng Sĩ Nhiếp (thái
thú Giao Chỉ thời đó), dân ở 2 vùng này đã tạc tượng 2 con cừu bằng đá ở nơi chúng đến để thờ. Do vậy hiện nay
chùa Dâu có 1 con, lăng Sĩ Nhiếp (cách đó 3 km) có 1 con.
Trải qua bao biến động lịch sử, thành lũy, đền dài, dinh thự của trung tâm Luy Lâu bị hoang phế. Nhưng chùa Dâu với
tháp Hòa Phong vươn cao và hàng trăm gian chùa cổ kính vẫn tồn tại với thời gian. Lịch sử đã từng khẳng định vị trí
của chùa Dâu trong đời sống văn hóa, tâm linh dân tộc. Chùa là môôt danh lam bâôc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay.
Chùa đã được Bôô Văn hóa công nhâôn là Di tích lịch sử-văn hóa quốc gia.
Chỉ dẫn đường đi: Cùa Dâu nằm trên địa phận xã Thanh Khương - Thuận Thành - Bắc Ninh. Có thể tới chùa bằng
nhiều đường, tuy nhiên đường ngắn nhất tính từ trung tâm TP Hà Nội là: Cầu Chương Dương- Đường Nguyễn Văn Cừ
- Cầu Chui - đường QL 5 - tỉnh lộ 181 - Dương Xá ( Gia Lâm ) - Phú Thị ( Gia Lâm ) - Thuận Thành - Phố Dâu - Chùa
Dâu.



Tiền đường của chùa Dâu

18 vị La Hán trong chùa


Hậu điện phía sau chùa chính

Các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện sau chùa
chính


Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử


Thăm Chùa Dâu



×