Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

giá trị nhân sinh của thơ thiền việt nam thời lý – trần xét từ phương diện hình tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (793.99 KB, 153 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
…O…

MAI Ý NHI

GIÁ TRỊ NHÂN SINH
CỦA THƠ THIỀN VIỆT NAM THỜI LÝ
– TRẦN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN HÌNH
TƯỢNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
…O…

MAI Ý NHI

GIÁ TRỊ NHÂN SINH
CỦA THƠ THIỀN VIỆT NAM THỜI LÝ
– TRẦN XÉT TỪ PHƯƠNG DIỆN HÌNH
TƯỢNG
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 602234

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐOÀN THỊ THU VÂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Đoàn Thị Thu Vân – người đã trực tiếp hướng dẫn tôi.
Xin cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Khoa học Công nghệ và Sau đại
học, khoa Ngữ văn, các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam của trường
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện môi trường
cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
Tác giả luận văn

Mai Ý Nhi


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .................................................................................. 3
MỤC LỤC ........................................................................................ 4
MỞ ĐẦU ........................................................................................... 7
1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU .................................................. 7
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ...................................................................................... 9
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................ 16
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................ 17
5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI ............................................................. 18
6. Cấu trúc luận văn: .................................................................................... 19


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................. 21
1.1. BỐI CẢNH VĂN HÓA - LỊCH SỬ THỜI ĐẠI LÝ – TRẦN ............ 21
1.1.1. Khái niệm thời đại Lý - Trần ...................................................................21
1.1.2. Tình hình chính trị, xã hội thời Lý – Trần .............................................22
1.1.3. Sự phát triển hưng thịnh của Phật giáo thời Lý – Trần ........................24
1.1.4. Nền văn học thời Lý - Trần .....................................................................26

1.2. THƠ THIỀN LÝ - TRẦN ...................................................................... 28
1.2.1. Khái niệm “thơ thiền” .............................................................................28
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản, loại biệt của thơ thiền ...................................30
1.2.3. Khái quát về nội dung và nghệ thuật của thơ thiền Lý - Trần ..............32

1.3. MỘT SỐ TRIẾT LÝ NHÂN SINH CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO VÀ
PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG THỜI LÝ - TRẦN ...................................... 34
1.3.1. Một số triết lý nhân sinh cơ bản của Phật giáo ......................................34
1.3.2. Phật giáo Thiền tông Việt Nam thời Lý - Trần ......................................37

CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ NHÂN SINH CỦA HÌNH TƯỢNG
CON NGƯỜI TRONG THƠ THIỀN LÝ - TRẦN .................... 41
2.1. CON NGƯỜI AN NHIÊN, TỰ TẠI VÌ HIỂU ĐƯỢC QUY LUẬT
CỦA CUỘC SỐNG, NHÂN SINH. ............................................................. 42
2.1.1. Quan niệm về nhân sinh, vũ trụ của triết lý Phật giáo Thiền tông. ......42


2.1.2. Cảm nhận sâu sắc của con người về sự tàn phai, biến ảo của cuộc đời
.............................................................................................................................44
2.1.3. Thái độ an nhiên, tự tại của con người vì hiểu được quy luật cuộc sống,
nhân sinh ............................................................................................................46
2.1.4. Ý thức về sự hữu hạn của đời người, con người cần sống bằng những

việc làm có ý nghĩa, tránh lãng phí cuộc đời. ...................................................53

2.2. CON NGƯỜI SỐNG TRỌN VẸN VỚI THỰC TẠI .......................... 55
2.2.1. Trạng thái vô ngôn ...................................................................................56
2.2.2. Trạng thái “quên” ....................................................................................60
2.2.3. Trạng thái bừng tỉnh giác ngộ của tâm thức ..........................................63

2.3. CON NGƯỜI MANG VẺ ĐẸP TỰ THÂN ......................................... 65
2.3.1. Con người với chân tâm trong sáng vô biên ...........................................65
2.3.2. Con người với trí tuệ siêu việt và khả năng tự lực, tự cường ................75

2.4. CON NGƯỜI YÊU ĐỜI VÀ TÍCH CỰC NHẬP THẾ ...................... 77
2.4.1. Tư tưởng “Hòa quang đồng trần”, “Cư trần lạc đạo” ..........................77
2.4.2. Sự thể hiện lòng yêu đời và tinh thần tích cực nhập thế .......................81

CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ NHÂN SINH CỦA HÌNH TƯỢNG
THIÊN NHIÊN TRONG THƠ THIỀN LÝ - TRẦN ................. 89
3.1. THIÊN NHIÊN CỦA CUỘC SỐNG HIỆN THỰC, BÌNH DỊ TRÊN
QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC ........................................................................ 89
3.1.1. Thiên nhiên của cuộc sống hiện thực .....................................................89
3.1.2. Thiên nhiên dân dã, bình dị ....................................................................93
3.1.3. Thiên nhiên trên quê hương, đất nước ...................................................97

3.2. THIÊN NHIÊN ĐẬM ĐÀ THIỀN VỊ .................................................. 98
3.2.1. Thiên nhiên xuất hiện “như nó vốn là” .................................................99
3.2.2. Thiên nhiên quấn quýt, chan hòa .........................................................102
3.2.3. Thiên nhiên thanh nhã, u tịch...............................................................107
3.2.4. Thiên nhiên vừa hư vừa thực ................................................................113

CHƯƠNG 4: GIÁ TRỊ NHÂN SINH CỦA HÌNH TƯỢNG

KHÔNG GIAN, THỜI GIAN TRONG THƠ THIỀN LÝ TRẦN ............................................................................................ 119
4.1. HÌNH TƯỢNG KHÔNG GIAN ......................................................... 119


4.2. HÌNH TƯỢNG THỜI GIAN .............................................................. 139

KẾT LUẬN .................................................................................. 147
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 151


MỞ ĐẦU

1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.1. Bất cứ sáng tác văn học chân chính nào cũng đều gặp nhau ở mục đích cuối
cùng là phục vụ đời sống con người, làm cho đời sống con người tốt đẹp hơn. Thơ
thiền Lý - Trần với tư cách là văn học Phật giáo nhưng những sáng tác không chỉ
nói đến Đạo đơn thuần mà còn ẩn chứa trong đó những quan niệm về cuộc đời của
kiếp nhân sinh. Thông qua quan niệm đó của người xưa mà có thể gạn đục khơi
trong cho cuộc sống mỗi ngày trở nên tốt đẹp hơn, nhân ái hơn. Tìm hiểu giá trị
nhân sinh trong thơ thiền Lý - Trần, người viết mong góp phần vào mục đích cao
quý đó của văn học.
1.2. Thời đại Lý - Trần là tên gọi chung cho sáu triều đại phong kiến Việt Nam đầu
thời tự chủ (từ khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (938)
cho đến cuối đời Hồ, khi giặc Minh sang xâm lược nước ta năm 1418). Trong đó, có
hai triều đại Lý và Trần là hào hùng và oanh liệt, rực rỡ và đẹp đẽ nhất trong lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam. Trước và sau hai triều đại này, mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội bị xuống cấp một cách trầm trọng. Do đâu có được một thời đại như
vậy? Thiết nghĩ nguyên nhân thì có nhiều nhưng không thể bỏ qua yếu tố làm hạt
nhân tư tưởng cơ bản. Đó chính là “quan niệm sống” đã chi phối đến suy nghĩ và
hành động của con người trong thời kì này. Và có lẽ thơ ca là cách tương đối hữu

hiệu nhất để những thế hệ đi trước không ngại bộc bạch những suy nghĩ, những
quan niệm nhân sinh của mình một cách rõ nét. Vì thế, tìm hiểu giá trị nhân sinh
trong thơ thiền là một việc làm cần thiết nếu chúng ta muốn cắt nghĩa những hiện
tượng lịch sử như trên.
1.3. Để đến được mục đích chính của đề tài, người viết đã chọn con đường tiếp cận
thông qua thế giới nghệ thuật (hình tượng) trong thơ thiền Lý - Trần mà không xét
từ phương diện khác vì như lý thuyết Lý luận văn học đã cho rằng, thể hiện hết ý


tưởng không gì bằng hình tượng và đối với thơ thiền, lý thuyết đó lại càng tỏ ra
đúng đắn. Nhất là khi không thể diễn đạt kinh nghiệm thiền bằng lời nói hay văn tự
thì hình tượng nghệ thuật là phương tiện hữu hiệu chuyên chở cảm xúc thiền và thể
hiện thiền ý của tác giả. Mặc khác, việc áp dụng những thành tựu lý luận của thi
pháp học hiện đại để khám phá văn học viết trong thời kì trung đại là một thử
nghiệm khá lý thú và hứa hẹn nhiều triển vọng. Thơ thiền Lý - Trần mới nghe qua
tưởng chừng như là loại văn học chức năng trong nhà chùa nhưng khi tiến hành tìm
hiểu nó dưới ánh sáng của lý luận thi pháp học, ta mới vỡ lẽ ra rằng thơ thiền cũng
chứa đựng trong đó một thế giới nghệ thuật hài hòa, bóng bẩy như các bộ phận văn
học khác.
1.4. Trong thực tế giảng dạy ở trường phổ thông, văn học cổ nói chung và thơ thiền
nói riêng, học sinh không thích vì cho là khô khan, trừu tượng và khó hiểu. Vả lại,
việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ thiền đối với một bộ phận giáo viên không phải là một
điều dễ dàng, thậm chí rất khó khai thác loại thơ này để làm sao trong thời gian
ngắn ngủi tổ chức dạy cho học sinh lĩnh hội đúng nội dung bài thơ. Những khó khăn
đó có lẽ xuất phát từ việc chưa nhận thức được cái cốt lõi làm nên sức sống của
những bài thơ (Ở đây là bộ phận thơ thiền). Giá trị đích thực ấy không nằm ở giáo
lý khô khan, trừu tượng mà chính ở vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm, những quan niệm
sống lạc quan, tích cực của con người một thời. Nếu truyền tải được điều ấy, hy
vọng người học sẽ cảm nhận được cái hay của mỗi bài thơ và ý thức được tác dụng
tư tưởng hữu ích của mảng thơ này đến bản thân và xã hội. Về phía giáo viên cũng

có thể bù đắp được hạn chế về thời gian tiết học câu thúc khi chọn cách giảng về
“điểm”, sẽ tạo sự lan tỏa về “diện”.
Trên đây là một vài lý do cơ bản để chúng tôi đến với đề tài “Giá trị nhân
sinh của thơ thiền Việt Nam thời Lý - Trần xét từ phương diện hình tượng”. Trước
một “mỏ quặng” quý hứa hẹn nhiều tiềm năng, luận văn chúng tôi hy vọng có được
một vài đóng góp nhỏ bé, nhằm khẳng định giá trị của mảng thơ để lại nhiều dấu ấn
trong văn học cổ - bộ phận thơ thiền thời Lý – Trần.


2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Tuy chưa có một công trình chuyên biệt nào dành riêng để khảo sát, nghiên
cứu vấn đề “Giá trị nhân sinh trong thơ thiền Lý - Trần” nhưng phương diện hình
tượng vốn được coi là một biểu hiện quan trọng của thi pháp nên trong quá trình
nghiên cứu các vấn đề của văn học trung đại, các tác giả đều lưu tâm xem xét, đề
cập đến nó.
2.1. Về hình tượng con người
Vấn đề tìm hiểu con người trong văn học cổ từ lâu đã được các nhà nghiên
cứu quan tâm. Trong thơ thiền Lý - Trần, có thể nêu ra một số công trình nghiên
cứu, bài viết như sau:
- Bài viết Vấn đề con người trong văn học thời đại Lý - Trần của Đoàn Thị
Thu Vân trong quyển Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (Nguyễn
Hữu Sơn chủ biên, NXB Giáo dục, HN, 1998) đã phân loại bốn phương diện biểu
hiện con người cá nhân trong thơ thiền Lý - Trần là: con người tự do, con người vô
ngã, con người vô ý, con người vô ngôn. Tác giả kết luận bốn phương diện này đều
hướng đến con người vũ trụ.
- Nguyễn Phạm Hùng trong chuyên luận: Thơ thiền Việt Nam - những vấn
đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật (NXB Đại học quốc gia, HN, 1998) đã đứng trên
tiêu chí về chức năng tôn giáo mà cho rằng, con người trong thơ thiền là con người
lưỡng thể, là sự hòa nhập của con người Phật giáo và con người cá nhân.
- Nguyễn Công Lý với Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tông thời Lý –

Trần (NXB Văn hóa thông tin, 1997) đã thông qua việc hệ thống lại những quan
niệm về con người của những nhà nghiên cứu trước, rút ra hai hướng tiếp cận
nghiên cứu. Một là, hướng tiếp cận những phẩm chất Phật giáo trong con người.
Hai là, hướng tiếp cận những phẩm chất con người cá nhân với cá tính đầy cởi mở,
rung động, dạt dào niềm tin, tràn đầy sức sống. Qua đó, người viết cũng đã làm nổi
rõ hình tượng thiên nhiên – đất nước, con người – cuộc sống trong văn học Thiền
tông như thế nào.


- Tác giả Lê Thị Ngọc Hạnh trong luận văn thạc sĩ Chủ nghĩa nhân văn và tư
tưởng giải thoát trong thơ thiền Lý Trần (2003) đã nêu ra các cặp đối sánh như sau:
con người nhân văn - con người và Phật tính thường hữu trong tâm; con người tự do
cá nhân - con người vô ngã; con người trần tục - con người đời, đạo không hai. Vậy
là xuất hiện thêm hai khái niệm: con người đời, đạo không hai và con người Phật
tính thường hữu.
- Tác giả Lê Thị Thanh Tâm trong bài viết Con người hành hương trong thơ
thiền Lý - Trần và Đường Tống (khoavanhoc – ngonngu.edu.vn) đã đề cập đến hình
tượng con người hành hương như một phát hiện khá mới mẻ. Ở đấy là con người
với hành trình lên núi cao, con người với những chuyến tiêu dao, chơi đùa, con
người với chiếc thuyền trên sông nước, con người tìm kiếm.
Qua các công trình trên, các tác giả đều thống nhất với nhau một điểm rằng,
con người trong văn học Phật giáo thời Lý - Trần là con người đầy bản lĩnh, con
người vô ngã, con người vô ngôn, tự do, hòa nhập vũ trụ. Đồng thời, đó cũng là con
người hòa quang đồng trần, tùy duyên, tùy tục, biết kết hợp đạo với đời, vào đời
hành đạo một cách tích cực.
Các cách phân loại như vậy đều dựa trên nguyên tắc, tiêu chí riêng và giới
hạn sự phân loại ấy trong một phạm vi tham chiếu nhất định. Ví dụ: tiêu chí về triết
học Thiền tông (vô ngã, vô ý, vô ngôn, tự do…); tiêu chí về chức năng tôn giáo
(con người Phật giáo và con người cá nhân); tiêu chí về đối sánh trào lưu văn học
với đặc điểm nội dung thể loại (chủ nghĩa nhân văn và tư tưởng giải thoát…); tiêu

chí về mỹ học Phật giáo (con người hành hương…).
2.2. Về hình tượng thiên nhiên
Một số công trình sau có đề cập:
- Luận án tiến sĩ Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế
kỉ thứ XI đến thế kỉ thứ XIV của tác giả Đoàn Thị Thu Vân (1995) đã nghiên cứu
một cách khá tổng quát về các phương diện đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền như
ngôn ngữ thơ, hình tượng con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật,
thể thơ, cách miêu tả, thể hiện và giọng điệu, kết cấu…, trong đó có hình tượng


thiên nhiên. Theo tác giả, thiên nhiên trong thơ thiền Lý - Trần được miêu tả theo
hai xu hướng: mang ý nghĩa trực tiếp và mang ý nghĩa biểu tượng. Thiên nhiên
mang ý nghĩa trực tiếp là thiên nhiên sinh động, nên thơ, gợi cảm của con người đời
thường, đồng thời cũng chứa cảm hứng thiền, tâm trạng thiền, mang ý vị thiền do
được nhìn qua con mắt của thiền gia. Thiên nhiên mang ý nghĩa biểu tượng là thiên
nhiên dùng để nói lên một số quan niệm của triết lý Phật giáo Thiền tông… Qua kết
quả khảo sát một cách nghiêm túc, tác giả cũng đã đưa ra những luận cứ về những
thi liệu được sử dụng nhiều khi miêu tả thiên nhiên như tần suất xuất hiện và tất
nhiên theo đấy là dụng ý nghệ thuật của người sáng tác.
- Nguyễn Công Lý trong chuyên luận Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền
tông thời Lý - Trần (NXB Văn hóa thông tin, 1997) cũng đã dành một số trang viết
để nói lên cảm nhận của mình về thiên nhiên - đất nước trong văn học Thiền tông
thời Lý - Trần. Cùng một nhận định với tác giả Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Công
Lý cho rằng: “…thiên nhiên trong thơ họ được sử dụng như một phương tiện miêu
tả, một văn cảnh tượng trưng cho những thế lực siêu nhiên, trừu tượng của triết lý
nhưng phần cảm xúc thường ẩn sau những nhận xét nghiêm trang về tôn giáo” [24,
102]. Bên cạnh đó “…thiên nhiên còn được tác giả miêu tả dường như có vẻ gần
gụi với con người hơn, hay nói khác đi thi nhân tìm đến với tạo vật với những xúc
động, rung cảm đích thực là của con người phàm trần…” [24, 107] . Ngoài hai kết
luận phổ biến thường gặp ở các nhà nghiên cứu là thiên nhiên - đối tượng thẩm mỹ

đích thực và thiên nhiên mang ý nghĩa biểu tượng, bài viết trên đề cập đến một đặc
điểm khác của thiên nhiên trong thơ thiền là thiên nhiên gắn liền với đất nước, cuộc
sống của con người Việt Nam.
- Ngoài ra, mảng “thiên nhiên mang ý nghĩa trực tiếp” mà cũng là “đối tượng
thật sự để chiếm lĩnh và miêu tả” còn được khai thác sâu hơn qua một số bài viết
như: Cảm hứng thiền trong thơ thiên nhiên đời Trần của tác giả Trầm Thanh Tuấn
(Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 710); Trần Nhân Tông - Cảm hứng thiền trong thơ
của tác giả Phạm Ngọc Lan (Tạp chí Văn học, số 4, năm 1992); Trần Nhân Tông
giữa cảnh đời hư thực của tác giả Nguyễn Phạm Hùng (Tạp chí Nghiên cứu Phật


học, số 4, năm 1998)… Các bài viết trên đã chứng minh được cảm quan thiền trong
cách cảm nhận thiên nhiên của các thiền gia. Đó là kết luận về cảnh sắc thiên nhiên
lung linh, huyền ảo, mơ hồ được tạo dựng nên bởi sự đối lập giữa thực và hư, giữa
sắc và không, giữa hữu và vô…tạo cảm giác về sự hiện hữu, vô thường của vạn vật
trong cái hằng thường của bản thể vô cùng.
2.3. Về hình tượng không gian
- Nguyễn Công Lý trong công trình Văn học Phật giáo thời Lý Trần - Diện
mạo và đặc điểm (NXB Đại học quốc gia, TP. HCM, 2002) cũng nhiều lần nhắc đến
hình tượng không gian trong văn học Phật giáo nhưng nhìn chung cách đánh giá về
không gian này vẫn mang tầm bao quát cao và chưa đi vào từng đối tượng cụ thể.
- Đoàn Thị Thu Vân trong luận án Tiến sĩ Khảo sát một số đặc trưng nghệ
thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV (năm 1995) đã nêu lên những đặc
trưng cơ bản của không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lý - Trần. Vì giới hạn cho
phép của luận án, tác giả chủ yếu khai thác mảng không gian mang cảm hứng thiền
chứ chưa đi sâu phân loại, đánh giá từng kiểu không gian nghệ thuật khác. Tác giả
kết luận không gian trong thơ thiền Lý - Trần thường là một không gian bao la,
thoáng đạt, trong trẻo và lặng lẽ, nó biểu tượng cho cái đại ngã tuyệt đối vô biên mà
con người luôn hướng tới hội nhập. Không gian ấy luôn hàm chứa sự vận động vô
cùng, sự đối lập giữa cái vô cùng lớn lao và cái vô cùng nhỏ bé, khi đó con người

muốn đưa tâm mình hòa nhập vào vũ trụ lớn lao để sống trọn vẹn trong nó, đó chính
là thế giới tâm linh bát ngát, trong lặng, không mùi vị của thiền gia. Ngoài ra, còn
có không gian thể hiện bản chất, qui luật vận động của vũ trụ mà trong đó vạn vật
luôn tương tác và hòa điệu. Cuối cùng, tác giả khẳng định không gian trong thơ
thiền là không gian mang tính triết học, không gian của những cảm thức tâm linh.
- Lê Trí Viễn trong công trình Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam (NXB
TP.HCM, 2001) đã nhận định về không gian trong thơ thiền Lý - Trần như sau:
“Không gian trong đó (thơ thiền Lý - Trần) thường là một không gian bao la,
khoáng đạt, trong trẻo và lặng lẽ…Nhưng không gian đó không chỉ có bao la, lặng
lẽ mà còn có sự thống nhất biện chứng giữa cái vô cùng lớn lao với cái vô cùng nhỏ


bé, cái vô hạn với cái hữu hạn” [44, 96]. Như vậy, nhận xét của Lê Trí Viễn khá
tương đồng với quan điểm của Đoàn Thị Thu Vân. Tuy nhiên, việc đi sâu phân tích
toàn bộ không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lý - Trần như một đối tượng tìm hiểu
chính thì chưa được đề cập. Cũng trong công trình này, tác giả thừa nhận “Thơ
thiền đã thể hiện quan niệm ấy (quan niệm về không gian và thời gian) hết sức tốt
đẹp và nghệ thuật” [44, 96].
- Ngoài ra, không gian nghệ thuật trong thơ thiền Lý - Trần cũng được nhiều
lần đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các quyển Tuyển tập 40 năm Tạp chí
Văn học, Tạp chí Nghiên cứu văn học, Tuyển tập 10 năm Tạp chí Văn học và tuổi
trẻ … Các tác giả không chủ ý đi vào nghiên cứu không gian mà thông qua tìm hiểu
nghệ thuật của một tác phẩm tiêu biểu, phong cách sáng tác của một nhà thơ nào đó,
hoặc phê bình bình luận về một bài thơ hay, so sánh nghệ thuật giữa thơ thiền Việt
Nam với thơ thiền Trung Quốc hay Nhật Bản…Các học giả đã liên hệ, dẫn chứng
một vài câu thơ hàm chứa không gian để khẳng định cho lời nhận định của mình.
Do đó, không gian nghệ thuật cũng chỉ được thể hiện một cách rời rạc, đơn lẻ và
thiếu một hệ thống hoàn chỉnh.
2.4. Hình tượng thời gian
- Đầu tiên phải kể đến công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt

Nam của tác giả Trần Đình Sử (NXB Giáo dục,1999). Trong công trình này, tác giả
đã dành hơn bốn trang viết để nói về thời gian trong thơ trung đại nói chung với các
nội dung như: mô hình chung của thời gian, thời gian vũ trụ bất biến, thời gian con
người. Tác giả đã xác lập được các khái niệm thời gian như sau: Thời gian vũ trụ
bất biến trong thơ từ thế kỉ X - XVII; Vô thời gian trong thơ thiền - loại thời gian
“bất biến, thường trụ bởi vì không sinh không diệt” [31, 197]; Thời gian lịch sử
trong thơ tương quan với thời gian vũ trụ - kiểu thời gian được không gian hóa với
“tính bất biến của lịch sử hóa thân vào dấu tích” [31, 204]; và cuối cùng là thời
gian con người với nỗi buồn thương u uất cá nhân. Tác giả đã phát hiện và lý giải
vấn đề tương đối chặt chẽ. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của công trình khá
rộng nên tác giả chỉ dừng lại ở bốn trang viết cho vấn đề này với mức độ khái quát.


- Trong công trình Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, tác giả Lê Trí
Viễn (NXB TP.HCM, 2001) cũng đã đề cập đến một số biểu hiện của thời gian
trong thơ ca trung đại Việt Nam như: “thời gian tuyến tính trôi chảy không ngừng,
một qua không trở lại” [44, 19]; “thời gian chu kỳ đi rồi quay trở lại chứ không đi
mất” [44, 19]; “thời gian không trống rỗng trừu tượng mà chất chứa một nội dung
cụ thể” [44, 19]; “Thời gian nhuốm màu thiêng liêng và đạo đức” [44,19]. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ một bài giảng đại học, tác giả cũng chỉ khám phá những
biểu hiện có sức khái quát nhất mà chưa đi sâu phân tích các dẫn chứng. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra giúp người đọc có thể hình dung những nét tiêu biểu nhất của văn học
trung đại, làm cái “nền” để trên cơ sở đó, có thể đi tìm những nét đặc trưng một
cách sâu hơn, rõ hơn trong một triều đại văn học cụ thể.
- Trong chuyên đề bài giảng cao học Thơ Thiền Việt Nam thời Lý - Trần,
khảo sát từ góc độ nghệ thuật, tác giả Đoàn Thị Thu Vân đã đề cập đến vấn đề này.
Với khoảng một trang viết, tác giả chuyên đề cố gắng truyền tải một cách cô đọng
những đặc điểm về thời gian nghệ thuật trong thơ thiền Lý - Trần với những biểu
hiện cơ bản sau: Một là, thơ thiền đề cập đến “Thời gian hiện thực của trần thế vô
cùng ngắn ngủi và chóng vánh” [42, 14]. Hai là, tác giả thơ thiền “đặc biệt đề cao

thời gian hiện tại, chủ trương sống cho trọn vẹn cái “giây phút này” [42, 14]. Ba
là,“thời gian vĩnh hằng nằm trong thời gian chuyển động” [42, 15]. Bốn là “thời
gian đóng vai trò cột mốc cho một bước ngoặt của tâm thức, đánh dấu sự đổi khác
giữa sau và trước” [42, 15]. Cuối cùng thời gian trong thơ thiền “thường là mùa
thu, ban đêm (với trăng sáng, gió trong và hơi đêm mát lạnh). Đó là thời điểm của
sự hòa điệu giữa con người và vạn vật, vũ trụ” [42, 15]. Chuyên đề giúp người đọc
phần nào nắm rõ những đặc trưng cơ bản của vấn đề thời gian trong thơ thiền Lý Trần. Vấn đề được tác giả trình bày dưới dạng những luận điểm cơ bản cùng với các
dẫn chứng tiêu biểu. Trên cơ sở đó, có thể khám phá một vấn đề cụ thể ở một mức
độ sâu hơn.
- Ở cấp độ các bài báo, tạp chí, các tác giả cũng quan tâm đến vấn đề này, tuy
chưa sâu rộng và chuyên biệt mà chỉ là các hiện tượng riêng biệt, đơn lẻ.


Bài viết “Về diễn tiến của thơ trữ tình đời Trần” của tác giả Nguyễn Phạm
Hùng (Tạp chí Văn học, số 4, năm 1983), thời gian cũng được đề cập đến qua một
số phương diện như: Ở thời thịnh Trần là “những cảm xúc thơ về một quá khứ vô
cùng vinh quang và đầy chiến thắng” [17, 166]; “Cảm xúc trữ tình của các thi sĩ
cùng gặp nhau trong sự hồi tưởng lại những chiến công của cha ông trên sông
Bạch Đằng” [17, 166]; thời vãn Trần thì “thời gian được phản ánh trong thơ co
giãn theo tâm trạng con người. Ngày vui thường qua nhanh mà nỗi buồn sao đằng
đẵng” [17, 170]; Trong thơ Phạm Nhân Khanh, Trần Nguyên Đán, thời gian “buồn
bã, nặng nề như cuộc đời vô vị trôi đi” [17, 170]; Trong thơ Nguyễn Tử Thành thì
“nghe tiếng thời gian đang tan theo những giọt mưa đêm xuân trong một sự nuối
tiếc đến tuyệt vọng” [17, 171].
Trong bài viết Huyền Quang và những trang đời nhiều huyền thoại, những
vần thơ nhiều hàm nghĩa (Tạp chí Văn học, số 3, năm 1994), tác giả Trần Thị Băng
Thanh, cũng đã đề cập đến kiểu thời gian tồn tại trong tác phẩm Huyền Quang. Đó
là kiểu thời gian chất chứa nhiều tâm sự trễ nãi, buồn chán. Tất nhiên thơ ông có
niềm vui những nỗi buồn vẫn là cái đọng lại sâu sắc hơn cả. Trong nỗi cô đơn ngập
tràn, nhà thơ đã “phó mặc cho ngày tháng cứ trôi đi chậm chạp còn con người thì

gần như trở nên vô cảm hoặc “lười biếng” ngay cả với công việc hàng ngày của
tăng chúng” [38, 78].
Ở một bài viết khác - Trương Hán Siêu và tư tưởng nghệ thuật thời Lý - Trần
(Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2, năm 1996), tác giả Nguyễn Phạm Hùng cũng
tìm thấy hai kiểu tư duy tiêu biểu trong thơ văn Trương Hán Siêu nói riêng và thơ
văn Lý - Trần nói chung, đó là kiểu tư duy hướng ngoại thời thịnh Trần và tư duy
hướng nội thời Vãn Trần. Ở kiểu tư duy thứ hai, tác giả tìm thấy “cảm giác trống
vắng, hiu quạnh, hẫng hụt của con người khi quá khứ huy hoàng đã đi qua” [16,
391], “là lời cảnh tỉnh con người trước sự suy thoái của xã hội, nhắc nhở con người
không được quên quá khứ huy hoàng …” [16, 392]
Trên đây là một số công trình, bài viết có liên quan đến phương diện hình
tượng mà cũng là các yếu tố thuộc về mặt hình thức của thơ thiền Lý - Trần. Một


điều hiển nhiên là bất cứ một hình thức nào cũng đều gắn với một nội dung nhất
định. Thơ thiền Lý - Trần vốn là thơ tư tưởng. Cốt lõi tư tưởng thơ thiền chính là
quan niệm về cuộc sống của triết lý Phật giáo Thiền tông. Đây cũng chính là lý do
để cắt nghĩa cho cái lý của hình thức, cho sự xuất hiện những đặc trưng của thế giới
nghệ thuật trong thơ thiền. Vấn đề này quan trọng nên không thể bỏ qua; tuy nhiên,
trong quá trình khảo sát hình tượng, các tác giả cũng chỉ mới điểm qua chứ chưa
trình bày một cách có hệ thống và chuyên sâu, còn rời rạc, lẻ tẻ. Có chăng thì cũng
chỉ dừng lại ở cấp độ xem “quan niệm về nhân sinh của triết lý Phật giáo Thiền
tông” thể hiện như thế nào qua phương diện hình tượng thơ mà chưa rút ra “ý nghĩa
tích cực của quan niệm sống ấy đến con người (giá trị nhân sinh)”. Đây cũng chính
là vấn đề trọng tâm luận văn cần đi sâu, tìm hiểu.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Do luận văn đi sâu tìm hiểu “Giá trị nhân sinh trong thơ thiền Lý - Trần” nên
đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các bài thơ thiền được sáng tác trong thời đại
Lý - Trần, bao gồm 192 bài thơ thiền trong quyển Thơ văn Lý - Trần, tập I (1977)

và Thơ văn Lý - Trần, tập II (1988) của Viện Văn học, NXB Khoa học xã hội, HN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn cũng chính là mục đích đề tài cần hướng đến.
Đó chính là tìm hiểu “giá trị nhân sinh” của thơ thiền Lý - Trần được gửi gắm qua
phượng diện hình tượng thơ (xét từ phương diện hình tượng). Như vậy, để làm nổi
bật trọng tâm của đề tài này, người viết phải đi sâu khảo sát vào phương diện hình
tượng để tìm thấy đặc trưng riêng của thế giới nghệ thuật trong thơ thiền Lý - Trần.
Từ đặc trưng thế giới nghệ thuật này, người viết rút ra được quan niệm nhân sinh
của triết lý Phật giáo Thiền tông đã chi phối và ảnh hưởng thế nào đến cách cảm
nhận về thế giới của con người thời đại. Trong khả năng có thể, người viết chỉ ra ý
nghĩa tích cực của quan niệm nhân sinh ấy đến cuộc sống của con người như là một
bức thông điệp màu xanh mà các nhà thơ thiền để lại cho mai hậu.


4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dựa vào những yêu cầu được vạch ra phía trên, người viết sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau để thực hiện đề tài:
4.1. Phương pháp tập hợp, khảo sát tư liệu
Thơ thiền Lý - Trần hầu hết được sáng tác bằng chữ Hán và viết theo thể thơ
Đường luật (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt hoặc ngũ ngôn tứ tuyệt), một số ít
được viết theo thể thơ cổ phong hoặc bốn chữ. Do sử dụng loại văn tự và thể thơ cũ
nên thơ thiền khá xa lạ với những người ít hiểu biết hoặc không hiểu biết về Hán
học. Vì vậy, có không ít tác giả tham gia dịch nghĩa và dịch thơ cho thơ thiền, tuy
nhiên, chỉ tinh thông Hán học sẽ vẫn chưa đủ nếu không am hiểu Thiền học và điều
tất yếu dẫn đến là xuất hiện những bản dịch không tương đồng nhau. Để thực hiện
đề tài, người viết sử dụng phương pháp này tiến hành trên 192 bài thơ thiền trong
hai tập đầu của tổng tập Thơ văn Lý - Trần. Sau đó, tiến hành khảo sát trên từng bài
thơ, tập hợp và bước đầu thống kê, phân loại chúng dựa vào bốn phương diện: con
người, thiên nhiên, không gian, thời gian.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Nhằm làm nổi bật những vấn đề xoay quanh phương diện hình tượng, người

viết đã tiến hành đi sâu phân tích các tư liệu vừa được khảo sát và phân loại. Trong
mỗi một phương diện hình tượng, người viết cố gắng tìm ra đặc điểm chung dựa
vào căn cứ tần suất xuất hiện. Từ đó, có những kết luận có thể quy thành luận điểm
mang tính chất đặc trưng riêng. Trong quá trình trình bày cho mỗi một luận điểm,
chúng tôi đã chọn lọc dẫn chứng để chứng minh cho luận điểm. Bên cạnh đó, người
viết có ý thức hướng đến về mặt nội dung nên chọn phương pháp “trình bày kép” song song với mỗi một luận điểm về hình tượng là một ý nghĩa về nội dung của
hình tượng đó (Hình tượng - Giá trị nhân sinh của hình tượng).
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Để làm nổi bật hơn giá trị về nội dung tư tưởng toát ra từ mỗi hình tượng,
trong quá trình phân tích và chứng minh, người viết cũng đã vài lần sử dụng so


sánh, đối chiếu về một số vấn đề thuộc phạm vi tư tưởng ý thức có liên quan. Thông
qua việc so sánh đó mà người viết có cơ sở vững chắc hơn để khẳng định vấn đề.
4.4. Phương pháp hệ thống
Sau khi tiến hành tổng hợp, phân tích vấn đề, người viết đã xâu chuỗi những
luận điểm thành một hệ thống hoàn chỉnh, sao cho vừa đảm bảo tính chặt chẽ, khoa
học của kết cấu, vừa đảm bảo tính chuẩn xác và hợp logic của nội dung. Từ tiểu kết
của từng phần, người viết cũng chú trọng xây dựng kết luận chung thật bao quát và
đầy đủ cho toàn luận văn.
Ngoài ra luận văn cũng đã kết hợp sử dụng một số phương pháp liên ngành
bổ trợ khác để làm nổi bật vấn đề: phương pháp văn hóa lịch sử, phương pháp trực
cảm tâm linh… Vì thơ thiền là một loại thơ mà nội dung tư tưởng có liên quan mật
thiết với các vấn đề tôn giáo, triết học, thiên về kiểu tư duy tổng hợp, trực cảm tâm
linh, nên nếu chỉ dùng phương pháp phân tích duy lý đôi khi không thể nắm bắt
được cái “thần”, cái bản chất của đối tượng vì thế phương pháp trực cảm cũng là
một phương pháp được sử dụng trong đề tài, nhất là ở cấp độ suy nghiệm về giá trị
nhân sinh toát ra từ mỗi một phương diện thơ.
Thật ra, việc phân chia, liệt kê các phương pháp như trên chỉ có tính tương
đối. Trên thực tế, các phương pháp luôn được vận dụng trong thế kết hợp, đan xen

nhau trong quá trình trình bày. Tất cả đều nhằm mục đích giải quyết tốt nhất những
yêu cầu, mục đích mà đề tài đã đặt ra.

5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Chọn phạm vi tham chiếu là phương diện hình tượng, luận văn đã xác lập nên
một hệ thống hình tượng đầy đủ và chuyên sâu, bổ sung thêm vào bức tranh toàn
cảnh thế giới nghệ thuật của thơ thiền Lý - Trần mà trước đó các công trình nghiên
cứu đã đặt những viên đá nền tảng. Đặc biệt, ở hình tượng thiên nhiên, luận văn đã
đi theo hướng riêng, không phân chia hai xu hướng phổ biến là thiên nhiên mang ý
nghĩa trực tiếp và thiên nhiên mang tính chất biểu tượng mà khái quát những đặc
trưng nghệ thuật thành những luận điểm rõ ràng chứ không đi vào phân tích, cảm


nhận từng tác phẩm rời rạc, lẻ tẻ như các công trình đi trước. Đóng góp này hi vọng
đem đến ít nhiều cảm nhận mới mẻ, thú vị cho người đọc.
5.2. Xuất phát từ quan niệm, cách nhìn nhận về cuộc sống (quan niệm nhân sinh)
mà con người trong thơ thiền có những cảm quan nghệ thuật rất riêng, không giống
với bất kì một cảm quan nghệ thuật nào của các tác giả ở những bộ phận thơ khác.
Thông qua đặc trưng của thế giới nghệ thuật này, luận văn truyền tải những ý niệm
về cuộc đời, về kiếp nhân sinh của các bậc tiền nhân theo quan điểm của triết học
Phật giáo Thiền tông qua mỗi hình tượng. Đồng thời, luận văn cũng khẳng định giá
trị tích cực của quan niệm nhân sinh ấy trong việc hướng con người đến cuộc sống
lạc quan, tốt đẹp (giá trị nhân sinh).
5.3. Tiếp cận phương diện hình tượng trên tiêu chí về mối quan hệ giữa văn học và
đời sống (giá trị nhân sinh) là hướng đi khá mới của luận văn, không trùng khớp với
các tiêu chí tiếp cận hình tượng mà các nhà nghiên cứu đi trước đã vạch ra. Với
đóng góp này, hi vọng có thể phát hiện thêm vẻ đẹp phong phú của thế giới nghệ
thuật thơ thiền Lý – Trần và đi đến được chiều sâu cao quí về mặt nội dung của bộ
phận văn học ấy.


6. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được cấu trúc thành 4 chương:
Chương 1 – Những vấn đề chung
Ở chương này, người viết tìm hiểu một số vấn đề chung nhằm tạo nên một
nền tảng bao quát trước khi đi vào phần trọng tâm của đề tài. Bao gồm ba vấn đề cơ
bản sau: Bối cảnh văn hóa – lịch sử thời đại Lý - Trần, thơ thiền Lý – Trần, một số
triết lý nhân sinh cơ bản của Phật giáo và Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần.
Chương 2 – Giá trị nhân sinh của hình tượng con người trong thơ thiền
Lý – Trần
Trong chương này, người viết đi vào chứng minh giá trị nhân sinh của triết lý
Phật giáo Thiền tông qua nhân cách cao đẹp của con người trong thơ: an nhiên, tự
tại; sống trọn vẹn với thực tại, mang vẻ đẹp tự thân với chân tâm trong sáng vô biên
và trí tuệ siêu việt, yêu đời và tích cực nhập thế.


Chương 3 – Giá trị nhân sinh của hình tượng thiên nhiên trong thơ thiền
Lý – Trần
Chương này đi vào tìm hiểu giá trị nhân sinh của triết lý Phật giáo Thiền
tông được thể hiện như thế nào qua hình tượng thiên nhiên trong thơ thiền Lý –
Trần. Có hai luận điểm chính về hình tượng thiên nhiên là thiên nhiên của cuộc
sống hiện thực, bình dị trên quê hương đất nước và thiên nhiên đậm đà thiền vị.
Song song với mỗi một luận điểm chính, người viết đã rút ra những giá trị nhân sinh
có liên quan.
Chương 4 – Giá trị nhân sinh của hình tượng không gian, thời gian trong
thơ thiền Lý – Trần
Cũng cùng mục đích trên, người viết đã xác lập nên hệ thống luận điểm cho
mỗi một phương diện không gian, thời gian trong thơ thiền Lý - Trần. Đó là không
gian của đời sống thường nhật và không gian mang mỹ cảm thiền. Còn thời gian là
thời gian của cuộc đời ngắn ngủi và chóng vánh, thời gian vĩnh hằng của bản thể
giác ngộ, thời gian cột mốc đánh dấu bước ngoặc của tâm thức và thời gian của thực

tại trọn vẹn. Trong quá trình triển khai phân tích các hình tượng không gian, thời
gian nêu trên, người viết cũng đã rút ra ý nghĩa nội dung tư tưởng nhằm vào thể
hiện mục đích trọng tâm của đề tài.


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. BỐI CẢNH VĂN HÓA - LỊCH SỬ THỜI ĐẠI LÝ – TRẦN
Văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Văn học không gì khác hơn là cái
nhìn thẩm mỹ, là hình tượng thẩm mỹ về cuộc sống, con người nói khái quát hơn là
thời đại. Hiện thực cuộc sống có được phản ảnh một cách chân thực hay không, có
được thăng hoa hay không là nhờ vào tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ. Một
điều hiển nhiên là có hiểu những chất liệu tạo nên văn thơ mới có thể hiểu được văn
thơ. Thơ văn Lý – Trần không nằm ngoài quy luật ấy. Vì thế, trước khi đi vào nội
dung chính của đề tài, thiết nghĩ không thể không đề cập đến bối cảnh lịch sử - xã
hội của thời đại như là nền tảng sinh thành nên văn học của thời đại ấy.
1.1.1. Khái niệm thời đại Lý - Trần
Nhắc đến khái niệm “thời đại”, chúng ta nghĩ ngay đến một khoảng thời gian
tương đối dài, gồm một, hai hay nhiều triều đại (thời phong kiến), được tạo nên bởi
sự kết hợp cùng một lúc của nhiều yếu tố. Tuy nhiên, đó phải là sự kết hợp chặt chẽ,
sâu sắc và hữu cơ với nhau để tạo nên một nét chung làm nền tảng xuyên suốt cả
thời đại ấy.
Hơn một ngàn năm nô lệ phong kiến phương Bắc (111 TCN - 938 SCN), với ý
chí ngoan cường, bền bỉ đấu tranh, với ý thức độc lập, tự chủ, hễ có cơ hội là dân
tộc ta vùng dậy đấu tranh, đánh đuổi kẻ thù, giành lại nền độc lập, tự chủ dù còn
ngắn ngủi. Phát huy truyền thống đó, mùa đông năm 938, bằng mưu lược tài ba,
Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa nước ta bước
sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này, đất
nước ta trải qua các triều đại: Ngô (939 - 967); Đinh (968 - 980); Tiền Lê (980 1009); Lý (1009 - 1225); Trần (1225 - 1400); Hồ (1400 - 1407) và mấy năm đầu
của cuộc kháng chiến chống giặc Minh vào thời Hậu Trần (1407 - 1418). Như vậy,

thời đại Lý - Trần không chỉ đơn thuần là bao gồm hai triều đại Lý và Trần mà được
xem như một giai đoạn lịch sử kéo dài ngót 500 năm với những thành tựu tổng hợp


của các triều đại. Trong đó, có hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng và tiêu biểu
hơn cả về nhiều phương diện nên các nhà nghiên cứu gọi chung cho cả giai đoạn
lịch sử này là “thời đại Lý - Trần”. Thời đại này nằm gọn trong khoảng thời gian
giữa hai lần Bắc thuộc cuối đời nhà Đường và đầu nhà Minh. Điểm chung xuyên
suốt tạo nên thời đại này là nền độc lập tự chủ được củng cố, chế độ phong kiến
thịnh đạt, một ý thức hệ tư tưởng riêng biệt được hình thành và phát triển, các lĩnh
vực khác đều đạt được những thành tựu to lớn.
1.1.2. Tình hình chính trị, xã hội thời Lý – Trần
Sau khi giành lại nền độc lập chủ quyền từ tay giặc xâm lược phương Bắc sau
gần ngàn năm Bắc thuộc, đập tan mộng xâm lăng của nhà Tống và tiến hành mở
rộng biên thùy Đại Việt về phương Bắc, triều đình tập trung chăm lo cho đời sống
nhân dân, củng cố bộ máy cầm quyền, tạo điều kiện phát triển kinh tế sản xuất bằng
hàng loạt chính sách về đê điều, thuế má, ruộng đất, phục hưng văn hóa, khôi phục
những giá trị tinh thần truyền thống. Đồng thời cũng khôn ngoan tiếp nhận, chuyển
hóa và dung hợp những tinh hoa văn hóa tư tưởng từ bên ngoài truyền vào. Nhờ
những nguyên nhân đó, đời sống của nhân dân no đủ về vật chất và thoải mái, rộng
mở, dễ chịu về tinh thần. Vì vậy, thời đại Lý - Trần đã trở thành thời đại phát triển
rực rỡ nhất trong lịch sử phong kiến tự chủ Đại Việt.
Mặc dù đời sống tư tưởng, tinh thần của nhân dân thời kì này khá thoải mái, ba
hệ thống tư tưởng Nho, Phật, Đạo đã có sự dung hoà với nhau, cùng với văn hoá
truyền thống của dân tộc, chúng đều có điều kiện phát triển, nhưng nhìn chung, Phật
giáo phát triển thịnh đạt hơn và có nhiều đóng góp hơn cho công cuộc phục hưng và
phát triển mọi mặt của đất nước, cụ thể là Phật giáo Thiền tông. Bởi lẽ, lúc này Phật
giáo có sự ảnh hưởng sâu rộng và tác động mạnh mẽ đến mọi phương diện của đời
sống xã hội; từ vua quan đến thứ dân, từ đường lối chính trị đến bản sắc văn hoá
đều ít nhiều ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo.

Con người sống trong thời đại này cũng là những con người đầy hào khí. Đó
là những con người tự tin, phấn khởi, hừng hực khí thế và giàu lòng yêu nước. Hơn


nữa, cũng có những con người hết sức đặc biệt, làm vua mà từ bỏ ngai vàng dễ dàng
như trút bỏ chiếc giày rách, tin dùng tuyệt đối con của kẻ từng thù nghịch với mình,
coi ngôi vua như là của chung anh em thân tộc cùng nhau cai trị; làm tôi lấy trung
nghĩa làm đầu, gạt hiềm khích riêng qua một bên, cùng nhau đoàn kết chăm lo cho
vận mệnh đất nước; làm nhà sư mà phóng khoáng, chê bai lối tu hành khổ hạnh,
giễu cợt những kẻ cầu Phật cầu thiền, chủ ý không thích đi theo lối mòn của Như
Lai; làm anh hùng tài giỏi lãnh đạo nhân dân nhiều lần đánh tan bọn giặc xâm lược
lớn mạnh hung hăng mà cả thế giới khiếp sợ… Nhiều nhà sư đã tham gia vào công
việc triều chính, kề vai sát cánh với nhân dân trong cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm, giành chủ quyền dân tộc, xây dựng xã hội đầy tình thương và lòng từ bi. Đó là
một minh chứng hết sức vững chắc cho thấy tinh thần nhập cuộc, “hòa quang đồng
trần” (hòa cùng ánh sáng lẫn cùng bụi bặm) của các thiền sư thời Lý - Trần. Thời
đại đó đã sản sinh ra những con người có nhân cách cao đẹp, đáng kính phục: nhân
thứ, anh hùng, dũng liệt, khoan dung, rộng mở… Hình ảnh những con người đó đã
phản ánh đúng và đầy đủ diện mạo tinh thần của thời đại.
Nguyễn Công Lý trong công trình Văn học Phật giáo thời Lý Trần - Diện
mạo và đặc điểm đã rút ra một số đặc điểm cơ bản của thời đại này như sau: “Một,
thời đại Lý - Trần là thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng
đồng. Hai, thời đại Lý - Trần là thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước.
Ba, đây là thời đại khoan giản, an lạc, nhân thứ, rộng mở và dân chủ” [22, 61 70].
Nhìn chung, ở thời đại này, tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hoá đều có những thành tựu to lớn đáng khâm phục. Điều đáng nói hơn, chính thời
đại này đã tạo nên một khí thế hào hùng, một tinh thần tự tin, hăm hở và ý chí hết
sức mạnh mẽ. Có thể khẳng định rằng, đây là thời kì cực thịnh của tư tưởng Việt
Nam.



1.1.3. Sự phát triển hưng thịnh của Phật giáo thời Lý – Trần
Nói đến thời đại Lý - Trần, người ta còn nói đến sự tác động tích cực của
Phật giáo. Phật giáo thời này rất hưng thịnh và ảnh hưởng sâu rộng trong quần
chúng, chi phối từ những sinh hoạt vật chất đến tinh thần (phong tục, tập quán). Có
thể nói, Phật giáo đã giữ một địa vị cực kỳ quan trọng trong buổi đầu xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, cũng như đã chi phối mạnh mẽ đến văn học, tạo nên một dòng văn
học Thiền tông sẽ đề cập đến phần sau.
Phật giáo do Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra cách đây hơn 2500 năm tại Ấn
Độ. Phật giáo truyền vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Từ những năm
đầu thế kỉ X đến nửa sau thế kỉ thứ XIV, Phật giáo như là quốc giáo của nước nhà,
số người xuất gia và tại gia tu Phật ngày càng đông. Từ vua quan, hoàng tộc đến thứ
dân đều một lòng mộ đạo. Thời này, phần lớn trí thức đều là tăng lữ. Họ vừa chăm
sóc đời sống tinh thần, vừa góp công vệ quốc, kiến quốc.
Một vấn đề đặt ra là tại sao Phật giáo trong thời điểm ấy lại phát triển
rực rỡ đến vậy? Hòa thượng Thích Phước Sơn trong bài nghiên cứu Nhìn khái quát
Phật giáo đời Trần (Tạp chí Văn học, số 4, 1992) đã đưa ra những lý do khá thuyết
phục, có cơ sở để lý giải vấn đề này. Tác giả đã chỉ rõ những điều kiện khách quan
và chủ quan tạo nên một thời điểm lịch sử rực rỡ như vậy. Sự tích cực ủng hộ của
chính quyền, sự đương đà cường thịnh của đất nước là hai yếu tố chính khiến cho
một tôn giáo mang bản chất nhập thế hành động như đạo Phật hẳn nhiên phải phát
triển rực rỡ. Đi sâu hơn, người viết đã tìm ra được nguyên nhân chủ yếu, cái cốt lõi
làm cho đạo Phật phát triển mạnh mẽ vẫn là những tiềm năng nội tại của Phật giáo
như: nhân tài xuất hiện đông đảo, tinh thần nhập thế tích cực, tinh thần thống nhất
Phật giáo, tinh thần độc lập, tự chủ, tinh thần thiền giáo nhất trí, tinh thần viên dung
nhất quán, tinh thần thâu hóa sáng tạo, tinh thần tự tín, tự cường và cuối cùng đi đến
kết luận: Đó là những yếu tố: “…kết tinh thành một thời kỳ Phật giáo vẻ vang trong
lịch sử nước ta”
Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống xã hội: Nói đến Phật giáo thời kì
này phải chú ý đến tinh thần “hòa quang đồng trần” của các thiền sư trong đời sống



tu hành. Đó là tư tưởng dấn thân nhập cuộc, không xa rời chính sự, là quan niệm
sống “tùy tục” phóng khoáng. Tư tưởng đó giúp nhà tu hành không quay lưng lại
với thời cuộc mà còn tích cực tham gia vào công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Nhiều nhà sư trở thành quốc sư, cố vấn chính trị cho vua, được đặc biệt ân sủng,
trọng thị. Có lúc, nhà sư còn được cử làm sứ giả, đại diện cho quốc thể để nghênh
tiếp sứ thần Trung Quốc. Do đó, tiếng nói của họ đối với đời sống chính trị, xã hội,
văn hóa có ý nghĩa rất lớn và cũng dễ hiểu tại sao nhiều hoàng thân quốc thích, giới
quí tộc, quan lại triều đình lại say mê và sùng bái đạo Phật đến như vậy. Đó là chưa
kể, ngay từ những buổi đầu, nhà chùa còn là nơi dạy chữ cho mọi người, nơi đầu
tiên có những nhà trí thức tinh thông Hán học, biết sáng tác thơ ca, sấm kệ. Từ đó,
có thể suy rộng ra, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, tinh thần hào phóng,
sảng khoái, rộng mở của thời đại; sự phát triển thịnh đạt của triều đại phong kiến
không thể không có sự tác động và ảnh hưởng của tư tưởng cứu khổ cứu nạn, từ bi
bác ái, bình đẳng khoan hòa của đạo Phật, mà trong đó các nhà sư là những sứ giả
tiêu biểu.
Tinh thần Phật giáo thời Lý - Trần ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn
hóa tinh thần của nhân dân lúc bấy giờ. Phật giáo đi đến đâu được nhân dân ủng hộ
đến đấy, chùa tháp tự viện mọc khắp nơi, khói hương nghi ngút bốn mùa, những
cuộc thuyết pháp giảng đạo của các danh sư luôn chật ních người tham dự, nhiều
thắng cảnh đẹp có sự hiện diện của chùa chiền, nhiều lễ hội dân gian gắn liền với
Phật giáo. Đặc biệt, đạo Phật là nguồn cảm hứng vô tận để dân gian thêu dệt nên
hàng loạt những truyện truyền kì, huyền thoại, truyền thuyết đậm màu sắc tín
ngưỡng tâm linh; nhiều bài ca dao về đề tài đạo Phật cũng xuất hiện trong thời kì
này… Nói như vậy để thấy được sức ảnh hưởng của đạo Phật đến đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân mạnh mẽ và sâu sắc đến mức nó đã trở thành máu thịt và
gắn liền với phong tục tập quán của dân tộc.
Trong thời Lý - Trần, nền mỹ thuật Việt Nam thấm đượm triết lý Phật giáo
Thiền tông (Chùa Một Cột, chùa Phật Tích, chùa Trăm Gian, tháp Báo Thiên, tháp

Bình Sơn, tháp Linh Tế…) với biết bao hình tượng, phù điêu, hoa văn tinh xảo.


×