Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.51 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






NGUYỄN THỊ LINH CHI


TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CỦA MẠNH TỬ






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC




HÀ HỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ LINH CHI


TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CỦA MẠNH TỬ



Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THANH BÌNH


HÀ HỘI - 2009

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
6. Ý nghĩa của luận văn 8

7. Đóng góp của luận văn 8
8. Kết cấu của luận văn 8
NỘI DUNG
Chương 1: BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ 9
1.1. Hoàn cảnh ra đời 9
1.2. Một số tiền đề tư tưởng cơ bản ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng
chính trị - xã hội của Mạnh Tử 15
Kết luận chương 1 29
Chương 2: MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ 30
2.1. Quan niệm của Mạnh Tử về con người 30
2.2. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng đức trị của Mạnh Tử 50
2.3. Những giá trị, hạn chế chủ yếu và ý nghĩa cơ bản trong tư tưởng
chính trị - xã hội của Mạnh Tử 69
Kết luận chương 2 76
KẾT LUẬN 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Qua nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo và Nho giáo Việt Nam
hiện nay, về lịch sử và văn hoá Việt Nam cho thấy, từ khi Nho giáo du nhập vào
Việt Nam cho đến bây giờ, Nho giáo đã và đang ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều
mặt của đời sống xã hội với con người Việt Nam. Cho nên, việc nghiên cứu trở
lại Nho giáo với mục đích “gạn đục khơi trong”, chỉ ra phát huy những giá trị nổi
bật, những tinh hoa của Nho giáo, đồng thời khẳng định tính thực tiễn và sức
sống của nó là nhiệm vụ hết sức cần thiết trong nghiên cứu.
Việc nghiên cứu tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử cũng không

nằm ngoài mục tiêu ấy. Vì rằng, bằng công việc này, sẽ giúp chúng ta có thể thấy
rõ tính chất hai mặt tồn tại trong hệ thống tư tưởng của Nho giáo nói chung và tư
tưởng của Mạnh Tử nói riêng. Chúng ta không thể phủ nhận những nhân tố,
những giá trị tích cực trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử và những
nhân tố, những giá trị này, ở Việt Nam hiện nay, vẫn còn ảnh hưởng, vai trò nhất
định. Song bên cạnh đó, trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử vẫn còn
tồn tại nhiều yếu tố, tính chất lỗi thời và lạc hậu mà sự cần thiết đòi hỏi chúng ta
phải chỉ ra để khắc phục. Cũng thông qua việc nghiên cứu những nội dung tư
tưởng của Mạnh Tử nói chung và đặc biệt là tư tưởng chính trị của ông nói riêng,
chúng ta có thể có thêm những căn cứ, cơ sở để khẳng định rằng, trong Nho giáo
có sự gắn bó chặt chẽ những vấn đề chính trị - xã hội với những vấn đề triết học,
giáo dục và đạo đức v.v. Những vấn đề ấy không những không tách rời nhau mà
đan xen, hoà quyện vào nhau trong cùng một nội dung, trong cùng một hệ thống.
Nghiên cứu tư tưởng của Mạnh Tử (thông qua sách Mạnh Tử) cho thấy
rằng, bên cạnh và chính bằng việc tiếp thu, kế thừa và phát triển tư tưởng của
Khổng Tử; giải thích trên quan điểm, lập trường của mình, mở rộng nhiều yếu tố
của các trào lưu tư tưởng khác nhau như Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia và đưa vào
2

hệ tư tưởng của mình, mà Mạnh Tử hình thành học thuyết của ông nhằm đáp ứng
nhu cầu là hệ tư tưởng, là công cụ thống trị, quản lý xã hội của giai cấp phong
kiến thống trị. Là nhà tư tưởng chủ yếu thuộc trường phái Nho gia, Mạnh tử đã
đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội và con người, về vai trò của con
người trong các mối quan hệ xã hội. Đặc biệt trong tư tưởng của chính trị - xã
hội của Mạnh Tử, ông ta còn đưa ra (ở những nét cơ bản nhất) phương pháp cai
trị theo Nhân trị (hay Nhân chính) nhằm đạt đến mục đích cuối cùng là xây dựng
một xã hội lý tưởng. Trong những nội dung ấy, chứa đựng nhiều giá trị, nhiều
nhân tố khá hợp lý và đúng đắn mà ngày nay, chúng ta cần phải nghiên cứu để
tiếp thu, kế thừa, phát triển và vận dụng vào việc xây dựng và đưa nước ta hiện
nay đạt đến mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn

minh. Chẳng hạn như, từ tư tưởng đề cao vai trò của con người và đặt con người,
nhìn nhận con người trong các mối quan hệ xã hội cơ bản, ông đã đưa ra những
chuẩn mực đạo đức và những quy phạm, những yêu cầu có tính đạo đức, mang
nội dung đạo đức và hành động theo đạo đức để điều chỉnh mọi hành vi, mọi
hoạt động của con người. Và, đó là tư tưởng về một bậc minh quân có đạo đức,
hiểu và hành động theo nhân nghĩa; đó là tư tưởng “Dân vi quý”. Đặc biệt, đó là
tư tưởng về đường lối trị nước theo phương pháp Đức trị (còn được gọi là Nhân
trị hay Nhân chính), được biểu hiện dưới hình thức những quy định và những
đánh giá trên cơ sở xác lập những giá trị luân lý, đạo đức được mọi người thừa
nhận và chấp hành một cách tự giác.
Nghiên cứu và nhìn nhận khách quan, chúng ta có thể thấy được rằng tư
tưởng của Mạnh Tử không những vẫn giữ được những nội dung cơ bản những
cái tinh tuý nhất của bậc thầy (Khổng Tử) mà trong tư tưởng của ông, còn có
những bổ sung, phát triển, những lý giải mới. Chính sự bổ sung, phát triển thêm
cũng như sự lý giải của Mạnh Tử về những nội dung, tính chất cơ bản trong tư
tưởng Khổng Tử đã tạo nên sự độc đáo và nét riêng nổi bật trong hệ thống tư
tưởng của Mạnh Tử nói chung và trong tư tưởng chính trị - xã hội của ông nói
3

riêng. Ngoài ra, chúng tôi muốn khẳng định thêm một lần nữa rằng, có nghiên
cứu và đánh giá một cách khách quan, toàn diện những nội dung cơ bản trong
học thuyết chính trị - xã hội của Mạnh Tử, mới có thể nhận thức một cách đầy đủ
hơn, chính xác hơn những giá trị cũng như những hạn chế của nó nói riêng và
học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo nói chung.
Việc nghiên cứu tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử nói riêng và
Nho giáo nói chung đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu đến. Ở mỗi
công trình nghiên cứu ấy, chúng ta bắt gặp những cách tiếp cận khác nhau, nhiều
kết qủa nghiên cứu đáng ghi nhận. Kế thừa những kết qủa nghiên cứu ấy, từ góc
độ triết học, chúng tôi thấy cần phải tiếp tục khai thác, nghiên cứu những nội
dung, các giá trị chủ yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử. Vì

những lý do và cách đặt vấn đề trên đây, tác giả lựa chọn vấn đề “Tư tưởng chính
trị - xã hội của Mạnh Tử” làm đề tài nghiên cứu trong bản luận văn thạc sĩ Triết
học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nói, tư tưởng chính trị - xã hội của Nho giáo nói chung và nhiều
nội dung trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử nói riêng đã được nhiều
người quan tâm nghiên cứu, được nhiều hội nghị, hội thảo khoa học trong và
ngoài nước bàn đến. Đặc biệt là ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề
đó càng được quan tâm thêm và nhiều hơn trong nghiên cứu, giảng dạy Nho giáo
và lịch sử Nho giáo, lịch sử tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam. Có thể kể đến
những công trình tiêu biểu như sau:
1. Lã Trấn Vũ với cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc (Trần
Văn Tấn dịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1964). Lã Trấn Vũ là một trong những học
giả nổi tiếng của Trung Quốc hiện nay. Ông đã viết rất nhiều tác phẩm về sử học,
triết học và kinh tế. Trong quá trình nghiên cứu của mình, ông đã vận dụng các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu các vấn đề khoa học xã hội
mà ông quan tâm. Trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, ông
4

đã trình bày và đánh giá khá toàn diện, sâu sắc quá trình hình thành phát triển
các tư tưởng, học thuyết của Nho giáo, Đạo gia, Pháp gia,v.v… Khi trình bày tư
tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử, Lã Trấn Vũ đã nêu rõ tư tưởng chính trị -
xã hội của Mạnh Tử bao gồm nhiều nội dung: Nhân tính luận, nhân học, đường
lối cai trị, quản lý xã hội, v.v.
Cụ thể là, liên quan đến đề tài của luận văn trong cuốn sách này, Lã Trấn
Vũ đã nêu lên và phân tích những nội dung chủ yếu nhất trong tư tưởng của
Mạnh Tử về xã hội và con người. Chẳng hạn như khi đề cập đến nhân tính luận
của Mạnh Tử, Lã Trấn Vũ đã chỉ rõ quan niệm của Mạnh Tử coi “bản tính” của
con người vốn là “thiện”. Cái bản tính ấy gắn bó chặt chẽ và phụ thuộc với việc
giáo dục, tu dưỡng đạo đức của mỗi người, của con người. Hay trong học thuyết

chính trị - xã hội, Mạnh Tử đã đặt ra yêu cầu đối với nhà cầm quyền là phải biết
coi trọng nhân dân, coi dân là của báu, là của quý và do vậy, phải luôn quan tâm,
chăm lo đến đời sống vật chất của dân và phải thường xuyên giáo dục, giáo hóa
dân, phải dựng nên một nhà nước hoạt động theo đường lối nhân trị.
Nói chung, khi nghiên cứu về tư tưởng của Mạnh Tử, Lã Trấn Vũ tập
trung làm rõ những nội dung cụ thể qua từng học thuyết và trên cơ sở đó, làm rõ
những mặt tích cực và hạn chế trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử
trong bối cảnh lịch sử của xã hội Trung Quốc thời Chiến Quốc.
2. Nguyễn Thanh Bình với Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và
ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2007. Từ cách nhìn nhận Nho giáo với tư cách là một hệ
thống chỉnh thể, và từ việc nhìn nhận Nho giáo chủ yếu với tư cách là một học
thuyết chính trị - xã hội, tác giả đã trình bày tư tưởng chính trị - xã hội của Nho
giáo, trong đó tác giả đã chỉ ra và phân tích một cách khái quát nhất, cơ bản nhất
những nội dung chủ yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử.
Khi đề cập đến “thuyết tính thiện” của Mạnh Tử, tác giả đã cho thấy,
trong quan niệm của Mạnh Tử, bản tính của con người từ khi mới sinh ra là do
trời phú, cho nên vốn là thiện.Trong cuốn sách này, tác giả đã khẳng định rằng,
5

cũng giống với các nhà Nho đương thời, Mạnh Tử đã từ quan điểm Dân vi quý
để đặt ra những yêu cầu đối với nhà cầm quyền phải tạo điều kiện cho dân có
cuộc sống đầy đủ, thì họ mới thực hiện được đạo hiếu, đạo trung, mới học và làm
theo Lễ, Nghĩa.
3. Trong tác phẩm Nho giáo của Trần Trọng Kim, khi đề cập đến Mạnh
Tử và tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử, tác giả đã lý giải rằng, Mạnh Tử
sở dĩ nói đến tính thiện trong con người là vì ông ta tin có cái thiên lý chí thiện,
mà tính người là một phần thiên lý ấy, tất là phải thiện. Còn khi đánh giá về triết
lý chính trị của Mạnh Tử, Trần Trọng Kim cho rằng, Mạnh Tử đã lấy nhân nghĩa
làm bản tính người thì việc chính trị cũng phải lấy nhân làm gốc. Nếu người ta ai

cũng nghĩ đến điều lợi mà quên cả nhân nghĩa, rồi tìm cách mà phá hoại lẫn
nhau. Bởi đó mà sinh ra sự biến loạn và sự chiến tranh, làm cho thiên hạ phải
nhiều nỗi lầm than.
Và cuối cùng, Trần Trọng Kim đi đến kết luận: Nói tóm lại, học thuyết
của Mạnh Tử về đường lối chính trị là cốt lấy sự hoà bình mà bảo tồn lấy dân.
Từ việc nhìn nhận và lý giải thực trạng của xã hội đương thời, dân tình khổ sở vì
tình trạng vua chúa tranh quyền tranh lợi và thiên hạ loạn lạc, cho nên ông (tức
Mạnh Tử) muốn đem cái đạo lớn của thánh hiền mà khuyên răn mọi người,
khiến cho ai nấy đều hồi tưởng lại, lấy nhân nghĩa mà đối với quốc gia để cứu
vớt muôn dân. Chính sách của ông là chính sách cứu đời vậy.
4. Trong các cuốn sách: Giáo trình Triết học Mác - Lênin và Giáo trình
Lịch sử triết học, bên cạnh những công trình nghiên cứu tiêu biểu trên, những
nội dung chủ yếu của Nho giáo nói chung và của Mạnh Tử nói riêng cũng được
trình bày trong hai bộ giáo trình này của Bộ Giáo dục và đào tạo. Trong phần
trình bày về triết học Trung Hoa cổ - trung đại, các tác giả đã nhấn mạnh, lịch sử
lâu đời của
6

5. Trung Hoa kéo dài nhiều thiên niên kỷ cùng với sự phát triển đi lên
của xã hội dẫn đến việc hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh.
Các trường phái này luôn lấy con người làm trung tâm trong quá trình nghiên
cứu, có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức
của xã hội Trung Hoa đặt ra lúc bấy giờ. Đặc biệt là, trong khi trình bày những
nội dung chủ yếu của Nho giáo Trung Quốc, ngoài việc trình bày và đánh giá tư
tưởng của Khổng Tử, hai bộ giáo trình này, đã dành một dung lượng nhất định,
cần thiết để đề cập đến những tư tưởng của Mạnh Tử về con người, về đường lối
cai trị, quản lý xã hội. Các tác giả đã đi đến khẳng định rằng, Mạnh Tử đã hệ
thống hoá triết học duy tâm của Nho gia (chủ yếu của Khổng Tử) trên phương
diện thế giới quan, nhân sinh quan và nhận thức luận để phát triển hơn nữa tư
tưởng của Nho giáo và hình thành nên học thuyết của mình [78, tr.32-33].

Ngoài những công trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề
tài luận văn, còn có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết được đăng trong
các Kỷ yếu hội nghị khoa học, các tạp chí khoa học, như: “Góp phần tìm hiểu tư
tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử” của Doãn Chính (Tạp chí Triết học, số 07,
năm 2001); “Tư tưởng dân bản trong học thuyết nhân chính của Mạnh Tử” của
Lương Minh Cừ (Tạp chí Triết học, số 06, năm 2005); “Nho giáo và sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Tài Thư (Tạp
chí Triết học, số 05, năm 2002), v.v.
Nhìn chung, các công trình đó đều đã đề cập đến một số nội dung chủ
yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử, đã chỉ ra một số giá trị và hạn
chế chủ yếu của nó. Tuy nhiên, ở những công trình ấy,các tác giả mới dừng lại ở
việc trình bày một cách khái quát một hoặc một số nội dung cụ thể chứ chưa đi
sâu và trình bày một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về tư tưởng chính trị
- xã hội của Mạnh Tử. Vì vậy, trong bản luận văn này, tiếp thu và kế thừa những
thành quả nghiên cứu từ những công trình nghiên cứu đã có về tư tưởng chính trị
7

- xã hội của Mạnh Tử, từ phương pháp tiếp cận triết học, chúng tôi cố gắng và
tập trung trình bày một cách có hệ thống và toàn diện những nội dung, những
vấn đề chủ yếu trong tư tưởng của Mạnh Tử (thông qua việc nghiên cứu sách
Mạnh Tử)
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích của Luận văn là, thông qua việc trình bày và phân tích một
cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử, để từ đó, vạch ra những giá trị và hạn chế chủ yếu của tư tưởng này.
Xuất phát từ lý do chọn đề tài, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan
đến đề tài và mục đích đặt ra cho đề tài, nhiệm vụ của Luận văn là trình bày, làm
sáng tỏ những nội dung cơ bản sau:
- Bối cảnh kinh tế - xã hội và tiền đề đối với sự ra đời tư tưởng chính
trị - xã hội của Mạnh Tử.

- Phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị - xã hội
của Mạnh Tử.
- Chỉ ra một số giá trị và hạn chế chủ yếu, cũng như ý nghĩa trong tư
tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chung của triết học
Mác - Lênin, cùng những nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lênin về xã hội,
con người và lịch sử triết học. Ngoài ra, Luận văn còn kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu khoa học khác, như phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp logic - lịch sử, phương pháp lịch sử - cụ thể, đối chiếu, so sánh,v.v.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử.
8

- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung chủ yếu vào sách Mạnh Tử và
một số sách khác thuộc bộ Tứ thư (sách Đại học, sách Trung dung, sách Luận ngữ).
6. Ý nghĩa của Luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn những giá trị và hạn chế trong tư tưởng
chính trị - xã hội của Mạnh Tử, qua đó nhấn mạnh những tư tưởng đặc sắc mà
chúng ta cần kế thừa và phát huy trong sự nghiệp xây công nghiệp hóa và hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay.
7. Đóng góp của luận văn
Những kết qủa đạt được của Luận văn này sẽ là sự bổ sung cần thiết
trong việc nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan, toàn diện hơn về tư
tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử. Vì vậy, Luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập Nho giáo nói chung và
tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử nói riêng.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung

của Luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Bối cảnh kinh tế - xã hội và tiền đề ra đời tư tưởng chính trị -
xã hội của Mạnh Tử (2 tiết).
Chương 2: Một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử (3 tiết).








9

NỘI DUNG
Chương 1.
BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA MẠNH TỬ
1.1. Hoàn cảnh ra đời
1.1.1. Vài nét về Mạnh Tử và sách Mạnh Tử
Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, người nước Trâu, nay thuộc
tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
Theo sách Mạnh Tử phả, thì ông sinh vào ngày mồng 2 tháng tư năm thứ
tư đời vua Chu Liệt Vương (372 trước CN) và mất vào ngày 15 tháng mười một,
năm thứ hai mươi sáu, đời vua Chu Noãn Vương (289 trước CN). Nhà Mạnh Tử
là đời sau của dòng họ Mạnh Tôn, quý tộc nước Lỗ. Theo Sử ký Tư Mã Thiên,
Mạnh Tử là người theo phái Nho gia của Tăng Tử nước Lỗ. Ông là học trò của
Tử Tư (Khổng Cấp - cháu nội của Khổng Tử).
Thuở ông lên 3 tuổi, thì cha mất, nhờ có mẹ hiền dạy dỗ sau theo học

thầy Tử Tư, hiểu được rõ cái đạo của Khổng Tử. Qua sách Mạnh Tử cho chúng
ta biết, ông lại có tài hùng biện, thường đi du lịch nước Tề, nước Lương, nước
Tống, nước Đằng, nước Lỗ, nước Ngụy mong đem cái đạo của thánh nhân ra
cứu đời. Nhưng vì thuở ấy, vua các nước chỉ lo việc chiến tranh, không ai để ý
đến việc nhân nghĩa. Và đến lúc già, ông thấy cái đạo của thánh nhân không thi
hành được, ông về ở nhà cùng với các môn đệ là Nhạc Chính Khắc, Công Tôn
Sửu và Vạn Chương ghi chép những điều ông đã đối đáp với vua các nước chư
hầu, hoặc là với môn đệ của ông, cùng những lời phê phán của ông về một vài
quan điểm, tư tưởng trong một số học thuyết khác. Về vấn đề này, trong Mạnh
Tử liệt truyện, Tư Mã Thiên viết: “Lui về cùng với Vạn Chương chi đồ tự Thi,
Thư thuật ý Khổng Tử, viết Mạnh Tử thất thiên”
Về vấn đề xuất thân của Mạnh Tử, có người cho rằng, ông cha họ Mạnh
thuộc tầng lớp “bình dân”, nhưng quan niệm ấy chỉ là suy luận dựa theo luận
điểm có ít nhiều mang tư tưởng dân chủ của Mạnh Tử là: “Dân là quý, xã tắc là
10

thứ yếu, nhà vua là chuyện không đáng trọng”. Thực tế thì Mạnh Tử không phải
một người theo chủ nghĩa dân quyền, mà là một người ủng hộ chế độ phong kiến
sơ kỳ, thêm nữa tổ tiên Mạnh Tử vốn là họ Mạnh Tôn, một dòng “họ nhà vua”
nước Lỗ. Trong cuốn Lịch sử Triết học do GS.Nguyễn Hữu Vui chủ biên đã viết:
“tư tưởng của Mạnh Tử là kế thừa trực tiếp tư tưởng của Tử Tư và Tăng Sâm”
[78, tr.33]. Nhận định của các tác giả cuốn sách này có lẽ là xuất phát từ thực tế,
Mạnh Tử là học trò của Tử Tư (người viết sách Trung dung) và Tử Tư là học trò
của Tăng Sâm (người viết sách Đại học). Nhưng căn cứ vào quy mô và nội dung
trong sách Mạnh Tử với quy mô và nội dung vấn đề trong sách Đại học và sách
Trung dung cho thấy, nhận định trên đây trong cuốn Lịch sử Triết học chưa thật
thuyết phục. Vả lại Tử Tư, người thầy của Mạnh Tử không phải là người có học
vấn cao và nổi tiếng, như Mạnh Tử đã có lần nói: “Tôi không được làm môn đồ
Khổng Tử, tôi tự học theo người”. Hơn nữa, căn cứ vào quy mô và nội dung các
vấn đề trong sách Mạnh Tử của Mạnh Tử có thể khẳng định chắc chắn rằng,

Mạnh Tử là nhà tư tưởng lớn của thời Chiến Quốc, dù rằng khi Mạnh Tử ra đời
thì Khổng Tử đã mất cách đó 100 năm, nhưng ông là người kế thừa, có công lớn
trong việc phát huy, phát triển học thuyết của Khổng Tử. Và chính tư tưởng của
Khổng Tử kết hợp với tư tưởng của Mạnh Tử (trên cơ sở kế thừa, phát triển tư
tưởng của Khổng Tử) đã tạo thành cái gọi là “Khổng Mạnh chi đạo”.
Bộ sách Mạnh Tử rốt cuộc có phải do Mạnh Tử viết hay không, từ trước
đến nay, vẫn tồn tại 3 quan niệm. Một là, hoàn toàn khẳng định do Mạnh Tử tự
tay viết. Hai là, do các đệ tử của ông như Vạn Chương, Công Tôn Sửu ghi lại
sau khi Mạnh tử qua đời và ba là, như lời Tư Mã Thiên viết trong sách Mạnh Tử
liệt truyện: “Lui về cùng với Vạn Chương chi đồ tự Thi, Thư thuật ý Khổng Tử,
viết Mạnh Tử thất thiên”. Hiện nay, nhiều người cho rằng, lời Tư Mã Thiên có
thể tin được, bởi ông sống ở thời đại tương đối sớm, có được những nguồn tư
liệu tương đối chính xác, nghe được nhiều điều lưu truyền trong dân gian.
11

Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, mỗi thiên chia thành thượng và hạ (người
đời sau gọi là chương cú thượng và chương cú hạ). Cũng có thể nói sách Mạnh
Tử có 2 quyển (phần): Thượng (phần Thượng, quyển Thượng) là tập hợp chương
cú thượng trong 7 thiên; và Hạ (phần Hạ, quyển Hạ) là tập hợp chương cú hạ
trong 7 thiên. Vì vậy, toàn bộ sách Mạnh Tử gồm 14 chương cú, đó là:
1. Lương Huệ Vương chương cú thượng.
2. Lương Huệ Vương chương cú hạ.
3. Công Tôn Sửu chương cú thượng.
4. Công Tôn Sửu chương cú hạ.
5. Đằng Văn Công chương cú thượng.
6. Đằng Văn Công chương cú hạ.
7. Ly Lâu chương cú thượng.
8. Ly Lâu chương cú hạ.
9. Vạn Chương chương cú thượng.
10. Vạn Chương chương cú hạ.

11. Cáo Tử chương cú thượng.
12. Cáo Tử chương cú hạ.
13. Tận Tâm chương cú thượng.
14. Tận Tâm chương cú hạ.
Cũng như sách Luận ngữ, trong sách Mạnh Tử, do các thiên đều
không có trung tâm nên không có tên thiên, do vậy, đều lấy vài câu đầu tiên
làm tên thiên.
Thời Lưỡng Hán, sách Mạnh Tử chỉ được coi là truyện, tác phẩm bổ trợ
cho kinh. Sau thời Ngũ Đại, Thục chúa cho khắc 11 kinh trong đó có Mạnh Tử,
đến thời vua Tống Thái Tông đã cho khắc lại, từ đó sách Mạnh Tử bắt đầu gọi là
kinh. Thời Nam Tống, Chu Hy rút từ kinh lễ ra hai thiên Đại học và Trung dung
gộp lại với Luận ngữ và Mạnh Tử thành Tứ thư. Năm Nguyên Tông hoàng đế
12

thứ hai có quy định, việc ra đề thi cho khoa cử phải lấy trong Tứ thư. Từ đó, sách
Mạnh Tử trở thành sách bắt buộc phải học đối với mọi thư sinh, nho sinh. Đây là
cuốn sách thể hiện đầy đủ nhất tư tưởng của Mạnh Tử.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội thời Chiến quốc
Khi nghiên cứu và đánh giá tư tưởng của một thời đại lịch sử nào cũng
như tìm hiểu bất kỳ nội dung, tính chất tư tưởng của một nhà tư tưởng nào thì
một trong những căn cứ, cơ sở chủ yếu là phải xuất phát và dựa vào tình hình
kinh tế và chính trị của thời đại nảy sinh đã chi phối sự hình thành, phát triển của
tư tưởng ấy.
Theo nhiều tài liệu lịch sử và nhiều nguồn tư liệu khác, thời đại Mạnh Tử
là thời kỳ mà xã hội Trung Quốc tiếp tục diễn ra những biến đổi sâu sắc trên tất
cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội và con người.
Trên lĩnh vực kinh tế: Ở Trung Quốc, đến thời Chiến Quốc, có những
biến đổi lớn lao về mặt kinh tế. Đặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt
phát triển cao hơn so với thời Xuân Thu. Sự tiến bộ trong ngành luyện sắt đã
thúc đẩy sự phát triển hơn nữa trong lĩnh vực thủ công nghiệp và nông nghiệp.

Các nước đều có những trung tâm luyện sắt, Hàm Đan nước Triệu, Uyển nước
Sở, Đường Khê nước Hàn, Lâm Truy nước Tề… đều là những nơi sản xuất đồ
sắt phát triển. Một số nước đặt ra chức “Thiết quan” chuyên môn quản lý, kinh
doanh ngành luyện sắt và thu thuế hàng sắt. Lúc bấy giờ, không những phần lớn
nông cụ như lưỡi cày, cuốc, liềm, xẻng, mai, rìu, dao…bằng sắt, mà phần lớn đồ
binh khí cũng được làm bằng sắt. Những nơi luyện sắt quy mô lớn thu hút hàng
trăm nô lệ làm việc. Và điều đó đã làm cho nhiều chủ lò luyện sắt trở lên giàu có
nhờ bóc lột sức lao động. Sự tiến bộ trong ngành luyện sắt cũng thúc đẩy sự phát
triển hơn nữa của thủ công nghiệp. Đồ chạm vàng và dát bạc, hàng lụa và đồ sơn
là những sản phẩm thủ công tinh xảo nhất của thời Chiến quốc. Nổi tiếng nhất có
hàng tơ lụa màu của nước Tề, đồ sơn có tranh vẽ màu của nước Sở. Do vậy mà,
13

sự trao đổi hàng hoá trong một nước cũng như giữa các nước ngày càng được
mở rộng và tăng cường hơn so với thời Xuân thu.
Để đáp ứng nhu cầu trao đổi và phát triển thương nghiệp, các thành thị
lớn đều tự chế tạo ra tiền tệ. Tiền tệ kim loại đến thời Chiến Quốc đã phát triển
mạnh. Tiền thường được đúc bằng đồng, cũng có loại đúc bằng vàng, có mang
tên thành thị hoặc tên nước; hình thức, trọng lượng và giá trị tiền tệ các nước rất
khác nhau. Thương nhân lớn ở các thành thị còn có nghề cho vay nặng lãi, tích
trữ đầu cơ, nuôi rất nhiều nô lệ để vận chuyển hàng hoá. Quý tộc cũng bắt chước
thương nhân kinh doanh buôn bán và cho vay nặng lãi. Những thương nhân lớn
có thế lực về kinh tế thường có nhiều tham vọng về chính trị, muốn dựa vào sức
mạnh kinh tế và tiền tài để khẳng định quyền lực chính trị của mình.
Cùng với sự phát triển ấy, thuỷ lợi và canh tác nông nghiệp ở các nước
đều dần phát triển. Nhờ việc sử dụng ngày càng phổ biến hơn nông cụ bằng sắt
so với thời Xuân Thu trước đây, mà công cuộc thuỷ lợi và canh tác nông nghiệp
ở các nước có những bước phát triển hơn so với trước đây. Nhân dân ở dọc sông
Hoàng Hà đắp hàng nghìn dặm đê dọc theo sông. Nước Tần đã đắp đập Đô
Giang nổi tiếng, tưới cho cả một vùng đồng bằng thành đô rộng lớn. Ở Quan

Trung có khơi con mương nước Trịnh, tưới cho cả một vùng đất đai ở phía Bắc
sông Vị. Nhân dân các nước Tề, Ngụy, Sở đều đào mương, ngòi thông với các
con sông lớn, hình thành một hệ thống tưới tiêu và mạng lưới giao thông đường
thuỷ rất thuận lợi. Nhưng tình trạng mâu thuẫn và chiến tranh giữa các nước đã
làm cho công cuộc thuỷ lợi chưa phát huy được hết tác dụng của nó. Thậm chí
có nhiều lần, để đối phó với các thế lực thù địch, nhiều nước đã sử dụng cả biện
pháp phá đê hoặc ngăn sông, ngăn đập để gây lũ lụt, hạn hán cho đối phương.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội: Cũng như trong thời Xuân thu, thời
Chiến quốc ở Trung Quốc, sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh
hưởng, tác động to lớn đến lĩnh vực chính trị - xã hội. Nó làm xuất hiện một cục
diện mới trong xã hội Trung Quốc - thời Chiến Quốc. Ở thời Chiến Quốc, chế độ
14

chính trị không còn là sự chuyên chính của thị tộc như thời Tây Chu nữa. Đây là
thời kỳ mà xã hội Trung Quốc vẫn chưa hoàn tòan chấm dứt tình trạng đan xen
giữa hình thái chiếm hữu nô lệ và hình thái phong kiến, tất nhiên hình thái phong
kiến là nổi bật và chiếm ưu thế. Chế độ tông pháp không còn được tôn trọng; các
quan hệ về kinh tế, chính trị giữa thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng
lẻo. Mâu thuẫn và đấu tranh giữa các nước và giữa bọn quý tộc trong từng nước
ngày càng mở rộng và sâu sắc hơn. Chiến tranh cướp đoạt và đời sống xa xỉ của
tầng lớp trên làm cho xã hội ngày càng trở nên rối ren, phức tạp hơn.
Hệ quả tất yếu là, những mâu thuẫn vốn có và mới nảy sinh trong lòng xã
hội ngày càng sâu sắc, trầm trọng hơn. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp thống
trị bóc lột với giai cấp nông dân và các tầng lớp bị thống trị, bị bóc lột khác.
Thời Chiến Quốc, chiến tranh giữa các nước còn nhiều hơn và khốc liệt
hơn thời Xuân Thu. Trước thực trạng ấy, Mạnh Tử đã phải thốt lên rằng, “đánh
nhau để tranh thành thì giết người, thây đầy thành; đánh nhau để tranh đất thì
giết người, thây đầy đồng” - một cảnh tượng hãi hùng về cuộc chiến khi đó.
Mâu thuẫn và chiến tranh giữa các nước và mâu thuẫn giữa bọn quý tộc
trong từng nước ngày càng mở rộng và sâu sắc hơn. Lúc này, tầng lớp trên như

công khanh và đại phu ở các nước, do lập được nhiều chiến công lớn, cho nên được
ban cấp rất nhiều ruộng đất, tù binh. Trong quá trình đó, có một số ít đại phu có thế
lực kinh tế cũng như chính trị ngày càng mạnh lên bên cạnh số đông các đại phu
khác ngày bị sa sút đi, ngày càng suy yếu. Chiến tranh cướp đoạt và đời sống xa xỉ
khiến một số trong số họ mất hết của cải và thái ấp, trở thành kẻ sĩ bình thường
hoặc bị giáng xuống làm nô bộc. Tầng lớp đại phu đã suy yếu, không giữ được địa
vị quý tộc thế tập của họ nữa. Vua trực tiếp thống trị nhân dân, bắt nhân dân phải
chịu binh dịch và sưu dịch, thu tô ruộng và thuế nhân khẩu.
Ngoài ra, do sự phát triển của sức sản xuất, sự xuất hiện và phát triển của
kinh tế hàng hoá, do chiến tranh, loạn lạc xảy ra liên miên mà làm cho tổ chức
công xã nông thôn và cơ cấu của nó cũng như chế độ tỉnh điền bị phá hoại
15

nghiêm trọng. Trong thôn, xã, sự phân hoá giai cấp, giàu nghèo ngày càng mạnh
mẽ. Tầng lớp quý tộc, địa chủ và thương nhân giàu có cướp đoạt nhiều ruộng đất
của nông dân, cùng với đó là việc biến người nông dân thành kẻ làm mướn.
Quan hệ sản xuất theo kiểu nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong lĩnh
vực nông nghiệp.
Chiến tranh liên miên và tàn khốc trong thời Chiến Quốc đã phá hoại
nghiêm trọng sức sản xuất xã hội thời đó. Nhân dân phải chịu mọi tai hoạ nặng
nề từ thực trạng ấy và vì vậy, họ luôn khao khát một cuộc sống hoà bình, yên ổn.
Thực tiễn xã hội không chỉ ở thời Xuân Thu mà ngay cả trong thời
Chiến Quốc bấy giờ vẫn luôn đặt ra một vấn đề lớn và cần phải có lời giải cho
nó: Cách tổ chức và quản lý xã hội theo mô hình cũ đến lúc này càng chứng tỏ là
không còn phù hợp nữa. Vì vậy một mặt, cần phải thiết lập lại trật tự, kỷ cương
của xã hội và đưa xã hội vào thế ổn định, phát triển; và mặt khác, cần phải kiến
tạo mô hình của một xã hội mới - xã hội lý tưởng.
Rõ ràng, vấn đề lớn ấy cũng như những lời giải đáp cho nó không chỉ là
một vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách mà còn là câu hỏi lớn, là nỗi băn khoăn
cho thời đại. Và đó cũng là một trong những nội dung chủ yếu trong đời sống tư

tưởng, đời sống chính trị của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ.
Sự hình thành những học thuyết mới cũng như sự tiếp tục phát triển, phát triển
của nhiều học thuyết khác (đã xuất hiện ở thời Xuân Thu) trong thời Chiến Quốc nói
chung và sự ra đời tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử cũng từ bối cảnh đó.
1.2. Một số tiền đề tư tưởng cơ bản ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng
chính trị - xã hội của Mạnh Tử.
Trong nguyên lý của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội đã chỉ ra rằng, sự hình thành, phát triển và
biến đổi của ý thức xã hội nói chung, của bất kỳ hình thái ý thức xã hội nói riêng
không chỉ bị quy định, chi phối bởi tồn tại xã hội (mà chủ yếu là điều kiện kinh
16

tế - xã hội) mà còn trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển ý thức xã hội và mỗi
hình thái ý thức xã hội trước đó. Sự hình thành tư tưởng chính trị - xã hội của
Mạnh Tử cũng không nằm ngoài tính quy luật, tính tất yếu ấy.
1.2.1. Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử là sự tiếp thu, kế thừa và phát
triển tư tưởng chính trị - xã hội và đạo đức của Khổng Tử.
Xuất phát từ việc nghiên cứu hoàn cảnh ra đời và nhất là nội dung, tính
chất trong hệ thống tư tưởng của Mạnh Tử nói chung, tư tưởng chính trị - xã hội
của ông nói riêng, đúng như nhiều nhà nghiên cứu, nhiều công trình nghiên cứu
đã chỉ ra và khẳng định, tư tưởng của Mạnh Tử là sự tiếp thu, kế thừa và sự phát
triển nhiều nội dung chủ yếu trong tư tưởng của Khổng Tử. Người ta gọi Mạnh
Tử thuộc dòng “đích phái” của Khổng Tử là vậy. Do đó, tư tưởng của Khổng Tử
là một trong những tiền đề tư tưởng chủ yếu đối với sự hình thành về nội dung,
tính chất tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử.
Khổng Tử là người sáng lập và là nhà tư tưởng lớn nhất của phái Nho
gia. Tác phẩm thể hiện tập trung và rõ nét về tư tưởng của Khổng Tử là sách
Luận ngữ.
Trước thực trạng xã hội “Vương đạo suy vi”, trật tự lễ pháp của nhà Chu
đang bị đảo lộn, “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không

phải đạo cha, con không phải đạo con” [33,tr.13-23] và đứng trên lập trường của
bộ phận tiên tiến của giai cấp quý tộc nhà Chu, Khổng Tử chủ trương lập lại
pháp chế nhà Chu với những nội dung mới cho phù hợp. Ông mở trường dạy
học, đi chu du khắp các nơi trong nước, tranh luận với các phái khác để tuyên
truyền lý tưởng của mình, nhằm mục đích cải biến trật tự xã hội bằng con đường
cải lương, cải cách.
Trong tư tưởng của mình, Khổng Tử còn đề ra giải pháp trong việc cai
trị, quản lý xã hội để ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội theo mô hình và thiết
chế xã hội nhà Chu. Những tư tưởng và giải pháp đó được tập trung trong học
thuyết chính trị - xã hội và nhất là trong tư tưởng về đường lối đức trị của ông.
17

Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu trong học thuyết chính trị - xã
hội của Khổng tử như sau.
1.2.1.1. “Nhân” là nền tảng trong học thuyết chính trị - xã hội của
Khổng Tử.
Trong sách Luận ngữ của Khổng Tử, phạm trù “Nhân” là phạm trù trung
tâm, cơ bản. Phạm trù này, không chỉ là người, mà chủ yếu chỉ cái đức, các
phẩm chất đạo đức và bản chất tự nhiên, cần có của mọi người. Nhân vừa là thể
tự nhiên, yên lặng, vừa là cái năng lực sinh ra các đức tính khác. Nó (nhân, đức
nhân) chính là hạt nhân, là nguồn gốc và là động lực của mọi hành động và suy
nghĩ của mỗi người, của con người. Nhân đồng thời là dụng, dễ cảm ứng và
người có đức nhân thì lúc nào cũng thấu suốt vạn vật, người có đức nhân thì làm
việc gì cũng đúng và thích hợp.
Ngoài ra, trong tư tưởng của Khổng Tử, Nhân không những chỉ riêng
một đức tính mà nó còn chỉ mọi đức tính cần có khác của con người và theo đó,
người có “Nhân” là người có nghĩa, có lễ, có trí, có tín, có hiếu, có trung. Và
theo ông, con người có những cái đức như vậy thì có được cái đạo làm người của
mình. Đạo người có hàng ngàn, hàng vạn điều, nhưng chung quy lại là, những
điều đối với mình cũng là đối với mọi người, nên “Nhân” có thể hiểu là cách cư

xử với mình và cư xử với người khác.
Trong sách Luận ngữ, “Nhân” theo cách hiểu và sự lý giải của Khổng Tử
có rất nhiều nghĩa. Chẳng hạn, như khi trả lời thế nào là “Nhân”, ông đã tuỳ vào
trình độ học vấn và tư cách của từng người mà đưa ra quan điểm của mình về
nhân có khác nhau. Chung quy lại, có thể khái quát nội hàm của phạm trù
“Nhân” trong sách Luận ngữ của Khổng Tử ở một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất: “Nhân” là ái nhân, tức là yêu người. Yêu người là hạt nhân
trong tư tưởng “Nhân” của Khổng Tử. Theo ông, yêu người chung quy lại là,
“Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” [32, tr.579] - điều gì mình không muốn thì đừng
làm cho người khác và “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” [32,
tr. 340] - mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt
18

thì cũng phải giúp người khác thành đạt. Trong thiên Hương đảng, sách Luận
ngữ có ghi chép rằng: “Khi trong triều trở về, nghe nói chuồng ngựa bị cháy,
điều ông quan tâm trước tiên là “có ai bị thương không?”, chứ không hỏi “ngựa
có việc gì không?” [32.tr.435].
Yêu người trong quan niệm của Khổng Tử là yêu mọi người, không phân
biệt. Quan điểm của Khổng Tử là những gì hại đến người thì ngăn lại. Ông quan
niệm “Nhân giả ái nhân” đã bao hàm trong đó là việc quan tâm, yêu mến người
dân, là “bố thí rộng rãi”, và “cứu giúp” nhiều người. Như trong sách Luận ngữ
có ghi chép rằng: “Khi trò chuyện với Tử Cống, Khổng Tử đã nói: “có bố thí
rộng rãi cho dân, nhờ đó có thể giúp được nhiều người” [32,tr 340-341]. Và ông
coi người nào làm việc ấy không chỉ là “Nhân” mà còn là “thánh nhân” và việc
đó thì Nghiêu, Thuấn vẫn còn có lỗi…
Khổng Tử là người đã đề ra tư tưởng phải coi trọng đức nhân. Trong xã
hội đương thời, ông là người đã thẳng thắn khuyến cáo những kẻ có chức, quyền
phải “tiết dụng nhi ái nhân” - bớt tiêu dùng mà yêu người, phải “sử dân dĩ thời” -
sai khiến dân đúng thời vụ. Quan niệm này của ông là sự định hướng cho mọi
triều đại muốn trở thành người chủ thực sự của dân. Ông cũng là người đưa ra tư

tưởng “tiên phú, hậu giáo” - trước tiên phải làm cho dân giàu, sau đó mới giáo
dục, giáo hóa dân. Tư tưởng này của Khổng Tử đã được ghi chép rõ trong
chương Tử Lộ, sách Luận ngữ: “Khi thấy dân nước Vệ đông, Nhiễm Hữu hỏi
Khổng Tử rằng: “Dân đã đông đảo, nên thêm điều gì?”, thì Khổng Tử trả lời
rằng: “Giúp cho dân giàu!”. Nhiễm Hữu lại hỏi: “Dân đã giàu có, nên thêm điều
gì?!”. Khổng Tử trả lời: “Dạy dỗ dân” [32,tr.504]. Ở đây rõ ràng là, trong tư
tưởng của Khổng Tử, muốn giáo dục dân, trước hết phải giúp dân có một đời
sống kinh tế đầy đủ và ổn định. Và trong việc giáo hoá dân, theo Khổng Tử,
không chỉ theo tinh thần “hữu giáo vô loại” - ai cũng có thể và cần phải được
giáo dục, giáo hóa, mà giáo hóa dân còn phải thực hiện đúng tinh thần “hối nhân
bất quyện” - dạy người không biết mệt mỏi.
19

Thứ hai: “Nhân” là phương châm xử thế đối với mình và đối với người.
Như trong chương Nhan Uyên, sách Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Xuất môn như
kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế. Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. Tại bang vô
oán” [32,tr.473] - ra cửa phải nghiêm trang như gặp khách quý, sai khiến dân thì
phải thận trọng như dự lễ tế lớn. Điều gì mình không muốn người làm cho mình
thì không nên làm cho người. Như vậy trong nước không ai oán giận, trong nhà
cũng không ai oán giận.
Theo Khổng Tử, nhà vua, người cầm quyền thực hành được năm đức ở
trong thiên hạ thì họ mới là người có Nhân, đó là: Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ
như ông nói: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ”, “Viết: Cung, khoan,
tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc đắc chúng, tín đắc nhân nhậm yên, mẫn
tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân” - Cung kính người thì không khinh nhờn,
Khoan dung thì được lòng mọi người, Thành tín thì được người tín nhiệm, cần
mẫn thì nên công, có ơn huệ thì dễ sai khiến người” [32,tr.619].
Như vậy, theo Khổng Tử, “Nhân” là yêu người như yêu mình. Đây là
nguyên tắc chung, là yêu cầu, là cái chi phối trong suy nghĩ và hành động của
mỗi người, là cái gì mình không muốn thì đừng làm với người, mình lập nghiệp

thì phải giúp người lập nghiệp. Yêu mến và thương xót những người không được
như mình, như đối với người lao động, tàn tật, già cả, yếu đuối…thì người có
“nhân” phải biết cảm thông, tôn trọng, yêu mến họ và giúp đỡ, chăm sóc họ .
Thứ ba: “Nhân” theo Khổng Tử, là yêu cầu, đòi hỏi mọi người phải hạn
chế ham muốn vật chất, phải tu kỷ (sửa mình), là luôn tuân thủ theo kỷ cương,
pháp độ, luật lệ. Như trong chương Nhan Uyên, sách Luận ngữ, ông viết: “nhất
nhật, khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên. Nhân do kỷ nhi do nhân, hồ tai?”
[32,tr.471] - dẹp bỏ tư dục theo lễ là nhân. Một ngày dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ,
cả thiên hạ quay về với điều nhân vậy. Điều nhân là do mình, há ở người khác
hay sao? [32,tr.472]. Về điều này, có người cho lễ của Khổng Tử là lễ nhà Tây
Chu, lễ của giai cấp thống trị. Nhưng thật ra, lễ của Khổng Tử không chỉ dừng
lại ở đó, lễ của ông còn là kính trên, nhường dưới. Theo đó, ông cho rằng, hiếu
20

của con cái đối với cha mẹ không chỉ là lòng thành kính, chỉ nuôi cha mẹ không
thôi thì không thể gọi là hiếu, ví như giống chó, giống ngựa cũng có người nuôi.
Nuôi cha mẹ không thành kính thì khác gì nuôi chó, ngựa. Việc thực hành lễ là
phải thành kính.
Ngoài ra, để cho mọi người gần gũi nhau, quan hệ giữa mọi người được
bền vững, Khổng Tử cho rằng, con người phải có lòng tin lẫn nhau. Sự thất tin
với nhau giữa con người với con người, theo Khổng Tử là không tài nào hiểu
được. Như ông nói: “Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả giã. Đại xa vô nghê, tiểu xa
vô ngột, kỳ hà dĩ hành chi tai” [32,tr.234] - Người mà không thành tín, chẳng
biết có thể làm nên chuyện gì, xe lớn mà không đòn nghê, xe nhỏ mà không đòn
ngột, lấy gì mà đi xa.
Chữ tín, lòng tin không chỉ là yêu cầu, là sự đòi hỏi của mỗi người, trong
quan hệ giữa người với người, mà nó còn được nâng lên thành mối quan hệ giữa
dân với nhà vua và với sự an nguy, thịnh suy của nền chính trị. Điều này thể hiện
rõ trong quan điểm của Khổng Tử khi ông trả lời Tử Cống hỏi về phép trị dân.
Khổng Tử đáp: “Lương thực đầy đủ, quân bị đầy đủ, dân tin chính quyền”. Tử

Cống hỏi: “Trong ba điều ấy bất đắc dĩ phải bỏ một điều thì điều nào trước?”.
Ông đáp: “Nếu bỏ thì bỏ binh lực”. Tử Cống lại hỏi: “Trong hai điều còn lại nếu
bất đắc dĩ phải bỏ một điều nữa thì bỏ điều nữa thì bỏ điều nào trước?”. Khổng
Tử đáp: “Bỏ lương thực xưa nay ai cũng phải chết, như dân không tin cậy thì
không thể đứng vững” [32,tr.497] (Tử Cống vấn chính) viết: “Tất bất đắc dĩ như
khứ ư tư tam giả, hà tiên?” Viết “khử binh”. Tử Cống nói: “Tất bất đắc dĩ nhi
khử, ư kỳ nhị giả, hà tiên?” Viết: “Khử thực, Tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất
lập” [32,tr.478]. Trong chính trị, cả ba điều trên, điều nào cũng quan trọng. Và
mặc dù trong thời đại đó, cả ba điều trên khó đảm bảo được điều nào, nhưng vẫn
có thể thấy được rằng, trong tư tưởng của Khổng Tử, lòng tin của dân có vai trò
quan trọng như thế nào đối với sự thành bại, hưng vong của triều đại, của nền
21

chính trị. Rõ ràng ở đây, ông đã xem dân có vai trò to lớn đối với sự phát triển
của xã hội và sự tồn tại của chế độ chính trị.
Tuy có chỗ ông thể hiện tư tưởng coi thường dân “Dân học đạo thì dễ
sai khiến”, “không nên giảng giải những điều cao siêu cho dân”,v.v.nhưng
chính tư tưởng “dân tín” của ông có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và phát
triển nền chính trị và nói rộng ra là đối với sự phát triển xã hội trong bối
cảnh xã hội Trung Quốc đương thời - thời kỳ chiến tranh liên miên, tình
trạng rối loạn kéo dài, khi mà đời sống của người dân hết sức đói khổ, cơ
cực là điều đáng phải ghi nhận.
Trong tư tưởng của Khổng Tử, cái bản thể nhân ấy là cái sáng suốt, cái
sức mạnh giúp cho ta làm việc đúng với đạo trời, đạo người. Nhờ có “nhân” mà
có lòng yêu thương người, yêu thương vạn vật, mong muốn cho người và vật
được an lạc, sống bình đẳng, thân ái với nhau, hoà đồng với nhau. Nhờ có
“nhân” mà tình cảm của con người đều xuất phát một cách tự nhiên, không miễn
cưỡng. Chính lẽ đó, người có bản thể “nhân” thì bao giờ cũng ung dung, sáng
suốt và làm gì cũng hợp lẽ, chí công, chí thiện. Chính Nhân rộng lớn và có vai
trò to lớn như vậy, nên ngay như Nhan Hồi là bậc kỳ tài, kỳ hiền mà “Hồi giả, kỳ

tâm tam nguyện bất vi nhân, kỳ dư nhật nguyệt chí yên nhi dĩ” [52,tr.85] - bụng
giữ được ba tháng không trái đạo nhân, người khác thì chỉ được một ngày, một
tháng là cùng. Nhưng cũng vì “Nhân” là bản thể, là đạo làm người cho nên, theo
Khổng Tử, “Nhân” rất gần với mọi người, chỉ cần người muốn “Nhân” là sẽ có
“Nhân”. Như ông nói: “Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân, tự nhân trí” [47,tr.113] -
Nhân không xa, nếu người muốn nhân thì nhân đến.
Tóm lại, “Nhân” là nội dung chủ yếu trong học thuyết đạo đức của
Khổng Tử. “Nhân” vừa là cái dụng, vừa là cái bản thể được thể hiện trên nhiều
phương diện và cần được ứng dụng với các tầng lớp khác nhau. Có thể nói, cái
cốt lõi của “Nhân” là thương người, yêu người.
22

1.2.1.2. Quan niệm của Khổng Tử về xã hội lý tưởng.
Trong sách Luận ngữ, khi đề cập về xã hội lý tưởng cho thấy, theo Khổng
Tử, xã hội lý tưởng là một xã hội được xây dựng , hoàn thiện trên cơ sở của đạo
đức, của “đức trị”. Theo đó, trong xã hội ấy, nhà vua, người cầm quyền phải là
người có tài, đức để trị quốc và làm gương cho nhân dân noi theo. Với Khổng Tử,
đạo đức của nhà vua, người cầm quyền có vai trò to lớn trong việc trị quốc, bình
thiên hạ, trong việc xây dựng và hoàn thiện con người và xã hội có trật tự, kỷ
cương, có đạo đức và có giáo dục.
Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử chỉ rõ những đặc trưng cơ bản của xã
hội lý tưởng là sự ổn định, đại đồng: Vua, chư hầu hay quan đại phu (kẻ có nước,
có nhà) chẳng lo ít dân mà chỉ lo không đồng đều, chẳng lo nghèo mà chỉ lo
không được an ninh. Là vì hễ đồng đều thì chẳng nghèo, người hoà thì dân số
không ít, có an ninh thì nước nhà không nghiêng đổ.
Ngoài ra, trong sách Lễ ký, Khổng Tử còn nói đến những đặc trưng khác
của xã hội lý tưởng: mọi người trong xã hội đối xử với nhau, quan hệ với nhau
phải hòa mục, thân ái, bình đẳng. Như ông nói: Sự thực hiện của đạo lớn là, thiên
hạ là của chung, tuyển chọn người hiền và cử người tài năng, nói điều tín và tu
sửa hoà mục. Cho nên người ta không chỉ tôn kính cha mẹ mình, không chỉ

thương yêu con cái mình, còn khiến cho người già được sống trọn đời, người trai
tráng được sử dụng, trẻ thơ được lớn lên, người không vợ, người không chồng,
trẻ mồ côi, người không con, người tàn tật, tất cả đều được chăm sóc [64, tr.71].
Theo khổng Tử, một xã hội ổn định là một xã hội có trật tự, kỷ cương, mọi cái
đều là của chung, mọi người có quyền lợi như nhau, được chăm sóc, sống bình
đẳng, thân ái. Và để tạo lập một xã hội như vậy, thì trước hết phải xây dựng và
duy trì trật tự, kỷ cương từ trong gia đình (vì gia đình là tế bào của xã hội), sao
cho “cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng”.
Xã hội lý tưởng, theo Khổng Tử không chỉ chủ yếu là một xã hội có đạo
đức mà xã hội ấy phải là một xã hội có đời sống vật chất tương đối đầy đủ, người
dân phải giàu có. Như trong sách Luận ngữ, đề cập đến vấn đề này, Khổng Tử

×