Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Sự hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.96 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Thi Phương

Sự hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam: thực trạng
và giải pháp

Luận văn ThS. Triết học: 60 22 80

Nghd. : GS.TS. Dương Xuân Ngọc

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội dân sự khơng phải là vấn đề mới, tuy nhiên, nó đang có xu hướng
gia tăng ảnh hưởng đối với quyền lực của nhà nước trên nhiều phương diện: từ
quản lý kinh tế cho đến văn hóa. Hiện nay, hoạt động của các tổ chức phi chính
phủ, các phong trào xã hội tồn cầu, các làn sóng biểu tình chống tồn cầu hố,
các tổ chức hồ bình xanh, các quỹ từ thiện, v.v... đã thể hiện khá rõ xu hướng
đó. Chính sự bùng phát của những vấn đề liên quan đến XHDS trong những năm
trở lại đây đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết – liên quan đến lĩnh vực
hoạch định chính sách của các chính phủ. Đối với Việt Nam, việc phải xử lý
những vấn đề như vậy đã trở thành một tất yếu trong tiến trình hội nhập.
Vấn đề XHDS còn được biết đến như một nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu và
tìm cách quảng bá xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở các
quốc gia chuyển đổi mà ở đó thực hiện cải cách quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế - xã hội và bắt đầu xây dựng NNPQ. Trong bối cảnh đó, người ta nói tới một
lý thuyết tam giác phát triển, theo đó, trong mỗi quốc gia, cấu trúc chủ yếu gồm


ba thành phần là: NNPQ, KTTT và XHDS. Đây là ba trụ cột của phát triển và vì
thế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa ba yếu tố này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới cho thấy một XHDS mạnh có vai trị
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thơng qua
những tác động tích cực đến sự phát triển của nền KTTT và hoàn thiện NNPQ,
bằng việc trực tiếp tự giải quyết những nhu cầu của người dân và cộng đồng.
XHDS là phương thức quan trọng để người dân tham gia vào công việc nhà
nước và xã hội. XHDS còn là phương thức kiểm sốt quyền lực từ phía xã hội
đối với nhà nước, giám sát hoạt động của bộ máy công quyền.
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, cùng với
phát triển KTTT định hướng XHCN, xây dựng NNPQ và dân chủ hoá đời sống
xã hội đang là mơi trường lý tưởng cho XHDS hình thành và phát triển. Có thể
thấy Việt Nam đang đứng trước địi hỏi dân chủ hố xã hội rất lớn. Theo đó, u
1


cầu xây dựng XHDS bắt nguồn từ trong chính sự vận động và phát triển của xã
hội.
Hơn thế nữa, sự phát triển của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta
không chỉ tạo nên nền tảng vật chất cho XHDS có cơ hội phát triển mà cịn tạo
ra cơ chế giải phóng các nguồn lực, trong đó có nguồn lực con người. Con người
được tự do phát triển theo pháp luật và đạo lý, dẫn đến sự tham gia của người
dân một cách chủ động, tự giác và tích cực hơn, đa dạng và thiết thực hơn vào
các tổ chức xã hội vì nhu cầu, lợi ích của mỗi thành viên và của cả cộng đồng.
KTTT đã tạo ra điều kiện kép cho sự hình thành và phát triển của XHDS - cơ sở
vật chất và sự tự do của những con người được giải phóng.
Cùng với việc thừa nhận phát triển KTTT định hướng XHCN, quá trình đổi
mới hệ thống chính trị nhằm xây dựng và hồn thiện nền dân chủ XHCN bảo
đảm toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân đã thu được những thành tựu đáng

khích lệ. Chính q trình dân chủ hố mọi mặt đời sống xã hội, q trình xây
dựng và hồn thiện NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân cho thấy một nội
dung quan trọng của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, đã từ lâu được thực
thi trên thực tế. Một yêu cầu tất yếu nảy sinh trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện NNPQ là đồng thời với việc phát triển KTTT định hướng XHCN, phải xây
dựng và phát huy mạnh mẽ vai trị của XHDS. Điều đó có nghĩa là, ở nước ta,
chỉ có thể xây dựng được NNPQ thực sự khi có XHDS đích thực. Trong giai
đoạn hiện nay, xây dựng và hồn thiện XHDS cịn là yêu cầu cấp bách của cuộc
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng. Hơn nữa, việc nhận thức và chủ động
xây dựng XHDS cũng là giải pháp để góp phần chủ động khắc phục những thái
quá trong việc hình thành XHDS một cách tự phát.
Mặt khác, xu thế đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên tất cả các phương diện
của đời sống xã hội không chỉ thông qua con đường nhà nước mà cịn thơng qua
các hình thức đối ngoại nhân dân thông qua các tổ chức XHDS; sự phát triển cả
về số lượng và chất lượng của các tổ chức XHDS trên tồn thế giới; sự gia tăng
vai trị của các tổ chức này trên tồn cầu đang là mơi trường bên ngồi kích
thích nhu cầu nhận thức và hình thành XHDS ở Việt Nam.
2


Với những điều kiện thuận lợi như trên thì XHDS ở Việt Nam đã manh nha
hình thành. Tuy nhiên, quá trình đó vận động theo xu hướng nào đang là vấn đề
được đặt ra cả về mặt lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải được giải quyết. Xuất
phát từ nhu cầu đó, tơi đã chọn vấn đề “Sự hình thành xã hội dân sự ở Việt
Nam: Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
XHDS đã được nghiên cứu từ rất sớm trên thế giới. Ngay từ thời Hy Lạp cổ
đại, trong tác phẩm “Chính trị”, Aristotle đã sử dụng thuật ngữ xã hội công dân
khi phê phán quan niệm về nhà nước lý tưởng của Platon. Tuy nhiên, khái niệm
này được sử dụng phổ biến vào thế kỷ XVI - XVII và từ đây các nghiên cứu về

XHDS trên thế giới đi theo hai quan niệm nổi bật:
Quan niệm thứ nhất bắt đầu từ Adam Smith (1723 - 1790). Dựa trên luận
điểm của Locke rằng XHDS được tạo ra bởi của cải, lao động, trao đổi và tiêu
dùng, Adam Smith đã xem xét XHDS với tư cách là lĩnh vực của nhu cầu do thị
trường tổ chức nên, được dẫn dắt bởi động lực là tư lợi của sở hữu tư nhân.
XHDS được coi như lĩnh vực tự trị, tự quản có thể biến sự đấu tranh vì được lợi
của cá nhân thành hàng hố cơng cộng.
Quan niệm thứ hai bắt đầu từ Alexis de Tocqueville (1805 - 1859), một nhà
chính trị học người Pháp. Ơng coi XHDS là lĩnh vực trung gian của các tổ chức
tự nguyện được duy trì bởi văn hố tự tổ chức và hợp tác.
Các nghiên cứu trên thế giới có thể chia thành hai mảng lớn:
1. Nghiên cứu lý luận về XHDS.
2. Nghiên cứu thực tế về các mơ hình, tổ chức XHDS trong thực tiễn.
Các nghiên cứu lý luận về XHDS, tập trung theo hai hướng tiếp cận chính:
Tư tưởng cổ điển coi quyền cơng dân như một thuộc tính được quyết định bởi
cộng đồng chung hơn là từng cá nhân, coi phẩm hạnh là sự phục tùng của ý chí
cá nhân trước ý chí chung của cộng đồng. Ngược lại, trào lưu tự do định nghĩa
quyền công dân như một thuộc tính cá nhân. Chính là chủ quyền tối cao của ý
chí và sự phán xét cá nhân xác lập con người như một thành viên của XHDS chứ
không phải là mệnh lệnh của một khái niệm trừu tượng như một cộng đồng hay
3


công cộng. Đứng ở trung tâm của trường phái tư tưởng này là sự quan tâm của
cá nhân này đối với những cá nhân khác, thừa nhận sự phụ thuộc qua lại, và khả
năng hành động hợp tác với nhau. Cá nhân vẫn được xem xét trong mối quan hệ
với xã hội như động lực thúc đẩy hành động vì lợi ích cơng cộng nằm ngay
trong mỗi cá nhân chứ không phải là sự áp đặt của xã hội lên bản thân cá nhân
đó.
Các nghiên cứu thực tế về mơ hình và các tổ chức XHDS trên thế giới, đã

khảo sát các XHDS ở các nước đặc biệt là các nước châu Âu, châu Mỹ và một
số nước châu Á, theo dõi và nghiên cứu sự vận động của các mơ hình XHDS
này.
Các mơ hình về XHDS cho đến nay vẫn theo hai hướng. Hướng thứ nhất
cho rằng XHDS tồn tại song song với nhà nước, là lực lượng hỗ trợ, phối hợp
với nhà nước. Với quan niệm này, XHDS được coi là cầu nối đoàn kết giữa nhà
nước và xã hội (lực lượng giám sát, phản biện nhà nước) như ở Anh, Pháp, Mỹ,
Ba Lan…Hướng thứ hai đặt XHDS cao hơn nhà nước, XHDS được coi như sự
bảo đảm chống lại nhà nước chuyên quyền và lĩnh vực đấu tranh chống lại sự
độc tài của nhà nước như ở Đức, Na Uy, Thụy Điển…
Tuy nhiên, ngày nay, khi toàn cầu hoá và sự hội nhập vào đời sống quốc
tế của mỗi quốc gia cũng như mỗi cá thể đã làm cho cấu trúc XHDS bị biến
dạng, thì các quan niệm nói trên về XHDS cũng đang nếm trải những đổi thay.
Nhiều học giả cho rằng, xu thế hiện đại là sự chuyển dịch XHDS từ khuôn khổ
nhà nước dân tộc lên cấp độ toàn cầu (xã hội dân sự tồn cầu). Và q trình này
diễn ra sớm hơn so với việc hình thành các thể chế cai trị liên chính phủ hoặc
thể chế cai trị tồn cầu.
Cũng theo họ, những dấu hiệu đầu tiên về động thái chuyển dịch này là sự
nổi lên của các phong trào xã hội tồn cầu, của các tổ chức phi biên giới, làn
sóng chống những ảnh hưởng tiêu cực của tồn cầu hố trên khắp thế giới, việc
các công dân của nhiều quốc gia khác nhau tìm thấy tiếng nói, lợi ích và nhu cầu
chung nhằm bảo vệ quyền lợi của mình trước những hiệp ước liên chính phủ,
4


trước những thoả thuận đa phương của các tập đoàn tư bản trên thế giới, v.v..
Tóm lại, XHDS tồn cầu sẽ là một hệ quả tất yếu của quá trình tồn cầu hố.
Ở Việt Nam, khái niệm XHDS được du nhập từ đầu thế kỷ XX cùng với
các khái niệm khác có nguồn gốc từ phương Tây như tự do, dân chủ, bình đẳng,
bác ái... Nó là bộ phận khơng thể tách rời của lý thuyết dân chủ và NNPQ hiện

đại. Song ở nước ta, tư tưởng về XHDS còn khá mới mẻ và mới chỉ được bắt
đầu vào những năm 90 của thế kỷ XX.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã bước đầu nghiên cứu sự phát triển
khái niệm XHDS qua các thời kỳ, chỉ ra những mốc phát triển cơ bản của khái
niệm này, chỉ ra sự kế thừa và phát triển khái niệm ở các nhà tư tưởng khác
nhau, bước đầu thống nhất được các nguyên tắc hoạt động cơ bản của XHDS.
Tiêu biểu là các cơng trình sau: Thế nào là "xã hội cơng dân"?(2006) của tác giả
Quý Đỗ, Xã hội dân sự: Khái niệm và các vấn đề(2007) của Bùi Quang Dũng,
Hoàng Ngọc Giao với bài viết Bàn về xã hội dân sự (2006), Quan niệm về “xã
hội cơng dân” trong tư tưởng chính trị phương Tây(2006) của Bùi Việt Hương,
Tìm hiểu khái niệm xã hội dân sự(2006) của Nguyễn Như Phát... Các công trình
này đều tìm cách tiếp cận, đưa ra những quan niệm về XHDS, làm rõ những đặc
trưng, vai trò, bản chất... của XHDS.
Các học giả tập trung nghiên cứu XHDS trong mối quan hệ với NNPQ,
KTTT, liên quan đến những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam như xây
dựng NNPQ XHCN, xây dựng XHDS ở Việt Nam. Trước hết vấn đề XHDS
được nghiên cứu trong mối quan hệ với Nhà nước pháp quyền, và sau đó là
trong mối quan hệ kinh tế thị trường - Nhà nước pháp quyền – XHDS, trong đó
nhà nước pháp quyền là trung tâm. Tiêu biểu là các cơng trình: Xây dựng nền
dân chủ XHCN và nhà nước pháp quyền (1992) của tác giả Đỗ Nguyên PhươngTrần Ngọc Đường, Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với nhà nước
(1994) của Trần Ngọc Đường - Chu Văn Thành, Quan hệ giữa Nhà nước và
XHDS Việt Nam, lịch sử và hiện đại (2004) của Lê Văn Quang, Mối liên hệ giữa
nhà nước với XHDS và vấn đề cải cách hành chính (2004) của Đào Trí Úc, Xây
dựng nhà nước pháp quyền từ sự hình thành XHCD (2004) của Nguyễn Thanh
5


Bình, Về mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền XHCN với đời sống XHDS
(2004) của Văn Đức Thanh, Một số vấn đề lý luận về quan hệ nhà nước, xã hội
và công dân trong nhà nước pháp quyền (2005) của Trần Hậu Thành v.v...

Các cơng trình này chủ yếu trình bày những vấn đề cơ bản về quyền con
người, về NNPQ và quan hệ giữa xây dựng NNPQ với hình thành XHDS ở nước
ta. Nội dung cơ bản là: NNPQ phải được xây dựng trên cơ sở XHDS và trở thành
một bộ phận của XHDS. Trong một cơ cấu xã hội ngày càng hoàn thiện - tức
XHDS, nhà nước ngày càng có xu hướng trở thành NNPQ, một bộ phận hữu cơ
của xã hội, nhưng không đứng trên xã hội. Đi sâu phân tích nội dung, bản chất
XHDS, bản chất NNPQ, mối tương tác biện chứng giữa NNPQ và XHDS, các
tác giả chỉ rõ: NNPQ được xây dựng trên cơ sở dân chủ là một bộ phận của
XHDS, XHDS địi hỏi phải có NNPQ. Việc xây dựng XHDS và NNPQ phải
được tiến hành song song, đồng thời với nhau. Xây dựng NNPQ chính là q
trình dân chủ hóa, là q trình xây dựng XHDS. Đồng thời, một số cơng trình
cũng chỉ ra những hạn chế, tồn tại, yếu kém cùng những ngun nhân của nó
trong q trình tiến hành xây dựng NNPQ ở nước ta hiện nay.
Một số nhà nghiên cứu nước ngồi cũng có những cơng trình nghiên cứu
khảo sát về XHDS Việt Nam trong thời gian gần đây. Ngồi ra, XHDS cịn được
nghiên cứu trong một số đề tài khoa học cấp Nhà nước và cấp bộ cũng như
những cuốn sách chuyên khảo, tham khảo về hệ thống chính trị Việt Nam. Một
số nhà nghiên cứu đã lựa chọn XHDS làm đề tài nghiên cứu trong các luận văn,
luận án. Bên cạnh đó có các cơng trình đi sâu luận giải vai trị của các hội, đồn
thể nhân dân trong đời sống xã hội, phát huy dân chủ trong sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Gần đây đã xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu chun sâu về XHDS ở
Việt Nam. Tiêu biểu là các cơng trình sau:
- Nguyễn Minh Phương (2006): Vai trò của XHDS ở Việt Nam hiện nay,
T/C Triết học, số 2. Tác giả trình bày nhận thức về vai trò của XHDS, vai trò
ngày càng tăng của XHDS trong giai đoạn hiện nay đối với sự phát triển đất
6


nước, chức năng của XHDS, đồng thời chỉ ra những hạn chế của XHDS, trên cơ

sở đó đề xuất phương hướng và biện pháp cơ bản để thúc đẩy sự phát triển của
XHDS ở Việt Nam hiện nay.
- Năm 2005, Viện Những vấn đề phát triển Việt Nam (VIDS) được sự hỗ
trợ của UNDP (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc), SNV (Các tổ chức phát
triển của Hà Lan tại Việt Nam), CIVICUS (Liên minh thế giới về sự tham gia
của người dân) đã thực hiện dự án nghiên cứu về XHDS ở nước ta. Kết quả
nghiên cứu gần đây nhất được cơng bố trong cơng trình Đánh giá ban đầu về
XHDS tại Việt Nam (H., 2006). Trên cơ sở phân tích bối cảnh lịch sử của
XHDS, hoạt động của các tổ chức, nhóm nghiên cứu đã phân tích XHDS theo
4 bình diện: cấu trúc, mơi trường, các giá trị, tác động. Các tác giả đánh giá
những điểm mạnh, điểm yếu của XHDS Việt Nam và đưa ra những giải pháp
hoàn thiện XHDS ở Việt Nam.
- Dương Xuân Ngọc (2006): Về cách tiếp cận XHDS và xây dựng XHDS ở
Việt Nam, Website Học viện Báo chí và tuyên truyền. Tác giả khẳng định, từ
những năm 90 của thế kỷ XX, trên phạm vi tồn cầu, vai trị của các tổ chức
XHDS ngày càng được khẳng định. Ở Việt Nam, từ khi đất nước tiến hành cơng
cuộc đổi mới tồn diện, trước hết là đổi mới tư duy chính trị, việc nhìn nhận và
đánh giá về vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội cũng ngày càng cởi mở và
thực chất hơn. Và, do đó các tổ chức xã hội cũng có cơ hội phát triển và phát
huy vai trị to lớn của mình khơng chỉ trong lĩnh vực xã hội mà cả trong các lĩnh
vực kinh tế, chính trị. Tác giả cho rằng, ở nước ta, chỉ có thể xây dựng được Nhà
nước pháp quyền khi có XHDS thực sự.
Theo tác giả, để tiến tới việc đánh giá tổng thể về XHDS Việt Nam cần có
sự thống nhất một cách tương đối về: quan niệm về XHDS, chức năng của nó;
xác định các lĩnh vực của XHDS (nội hàm của XHDS); khẳng định những yếu
tố nền tảng bảo đảm cho việc xây dựng XHDS Việt Nam; cần quan tâm đến
những định hướng lớn để xây dựng và hoàn thiện XHDS ở Việt Nam. Trên cơ

7



sở đó, cần kết hợp với kinh nghiệm của các nước đi trước, chúng ta sẽ định hình
hệ thống những giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện XHDS Việt Nam.
Gần đây, trong cuốn sách: Xã hội dân sự một số vấn đề chọn lọc do
Nguyễn Duy Phú (chủ biên 2008) đã phân tích về lịch sử hình thành và những
khái niệm cơ bản của XHDS, đồng thời làm rõ XHDS trong bối cảnh phát triển
của thế giới. Các tác giả cũng đã chỉ ra tình hình và đặc điểm của XHDS ở Việt
Nam, từ đó chỉ ra những phương hướng phát triển XHDS thông thái tương ứng
với NNPQ hiện đại.
Tóm lại, về mặt lý luận chung, các cơng trình nghiên cứu đó đã: Thứ nhất,
bước đầu khái quát sự phát triển tư tưởng về xã hội dân sự trong lịch sử tư tưởng
chính trị phương Tây. Từ đó, khái quát về sự phát triển của XHDS trong lịch sử
tư tưởng chính trị. Các nghiên cứu đã bước đầu chỉ ra một số mốc cơ bản của
khái niệm, thống nhất một số dấu hiệu trong nội hàm và ngoại diên của khái
niệm, cũng như một số đặc điểm và tính chất hoạt động của XHDS. Thứ hai,
nghiên cứu quan niệm của các nhà kinh điển về XHDS, đặc biệt là quan niệm
của K.Marx. Các nghiên cứu này đã hệ thống lại các luận điểm của Marx về
XHDS, bao gồm quan niệm về XHDS, bản chất, vai trò, cấu trúc của XHDS
cũng như quan hệ của XHDS với Nhà nước. Thứ ba, các nghiên cứu đã bước
đầu tìm hiểu các hình thức tồn tại của XHDS trên thế giới.
Về nghiên cứu thực trạng xã hội dân sự Việt Nam, các nghiên cứu đã:
- Thống nhất rằng từ trong lịch sử phát triển của XHDS Việt Nam bắt đầu
từ đời sống cộng đồng làng xã. Trong hầu hết các bài viết và các hội thảo có liên
quan đến xã hội dân sự đều có nhận định: xã hội làng xã Việt Nam có những yếu
tố tương đồng với mơ hình XHDS mặc dù có những hạn chế nhất định so với
mơ hình XHDS, tuy nhiên, lại gọi mở về những điều kiện thúc đẩy sự phát triển
của những yếu tố mang tính XHDS được nuôi dưỡng từ xã hội làng Việt cổ
truyền.
- Khẳng định trong quá trình phát triển, đặc biệt là hơn 20 năm trở lại đây,
các tổ chức XHDS đã có đóng góp cho sự phát triển của đất nước trên nhiều

phương diện: Là cầu nối các cá nhân với nhà nước; tham gia hoạch định và phối
8


hợp với nhà nước thực hiện chủ trương, chính sách của nhà nước; tổ chức phản
biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách và giám sát hoạt động của đội
ngũ cơng chức nhà nước; góp phần phát huy các nguồn lực nhằm thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao cuộc sống của con người.
- Bước đầu đề cập đến vai trò, chức năng, cấu trúc của XHDS ở Việt Nam
hiện nay, theo đó, cấu trúc của XHDS bao gồm một hệ thống tổ chức, thiết chế,
bộ máy và các nguồn lực để hoàn thiện và phát triển con người.
- Một số nghiên cứu đã bước đầu mô tả về XHDS, cũng như đã chỉ ra một
số tác động tích cực và những hạn chế của XHDS ở nước ta trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, đã chỉ ra một số rào cản làm cho hạn
chế sự phát triển XHDS và bước đầu đưa ra một số kiến nghị nhằm thúc đẩy sự
phát triển XHDS ở nước ta trong mối quan hệ với xây dựng NNPQ XHCN. Một
số tác giả cũng chỉ ra cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn để xây dựng XHDS ở Việt
Nam cũng như xu hướng vận động và phát triển của nó.
Tóm lại, hiện nay vấn đề XHDS đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học, nhưng kết quả đạt được mới chỉ là bước đầu, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu về đặc điểm, bản chất cũng như cơ sở kinh tế, chính trị và
văn hố của XHDS ở Việt Nam. Các nghiên cứu chưa đưa ra được một hình
thức tổ chức hay đề xuất phương phương thức hoạt động của XHDS phù hợp
với nền KTTT và NNPQ XHCN. Đặc biệt chưa có một cơng trình nào nghiên
cứu về sự hình thành XHDS ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn
Làm rõ quá trình hình thành XHDS ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất giải
pháp xây dựng và phát triển XHDS ở Việt Nam.
- Nhiệm vụ của luận văn là:

+ Lược khảo lịch sử tư tưởng về XHDS.
+ Làm rõ khái niệm, bản chất, đặc điểm và chức năng của XHDS.
+ Khái quát về quá trình hình thành XHDS Việt Nam trong lịch sử.

9


+ Đánh giá khách quan thực trạng của quá trình hình thành XHDS ở Việt
Nam - những thách thức và thuận lợi.
+ Đề xuất những phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện XHDS
ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Sự hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Xã hội dân sự ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin:
CNDVBC và CNDVLS; đồng thời, sử dụng những lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ, NNPQ,
XHDS và xã hội dân chủ...
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp phân tích tài liệu.
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần làm rõ khái niệm XHDS và sự hình thành XHDS ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc giảng dạy và
nghiên cứu các vấn đề như: dân chủ, NNPQ, XHDS... phục vụ cho cán bộ hoạt
động thực tiễn trong lĩnh vực liên quan đến đề tài của luận văn.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.

10


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ
SỰ HÌNH THÀNH XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ
1.1. Khái lƣợc lịch sử tƣ tƣởng về xã hội dân sự
1.1.1.Tư tưởng phương Tây về xã hội dân sự
Khái niệm xã hội dân sự chúng ta đang sử dụng được dịch ra từ thuật ngữ
“Civil society”. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử cũng như ở
mỗi quốc gia phương Tây, nội hàm của khái niệm “Civil society” được hiểu rất
khác nhau.
Thời kỳ cổ đại
Khái niệm xã hội dân sự (koin nia politika) được Aristotle dùng đầu tiên
vào thời cổ đại Hy Lạp trong tác phẩm Chính trị. Các nhà nghiên cứu cho rằng,
vào thời đó, politika (mà sau này thường được dịch là “chính trị”) là một phạm
trù rộng lớn, bao gồm tất cả các mặt quan trọng nhất của đời sống xã hội: gia
đình, tơn giáo, giáo dục, văn hố, nghệ thuật... Nó bắt nguồn từ từ polis có nghĩa
là Thành bang (City-state), hay cộng đồng dân cư thành bang, tức là một cộng
đồng xã hội nhất định. Thành ra, khi Aristotle định nghĩa “con người là động vật
chính trị” thì điều đó cũng đồng nhất với “con người là động vật xã hội”. Thành
viên của polis hay politika được coi là cơng dân. Đó là thành viên của một quốc
gia, phải sống và hoạt động theo luật pháp quốc gia và không được gây hại cho
các công dân khác. Trong học thuyết của Aristotle về con người, polis là cộng
đồng do con người tạo ra để đáp ứng nhu cầu tự nhiên của con người muốn hồn
thiện mình để có cuộc sống hạnh phúc và thánh thiện, thực hiện mục đích tự

thân, bản chất của con người. Mục tiêu tối thượng của polis là đảm bảo sự phát
triển và hình thành nhân cách của các thành viên trong cộng đồng, trong đó,
“chính trị” là sự định hướng hành động của mỗi cá nhân để đạt tới mục đích
chung của cả cộng đồng. Polis là cộng đồng của những công dân tự do, tự chịu
trách nhiệm về hành động của mình, cùng nhau chia sẻ việc điều hành cộng
đồng hướng đến mục đích phát triển chung nhằm đạt tới cuộc sống toàn thiện.
Polis là nơi mà hoạt động cũng như mọi sinh hoạt xã hội khác của một cá nhân
11


được kết hợp, đan xen với các hoạt động của các thành viên khác góp phân kiến
tạo và thúc đẩy sự phát triển chung của cả cộng đồng. Chính vì vậy, Aristotle
xác định rõ rằng bản chất chính của một cộng đồng chính trị là xã hội dân sự
(koin nia politika), ở đó khơng có sự cưỡng bức mà nhấn mạnh đến sự tham gia
(tự nguyện) của các thành viên cộng đồng cùng nhau chia sẻ việc điều hành
cộng đồng, vì mục đích chung của cộng đồng, khơng có sự khác biệt lớn giữa
cái „tư‟ và cái „chung‟ [xem: 76]
Đến thế kỷ I trước công nguyên, thuật ngữ này được chính khách nổi tiếng
người La Mã Ciceron dùng theo tiếng La tinh: civilic societies, cũng với nội
dung như thế. Cách hiểu ấy vẫn cịn được duy trì rất lâu về sau này. Nhưng, với
những biến đổi và phát triển của đời sống tư tưởng và xã hội, dần dần thuật ngữ
này mang những nội dung khác. Đặc biệt, trong thời hiện đại, nội hàm của khái
niệm này đã thay đổi dưới sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Triết học khai sáng
Ý thức về XHDS đã có một bước phát triển mạnh mẽ, với những nội dung
sâu sắc trong những tác phẩm của các nhà tư tưởng xuất sắc ở thế kỷ XVI:
J.Rodin (Pháp), T. Hobbes (Anh), B. Spinoza (Hà Lan), v.v... Phản ánh sự trỗi
dậy của các cá nhân công dân ở các đô thị vào buổi đầu hình thành và phát triển
của CNTB, các nhà tư tưởng này bắt đầu đưa ra sự phân biệt giữa xã hội và nhà

nước.
Theo nghiên cứu của Bùi Quang Dũng thì “bốn ngun lý sau đây có thể
tóm tắt tinh thần của triết học Khai sáng, được coi là gắn liền với sự xuất hiện xã
hội dân sự thời đại này: i) sự thay thế cái siêu tự nhiên bằng tự nhiên, tôn giáo
bằng khoa học, quyết định của thần thánh bằng quy luật tư nhiên; ii) đề cao vai
trị của lý tính dựa trên kinh nghiệm là công cụ giải quyết các vấn đề xã hội; iii)
lịng tin vào tính thiện của con người vào do đó vào tiến bộ của nhân loại; iiii) sự
quan tâm tới những quyền của con người, đặc biệt là quyền tự do. Từ quan điểm
này, các nhà triết học Khai sáng nhìn XHDS như là một sự thay thế về mặt xã
hội cho trạng thái tự nhiên, cho việc đề cao tính cá nhân và tinh thần hiệp hội
12


đang nổi lên thời kỳ đó và đó chính là cơ sở lịch sử khiến xuất hiện khái niệm
XHDS thời kỳ đó” [11, 36].
J. Rodin, nhà chính luận và kinh tế học người Pháp vào thời xảy ra các
cuộc chiến tranh tơn giáo, đã đưa ra ngun lý về tính tối thượng của nhà nước
(nhà nước - dân tộc). Theo ông, nhà nước có quyền tối thượng đối với tất cả các
thành viên xã hội và tất cả thuộc về nó. Nhà nước chỉ hình thành khi những
thành viên tản mạn của xã hội thống nhất lại dưới một quyền lực thống nhất.
Quan niệm đó đã nêu rõ trách nhiệm của nhà nước đối với các thành viên của xã
hội. Đồng thời, trong tác phẩm Bàn về cộng hồ, ơng đã đề xướng thiết lập một
chế độ quân chủ ôn hoà với sự tham gia của các hội đồng đại biểu.
T. Hobbes, người coi trạng thái tự nhiên của xã hội là “chiến tranh của tất
cả chống lại tất cả”, cũng đặt rất cao vị trí của nhà nước. Ơng cho rằng, nhà
nước có sứ mệnh khắc phục trạng thái “chiến tranh” ấy bằng cách thiết lập một
sự thoả thuận giữa tất cả các thành viên của xã hội. XHDS nảy sinh trên cơ sở
thoả thuận ấy được coi là đồng nghĩa với nhà nước và những luật pháp của nó.
Nói cách khác, Hobbes coi trạng thái tự nhiên của xã hội là tiêu cực, trong đó,
người là chó sói đối với người, nhưng lại coi XHDS là tích cực, trong đó, mọi

người đánh đổi tự do tuyệt đối lấy sự an ninh của mình (nhà nước bảo trợ).
XHDS là khái niệm cơ bản nhất để giải thích vì sao xã hội lại tồn tại và vì
sao các cá nhân lại chấp nhận sống trong xã hội, tham gia vào các tổ chức tự
nguyện và chấp nhận sự hợp pháp của những quyền lực bên ngoài đối với bản
thân họ trong khi xã hội đó, theo những cách khác nhau ngăn cản họ làm những
việc mà họ muốn làm. XHDS bắt đầu sự trao đổi, từ khế ước xã hội. Chính khế
ước xã hội đã đưa con người từ trạng thái “tự nhiên” sang trạng thái “công dân”.
J. Locke cho rằng một xã hội là một cộng đồng được ràng buộc chia thế giới
thành một bên là những người được chấp nhận và an toàn khi kết hợp với nhau
và một bên là những người không được kết nạp vào cộng đồng và phải đối mặt
với nguy hiểm tiềm ẩn.
Đến thế kỷ XVIII, J.J. Rousseau, một trong những nhà khai sáng xuất sắc
nhất, đã tiếp nhận và phát triển quan điểm của Hobbes lên một trình độ hồn
13


chỉnh hơn. Đối với ơng, con người vì mất đi sự tự do tự nhiên của mình và cũng
vì sợ mất đi các quyền tự nhiên của mình nên đã đi tới một Khế ước xã hội để
bảo đảm một “hình thức liên hiệp” nhằm bảo vệ, bằng tồn bộ sức mạnh chung
của xã hội, các cá nhân cũng như tài sản của các thành viên tham gia liên hiệp.
Nhờ có sự liên hiệp này mà người ta thống nhất lại với nhau trên cơ sở phục
tùng những thể thức chung, nhưng mỗi người vẫn có tự do như trước đây. Sự
liên hiệp này, theo ông, đã từng mang tên gọi Cơng xã nhân dân, và bây giờ lại
có tên Cộng hồ hay Cơ chế chính trị. Các thành viên xã hội gọi cơ chế chính trị
ấy là Nhà nước. Cịn họ thì gọi là nhân dân nói chung và cơng dân nói riêng.
Các tác giả thời này như T.Hobbes, J.Locke, J.J.Rousseau, Montesquier...
đều đặt ra vấn đề tự do cá nhân của công dân, độc lập với nhà nước. Theo
Locke, xã hội có trước nhà nước, nó tồn tại một cách “tự nhiên”, còn nhà nước
là một “vật mới”. Nếu chính phủ vì một lý do nào đó bị xố bỏ đi thì xã hội vẫn
được duy trì bằng tất cả các luật và quyền tự nhiên của nó. Nhân dân hợp thành

xã hội, nó là tối thượng và khi thiết lập nhà nước, tuy tính tối thượng chuyển
sang nhà nước nhưng nhà nước không thể nuốt mất xã hội. Hơn thế nữa, mục
đích chủ yếu của nhà nước là bảo vệ xã hội. Do đó, nhà nước khơng thể thay thế
được xã hội, chính là nhờ có xã hội mà nhà nước mới có thể hoạt động được.
Như vậy, dần dần sự đồng nhất kéo dài hàng thế kỷ giữa nhà nước và xã hội dân
sự đã nhường chỗ cho sự khác biệt và thậm chí đối lập giữa hai khái niệm đó.
Triết học cổ điển Đức
Sự đóng góp của Kant trong khái niệm XHDS có thể nhận thấy trong quan
niệm của ông về đời sống công mang đậm mục đích đạo đức mà mọi người có
thể đạt đến được. XHDS trong quan niệm của Kant là một tổ chức, kết cấu cộng
đồng nhân loại thành một lĩnh vực đạo đức tạo điều kiện cho con người hiện
thực hoá mục đích đạo đức của mình thơng qua các nghĩa vụ do chính họ đặt ra
cho bản thân mình.
Khái niệm XHDS được Kant đề cập đến trong mối liên hệ với cơ sở luân lý
(đạo đức) của con người và xã hội với khái niệm tự do của con người. Khi bàn
về nền tảng của cuộc sống con người, Kant đã đồng ý với quan điểm của các
14


triết gia Hy Lạp cổ rằng, lợi ích cá nhân vị kỷ không thể là nền tảng của cuộc
sống con người. Theo Kant, nền tảng của XHDS phải dựa trên cơ sở nghĩa vụ
luân lý (đạo đức) cao cả là nghĩa vụ thống nhất mọi cá nhân con người trong tất
cả các xã hội. Cuộc sống của con người phải được xây dựng trên nền tảng đạo
đức phổ quát phù hợp sao cho con người có thể tự hành động và hành động có
trách nhiệm trong xã hội. Kant cho rằng, con người tự do về mặt đạo đức bởi vì
họ có thể biết điều gì là đúng (nên làm) mà không cần phải chỉ bảo hay ép buộc
từ bên ngồi. Con người có đạo đức là con người có khả năng tự đưa ra những
quy tắc đạo đức phù hợp cho chính bản thân họ. Triết học phê phán của Kant chỉ
ra sự khác biệt cơ bản giữa thế giới tự nhiên và thế giới đạo lý. Nhiệm vụ của
Đạo đức học phê phán là dựa vào “nhận thức lý tính thơng thường về ln lý” để

tìm tịi và phát biểu những quy luật của cái phải là có giá trị phổ quát, vô điều
kiện. Theo Kant, tự do khơng phải là hành động theo ý thích tuỳ tiện của cá nhân
mà phải hành động theo cái phải là (mệnh lệnh tuyệt đối).
Trong quan điểm của Kant, chính trị phải dựa trên đạo đức. Các mối quan
hệ giữa người với người, các mâu thuẫn và xung đột phải được điều tiết và giải
quyết dựa trên các chuẩn mực phổ quát của mệnh lệnh tuyệt đối. Trong triết học
của Kant, con người không được hiểu là phương tiện mà phải là mục đích của
mọi hành động, do vậy XHDS là một nước cộng hồ được tổ chức dựa trên sự
tơn trọng tự do, bình đẳng và độc lập. XHDS là một lĩnh vực cơng tự do có thể
kết hợp tính cá biệt với tính phổ quát và sự đối kháng với tính thành viên thơng
qua những cơ chế của một nền cộng hồ hoạt động theo pháp luật. Sẽ khơng có
tự do nếu khơng có pháp luật và khơng thể có XHDS mà khơng có nhà nước.
Trong tư tưởng của Hegel thì XHDS là một lĩnh vực của đời sống đạo đức,
tách biệt với gia đình và nhà nước; XHDS là một giai đoạn đặc biệt trong sự vận
động biện chứng từ gia đình đến nhà nước, diễn ra trong quá trình biến đổi lịch
sử phức tạp và lâu dài từ Trung Cổ đến Cận Đại. Theo ông, đời sống xã hội - tức
là đặc trưng của XHDS - hoàn tồn khác với đời sống đạo đức của gia đình và
cũng khác với đời sống nhà nước. Nó là yếu tố cần thiết trong tồn bộ cộng đồng
chính trị được tổ chức một cách hợp lý.
15


Tác phẩm “Triết học pháp quyền” đã trình bày khá cụ thể quan điểm của
Hegel về XHDS. Với ông, XHDS là lĩnh vực các điều kiện vật chất của đời
sống, sản phẩm cần thiết của tự nhiên trong đó các cá nhân có sự gắn kết với
nhau bởi lợi ích vật chất thiết thân của mình. Theo Hegel, XHDS bao gồm
KTTT, các giai cấp xã hội, các nghiệp đoàn, các định chế có nhiệm vụ bảo đảm
sức sống của xã hội và thực hiện các quyền công dân. Như vậy, XHDS là tập
hợp của những cá nhân, giai cấp, nhóm và định chế mà sự tác động qua lại của
chúng được điều tiết bằng dân luật và, với tư cách đó, nó khơng phụ thuộc trực

tiếp vào nhà nước chính trị.
Hegel cho rằng, gia đình là “gốc rễ đạo đức đầu tiên của nhà nước”, là một
chỉnh thể có tính bản chất, trong đó, các thành viên có liên hệ với nhau về mặt
tình cảm, do đó, về đạo đức, mà không phải là những cá nhân cạnh tranh với
nhau, liên kết với nhau bằng một hợp đồng nào đó. Còn XHDS là một nơi mà
các cá nhân được tự do theo đuổi những lợi ích, những khác biệt của mình, liên
kết với nhau bằng sự cần thiết lẫn nhau. Các cá nhân hợp thành XHDS thường
không giống nhau, không bền vững và cũng thường có những xung đột với
nhau. Sự phát triển quá mức của những thành viên này có thể dẫn tới chỗ đè bẹp
những thành viên khác.
Điểm mới của Hegel thể hiện ở chỗ: một măt, ông thừa nhận sự khác biệt
giữa XHDS và nhà nước; nhưng mặt khác, ông lại cho rằng, XHDS không thể
trở thành “dân sự” được nếu nó khơng được nhà nước cai quản về mặt chính trị.
Chỉ có một quyền cơng cộng tối cao - tức là một nhà nước hợp hiến - mới có thể
giải quyết được những xung đột của XHDS với tính bất cơng của nó, mới tổng
hợp được những lợi ích cụ thể thành một cộng đồng chính trị chung.
Theo Hegel XHDS phải phục tùng nhà nước, vì chỉ có như vậy nhà nước
mới có thể bảo đảm quyền tự do cho nó. Tuy nhiên, XHDS vẫn là một yếu tố
cộng đồng có tổ chức về mặt chính trị. Sự liên kết giữa các thành viên trong
XHDS được dựa trên việc đáp ứng các nhu cầu và lợi ích.

16


Có thể nói trong quan niệm của Hegel thì XHDS là một “trung giới” quan
trọng trong sự hình thành của nhà nước hiện đại với tư cách là sự hiện thực hoá
của „tinh thần tuyệt đối‟.
Triết học phương Tây hiện đại
Đến thế kỷ XIX, nội dung của thuật ngữ “xã hội dân sự” đã trở nên đa
dạng. Các nhà xã hội học, đặc biệt là Tocqueville đã định nghĩa XHDS là lĩnh

vực đời sống cơng cộng ngồi gia đình, được tạo ra bởi sự gia tăng các tổ chức
xã hội tự thân. Sau này người ta nhấn mạnh vào sự tự nguyện, tinh thần cộng
đồng và đời sống hiệp hội, coi đó là đặc trưng bản chất của khu vực dân sự,
cũng chính nó góp phần vào hoạt động có hiệu quả của nhà nước.
“Cuối thế kỷ XIX, xã hội dân sự trở thành trung tâm hoạt động chính trị tự
do chống lại sự độc tài sau những bài viết của A. Gram-xi (1891-1937). Gram-xi
đã mở rộng khái niệm nhà nước của Hegel, cho rằng nhà nước là phép cộng của
xã hội chính trị và XHCD. Tuy nhiên, Gram-xi tiến tới một khái niệm hẹp hơn
về nhà nước, theo đó, nhà nước đồng nghĩa với xã hội chính trị và đối lập với
XHCD. XHCD là lĩnh vực của văn hoá, tư tưởng, cụ thể hơn, đó là lĩnh vực của
các tổ chức (như nhà thờ, nghiệp đồn...) thơng qua đó, nhà nước, trong điều
kiện bình thường, duy trì sự thống trị của mình. Khi sử dụng nhà nước theo
nghĩa hẹp, tức là nhà nước ngang bằng với xã hội chính trị, ông cho rằng XHCD
hoạt động như một lớp ở giữa nhà nước và cấu trúc kinh tế” [21, 63].
Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất XHDS với các tổ chức xã hội,
coi XHDS là “lĩnh vực công cộng nằm giữa một bên là cấu trúc quan liêu rộng
lớn của nhà nước và thị trường và bên kia là khu vực cá nhân gồm gia đình, bạn
bè, nhân cách và sự riêng tư”, là “cách tổ chức tự thân ngồi phạm vi chính trị
chính thức” và đưa ra thay thế những chức năng trong lĩnh vực phúc lợi mà
chính phủ khơng có khả năng thực hiện” hay tập hợp các thể chế ngoài nhà nước
đủ mạnh để đối trọng với nhà nước, có thể ngăn cản nhà nước chiếm ưu thế hay
chia nhỏ phần còn lại của xã hội.

17


Ngày nay, XHDS có thể được coi là lĩnh vực đời sống xã hội được tổ chức
một cách tự nguyện, tự trị, tự chủ về tài chính, độc lập với nhà nước và được
ràng buộc bởi những quy định hoặc hệ thống những luật lệ chung.
Như vậy, sự hình thành và phát triển của XHDS đã trải qua nhiều thế kỷ

và q trình đó vẫn đang tiếp tục trên phạm vi tồn thế giới cho đến ngày hơm
nay. Đó là kết quả của việc xoá bỏ sự phân biệt đẳng cấp và q trình phi nhà
nước hố các quan hệ xã hội. XHDS được xây dựng trên cơ sở pháp luật bình
đẳng cho tất cả mọi người; pháp luật đó bảo vệ quyền tự do (khả năng có thể
làm tất cả, nếu điều đó khơng xâm hại đến người khác, lợi ích của người khác)
và quyền đối với sở hữu tài sản. Tuy nhiên, bình đẳng về pháp luật, khơng có
nghĩa là bình đẳng trên thực tế mà là bình đẳng của mọi khả năng - không như
nhau của mọi người và địa vị xã hội của họ.
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xã hội dân sự
Trên cơ sở kết thừa tư tưởng của J.J. Rousseau cho rằng, sự xuất hiện của
XHDS là dấu hiệu con người đã vĩnh viễn bước ra khỏi trạng thái tự nhiên, K.
Marx và F. Engels trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” đã xác định: XHDS là
thành tựu vĩ đại của lồi người, là hình thức tổ chức xã hội đầu tiên trong lịch sử
đem lại cho mọi thành viên xã hội một quy chế chính trị ngang nhau. Theo K.
Marx, thuật ngữ XHDS xuất hiện khi các quan hệ sở hữu đã thoát khỏi cộng
đồng Cổ Đại và Trung Đại - XHDS được sinh ra từ xã hội tư sản. Nó được hình
thành bởi những định chế lịnh sử - xã hội, bởi những hình thức quan hệ sản xuất
đặc biệt, bởi những hình thức quan hệ và đấu tranh giai cấp được bảo vệ bởi
những cơ chế chính trị - pháp lý tương ứng [xem: 30, 12].
Trong các tác phẩm giai đoạn đầu, đặc biệt là trong bản thảo “Góp phần
phê phán triết học pháp quyền Hegel” (1843), K. Marx trực tiếp chống lại những
ý kiến của Hegel về XHDS và nhà nước. Ở đây, ông vừa chống lại sự tuyệt đối
hoá nhà nước của Hegel, vừa phê phán cơ sở chủ yếu của XHDS là chế độ sở
hữu tư nhân. Theo Marx, không phải nhà nước như là “đỉnh cao của tồn bộ
ngơi nhà”, mà ngược lại xã hội công dân bị Hegel rất coi thường, đây mới là lĩnh

18


vực người ta phải đi vào, để tìm ra chiếc chìa khố, qua đó hiểu được q trình

phát triển lịch sử của loài người [xem: 28, 307-506].
Trong các tác phẩm sau này, khi chuyển hẳn sang lập trường chủ nghĩa duy
vật, K. Marx hầu như khơng nói tới những nền tảng tinh thần, tơn giáo của
XHDS nữa. Ơng chỉ nói tới những nền tảng vật chất của nó: các phương thức
sản xuất của xã hội.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845 - 1846), K. Marx và F. Engels đã
sử dụng khái niệm “Xã hội dân sự” để chỉ toàn bộ các quan hệ giao tiếp vật chất
của cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của phương thức sản xuất
trong đó đặc biệt phải kể đến quan hệ giao tiếp trong quan hệ sản xuất; và đóng
vai trị là cơ sở của tồn bộ lịch sử (sinh hoạt nhà nước, sản phẩm lý luận, mọi
hình thái ý thức v.v... hay của nhà nước và kiến trúc thượng tầng tư tưởng). Về
đối ngoại, nó thể hiện ra như một dân tộc và về đối nội nó vẫn phải tự tổ chức
thành một nhà nước [xem: 30, 52-54]. Và trong một tác phẩm khác K. Marx và
F. Engels đã khẳng định: “Không phải Nhà nước chế định và quyết định XHDS
mà XHDS chế định và quyết định nhà nước” [31, 321].
XHDS chính là sự biểu hiện trên mặt quan hệ sản xuất của phương thức sản
xuất TBCN, chứa đựng những đối kháng khơng thể dung hồ - một bên là giai
cấp tư sản nắm mọi tư liệu sản xuất và của cải, và bên kia là giai cấp vô sản bị
vét cạn sức lao động để duy trì chế độ xã hội đó. Sự đối kháng trong lịng XHDS
là sự phản ánh tình trạng sản xuất TBCN, nền sản xuất này, mặc dù đã có những
phát triển vượt bậc so với hình thái kinh tế - xã hội trước đó, nhưng về căn bản
vẫn chưa thốt ra khỏi cái kỷ nguyên mà Mác gọi là “thời tiền sử” của lồi
người. Ở đây đời sống vẫn bị tình trạng khan hiếm chi phối và gây ra những
cuộc chiến tranh giữa người với người để giành giật thứ của cải còn giới hạn ấy.
Và chính cái mâu thuẫn vì lợi ích kinh tế ấy, biểu hiện trên phương diện chính
trị, là sự mâu thuẫn giữa nhà nước và đại bộ phận thành phần vô sản trong
XHDS: nhà nước, tuy nhân danh những phạm trù tinh thần phổ biến như nhân
quyền, công lý... để quản lý xã hội, nhưng thật sự chỉ là đại biểu cho thiểu số
bóc lột trong XHDS, tầng lớp này chiếm đoạt nhà nước và dùng nó như công cụ
19



để duy trì tình trạng bóc lột ấy. Nhà nước tồn tại trong hồn cảnh đó, theo Marx,
đã khơng phải là cái nhà nước lý tính của Hegel, dung hồ những mâu thuẫn
trong lòng XHDS, bảo đảm cho xã hội ấy sự hoạt động hài hoà mà trái lại đã đẩy
tình trạng mâu thuẫn khởi đầu mang tính kinh tế trong XHDS đến chỗ thành
những mâu thuẫn mang tính chính trị, tập trung nhất ở sự đối kháng giữa XHDS
với nhà nước – XHDS là đông đảo giai cấp vô sản và nhà nước là giai cấp tư sản
- mà giải quyết triệt để chỉ có thể được bằng một cuộc cách mạng vô sản mà
thôi. Marx chỉ rõ trong “Luận cương về Feuerbach” rằng “Quan điểm của chủ
nghĩa duy vật cũ là XHCD, quan điểm của chủ nghĩa duy vật mới là xã hội lồi
người hay lồi người có tính xã hội”.
Như vậy, có thể thấy Marx khơng hề phủ định XHDS; trái lại còn yêu cầu
cần phải khắc phục quan điểm XHCD tư sản chỉ nhấn mạnh mối liên hệ của
những con người thị dân, tức là những con người “độc lập” thơng qua cái nút lợi
ích tư nhân và tính tất yếu tự nhiên vơ ý thức của những cá nhân nô lệ cho doanh
nghiệp, nô lệ cho nhu cầu hám lợi của mình và của người khác [xem: 29, 172].
Có thể hiểu, trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong CNXH cũng cần thiết phải
xây dựng XHDS là xã hội của những người tự chủ, giàu tính người, đồn kết
thúc đẩy phát triển và thực hành quyền lợi cộng đồng, chứ không phải những
con người cá nhân vị kỷ, nô lệ cho kinh tế thị trường, nơ lệ cho nhu cầu hám lợi
của mình và của người khác.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và chức năng của xã hội dân sự
1.2.1. Khái niệm và bản chất xã hội dân sự
Trước khi phân tích khái niệm XHDS cần làm rõ hai thuật ngữ: “xã hội
dân sự” và “xã hội cơng dân”, hai thuật ngữ đó có đồng nghĩa hay khơng? Theo
chúng tơi hai thuật ngữ đó là khơng đồng nghĩa. Khái niệm XHDS có nội hàm
phong phú hơn khái niệm XHCD. Lúc mới ra đời, quan niệm về XHDS gần như
đồng nhất với quan niệm về XHCD, nhưng trong quá trình phát triển của
phương diện tư duy nhận thức lẫn ở phương diện hiện thực hai khái niệm đó dần

dần tách khỏi nhau và được phân định rõ nội hàm của mình. Điều đó thể hiện ở
chỗ người công dân là con người với tất cả những đặc tính, đặc điểm phong phú
20


của nó, bởi vậy khơng thể quy tồn bộ tính phong phú đó vào trong khái niệm
“cơng dân”. Cùng với sự phát triển tồn diện xã hội, vai trị của cá nhân càng
được đề cao và nổi bật, ngày càng được tôn trọng, mối quan hệ giữa các cá nhân
ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn và ngoài mối quan hệ với Nhà nước
họ cịn có nhu cầu thiết lập quan hệ với nhau dưới những hình thức đa dạng
thích hợp.
Thực tế, ở Việt Nam chưa có một văn bản pháp lý nào trực tiếp đưa ra
định nghĩa về “XHDS” hay “XHCD”. Hiện nay khuynh hướng sử dụng
“XHDS” trở nên phổ biến hơn.
Thường thì người ta hiểu XHDS là cộng đồng dân cư (theo quốc tịch) của
một quốc gia. Cộng đồng ấy có thể bao gồm nhiều sắc tộc, và nhiều nền văn hoá
khác nhau, nhưng cùng chịu sự quản lý từ một chính quyền trung ương.
Mạch nguồn tư tưởng có tác dụng xâu chuỗi các triết thuyết trong lịch sử
để hình thành nên cách hiểu truyền thống về XHDS, đó là các luận điểm cho
rằng:
Nền kinh tế thị trường đã tạo ra hai tiền đề cốt tử cho việc ra đời XHDS:
Tạo ra mối liên hệ phổ biến giữa người với người vượt ra khỏi khuôn khổ của
cộng đồng thân tộc khép kín; và định hình các mối quan hệ ấy bằng các khế ước
song phương hoặc đa phương.
Nếu như chính trị là kinh tế cơ đọng lại, là sự phản ánh khái quát đời sống
kinh tế dưới hình thái của kiến trúc thượng tầng, thì đương nhiên có thể lý giải
được vì sao, xét về mặt lịch sử, XHDS lại nảy sinh trước hết trong lòng xã hội tư
sản. XHDS là người lập ra “khế ước xã hội”. Từ khế ước xã hội - (hiến pháp)
mọc lên nhà nước pháp quyền. Sự liên hợp thành XHDS giúp người dân kiểm
sốt và điều hành quyền lực cơng cộng, nhằm phục vụ cho các quyền cơ bản của

mình và nâng cao phúc lợi chung, và đó chính là bản chất của XHDS.
Như vậy, xét từ quan điểm lịch sử và truyền thống, khái niệm XHDS
dùng để chỉ trạng thái xã hội đối lập với xã hội thần dân phong kiến, hay xã hội
tín đồ của tơn giáo. Đây là trạng thái mà tại đó, mỗi cá thể đều ý thức được về
21


chủ quyền của mình, về sự khẳng định “cái tơi” của nhân cách, về sự cân bằng
giữa quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhà nước, và về sự bình đẳng pháp lý giữa
các cá thể trong cộng đồng.
Đi theo hướng truyền thống, khái niệm XHDS được V. Stupisin xác định
như là một xã hội hình thành trong quá trình biến những người dân thành những
cơng dân, có nghĩa là, những người dân trở thành cư dân của một nhà nước,
trong đó, với tư cách là thành viên của một cộng đồng, họ có ý thức tự trọng và
có khả năng lựa chọn chính trị.
Tồn tại dưới dạng các cơ cấu phi chính thức, tự vận hành, XHDS hoạt
động phù hợp với các nguyên tắc được thừa nhận trong nhà nước. Nó giúp hình
thành nên ý kiến xã hội. Một xã hội được gọi là XHDS khi tất cả công dân có
khả năng thể hiện cơng khai thái độ của mình đối với các hoạt động nào đó của
các chính quyền, có thể phản đối các quyết định nào đó của các cơ quan nhà
nước. Và dưới tác động của các thể chế phi chính thức, các thể chế chính thức
phải xem xét lại các quyết định của mình. Với quan niệm kinh điển nói trên thì
XHDS chỉ khai nở trọn vẹn ở các quốc gia dân chủ.
Sự phát triển tiếp theo sau này của nền kinh tế thị trường và mơ hình nhà
nước đã làm nảy sinh nhiều chiều cạnh mới của khái niệm XHDS (hoặc mở rộng
hơn, hoặc thu hẹp lại ngoại diên - tùy từng trường phái) và gây ra những cuộc
thảo luận lớn xung quanh khái niệm này. Về đại thể, bên cạnh cách hiểu truyền
thống, các học giả hiện nay đưa ra những cách hiểu chính về XHDS như sau:
1. XHDS là lĩnh vực phi nhà nước. Chẳng hạn CIVICUS (Liên minh Thế
giới vì sự tham gia của công dân) định nghĩa về XHDS như sau: XHDS là “mơi

trường bên ngồi Gia đình, Nhà nước và Thị trường, là nơi quần chúng liên hiệp
với nhau để phát triển những quyền lợi chung”[77].
2. XHDS là khu vực phi lợi nhuận. Quan điểm này thường quy XHDS về
các loại hình của tổ chức phi chính phủ (NGO) [13].
3. XHDS được hiểu là một bộ phận của xã hội, có “biên giới” với hai hiện
tượng khác trong xã hội là nhà nước và thị trường. Bộ phận “thứ ba” này của xã
22


hội tồn tại độc lập với các doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận, với quân đội,
chính phủ. Như thế, xã hội dân sự bao gồm hàng loạt các lực lượng, được thiết
chế hay khơng được thiết chế hóa. Họ tồn tại và hoạt động vì lợi ích riêng rẽ của
họ, nhưng suy cho cùng đều vì mục tiêu phát triển [39, 3].
4. XHDS là xã hội dân chủ của những con người tự do tự quyết định lấy
số phận của mình. Con người tự do tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần, và do
vậy, xã hội công dân là xã hội tự do về kinh tế, đa dạng các hình thức sở hữu,
các quan hệ thị trường [55, 9].
5. XHDS đặc trưng cho lợi ích tư, và nó là cơ sở để phân biệt với nhà
nước - cái thiết chế đặc trưng cho lợi ích cơng [68].
6. XHDS chính là hệ thống các tổ chức xã hội của công dân được gắn kết
bởi những nhu cầu, lợi ích chung, các giá trị hoặc truyền thống chung để tiến
hành nhiều hoạt động khác nhau nhằm phối hợp với nhà nước, bổ xung cho
những khiếm khuyết của nhà nước, đảm bảo sự ổn định, cân bằng và phát triển
bền vững của xã hội [44, 10].
Như vậy, các định nghĩa phổ biến về "XHDS” hiện nay đều nhấn mạnh
tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các quyền lợi hợp pháp
và giá trị của mình. Theo tinh thần này, XHDS được tạo thành bởi một loạt các
đồn thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại (cơng đồn và các
đồn thể có tính chuyên nghiệp) và những tổ chức truyền thống dựa trên mối
quan hệ họ hàng, dân tộc, văn hóa và khu vực, giữa các tổ chức chính thức và

phi chính thức. Những đồn thể tự nguyện làm việc vì quyền lợi chung. Chúng
định hình thành và khuyến khích phát triển bởi các cộng đồng địa phương. Nói
một cách đơn giản, các tổ chức dân sự thể hiện nguyện vọng và nhu cầu của
người dân. Người dân tự tổ chức lại căn cứ theo các nhu cầu, nguyện vọng hay
tín ngưỡng chung và thể hiện thành các loại hình họat động.
Theo chúng tơi, có thể xem: Xã hội dân sự là tổng thể các tổ chức xã hội
được hình thành và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, tự trang trải về kinh phí, trong khuôn khổ pháp lý và đạo lý;
23


phối hơp với nhà nước để kiểm sốt và hồn thiện nhà nước pháp quyền, thúc
đẩy phát triển kinh tế, từng bước hồn thiện và phát huy vai trị của xã hội dân
chủ, nhằm duy trì, bảo đảm sự ổn định, cân bằng và phát triển bền vững của
nhà nước và của xã hội, hiện thực hóa quyền lợi của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Theo đó, nội hàm của khái niệm xã hội dân sự bao gồm :
Thứ nhất, XHDS là tổng thể các tổ chức nằm ngoài nhà nước và kinh tế.
Thứ hai, các tổ chức trong XHDS được thành lập và hoạt động trên cơ sở
những nguyên tắc: dân chủ, tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải
về kinh phí, trong khn khổ pháp lý và đạo lý;
Thứ ba, XHDS hình thành và phát triển vì mục đích: kiểm sốt và hồn
thiện NNPQ, thúc đẩy phát triển kinh tế, từng bước hoàn thiện và phát huy vai
trị của xã hội dân chủ, duy trì bảo đảm sự ổn định, cân bằng và phát triển bền
vững của nhà nước và của xã hội, hiện thực hóa quyền lợi của mỗi cá nhân và
cộng đồng.
1.2.2. Đặc điểm của xã hội dân sự
Việc đưa ra những dấu hiệu để dựa vào đó chúng ta có thể phân định được
XHDS với xã hội không phải hoặc chưa phải là XHDS, những đặc điểm đó là gì,
có nội dung như thế nào là một trong những nhiệm vụ của luận văn. Dựa trên cơ
sở nghiên cứu và kết hợp tham khảo các cơng trình nghiên cứu về XHDS, có thể

nêu lên những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, XHDS là một lĩnh vực nằm ngồi nhà nước, khơng có tính chất
cơng quyền. Trong xã hội dân sự mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên
sự tự thảo luận và tạo ra sự đồng thuận trên các vấn đề của cuộc sống mà khơng
cần có sự can thiệp của nhà nước. Trước đây, người ta luôn cho rằng nhà nước
phải có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; người ta hình dung nhà
nước như “phật bà nghìn tai, nghìn mắt” có thể giải quyết tất cả các vấn đề trong
xã hội. Thực ra, nhà nước là bộ phận nối dài của XHDS để giải quyết những
công việc mà bản thân xã hội không giải quyết được, nói cách khác, xã hội dân
sự là xã hội tự quản lấy mình và đến một mức độ mà nó khơng có khả năng để
tự quản nữa thì phần còn lại rơi vào nhà nước.
24


×