Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Tư duy biện chứng của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.78 KB, 128 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==========



PHẠM THU HÀ




TƯ DUY BIỆN CHỨNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
VỀ CÔNG TÁC THANH
NIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
==========




PHẠM THU HÀ



TƯ DUY BIỆN CHỨNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH : TRIẾT HỌC
MÃ SỐ : 60 22 80
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS DƯƠNG VĂN
THỊNH





HÀ NỘI - 2013


1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 3
CHƢƠNG 1. KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ DUY BIỆN
CHỨNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC
THANH NIÊN 10

1.1. Khái niệm tƣ duy biện chứng về công tác thanh niên 10
1.1.1 Tư duy biện chứng của chủ nghĩa duy vật mác xít 10
1.1.2. Tư duy biện chứng về công tác thanh niên 17
1.2. Cơ sở hình thành tƣ duy biện chứng của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác thanh niên 30
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thanh niên và
công tác thanh niên 30
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên
và công tác thanh niên 34
1.2.3. Tư duy và quan điểm truyền thống của dân tộc Việt Nam
về sự kế tục, phát triển thế hệ 45
1.2.4. Thực tiễn tình hình thanh niên, công tác thanh niên qua
các thời kì cách mạng 47
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ DUY BIỆN CHỨNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 57
2.1. Một số nội dung cơ bản trong tƣ duy biện chứng của Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên 57
2.1.1. Vị trí, vai trò của thanh niên và công tác thanh niên 57
2.1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của công tác thanh niên và vai trò của
các chủ thể thực hiện công tác thanh niên 66
2.1.3. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn và mối quan hệ
giữa Đảng với Đoàn 84
2.1.4. Xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn 89
2.2. Nhận định chung, bài học kinh nghiệm và một số vấn đề đặt ra
2.2.1. Nhận định chung 98
2.2.2. Một số bài học kinh nghiệm 103
2.2.3. Một số vấn đề đặt ra 108
KẾT LUẬN 120
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 122



2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ HIỆU

CHXH : Cộng hoà xã hội
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNTB : Chủ nghĩa tƣ bản
CNH : Công nghiệp hoá
CTTN : Công tác Thanh niên
HĐH : Hiện đại hoá
Nxb : Nhà xuất bản
TNCS : Thanh niên Cộng sản
TBCN : Tƣ bản Chủ nghĩa
XHCN : Xã hội chủ nghĩa












3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Trong suốt sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng cộng sản
Việt Nam đã gặt hái nhiều thành quả to lớn ở mọi lĩnh vực hoạt động nói
chung và lãnh đạo công tác thanh niên (CTTN) nói riêng. Qua các thời kì lịch
sử, đặc biệt ở những thời điểm cam go, quyết liệt nhất, Đảng ta đã có những
chủ trương, đường lối sát trúng nhằm giáo dục, tổ chức, động viên các thế hệ
thanh niên nối tiếp nhau, một lòng đi theo Đảng, ngoan cường chiến đấu,
dũng cảm hi sinh, góp phần xứng đáng vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc,
tiến bước vững vàng trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh Công nghiệp hoá,
Hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và hội nhập quốc tế.
Từ khi Đảng ta ra đời và bước lên vũ đài chính trị, vấn đề củng cố, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng luôn được coi là
vấn đề có tính nguyên tắc, đảm bảo thắng lợi sự nghiệp, con đường cách
mạng mà Đảng đã lựa chọn. Sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với
CTTN cũng không nằm ngoài tất yếu khách quan này. Trình độ, năng lực lãnh
đạo của Đảng biểu hiện tập trung trước hết ở việc đề ra các đường lối, chủ
trương, chính sách, về CTTN, điều đó đòi hỏi phải có trình độ tư duy cao
đáp ứng nhiệm vụ cách mạng đặt ra - đó là tư duy biện chứng mácxít.
Thanh niên là một đối tượng xã hội đặc thù, luôn có khuynh hướng vận
động biến đổi mạnh mẽ nhất, lại có mặt trong tất cả các lực lượng của xã hội,
ở mọi vùng miền khác nhau, họ mang trong mình dấu ấn của những ưu điểm,
tiến bộ của xã hội mới, cùng những khuyết tật của một xã hội đã có. Hiện tại,
chúng ta đang chứng kiến những biểu hiện mới mẻ, những diễn biến đa dạng
và có nhiều chiều hướng phức tạp trong thanh niên và CTTN. Điều đó càng
yêu cầu chủ thể tiến hành CTTN phải có trình độ cao về tư duy biện chứng,


4
quan điểm lịch sử, cụ thể, phương pháp luận khoa học để nhận thức về các
vấn đề của thế hệ trẻ, của CTTN, từ đó định hướng và xử lí đúng đắn, hiệu
quả những vấn đề ấy dù ở phạm vi cá nhân người thanh niên hay ở phạm vi

vấn đề xã hội hiện nay của họ.
Hiện nay, các cán bộ, đảng viên lãnh đạo, phụ trách CTTN vốn được
đào tạo, bồi dưỡng, trưởng thành từ thực tiễn công tác Đoàn và phong trào
thanh thiếu nhi có nhiều thế mạnh về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm hoạt
động phong trào và năng lực tư duy. Song một bộ phận không nhỏ trong đó
vẫn còn những yếu kém về tư duy lý luận, đặc biệt là tư duy biện chứng, nhất
là sự lạc hậu của tư duy so với sự phát triển của thực tiễn tình hình thanh niên
và CTTN. Chưa kể ở nhiều nơi, các cấp uỷ đảng chưa bám sát thực tiễn, chưa
nhận thức được sâu sắc, đầy đủ tầm quan trọng, vị trí, vai trò của CTTN, thiếu
chỉ đạo sát sao, coi nhẹ việc chăm lo bồi dưỡng, đào tạo, phát huy thanh niên,
dẫn đến lãnh đạo, thực hiện CTTN không đạt hiệu quả như mong muốn.
Để lãnh đạo, chỉ đạo CTTN có hiệu quả, một trong những vấn đề cấp
thiết đặt ra hiện nay là phải nghiên cứu sâu sắc, tổng thể tư duy biện chứng
nói chung, tư duy biện chứng của Đảng ta nói riêng thông qua các đường lối,
chủ trương, chính sách, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về CTTN trong suốt
tiến trình cách mạng. Qua đó, một mặt chúng ta thấy được sự nảy sinh, vận
động, biến đổi, phát triển, và tính ổn định trong những nội dung luận điểm của
Đảng về CTTN. Mặt khác, qua việc nắm vững tư tưởng xuyên suốt mang tính
chiến lược về CTTN của Đảng ta, các chủ thể, các cấp uỷ đảng khi tiến hành
CTTN sẽ có nhận thức, tư duy đúng đắn để đổi mới, tăng cường lãnh đạo
CTTN trong thời gian tới.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn vấn đề: “Tư duy biện chứng của
Đảng cộng sản Việt Nam về công tác thanh niên” làm đề tài luận văn của mình.


5
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư duy và tư duy biện chứng duy vật đã được nhiều công trình
khoa học trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu. Ở Liên Xô trước đây vấn
đề này chủ yếu được đề cập khi các tác giả trình bày về lịch sử triết học, về

phép biện chứng, logic học, lí luận nhận thức, tiêu biểu như: I-len-cốp:
“Logic biện chứng”, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2003; Cốp-nhin:
“Phép biện chứng là logic học và lý luận nhận thức”, Nxb Chính trị
Matxcova, 1873; M. M. Rodentan: “Nguyên lí logic biện chứng”, Trường
Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, 1979; A.P. Septulin: “Phương pháp nhận
thức biện chứng”, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1987,…
Ở nước ta cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí
bàn đến vấn đề tư duy biện chứng, tư duy lí luận của Đảng, tư duy của cán bộ
lãnh đạo, cán bộ làm kinh tế, tư duy trong quân sự, trong giảng dạy,… trong
đó chủ yếu đề cập đến vấn đề đổi mới tư duy, nâng cao năng lực tư duy, khắc
phục, đẩy lùi bệnh tiêu cực trong tư duy ví dụ như: Cuốn “ Đổi mới tư duy
và phong cách tư duy” của Nguyễn Văn Linh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987;
“Quán triệt tư duy biện chứng duy vật và nội dung quan trọng của đổi mới tư
duy” của Dương Phú Hiệp, Tạp chí Triết học, số 2/1987; “Thực trạng tư duy
của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó” của Lê Thi, Tạp chí Triết
học, số 01/1988; “Yêu cầu mới về năng lực trí tuệ của Đảng trong giai đoạn
hiện nay” của Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Triết học, số 02/1992; Luận án
PTS “Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình
xây dựng Chủ nghĩa xã hội” của Trần Văn Phòng, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; Luận án TS “Đặc điểm quá trình phát triển
tư duy biện chứng duy vật của sĩ quan phân đội quân đội nhân dân Việt Nam
trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay” của Nguyễn Bá Dương,
Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, 2000; Luận án TS “Vai trò của tư duy


6
biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo kinh tế trong quá trình đổi mới ở nước ta
hiện nay” của Nguyễn Thị Bích Thủy, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2001; Cuốn “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ
lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn” của Trần Thành, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 2003; Luận văn Th.S “Giảng dạy triết học Mác - Lênin với việc nâng
cao năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học” của Hoàng
Thúc Lân, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004;
Trong các công trình nêu trên, ở các góc độ khác nhau, các nhà khoa
học đã đề cập đến bản chất, vai trò của tư duy biện chứng duy vật và sự cần
thiết phải đổi mới tư duy ở các cấp ủy đảng, các cán bộ lãnh đạo, đấu tranh
khắc phục mọi biểu hiện của phương pháp tư duy siêu hình như: bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, chủ quan, duy ý chí, đồng thời làm rõ tính cần
thiết trong phổ cập phương pháp tư duy biện chứng duy vật trong các lĩnh vực
xã hội.
Về thanh niên và CTTN, đây là vấn đề đặc biệt, thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều công trình khoa học. Đã có nhiều vấn đề đặt ra, trong đó
có vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTTN, chủ yếu nghiên cứu dưới
góc độ xã hội học, chính trị học, xây dựng Đảng. Ví dụ như: cuốn “Đề cương
chuyên đề: Một số vấn đề về thanh niên và công tác thanh niên trong giai
đoạn cách mạng XHCN”, Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, 1981; cuốn
“Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động thanh niên trong thời kì đẩy
mạnh CNH,HĐH đất nước” của Ban Dân vận TW, Nxb Chính trị quốc gia,
2001; “Một số vấn đề về công tác thanh niên trong thời kì CNH-HĐH đất
nước”, của Văn Tùng, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2001. “Đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng về công tác thanh niên trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” của
TS. Dương Tự Đam, Nxb Thanh niên, 2005; cuốn “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của TS. Lâm Quốc


7
Tuấn và Th.S Phạm Tất Thắng (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
2011; Luận án Tiến sĩ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò thanh niên và sự vận
dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng đất nước
(1975-1986) của Trần Thị Nhơn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

2001;
Bên cạnh đó, có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về chính
sách của Đảng đối với thanh niên, quản lý nhà nước đối với thanh niên như:
Cuốn “Chính sách đối với thanh niên (lý luận và thực tiễn)” của PTS.
Nguyễn Văn Trung chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 1996; cuốn “Quản lý
Nhà nước đối với công tác thanh niên trong giai đoạn hiện nay” của ThS.
Đoàn Văn Thái, Nxb Thanh niên, 2006…
Trên cơ sở chỉ ra những quan điểm cơ bản, chủ yếu trong các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng về CTTN qua các kì Đại hội Đảng, qua những bước
ngoặt lịch sử của đất nước, có sự thay đổi lớn trong nhiệm vụ cách mạng, các
công trình tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTN giới hạn
trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Song dưới góc độ triết học, vấn đề tư
duy của Đảng ta về CTTN còn khá mới mẻ, phức tạp, ít được bàn đến. Việc
nghiên cứu, tổng kết một cách khái quát vấn đề tư duy biện chứng của Đảng
ta về CTTN, phác thảo nên bức tranh tổng quát quá trình vận động thay đổi
trong nhận thức của Đảng về CTTN từ khi Đảng ta ra đời lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của dân tộc đến nay, từ đó đề xuất những nội dung trong lãnh đạo
Đảng về CTTN trong thời gian tới là một vấn đề mới, hầu như chưa có công
trình nào nghiên cứu dưới góc độ triết học một cách chuyên biệt, có hệ thống.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình đã công bố, tác
giả đặt ra nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu vấn đề nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


8
Mục đích của luận văn là: Làm sáng tỏ cơ sở hình thành tư duy biện
chứng của Đảng cộng sản Việt Nam về CTTN, phân tích chỉ ra những nội
dung cơ bản trong tư duy biện chứng của Đảng ta về CTTN, trên cơ sở đó
luận văn đề xuất một số nội dung, quan điểm về Đảng lãnh đạo CTTN trong
thời gian tới. Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:

- Làm rõ các khái niệm về tư duy, thanh niên, CTTN, tư duy biện
chứng về CTTN;
- Chỉ ra những cơ sở chủ yếu hình thành tư duy biện chứng của Đảng ta
về CTTN;
- Phân tích những nội dung cơ bản trong tư duy biện chứng của Đảng ta
về CTTN;
- Đánh giá khái quát, kiến nghị một số nội dung trong nhận thức, tư duy
về lãnh đạo CTTN của Đảng trong thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư duy biện chứng của Đảng Cộng sản Việt Nam về TN và CTTN thể
hiện trong các chủ trương, đường lối, chiến lược, chính sách, chỉ thị, nghị
quyết quan trọng của Đảng về CTTN qua các thời kì cách mạng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn không xem xét tư duy biện chứng về CTTN ở mọi cấp uỷ
đảng mà chủ yếu nghiên cứu ở cấp Trung Ương (Ban Chấp hành, Ban Bí thư,
Bộ Chính trị…) thông qua chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược tổng
thể của Trung Ương Đảng về thanh niên và CTTN.
- Thời gian nghiên cứu từ khi Đảng ta ra đời (3/2/1930) và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đến nay.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu


9
- Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Duy vật biện chứng và chủ nghĩa Duy vật lịch sử, nhất là những
nguyên lí của phép biện chứng, lý luận nhận thức và logic biện chứng.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn kết hợp sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn
dịch, lịch sử và logic, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và các

phương pháp khác.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn chỉ ra những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và vận động, giáo dục, tổ chức thanh
niên, từ đó Luận văn bước đầu khái quát, làm rõ những vấn đề cơ bản trong tư
duy biện chứng của Đảng ta về CTTN; phân tích cơ sở và quá trình thay đổi,
phát triển các vấn đề, nội hàm các khái niệm, các luận điểm cơ bản của Đảng
về CTTN qua các giai đoạn cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Trên cơ sở khái quát những quan điểm biện chứng của Đảng ta về
CTTN từ khi Đảng lãnh đạo cách mạng đến nay, Luận văn đề xuất một số vấn
đề đặt ra trong đường lối, chủ trương, chính sách lãnh đạo của Đảng về CTTN
trong thời gian tới.
- Những kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần làm tài liệu đổi
mới việc nghiên cứu các quan điểm và sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTN
qua các thời kì cách mạng, nhất là trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, Luận
văn có 2 chương và 4 tiết.





10
CHƢƠNG 1
KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ DUY BIỆN CHỨNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC THANH NIÊN

1.1. Khái niệm tƣ duy biện chứng về công tác thanh niên
1.1.1. Tư duy biện chứng của chủ nghĩa duy vật mácxít

* Tư duy
Trong lịch sử triết học, có những quan điểm khác nhau về vấn đề tư
duy. Theo quan điểm của triết học duy tâm khách quan, tư duy là quá trình
vận động của "ý niệm tuyệt đối" với tư cách là thực thể siêu tự nhiên, độc lập,
không phụ thuộc vào vật chất, sinh ra và quyết định thế giới vật chất. Đại biểu
là Hê ghen, ông phân biệt hai loại tư duy: Tư duy tự nó - chính là tư duy của
“ý niệm tuyệt đối” tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; Tư duy cho nó -
tức là tư duy con người. Như vậy, theo Hêghen tư duy tách rời dạng vật chất
có tổ chức cao là bộ não người, tư duy tách rời hoạt động thực tiễn xã hội, tư
duy của con người chịu sự chi phối của tư duy tự nó - “ý niệm tuyệt đối”.
Trái lại, quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít cho rằng tư duy - sản
phẩm cao nhất của một dạng vật chất được tổ chức đặc biệt là bộ não con
người, là quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm,
phán đoán, lý luận, v.v…Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất
xã hội của con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát
hiện những mối liên hệ hợp qui luật của thực tại. Như vậy tư duy con người
vừa mang yếu tố sinh học tức không tách khỏi bộ não, vừa mang yếu tố xã
hội, chính hoạt động thực tiễn xã hội là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất
quyết định sự hình thành và phát triển của tư duy.
Tư duy là kết quả của nhận thức đồng thời là sự phát triển cao của nhận
thức. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, trên cơ sở kết quả của nhận thức


11
cảm tính - tức là những cảm giác, tri giác và biểu tượng phản ánh một cách
riêng lẻ thực tiễn khách quan với những thông tin về hình dạng, hiện tượng
bên ngoài - với sự hỗ trợ của ngôn ngữ, hoạt động tư duy tiến hành các thao
tác so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, khu biệt những thông tin đơn lẻ,
lọc bỏ những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự vật, hiện tượng để tìm ra
những mặt, những mối liên hệ chung, bản chất có tính qui luật của sự vật,

hiện tượng, quy nạp nó thành những khái niệm, phạm trù, định luật Kết quả
phản ánh của tư duy không chỉ ở một sự vật riêng lẻ mà còn ở một nhóm sự
vật nhất định.
Tư duy nằm trong giai đoạn nhận thức lý tính, con người dựa vào tư
duy để nhận thức những quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và lợi dụng
những quy luật đó trong hoạt động thực tiễn của mình. Nhận thức cảm tính có
vai trò quan trọng trong đời sống của con người, nó cung cấp tư liệu ban đầu
cho các hoạt động nhận thức cao hơn. Tuy nhiên muốn cải tạo thế giới, con
người phải đạt tới mức độ nhận thức cao hơn, tức là phải tư duy.
Mặc dù được tạo thành từ kết quả hoạt động thực tiễn nhưng tư duy có
tính độc lập tương đối. Sau khi xuất hiện, sự phát triển của tư duy còn chịu
ảnh hưởng của toàn bộ tri thức mà nhân loại đã tích lũy được trước đó cũng
như các lý thuyết, quan điểm tồn tại cùng thời với nó. Mặt khác, tư duy cũng
có logic phát triển nội tại riêng của nó, đó là sự phản ánh đặc thù logic khách
quan theo cách hiểu riêng gắn với mỗi con người. Tính độc lập của tư duy vừa
làm cho nó có được tính tích cực, sáng tạo trong quá trình tìm kiếm tri thức
mới, vừa là điều kiện nguồn gốc làm cho tư duy dần dần xa rời hiện thực
khách quan. Do đó phải lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra, kiểm nghiệm
tính đúng đắn của tư duy. Như vậy, hoạt động thực tiễn của con người là
nguồn gốc, động lực chủ yếu của tư duy và suy đến cùng cũng chính là tiêu
chuẩn chân lý cao nhất của tư duy, là cái điều chỉnh tư duy.


12
Tư duy gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện thông qua ngôn ngữ,
công cụ giao tiếp chủ yếu giữa con người với con người. Theo C.Mác, ngôn
ngữ chính là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng,
vì nó không chỉ biểu đạt tư duy ra bên ngoài mà còn là công cụ của chính quá
trình tư duy diễn ra trong bộ óc con người thông qua những từ ngữ hay cấu
trúc ngữ pháp cụ thể.

Tư duy là lĩnh vực hết sức phong phú, đa dạng, phức tạp. Nó vừa mang
dấu ấn của chủ thể tư duy, vừa mang dấu ấn của nội dung khách thể được
phản ánh trong tư duy.
Tư duy phản ánh thế giới khách quan. Tùy theo mục đích, yêu cầu,
nhiệm vụ khác nhau, tư duy phản ánh sự vật, hiện tượng dưới những góc độ
khác nhau, do đó hình thành những loại hình tư duy khác nhau. Chẳng hạn, về
phạm vi phản ánh, có loại hình tư duy kinh tế, tư duy chính trị, tư duy văn
hóa, tư duy nghệ thuật…về cấp độ tư duy ta có tư duy kinh nghiệm, tư duy lí
luận, tư duy khoa học…
Tư duy bao giờ cũng gắn liền với các chủ thể nhất định có năng lực tư
duy và trình độ tư duy khác nhau.
Năng lực tư duy thể hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng lý luận
vào thực tiễn cuộc sống, biết tổng kết khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn
thành lý luận và xây dựng mô hình lý luận mới phù hợp với sự vận động và
phát triển của thực tiễn… Năng lực tư duy của chủ thể phụ thuộc vào yếu tố
sinh học, gen di truyền qui định các kiểu thần kinh bẩm sinh của chủ thể. Tuy
nhiên yếu tố sinh học chỉ là tiền đề để hình thành chứ không qui định trước
năng lực tư duy. Chính nhân tố xã hội, môi trường hoạt động của chủ thể mới
quyết định năng lực tư duy và tri thức là điều kiện để năng lực tư duy phát triển.
Trình độ tư duy nói lên cấp độ, mức độ hay khả năng xác định của tư
duy: có trình độ tư duy thấp, cao; trình độ tư duy tiền khoa học, trình độ tư


13
duy khoa học,…Về mặt loại hình tư duy triết học, trình độ phát triển cao nhất
của tư duy là tư duy biện chứng duy vật. Nó là sự thống nhất chặt chẽ giữa
chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Năng lực tư duy biện chứng là
tổng hợp tất cả các phẩm chất của tư duy ở trình độ cao, là khả năng đưa ra
những quyết định đúng đắn, hợp lý, kịp thời của chủ thể, là khả năng lãnh
đạo, tổ chức để biến quyết định thành hiện thực.

Có thể rút ra một số đặc trưng của tư duy như sau:
Tư duy phản ánh cái chung. Cái chung ở đây là những dấu hiệu, những
thuộc tính chung của sự vật. Tư duy ở trình độ nhận thức lý tính và chỉ ở trình
độ này mới có thể phản ánh được những thuộc tính chung, mang tính phổ
biến, cơ bản của sự vật.
Tư duy có đặc trưng là trừu tượng hóa. Trong hiện thực, cái chung
không tách khỏi cái riêng. Việc tách cái chung ra khỏi cái riêng trong tư duy
chính là sự trừu tượng hóa, nhưng đó chưa phải tất cả sự trừu tượng hóa trong
tư duy. Bởi theo như quan điểm của Lênin tất cả những sự trừu tượng khoa
học đúng đắn, nghiêm túc, không tùy tiện phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn,
chính xác hơn, đầy đủ hơn, đó chính là tính ưu việt của trừu tượng hóa.
Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp dựa trên cơ sở
các kết quả nhận thức cảm tính là cảm giác, tri giác, biểu tượng. Nhờ thế tư
duy có sức mạnh phản ánh khái quát thế giới hiện thực, song cũng vì thế mà
tư duy dễ rơi vào ảo tưởng, thoát ly thực tế.
Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách sáng tạo, tích cực trên
cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy có thể dự báo tương lai, tạo
ra những giả thuyết khoa học, những lý thuyết mới,…
* Về tư duy biện chứng duy vật mácxit
Con đường tiến tới chân lý khách quan của nhận thức loài người rất lâu
dài, khó khăn và phức tạp. Thời kì nguyên thủy, tư duy của con người chỉ


14
dừng lại ở trình độ rất thấp, sơ khai nhất, biểu hiện qua các hình thức: Tư duy
hỗn hợp - nguyên thủy, tư duy hoang đường - huyền thoại, tư duy đạo đức, và
thẩm mỹ nguyên thủy…Đến thời cận đại, tư duy của loài người đạt tới một
trình độ mới, cao hơn về chất để nhận thức thế giới - tư duy triết học với hai
phương pháp tư duy triết học đối lập nhau: phương pháp biện chứng và
phương pháp siêu hình.

Phương pháp tư duy siêu hình như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ là chỉ nhìn
thấy những sự vật riêng biệt, cô lập mà không thấy mối liên hệ qua lại giữa
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà không nhìn thấy sự
phát sinh và sự tiêu vong của chúng, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những
sự vật ấy mà quên mất sự vận động, phát triển của chúng, chỉ nhìn “thấy cây
mà không thấy rừng”. Ngược lại, phương pháp tư duy biện chứng không chỉ
nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không
chỉ thấy sự tồn tại sự vật mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong của sự
vật, không chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà còn thấy trạng thái động của
sự vật, không chỉ “thấy cây mà còn thấy cả rừng”.
Phương pháp tư duy siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng
thái biệt lập, tĩnh tại, ngưng đọng với tư duy cứng nhắc; còn phương pháp tư
duy biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ ràng buộc lẫn
nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng với một tư duy mềm
dẻo, linh hoạt.
Không phải ngay sau khi loài người xuất hiện đã có tư duy biện chứng.
Theo Ph.Ăngghen, tư duy biện chứng hình thành và phát triển khi nhận thức
của loài người đạt đến trình độ tương đối cao và phát triển trong lịch sử triết
học, nhất là lịch sử triết học hiện đại. Từ khi ra đời đến nay, tư duy biện
chứng đã trải qua ba hình thức cơ bản là: Tư duy biện chứng tự phát (ví dụ
như phương Tây có tư tưởng của Hêraclit, Aristôt; phương Đông có học


15
thuyết của Lão Tử, thuyết Âm - Dương, Ngũ hành, ); Tư duy biện chứng duy
tâm khách quan (đại biểu là Hêghen) và Tư duy biện chứng duy vật mácxit.
Ba hình thức tư duy này gắn liền với ba hình thức cơ bản của Phép Biện
chứng trong lịch sử triết học. Trong đó, phép Biện chứng duy vật mácxit do
C.Mác, Ph.Ăng ghen sáng lập và V.I.Lênin phát triển là hình thức phát triển
cao nhất trong lịch sử Phép Biện chứng, theo đó tư duy biện chứng duy vật

mácxit là hình thức phát triển cao nhất trong lịch sử tư duy nhân loại.
Tư duy biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen đã khắc phục được
phương pháp tư duy máy móc, siêu hình của các nhà duy vật Pháp thế kỉ
XVIII, coi phép biện chứng là hình thức cao nhất của tư duy, chống lại thuyết
Bất khả tri và đạt tới tư tưởng về sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa
lịch sử và lôgic trong nhận thức. Tuy nhiên đó là tư duy biện chứng duy tâm
vì Hêghen cho rằng biện chứng của “ý niệm” – thực thể siêu nhiên sản sinh ra
biện chứng của sự vật chứ không phải ngược lại, đó là “phép biện chứng đứng
bằng đầu” như Mác, Ăng ghen nhận định. Đến lượt mình, Mác và Ăng ghen
đã cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đặt nó “đứng bằng hai chân”
trên mảnh đất hiện thực, xây dựng phép biện chứng duy vật, tức là xây dựng
tư duy biện chứng duy vật cách mạng nhất, khoa học nhất, triệt để nhất.
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ăng ghen đã đưa ra định
nghĩa về tư duy biện chứng duy vật: Biện chứng gọi là khách quan thì chi
phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện
chứng thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận
động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh
thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối
lập này thành mặt đối lập kia, respective - (tương tự) với những hình thức cao
hơn quy định sự sống của giới tự nhiên. Tức là, xét về bản chất tư duy biện
chứng duy vật là tư duy phản ánh đúng đắn thực chất những mối liên hệ, sự


16
vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Sự
vận động, phát triển của thế giới hiện thực qui định sự hình thành, phát triển
của tư duy biện chứng duy vật. Do đó, những quy luật phổ biến của tồn tại
cũng là những qui luật phổ biến của tư duy. Tuy nhiên, sự phát triển của tư
duy phụ thuộc vào tính năng động sáng tạo tích cực của chủ thể và nó tuân
theo qui luật vận động, phát triển nội tại của chính tư duy.

Tư duy biện chứng duy vật có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tư duy biện chứng phải nắm bắt và vận dụng được trong tư
duy các qui luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, đó là: Qui luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; qui luật chuyển hóa từ những thay đổi
về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại; qui luật phủ định của
phủ định; ngoài các qui luật cơ bản trên tư duy biện chứng cũng cần nắm bắt
những qui luật không cơ bản của phép biện chứng duy vật thể hiện trong các
cặp phạm trù đó là: cái chung - cái riêng, bản chất - hiện tượng, nguyên nhân -
kết quả, nội dung - hình thức, tất nhiên - ngẫu nhiên, khả năng - hiện thực.
Thứ hai, tư duy biện chứng phải nắm bắt và vận dụng được các nguyên
tắc của lôgic biện chứng mácxit, đó là: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc
toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thống
nhất giữa lí luận và thực tiễn, nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và lôgic,
nguyên tắc từ trừu tượng đến cụ thể, nguyên tắc thống nhất phân tích và tổng
hợp, nguyên tắc thống nhất giữa qui nạp và diễn dịch.
Xét về hình thức, tư duy biện chứng duy vật là chủ quan vì nó phản ánh
hiện thực khách quan thông qua hoạt động có ý thức của con người, thể hiện
bằng các khái niệm, phán đoán, suy luận. Xét về nội dung, tư duy biện chứng
duy vật là khách quan vì nội dung phản ánh của nó do thế giới khách quan qui
định. Trong đó, giới tự nhiên và hoạt động cải tạo tự nhiên của con người là
cơ sở trực tiếp của tư duy biện chứng duy vật và sự phát triển của nó luôn


17
được bổ sung bằng những tài liệu của hoạt động thực tiễn. Chủ thể càng tích
cực thực hiện hoạt động thực tiễn, tích lũy tri thức khoa học càng nhiều thì tư
duy biện chứng duy vật càng có điều kiện phát triển.
Tóm lại, tư duy biện chứng duy vật không chỉ phản ánh trạng thái hiện
tồn, mà còn dự báo xu hướng phát triển của sự vật, hiện tượng. Tư duy biện
chứng duy vật là loại hình tư duy phát triển cao nhất của loài người, mang bản

chất khoa học, cách mạng, vừa tạo ra tri thức mới vừa giải quyết có hiệu quả
các vấn đề lí luận và thực tiễn đặt ra.
1.1.2. Tư duy biện chứng về công tác thanh niên
* Thanh niên
Thanh niên là đối tượng được nhiều khoa học quan tâm nghiên cứu
trong đó đáng chú ý là sinh lý học, tâm lý học, xã hội học. Ở mỗi thời kỳ
trong đời sống con người, sự phát triển về thể chất và tâm lý và cả nhân cách
có quy luật riêng. Thanh niên là thời kỳ kế tiếp của lứa tuổi thiếu niên nhưng
đây là giai đoạn phát triển rất cao về thể chất và có nhiều diễn biến tâm lý
phức tạp.
Các nhà sinh học coi tuổi thanh niên là một giai đoạn trong tiến trình
tiến hóa của cơ thể trong đó thấy rõ sự tráng cường về thể lực, sự phát triển về
trí tuệ, hoàn thiện về các chức năng của cơ thể và nhân cách con người. Các
nhà tâm lý học quan tâm tới các quy luật phát triển tâm lý của lứa tuổi thanh
niên mà đặc trưng là sự phát triển khả năng phân tích và suy luận, sự ham
thích cái mới, sự hăng say hoạt động và sáng tạo, sự tự ý thức, tự khẳng định.
Các nhà xã hội học coi thanh niên là một giai đoạn của quá trình xã hội hóa cá
nhân, tiếp thu các giá trị xã hội để hình thành nhân cách; đây là thời kì chuyển
biến từ tuổi thơ lệ thuộc sang giai đoạn hoạt động độc lập với tư cách cá nhân,
từng bước hình thành ý thức trách nhiệm công dân, chuẩn bị và tự nâng cao
kiến thức để lao động, cống hiến.


18
Các nhà nghiên cứu kinh tế - chính trị nhìn nhận thanh niên là một lực
lượng lao động xã hội hùng hậu, có chất lượng cao; là nguồn lực thường
xuyên bổ sung cho đội ngũ lao động trên mọi lĩnh vực; là bộ phận quan trọng
cấu thành lực lượng sản xuất, rất năng động, nhạy cảm, gắn bó với tiến trình
phát triển xã hội, đi đầu trong cuộc đấu tranh sáng tạo ra cái mới. Ở góc độ
triết học, có tác giả cho rằng “Thanh niên là một phạm trù triết học, dùng để

chỉ những người ở độ tuổi nhất định; là một thực thể tự nhiên, một tồn tại xã
hội, là một giai đoạn phát triển nhất định của cuộc đời con người với những
đặc trưng riêng về các đặc điểm tâm lý, sinh lý và sự phát triển nhận thức ở
trình độ nhất định” [39, tr.14]. Như vậy, mỗi ngành khoa học, tùy theo góc độ
của mình đã nhấn mạnh khía cạnh cá thể, sinh học hoặc nhấn mạnh khía cạnh
tập thể, xã hội của khái niệm thanh niên hoặc cả hai.
Vì thế, cần kết hợp những đặc điểm chung về mặt sinh học với đặc
điểm về mặt xã hội của thanh niên để xem xét khái niệm thanh niên.
Đặc điểm chung về mặt sinh học của thanh niên có biểu hiện cơ bản sau:
- Thanh niên là giai đoạn tiếp nối tuổi thiếu niên, đạt tới đỉnh cao tuổi
trưởng thành. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình phát triển của
cá thể con người. Xác định giai đoạn này thường được thể hiện ở việc xác
định độ tuổi thanh niên. Thanh niên được phân chia theo độ tuổi, gắn với giai
cấp, các tầng lớp xã hội. Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc
điểm từng thời đại lịch sử cụ thể, các yếu tố truyền thống của từng quốc gia,
dân tộc…mà ở mỗi nước qui định độ tuổi thanh niên có khác nhau. Ở nước ta
tuổi thanh niên được qui định trong Luật Thanh niên được Quốc hội thông
qua ngày 29/11/2005 là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
- Thanh niên là lớp người có sự phát triển hoàn thiện về thể chất thể
hiện trên tất cả các mặt: chiều cao, cân nặng, hệ xương, hệ cơ, hệ thần kinh
cũng như các chức năng sinh lý khác. Sau tuổi thanh niên, giai đoạn kế tiếp là


19
trung niên. Trong thực tế giai đoạn trung niên không còn sự phát triển nào
đáng kể mà con người có những mặt đã dần đi vào thời kỳ lão hóa (về sinh
học). Khoa học đã kết luận là sự phát triển của các nơ - ron thần kinh ở lứa
tuổi thanh niên đạt tới đỉnh cao nhất. Trong cuộc đời của mỗi người, không có
thời kỳ nào đạt được sức sống mạnh mẽ và cơ thể đẹp như thời thanh niên. Sự
phát triển về thể chất là điều rất có ý nghĩa để từ đó thấy được sức mạnh, vai

trò của họ trước yêu cầu của đời sống tự thân cũng như gia đình và xã hội,
nhất là những khả năng và nhiệm vụ mà họ phải đảm đương.
Đặc điểm về mặt xã hội của thanh niên có những nét đặc trưng sau:
- Theo góc độ giá trị nhân cách xã hội ở thanh niên nổi lên những mặt
cơ bản như: lòng nhiệt tình và độ nhạy cảm trong cuộc sống; lòng hứng khởi
với những hoài bão, ước mơ, niềm tin và khát vọng tương lai; tính hăng say
không chịu khuất phục, sự chân thành trong ý nghĩ và việc làm; nghị lực phi
thường và táo bạo; tính thích thể hiện, có xu hướng về các kết luận hấp tấp,
vội vàng; tình yêu say mê và khát vọng; tính bồng bột, chủ quan; tính khí sôi
nổi, nhẹ dạ, cả tin song gặp khó khăn dễ sinh ra hoang mang dao động, thiếu
kiên trì, bền bỉ; tính dễ bị kích thích, thiếu tự chủ [7; tr 14, 15, 16].
Thanh niên là lớp người có sự phát triển mạnh về trí tuệ và nhân cách.
Bên cạnh những khả năng to lớn, sự mạnh dạn, tiên phong, thích sáng tạo, ưa
cái mới, lòng dũng cảm, tinh thần dám nghĩ, dám làm,…Tuy nhiên ở thanh
niên, sự hạn chế và các nhược điểm như thiếu kinh nghiệm, thiếu từng trải,
tính bồng bột, thiếu kiên trì, thậm chí có lúc còn phiêu lưu, liều lĩnh, dễ hoang
mang dao động…luôn phải được cảnh giác, phải được khắc phục bằng chính
sự rèn luyện, phấn đấu không ngừng của bản thân thanh niên và có sự hướng
dẫn, giúp đỡ của các chủ thể xã hội.
- Thanh niên là bộ phận đông đảo trong dân cư, những người trong độ
tuổi thanh niên chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số dân. Tính đến năm 2011,


20
dân số thanh niên nước ta chiếm 28,9% dân số cả nước [46, tr.9]. Về cơ cấu
xã hội, thanh niên là có mặt ở trong tất cả các tầng lớp, các giai cấp, các dân
tộc, các tôn giáo, các vùng miền thanh niên có mặt trong tất cả các lĩnh vực
hoạt động xã hội, vì thế thanh niên được chia thành các nhóm thành phần:
thanh niên công nhân, thanh niên nông dân, thanh niên học sinh, sinh viên,
thanh niên viên chức, thanh niên các lực lượng vũ trang, thanh niên tôn giáo,

thanh niên các dân tộc…
- Thanh niên là một nhóm xã hội - nhân khẩu đặc thù. Những nét đặc
trưng của thanh niên hoàn toàn không giống với các nhóm xã hội khác. Tính
đặc thù này gắn liền với đặc điểm về mặt sinh học của thanh niên. Nhóm xã
hội đặc thù này chịu sự qui định bởi tâm lý lứa tuổi, bởi hoàn cảnh kinh tế -
xã hội và sự giáo dục định hướng giá trị nhân cách của gia đình, nhà trường,
xã hội. Cơ cấu nhóm - xã hội thanh niên luôn biểu hiện một chỉ số phản ánh
trình độ phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong một xã hội, luôn có sự
xung đột nhất định giữa các nhóm thế hệ.
- Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, đồng thời là thế hệ trẻ đang
trưởng thành, phát triển, có năng lực sáng tạo, cống hiến to lớn đối với đất
nước. Thanh niên là lực lượng quyết định sự phát triển hiện tại cũng như
tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc. Bởi, thanh niên là nguồn nhân lực chủ
yếu và nguồn đào tạo nhân tài cho xã hội; thanh niên là lực lượng chính trong
việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thanh niên là lực lượng
kế thừa, tiếp bước các thế hệ cha anh để thúc đẩy sự phát triển của xã hội, dân tộc.
- Thanh niên là con người ở lứa tuổi đang phát triển, đang định hướng,
đang trưởng thành. Một lứa tuổi tiềm ẩn về thể chất và tinh thần, tri thức và
văn hóa, thể lực và tầm nhìn, năng động linh hoạt trong nhận thức và tư duy,
nhạy cảm về sự phát triển tài năng và định hướng giá trị trong cuộc sống,
nhanh chóng đáp ứng các yêu cầu của sự phát triển xã hội. Vì thế, thanh niên


21
luôn trở thành mục tiêu và động lực của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội
ở mỗi quốc gia, của sự tiến bộ của mọi dân tộc và thời đại. Thanh niên luôn
trở thành sức hút với mọi giai cấp, lực lượng chính trị - xã hội vào các cuộc
vận động cách mạng, vào sự cải biến xã hội ở mọi thời đại.
Tuy nhiên, tính tích cực chính trị - xã hội, tính tiên phong và đổi mới
trong sự phát triển của thanh niên nhanh hay chậm, sự trưởng thành sớm hay

muộn, xã hội kỳ vọng hay thất vọng về thanh niên bao giờ cũng tùy thuộc vào
các quan điểm vận động, thái độ ứng xử của các giai cấp lãnh đạo và tùy
thuộc vào chương trình, chính sách phát triển giáo dục và chăm lo bảo vệ
thanh niên của Chính phủ ở mỗi quốc gia. Hoài nghi và đánh giá sai lầm về
bản chất tốt đẹp và khả năng cách mạng của thanh niên sẽ là sai lầm và chịu
sự trả giá.
Tóm lại theo tác giả có thể hiểu khái quát về khái niệm thanh niên như sau:
Thanh niên là khái niệm chỉ một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù, ở
một độ tuổi nhất định (theo Luật Thanh niên: từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi), có
mặt trong tất cả giai cấp, tầng lớp xã hội, các lĩnh vực hoạt động của đời
sống xã hội, có những đặc điểm chung đặc trưng về tâm lý, sinh lý, nhận thức
xã hội, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc
trong cả hiện tại và tương lai.
Cần phân biệt thuật ngữ “Thanh niên” với thuật ngữ “Thế hệ trẻ”.
Hiểu một cách khái quát: Thế hệ trẻ là thuật ngữ dùng để chỉ lớp người
từ tuổi ấu thơ, đến nhi đồng, thiếu niên, thanh niên của mỗi quốc gia, dân tộc
trong mỗi thời kỳ lịch sử nhất định. Thanh niên là một nhóm đối tượng trong
thế hệ trẻ.
Mỗi một thế hệ bao gồm những người có cùng một độ tuổi xác định
(những người cùng thời), có sự tương đồng về kinh nghiệm sống, giá trị văn
hoá, tinh thần, họ sinh ra cùng một thời kì lịch sử và có tác động nhất định


22
đến lịch sử, xã hội thời kì đó. Ở Việt Nam, cho đến nay đang cùng tồn tại
nhiều thế hệ khác nhau: Thế hệ xây dựng Đảng và tiến hành cách mạng
Tháng Tám, thế hệ chống Pháp và chống Mỹ, thế hệ xây dựng chủ nghĩa xã
hội và tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của các
thế hệ trong tiến trình lịch sử. Vấn đề các thế hệ không tách rời vấn đề giai

cấp, song không được đồng nhất với vấn đề giai cấp. Chủ nghĩa Mác - Lênin
hoàn toàn bác bỏ lý thuyết "Xung đột các thế hệ" của các học giả tư sản và
khẳng định rằng: Giữa các thế hệ đi trước và thế hệ đi sau, giữa thế hệ cha
anh và thế hệ trẻ luôn luôn tồn tại sự khác biệt, hơn nữa có những mâu thuẫn,
nhưng đó không phải là những mâu thuẫn đối kháng. Dưới chủ nghĩa xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định việc giải quyết mâu thuẫn giữa các thế hệ
diễn ra theo con đường mỗi thế hệ tự giác xích lại gần nhau, giữa các thế hệ
có sự nâng đỡ, kế thừa và phát huy.
* Công tác thanh niên
Để đảm bảo sự thắng lợi của sự nghiệp và con đường cách mạng mà
Đảng đã lựa chọn, Đảng ta luôn xác định: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công tác quần chúng của Đảng ở đây
được hiểu là toàn bộ các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn, tập
hợp, tổ chức của Đảng đối với quần chúng, nhằm phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, huy động tối đa lực lượng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
cách mạng [10; tr. 9]. Công tác quần chúng của Đảng nhằm tuyên truyền, vận
động, thuyết phục, lôi kéo và tổ chức các đối tượng quần chúng thực hiện
cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và xây dựng tổ chức, cơ chế hoạt
động nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Công tác
thanh niên (CTTN) là một bộ phận trong công tác quần chúng của Đảng. Bàn
về vấn đề này, có nhiều quan điểm khác nhau:


23
Dưới góc độ dân vận, công tác vận động thanh niên của Đảng là toàn
bộ công tác tổ chức, giáo dục, rèn luyện thanh niên nhằm đưa thanh niên vào
những hành động cách mạng, phát huy đội ngũ này thành lực lượng xung kích
sáng tạo, đội dự bị tin cậy của Đảng, kế thừa trung thành và xuất sắc sự
nghiệp cách mạng của Đảng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó nhiệm vụ hàng đầu của công tác này là

đoàn kết, tập hợp, tổ chức họ lại thành “đội ngũ những chiến sĩ cách mạng
kiên cường” như Bác đã dạy. Chưa đoàn kết, tập hợp được thanh niên thì
chưa thể nói đến giáo dục, cổ vũ thanh niên hành động cách mạng. Chính vì
vậy, tập hợp, đoàn kết thanh niên được Đảng ta đặc biệt quan tâm [2, tr.13].
Dưới góc độ là một hoạt động công tác, có quan điểm cho rằng: "Công
tác thanh niên là công việc về thanh niên của tổ chức, cơ quan, đơn vị (Đảng,
Nhà nước, đoàn thể, đơn vị kinh tế, sự nghiệp, ) mà các thành viên trong tổ
chức, cơ quan đơn vị đó cùng nhau thực hiện, hoặc giao cho từng thành viên
của tổ chức, cơ quan, đơn vị đó thực hiện dưới sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát
của tập thể những người lãnh đạo, quản lý, điều hành tổ chức, cơ quan, đơn vị
đó, và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm thực hiện thắng lợi những công
việc của mình về thanh niên, góp phần vào thành tựu lãnh đạo công tác thanh
niên của Đảng” [49, tr. 36].
Theo tác giả, về CTTN cần nắm rõ một số vấn đề khái quát như sau:
* Công tác thanh niên bao gồm toàn bộ những hoạt động trực tiếp của
Đảng, và hoạt động của Nhà nước, Đoàn Thanh niên, Mặt trận, các tổ chức
quần chúng, gia đình cũng như toàn xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
nhằm đoàn kết tập hợp thanh niên, quản lý, tổ chức, giáo dục, bồi dưỡng và
tạo điều kiện cho thanh niên phát triển, trưởng thành mọi mặt, phát huy tiềm
năng thế mạnh của lực lượng thanh niên đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, góp phần đảm bảo thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng.

×