Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Tư tưởng nhân cách trong tác phẩm Luận ngữ của Khổng Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.76 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG





TƯ TƯỞNG NHÂN CÁCH TRONG TÁC PHẨM
LUẬN NGỮ CỦA KHỔNG TỬ







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỢNG






TƯ TƯỞNG NHÂN CÁCH TRONG TÁC PHẨM
LUẬN NGỮ CỦA KHỔNG TỬ



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80




Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TÀI ĐÔNG






HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1. GIỚI THIỆU KHỔNG TỬ VÀ TÁC PHẨM LUẬN NGỮ 10
1.1. Tóm tắt tiểu sử và sự hình thành tư tưởng triết học của Khổng
Tử 10
1.2. Bàn về nhân cách trong tác phẩm tác phẩm Luận ngữ và giới
thiệu cuốn sách Luận ngữ. 22
Chương 2. CÁC ĐỨC TÍNH THỂ HIỆN NHÂN CÁCH NGƯỜI QUÂN TỬ VÀ
CON ĐƯỜNG ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC NHÂN CÁCH LÝ TƯỞNG 29
2.1.
Nhân cách thể hiện qua mẫu người lý tưởng. Người quân tử
29
2.1.1. Người quân tử 29
2.1.2. Các đức tính cơ bản thể hiện nhân cách qua tác phẩm Luận ngữ 36
2.2. Con đường để đạt được nhân cách lý tưởng của người quân tử 63
2.2.1. Tu thân 63
2.2.2. Thực hiện lễ 70
2.2.3. Được giáo dục để có nhân cách tốt 79
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị xã hội với nội dung tư tưởng căn
bản là thiết lập và duy trì trật tự xã hội. Người sáng lập ra học thuyết này là
Khổng Tử (551 TCN - 479 TCN) với hệ thống học thuyết của mình, tư tưởng
của ông được truyền bá rộng rãi và tồn tại lâu dài trong thời kỳ cổ trung đại
Trung Quốc, các nước Á Đông và ở Việt Nam. Tư tưởng của ông được truyền
qua nhiều thế hệ con người, đã thấm sâu trong tâm trí, dần dần góp phần ảnh
hưởng thành truyền thống văn hóa của các nước Á Đông.
Học thuyết của ông bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau phản ánh đời
sống xã hội tinh thần của con người. Những nội dung tư tưởng cơ bản là tư
tưởng về đường lối trị nước, về con người và giáo dục con người, về mẫu
người toàn thiện và xã hội lý tưởng.
Tại sao ông lại coi trọng con người, và tại sao ông lại chú ý nhiều đến
đạọ đức. Qua khảo sát, tôi thấy rằng với học thuyết của ông, ông đã chủ
trương dùng đạo đức để cảm hóa con người, giáo dục con người có đủ phẩm
cách về đạo đức để xây dựng một xã hội lý tưởng. Một xã hội mà nhân cách
(theo cách hiểu của Khổng Tử) được tỏa sáng, được thể hiện qua mẫu người
lý tưởng - người quân tử.
Ông rất coi trọng nhân cách con người. Ông đặt nhân cách lên cao hơn
các vấn đề khác vì chính nhân cách là cái cốt lõi của con người, giúp con
người hành động, biết lấy lẽ phải làm trọng.
Vì thế, tôi thấy khi nghiên cứu Nho giáo còn có rất nhiều giá trị nhất
định trong xã hội chúng ta ngày nay còn có thể phát huy, đặc biệt trong lĩnh
vực đào tạo con người mà có đủ đức, đủ tài vừa hồng, vừa chuyên.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ khi nào?
2
Năm 938 chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc thuộc, mở ra thời kì mới
cho sự phát triển Nho giáo ở Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật giáo có đóng

góp rất quan trọng, nhưng xu hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo rất
rõ vì cần phải có một con đường trị dân, trị nước thiết lập một triều đại mới.
Khi triều Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu quan
tâm đến Nho giáo.Việc Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu (vào năm 1070) thờ
Chu Công như là một mốc ghi nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả
nước.
Nho giáo rất coi trọng tri thức, coi trọng học hành. Nhiều năm nhà
nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận tổ chức nhà
nước, pháp luật, và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là
dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo.
Hiếu học đã trở thành truyền thống văn hóa Á Đông, trong đó có Việt Nam.
Nho giáo hướng người dân tu dưỡng đạo đức theo Ngũ thường, (năm
cái thường lý thường tình của con người là: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) làm
cho xã hội phát triển ngày càng vững mạnh hơn, góp phần xây dựng mối quan
hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn.Tuy vậy, Nho giáo cũng có nhiều mặt
tiêu cực như quá bảo thủ, không tiếp thu cái mới ưu việt, dẫn đến bị cái ưu
việt hơn tiêu diệt Con người quá hướng nội, không hướng con người ra bên
ngoài để tìm hiểu xung quanh, chinh phục thiên nhiên. Do đó, sau một thời
gian phát triển bị chững lại so với nền văn minh phương Tây xuất hiện sau.
Trên thế giới, trong các thập niên gần đây , giới triết học Nho giáo đã tổ
chức nhiều hội thảo khoa học quốc tế về vấn đề con người và bản chất con
người, nhằm khắc phục tình trạng người tha hóa do nhiều nguyên nhân gây ra.
Đặc biệt họ rất quan tâm đến giá trị tư tưởng phương Đông trong đó có
Khổng Tử. Khi đặt vấn đề phát triển nhân loại trong thế kỷ tiếp theo, các nhà
khoa học đưa ra nhận định: “Nếu như nhân loại muốn sinh tồn ở thế kỷ XXI,
ắt nên ngoái nhìn lại 2540 năm trước, hấp thu lấy trí tụê của Khổng Tử” [11].
3
Công lao lớn của Khổng Tử là đã xây dựng được một hệ thống quan
niệm về mẫu người quân tử. Mẫu người có đạo đức lý tưởng mà nhiều thời
đại Trung Quốc lấy đó làm chuẩn mực để đánh giá phẩm cách của con người

trong các quan hệ xã hội. Mẫu người đó được xem là chân chính, là toàn diện
và đóng vai trò quan trọng trong việc bình ổn trật tự chính trị xã hội. Vì vậy
việc kế thừa những tinh hoa triết học Khổng Tử về con người với phẩm chất
nhân cách đáng quý là cần thiết, có ý nghĩa cấp bách cả về mặt lý luận lẫn
thực tiễn trong ngày nay.
Vì thế tôi quyết định chọn TƯ TƯỞNG NHÂN CÁCH TRONG TÁC PHẨM
LUẬN NGỮ CỦA KHỔNG TỬ làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhân cách là đối tượng của khoa học tâm lý. Song nhân cách cũng là
khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học xã hội và nhân văn khác như đạo
đức học, triết học, giáo dục học, xã hội học v.v.
Trong lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại, từ thời kỳ cổ đại cho đến
ngày nay, ở cả phương Đông và phương Tây, các nhà tư tưởng đã luôn đặt ra
và đi tìm cách lý giải: bản chất con người là gì? là thiện hay là ác, là cá nhân
hay là xã hội? quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng
đồng, con người với thế giới như thế nào? Mục đích sống của con người là gì?
Điều gì sẽ xảy ra với con người sau khi chết? phải làm gì cho hợp đạo lý khi
còn sống? tất cả những lời giải thích trên, cũng làm sáng tỏ vấn đề nhân cách.
Đề tài viết về nhân cách không phải là vấn đề mới nhưng với những
ngành khác nhau, bàn luận về nhân cách cũng khác nhau. Ở Việt Nam các
sách nghiên cứu về nhân cách chưa nhiều lắm, chủ yếu là viết trong thời kỳ
đổi mới.
Trần Văn Giàu (1990), viết cuốn “Các giá trị tinh thần truyền thống của
dân tộc Việt Nam” cho rằng các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
4
Nam bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người,
vì nghĩa, hình thành nên nhân cách truyền thống con người Việt Nam”.
Viết về nhân cách mang tính khái quát, và nêu ra các học thuyết từ
Đông sang Tây, từ cổ đại đến hiện đại đó là cuốn sách “Tâm lý học nhân
cách” (1998) của Nguyễn Ngọc Bích nói tới các vấn đề nhân cách theo quan

niệm phương đông cổ đại, lý luận nhân cách trong tâm lý học phương tây, các
xu hướng nghiên cứu của Liên xô, nghiên cứu của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách, tâm lý xã hội của nhân cách.
Trên các tạp chí chuyên ngành như: Cộng sản, Tâm lý học, Triết học
v.v. Cũng có nhiều bài báo, các tạp chí bàn những vấn đề xung quanh về nhân
cách tiêu biểu, có thể kể ra một số điển hình như:
Cao Thu Hằng (2004), giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu
đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam, Tạp chí Triết học số 7 (158).
Cao Thu Hằng (2007), Về sự hình thành nhân cách, Tạp chí Triết học
số 12 (199).
Trần Văn Hiệp (1998), Yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội và nhân cách.
Tạp chí Tâm lý học, số 1 (7).
Nội dung của các bài viết tập trung phân tích sự hình thành, các động
cơ, các nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách, xem xét nhân cách trong mối quan
hệ với đạo đức, văn hóa và trí thức…
Mảng thứ hai, nghiên cứu tổng quát triết học Nho giáo, các vấn đề
nhân cách trong Nho giáo.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu Nho giáo được chú ý từ đầu thế kỷ XX,
khi văn hóa phương tây đang dần dần thay thế sự thủ cựu của lối tư duy cũ,
nhưng các học giả trong thời gian này vẫn khẳng định giá trị to lớn trong tư
tưởng của Nho giáo. Các bài viết về Nho giáo được trình bày qua các tác
phẩm lịch sử triết học, lịch sử Nho giáo, lịch sử văn hóa v.v. in chung hay
5
sách riêng, đó là những tác phẩm tiêu biểu của Trần Trọng Kim, Phan Bội
Châu, Quang Đạm, Nguyễn Hiến Lê v.v.
Cuốn “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu trình bày một số cô đọng,
súc tích và giải thích khá rõ ràng các tư tưởng cơ bản của Nho giáo. Từ đó
ông đặc biệt đề cao những nhân tố tích cực của Nho giáo. Coi đạo đức Nho
giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hoàn thiện đặc điểm con người
trong cư xử và góp phần vào việc ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội.

Cuốn “Nho giáo” của Trần Trọng Kim là công trình nghiên cứu lịch sử
Nho giáo đầu tiên của nước ta, song các vấn đề của Nho giáo được trình bày
một cách có hệ thống, trong quan niệm về những đức tính của nhân cách được
tác giả trình bày rất rõ ràng, là cơ sở cho mẫu người quân tử của Nho giáo.
Nhưng trong cuốn sách này những hạn chế về nhân cánh của người quân tử
chưa được đề cập một cách thỏa đáng. Ông đã dũng cảm đứng lên bảo vệ Nho
giáo bằng cách phân tích tương đối chính xác một số nguyên lý cơ bản của
Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển của nó, từ đó ông chỉ ra cái
hay, cái dở của Nho giáo. Ông sử dụng tác phẩm Luận Ngữ nhiều nhất để dẫn
chứng, do đó ông cho rằng, Nho giáo không chỉ là học thuyết chính trị - xã
hội , học thuyết đạo đức mà là học thuyết triết học”.
Cuốn “Nho giáo xưa và nay” của Quang Đạm đề cập đến mối quan hệ
giữa Trời - đất - người, các thuộc tính đạo đức và nhân sinh quan của con
người, các mẫu người trong Nho giáo. Ông cho rằng, Nho giáo có cả mặt tích
cực và tiêu cực, vì đó là do mặt lịch sử đem lại, nhưng không phải “truy tố,
bắt đền” mà để “nhìn rõ và loại trừ tận gốc một cách khách quan và khoa học
để những hậu quả cụ thể của nó trong hệ tư tưởng và trong cuộc sống xã hội
chúng ta ngày nay”, cũng không cần phải để “truy tặng, khen thưởng nó” mà
để “giữ gìn phát huy nhằm thúc đẩy sự nghiệp của chúng ta tiến lên”.
Cuốn “Đại cương triết học Trung quốc” của Giản Chi - Nguyễn Hiến
Lê tập 2 tập trung nghiên cứu vấn đề nhân sinh quan trong học thuyết của
6
Khổng Tử. Tác giả đi sâu vào các khái niệm nhân, trí, dũng, lễ, trung, hiếu,
đễ.
Cuốn “Nho giáo xưa và nay”, do Vũ Khiêu chủ biên tập hợp các bài
nghiên cứu về Nho giáo của nhiều tác giả giúp người đọc hiểu được những
giá trị của Nho giáo, những biến thái của Nho giáo ảnh hưởng đến tư tưởng
con người, những phê bình của nhà văn Lỗ Tấn về Nho giáo, những cánh nhìn
mới về Nho giáo của Trung Quốc ngày nay như sự ra đời và phát triển của
Nho giáo, mối quan hệ giữa Nho giáo với kinh tế, xã hội, giáo dục, văn hoá,

tư tưởng Hồ Chí Minh và Nho giáo, tình hình Nho giáo ở một số nước châu
Á, những hạn chế cũng như những giá trị mà Nho giáo mang lại cho các nước
châu Á, việc vạch ra những hạn chế của Nho giáo.
Trên các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí triết học, Tạp chí Giáo dục
lý luận cũng đăng tải rất nhiều các bài báo nghiên cứu về Nho giáo, về nhân,
nghĩa, trí, dũng, tín, chính danh v.v của các tác giả là những người nghiên cứu
hoặc mới nghiên cứu về Nho giáo như: “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng và
nội dung giáo dục, giáo huấn của Nho giáo” của Nguyễn Thanh Bình (Tạp chí
Giáo dục lý luận 10/2000), tác giả đề cập đến nội dung giáo dục của Nho giáo
và đưa ra nhận định rằng: giáo hoá bằng đức là phương tiện, biện pháp hiệu
quả nhất để đào tạo con người và xã hội hoàn thiện.
Các vấn đề nghiên cứu về Nho giáo có rất nhiều ở việt Nam, có hẳn
những hội thảo khoa học nghiên cứu vấn đề đó. Ở Việt Nam, hội thảo quốc tế
Nho học được bắt đầu từ những năm sau đổi mới, khi người Trung Quốc nhìn
nhận lại giá trị tư tưởng của Nho giáo và ảnh hưởng tới cuộc sống của họ và
các nước Á châu, như sự khẳng định của các nước NICS (Bốn con rồng châu
Á), họ đi lên được một phần cũng chịu lối suy nghĩ của Nho giáo. Thì ở Việt
Nam, cũng nhìn nhận lại giá trị đích thực của Nho giáo nguyên thủy, sau khi
đã loại bỏ đi những cái tiêu cực không hợp lý mà do Nho giáo đời sau thêm
thắt vào. Chúng ta cũng thấy rằng Nho giáo cũng ảnh hưởng rất lớn tới tư
7
tưởng người Việt qua ngàn năm lịch sử, dù muốn hay không cũng góp phần
hình thành nên nhân cách, lối sống, tư duy người Việt.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu những vấn đề trên, hầu hết các tác
giả nghiên cứu học thuyết Nho giáo đề cập nhân cách ở một vài đức tính rời
rạc ở nhiều khía cạnh khác nhau xuất phát từ đối tượng mục đích nghiên cứu
của họ.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên là tài liệu quý báu để chúng
tôi thực hiện đề tài này. Xuất phát từ tình hình thực tế đó, tôi hy vọng có thể
bổ sung thêm vào những thành quả của những người đi trước theo khả năng

có thể của mình.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Vấn đề nhân cách trong tác phẩm Luận ngữ
của Khổng Tử” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, với hy vọng làm sáng
tỏ thêm những vấn đề mang tính tổng hợp những đức hạnh thể hiện nhân cách
của con người Nho giáo thời kỳ đầu, thấy những hạn chế và những giá trị còn
lại cho tới xã hội chúng ta ngày nay.
8
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Luận văn góp phần tìm hiểu một cách có hệ thống về tư tưởng nhân
cách trong tác phẩm Luận ngữ.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên luận văn có một số nhiệm vụ:
- Nêu rõ bối cảnh ra đời tác phẩm Luận ngữ.
- Làm rõ các yếu tố cấu thành nên nhân cách qua cách nhìn nhận của
Khổng Tử trong xã hội cổ đại và việc giáo dục để tu dưỡng nhân cách con
người quân tử.
- Bước đầu đánh giá những giá trị của tư tưởng Khổng Tử về vấn đề
nhân cách.
4. Đối tượng và phạm vi của luận văn
4.1. Đối tượng: Quan niệm của Khổng Tử về nhân cách qua Nhân - Trí
- Dũng - Cung - Khoan - Tín - Mẫn - Huệ - Hiếu- Lễ - Tín…
4.2. Phạm vi: Trong sách Luận Ngữ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Vận dụng phương pháp luận của lịch sử triết học, nhất là lịch sử triết
học phương đông. Chú trọng kết hợp phương pháp logic với lịch sử, phân tích
tổng hợp, khái quát hóa, đối chiếu, so sánh v.v.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Cái mới của luận văn:
- Bước đầu nghiên cứu và hệ thống hóa các đức hạnh về nhân cách con

người Nho giáo qua tác phẩm Luận ngữ.
- Nêu được những giá trị trong quan niệm tu dưỡng đạo đức về nhân
cách.
9
6.2. Ý nghĩa lý luận văn và thực tiễn của luận văn:
- Về mặt lý luận: luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung các phẩm
chất đạo đức hình thành nên nhân cách trong mẫu người người quân tử.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo giảng dạy và học tập tìm
hiểu Nho giáo nói chung, nhân cách của mẫu người quân tử nói riêng cho
nghiên cứu, giáo viên và học sinh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Giới thiệu Khổng Tử và tác phẩm Luận ngữ.
Chương 2: Các đức tính thể hiện nhân cách người quân tử qua tác phẩm
Luận ngữ.
10
Chương 1
GIỚI THIỆU KHỔNG TỬ VÀ TÁC PHẨM LUẬN NGỮ

1.1. Tóm tắt tiểu sử và sự hình thành tư tưởng triết học của Khổng Tử
Cuộc đời Khổng Tử có nhiều thăng trầm và những tài liệu ghi chép về
ông không nhiều, chủ yếu chúng ta lấy từ Sử ký của Tư Mã Thiên, ông sống ở
thế kỷ II trước công nguyên (195-85) sinh sau Khổng Tử trên bốn trăm năm,
vào một thời đại mà đạo Khổng được vua Hán bắt đầu coi là chính giáo.
Tuy Tư Mã Thiên đã có công ghi chép lại rất nhiều tiểu sử của những
người nổi tiếng thời trước, và ghi chép về Khổng Tử dài gấp mười, hai mươi
lần các tiểu sử khác. Nhưng những tài liệu về ông được Tư Mã Thiên ghi lại,
có nhiều chỗ còn khả nghi. Bởi lẽ, sau khi Khổng Tử mất, Lỗ Ai Công đã ra
lệnh lấy nhà ở của ông biến thành đền thờ, thờ Khổng Tử. Trong đó lưu giữ

lại tất cả tài liệu, sách vở, quần áo của ông làm nhà lưu niệm, và hàng năm,
đến ngày mất, học trò lại tấp nập hương án tưởng nhớ thày.
Khổng Tử sinh sống trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, đây là thời kỳ
rối ren nhất về chính trị, xã hội luôn có bạo loạn và những cuộc tranh dành
ngôi vị luôn diễn ra.
Đầu nhà Chu có 1800 nước lớn nhỏ khác nhau thì tới thời Xuân Thu
chỉ còn 70 nước, về sau chỉ còn 7 nước lớn là Tần, Hán, Ngụy, Vệ, Yên, Sở,
Tề. Sau đó, Tần Doanh Chính (Vua nước Tần) diệt sáu nước trên thống nhất
Trung Quốc, lập hiệu Hoàng đế - lấy tên hiệu Tần Thủy Hoàng, lập ra nhà
Tần (221-206 TCN).
Tần Thủy Hoàng thấy rằng, nếu chỉ dùng Đức trị, lễ trị theo học thuyết
của Khổng Tử thì xã hội không thể vào ngay được kỷ cương, do đó ông dùng
Pháp trị. Tuy vậy, những cải cách của ông đã vấp phải lực lượng chống đối
của các thế lực đã luyến tiếc nề nếp cũ. Đặc biệt là lực lượng chống đối có
ảnh hưởng lớn nhất là Nho giáo. Những người này đã chống lại Tần Thủy
11
Hoàng dưới lá cờ Khổng Mạnh. Vì vậy, diệt các thế lực Nho giáo là nhiệm vụ
nhà Tần đưa ra trong việc cải cách đất nước của mình. Mũi nhọn bạo lực của
Tần Thủy Hoàng chĩa vào con người và kinh điển Nho giáo. Ông ta ra lệnh
cấm Nho giáo, “Đốt sách chôn nho” (phần thư thanh Nho). Ra sức diệt đạo
nho bằng bạo lực và pháp trị. Toàn bộ những sách của Nho gia bị đốt bỏ bằng
những hình thức khác nhau. Nhưng không thể cứ chôn và đốt được cả một
học thuyết có một sức mạnh lan sâu rộng trong toàn bộ Trung Quốc cổ đại,
càng làm tăng việc phản đối Tần Thủy Hoàng, việc phản đối đó được thể hiện
bằng chiêu binh mãi mã, mưu sát nhà Tần bởi các thế lực mới. Đó chính là hai
thế lực Lưu Bang và Hạng Vũ. Cả hai cùng kéo quân lính đến bắt vua Tần.
Khi Lưu Bang kéo đến bắt vua Tần tại Hàm Dương xong, Hạng Vũ kéo tới.
Lại xảy ra chiến tranh giữa Lưu Bang và Hạng Vũ để tranh giành ngôi vị. Lưu
Bang toàn thắng, lên ngôi hoàng đế. Triệt hạ toàn bộ nhà Tần, ông ta ra lệnh
đốt thư viện nhà Tần. Những thư tịch để lại ghi chép về cuộc đời Khổng Tử

không còn nhiều nữa.
Khi mới lên ngôi, Lưu Bang đã nghĩ rằng “ngồi trên lưng ngựa mà
được cả thiên hạ” là một chuyện, còn ngồi trên ngai rồng thì lại là chuyện
khác, phải lo miếng cơm manh áo cho dân và không phải cứ dùng pháp trị mà
dân chúng nghe theo. Muốn có cuộc sống ổn định, xã hội muốn hòa mục, thì
có một trật tự lễ nghi là không thể thiếu. Phải có đạo lý, hiếu đễ và những đạo
lý đó phải phù hợp với dân chúng, đã có sẵn trong nếp sống người dân. Như
vậy việc thực hiện lễ nghi sẽ làm cho xã hội ổn định về chính trị, dân chăm
chỉ làm ăn. Những suy nghĩ đó đã thức tỉnh cách trị nước của Lưu Bang.
Trong hàng ngũ công thần của Lưu Bang có không ít những người tuấn
kiệt vốn là nhà nho đã tác động mạnh vào sự thức tỉnh ấy. Tuy còn nhiều
điểm hạn chế, nhưng Khổng giáo rất có lợi cho các hoàng đế về việc cai trị xã
hội sắp xếp một cách có tôn ti trật tự, khép chặt thần dân vào các mắt các
khâu chiếc lưới cai trị bao la của hoàng đế. Do đó, Nho giáo đã giúp nhà Hán
12
cai quản đất nước dễ dàng hơn, và Nho giáo dần dần trở thành quốc giáo
chính thống.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê, khi nghiên cứu Nho giáo,
những việc chép hợp với sách Luận ngữ là đáng tin cậy nhất, nếu không
“khác gì tô xanh tô đỏ lên thuyết của Khổng Tử”, “không thể gán cho Khổng
Tử tư tưởng của người đời sau, nhưng tư tưởng có thể ông không bao giờ nghĩ
tới hoặc không bàn tới” [15, tr.8]. Do đó, chúng tôi xin được trích dẫn tiểu sử
như sau:
Khổng Tử sinh năm 551 TCN, ở ấp Trâu, nước Lỗ. Cha Khổng Tử là
Thúc Lương Ngột làm một chức võ quan nhỏ ở Lỗ, can đảm nhưng nghèo.
Ông có một bà vợ trước chỉ sinh toàn con gái; sau cưới thêm một bà, sinh
được một người con trai tên là Mạnh Bì, nhưng bị tàn tật. Về già (ngoài 60
tuổi) mới cưới một thiếu nữ sinh ra Khổng Tử, đặt tên là Khâu (nghĩa là cái
gò) tự là Trọng Ni. Khổng Tử ra đời được một, hai năm thì mồ côi cha. Hồi
nhỏ thích chơi trò tế lễ.

Năm 537 lập chí học cho sự nghiệp của mình. Ông cưới vợ là Khiêm
thị, người Tống năm 533 và năm sau sinh con trai là Lí (Bá Ngư). Ông bắt
đầu dạy học năm 530 (nhưng có sách nói ông khoảng 30 tuổi mới dạy học).
Năm ông 24 tuổi (522) mẹ qua đời.
Năm 516, nước Lỗ loạn. Khổng Tử sang nước Tề. Khi đó ông 35 tuổi.
Ông say mê học nhạc Thiều đến quên ăn quên ngủ. Tề Cảnh Công muốn dùng
ông, sau bị triều thần ngăn, không dùng nữa.
Năm 510, ông quay về Lỗ. Một số kẻ muốn dùng ông giúp mình như
Dương Hổ, Công sơn Phất Nhiễu nhưng ông từ chối. Năm 501 (50 tuổi), ông
được cất lên chức Tư không. Năm sau, được lên chức Đại tư Khấu. Trong thời
gian này nước Lỗ rất mạnh, Tề muốn Lỗ suy yếu, lập mưu tặng Tề một đoàn
nữ nhạc (năm 496). Vua Lỗ và họ Quí không trọng dụng ông nữa, ông bỏ quê
hương ra đi. Bắt đầu cuộc đời bôn ba lưu lạc của mình.
13
Từ Lỗ, ông qua Vệ mười tháng, qua Bồ một tháng rồi lại về Vệ. Tại Vệ
yết kiến nàng Nam tử. Sau đó qua Tào, Tống. Năm 494, phiêu bạt sang Trịnh,
qua Trần. Bị nạn ở đất Bồ. Quay về Vệ (năm 493) và lại rời Vệ sang Trần
(năm 492) lúc này ông tròn 60 tuổi. Những năm sau, ông qua Thái, qua Diệp
(Sở), Trần, Thái. Bị tuyệt lương ở Trần, Thái. Sở Chiêu vương giải vây cho
ông, ông lại qua Sở. Vua Sở tính dùng ông, bị quần thần ngăn cản, lại thôi.
Năm 488 (63 tuổi), ông lại về Vệ. Ở đây, ông bàn về thuyết chính
danh. Vợ ông chết năm sau khi ông 64 tuổi. Từ đó ông trở về nước Lỗ quê
hương, sửa lại nhạc lễ và viết bộ Xuân Thu.
Năm 481, người Lỗ bắt được con kì lân. Khổng Tử tin rằng khi sinh ra
có con kì lân về, thì khi chết con kì lân cũng sẽ xuất hiện. Ông buồn vì việc
đó. Ông chấm dứt bộ Xuân Thu ở việc bắt được con kì lân.
Năm 479, ông mất ở Lỗ, thọ 73 tuổi. Tử Cống làm nhà gần mộ thày, và
để tang sáu năm.
- Về hình dáng:
Ông có vóc người cao lớn, có tướng ngũ lộ là: mắt lồi, lỗ mũi rộng, lộ

hầu, tai bạt, hở răng. Mặt to và có những vạch như quả dưa chín. Bàn tay hổ,
ngực rùa, râu rậm, mồm rộng, miệng nói tươi, đi nhanh [13, tr.56].
- Về tính tình:
Tính ngài ôn hòa, nghiêm trang và kính cẩn. Sách Luận ngữ chép rõ:
“Khổng Tử ôn hòa mà nghiêm khắc, oai mà không dữ, trang nghiêm mà thoải
mái” [21. Luận ngữ, VII.37 tr.347], lúc nào cũng ung dung và bao giờ cũng
có cái vẻ tự nhiên vui vẻ: “Phu Tử khi rỗi rãi ở nhà thì thư thái và vui vẻ” [21.
Luận ngữ, VII.4 tr.342].
Khi ở nhà bên cạnh các học trò, ngay khi cả ăn uống nằm ngồi, không
bao giờ là không cầu lấy sự ngay chỉnh kín đáo; lúc vào chỗ miếu đường với
vua quan, lui tới kính cẩn, điều gì cũng giữ cho hợp lễ phép, không giám sai
14
một li, để bày tỏ cái đạo của người quân tử cẩn thận từng tí một. Lúc động lúc
tĩnh, lúc nào cũng có thể làm gương cho người ta bắt chước.
Ngài rất cẩn thận, nhất là khi có việc tế tự tinh khiết thành kính giao
cảm với thần linh, khi có việc chinh chiến quan hệ đến vận mệnh của dân của
nước, và khi có bệnh tật quan hệ đến tính mệnh của người, thì ngài hết lòng
giữ gìn: “Những việc mà Khổng Tử thận trọng hơn cả: trai giới, chiến tranh
và bệnh tật” [21. Luận ngữ VII.12 tr.343].
Là người rất nhân hậu, hễ thấy ai đau đớn buồn rầu thì động lòng
thương xót: “Phu Tử ăn ở bên cạnh người có tang, thì chẳng bao giờ ăn no.
Ngày nào đi điếu khóc, thì ngày ấy không đàn ca” [21. Luận ngữ, VII.9 tr.
343].
Chí của Khổng Tử là “Lấy sự yên vui mà đối với kẻ già, lấy sự tin mà
đối với bạn bè, lấy sự yêu mến mà đối với trẻ thơ” [21. Luận Ngữ, V25
tr.306].
Ông là người thích đàn hát: “Khổng Tử ở nước Tề nghe nhạc Thiều, ba
tháng không biết mùi thịt, nói: Không ngờ làm nhạc có thể đến mức được như
vậy!” [21. Luận ngữ, VII.13 tr.344]. “Khổng Tử đàn hát với ai, người ta hát
câu nào hay thì tất bảo hát lại, rồi tự mình phụ họa theo” [21. Luận ngữ,

VII.31 tr.347]. Ngài học cái gì cũng ham mê như thế, mà lúc nào cũng ôn hòa
vui vẻ, và đã làm việc gì thì cố hết sức làm cho được.
Là người rất hiếu học và hay suy xét những việc đời xưa. Ông cho
rằng: “Ta chẳng phải sinh ra đã biết đạo lí. Ta hiếu cổ, nên chăm tìm học đạo
lí vậy” [21.Luận ngữ, VII.19 tr345]. Ngài hay nghĩ ngợi, hay học và hết sức
dạy bảo người ta. Ngài cho rằng thầm lặng nghĩ ngợi mà biết mọi lẽ, “làm mà
không chán, dạy người mà không mỏi, ba điều ấy ta có điều gì là hơn người
đâu” [21.Luận ngữ, VII.2 tr.342]. Bất cứ điều gì ngài cũng để chí học cho
hiểu, hoặc để biết điều hay mà theo, hoặc để biết điều dở mà sửa mình.
15
Học trò Tử Cống ngợi thầy rằng: Phu tử không học, nhưng không nhất
định học một thầy nào: “Thầy tôi ở đâu mà chẳng học. Mà cũng không cứ
phải theo một ông thầy nhất định nào!” [21.Luận ngữ. XIX.22 tr.558]. Lúc đi
ra ngoài đường với người ta thì cũng có thể học được. Ngài nói rằng: “Ba
người đi với nhau, tất có một người là thầy ta, chọn người hay mà bắt chước,
người dở mà sửa mình” [21.Luận ngữ, VII.21tr.345]. Bình sinh lúc nào ngài
cũng lo việc sửa mình cho ngay chính. Ngài nói rằng: “Phẩm đức không trau
dồi, học vấn không chăm lo, nghe được điều nghĩa mà chẳng làm theo, tự
mình sai trái mà không sửa đổi, đó là những điều ta lo lắng” [21.Luận ngữ,
VII.3 tr.342]. Ngài học điều gì cũng cẩn thận, không có khinh suất, chưa biết
đã cho là biết: “có người chẳng biết rõ lý gì đã làm, chứ ta thì không thế.
Nghe nhiều, rồi chọn điều hay mà theo, thấy nhiều mà nhớ lấy ” [21.Luận
ngữ, VII.27 tr.346].
Ngài là một người chí nhân, mà ngài vốn khiêm tốn, không dám nhận
mình là thánh nhân. Ngài nói rằng: “Nếu bảo ta là thánh nhân thì ta làm sao
dám đương, nhưng ta làm việc không chán, dạy người không mỏi có thể bảo
ta được thế mà thôi” [21.Luận ngữ, VII.33 tr.347].
Đối với các môn đệ ngài rất dễ dãi. Hễ ai theo đúng lễ thì không bao
giờ ngài từ chối. Ngài nói rằng: từ người đem lễ bỏ nem trở nên, ta chưa từng
không dạy ai vậy [21.Luận ngữ, VII.7 tr.343].

Sự giáo hối của ngài có cái chú ý làm cho sẵn cái đức sáng của người
ta, chứ không những chỉ đem cái biết của mình mà trao cho người ta. Ngài
dùng cách làm cho người ta tự mình hiểu được lẽ phải trái. Ngài nói rằng: “Ta
có nhiều hiểu biết chăng? Ta không hiểu biết nhiều. Có người làm ruộng đến
hỏi ta, ta có biết gì đâu. Nhưng ta đi tìm hiểu từ đầu đến cuối vấn đề người ta
hỏi, rồi dẫn giải tường tận cho người ấy” [21.Luận ngữ. IX.7 tr.374]. Đó là
một phương pháp dạy học rất hay để mở rộng sự hiểu biết cho người khác.
16
Đối với học trò, không bao giờ ngài làm việc gì mà không cho mọi
người biết. Ngài bảo học trò rằng: “Các trò tưởng ta có điều gì giấu diếm sao?
Ta chẳng có điều gì giấu giếm các trò cả! Ta chẳng có điều gì làm mà không
cho các trò biết. Khâu này là như vậy!” [21.Luận ngữ, VII.23 tr.345]. Ngài ôn
hòa và thành thực như thế, cho nên học trò ngài rất đông, mà ai cũng yêu mến
và kính trọng ngài như cha sinh ra vậy.
* Sự hình thành tư tưởng triết học của Khổng Tử:
Với cuộc đời của ông là suốt đời tự học. Vào Thái miếu cũng học, thấy
cái gì không hiểu cũng hỏi [21.Luận ngữ III.15 tr.267]. Đi chung với ai cũng
có thể học của người đó được “ba người đi cùng, thế nào cũng có người làm
thày ta, chọn chỗ thiện mà làm theo, chỗ bất thiện mà sửa đổi” [21.Luận ngữ
VII.21 tr.345]. Và ngài cũng không quản ngại việc hèn kém nhỏ nhặt như coi
việc gạt thóc, chăn cừu và bò dùng trong tang lễ, việc nào ông cũng siêng
năng, liêm khiết. Chính trong hoạt động thực tiễn đó, đã có ảnh hưởng đến tư
tưởng triết học của ông.
Ông đã tổng kết về cuộc đời mình: “Hồi 15 tuổi ta đã để tâm trí vào
việc học, 30 tuổi chí đã kiên định, 40 tuổi không còn ngờ vực, 50 tuổi biết
mệnh trời, 60 tuổi nghe gì hiểu nấy, 70 tuổi giàu lòng ham muốn điều gì cũng
không vượt khuôn phép” [21.Luận ngữ II.4 tr.245].
Điều đó đã được kiểm chứng qua cuộc đời Khổng Tử:
Tuổi 30 ý chí kiên định: Tiếp thu ý kiến của Dương Hổ ra làm quan
Tuổi 40 phán đoán tài tình: Lấy lại vị thế nước Lỗ trong quan hệ với

nước Tề (buộc Tề Lãnh Công xin lỗi vua nước Lỗ và trả lại những phần đất
đã chiếm đoạt cho Lỗ).
Tuổi 50 biết được mệnh trời. Sự hiểu biết của ông đã cứu ông thoát nạn
trên đất Khuông khi bị người Khuông tưởng lầm ông là Dương Hổ (kẻ thù
của Khuông). Bằng việc đàn hát tự nhiên, ông giải thích thoát nạn là do hiểu
được mệnh trời: “Văn vương đã mất, nhưng nền văn hóa của ngài không còn
17
lại trên cõi đời này hay sao? Nếu trời định làm mất nền văn hóa đó thì kẻ đời
sau này chẳng được tham dự vào nền văn hóa đó. Trời chưa làm mất nền văn
hóa ấy đâu nên người đất Khuông làm gì được ta?” [7.Luận ngữ IX.5 tr.374].
Tuổi 60, nghe gì hiểu nấy: lí trí sáng suốt và phản ánh chính xác. Nghe
được mọi nhẽ (lục thập nhĩ thuận), tức là khi nghe người khác nói bất kì điều
gì ông cũng nắm được bản chất sự việc, đúng hay sai, khen hay chê.
Đến tuổi 70 là những năm cuối đời của mình,ông sống ở Lỗ, ông còn
tiếp tục phát triển học thuyết của mình, dạy học và san định các kinh sách cổ
văn Trung Hoa và đặt cho mình một bổn phần là phải bảo tồn (viết sách và
truyền đạt nền văn hóa rực rỡ của nước mình cho thế hệ sau), ông chú tâm
biên tập lại, chú giải và biên soạn các kinh sách kinh thư và chính ông nói:
“Sau khi ta từ nước Vệ trở về nước Lỗ, ta chỉnh đốn kinh nhạc, rồi nhã và
tụng cũng đâu ra đấy” [21.Luận ngữ IX.14 tr.376] và chính các kinh sách đó
đã rèn luyện cho Khổng Tử những đức tính của bậc thánh nhân. Ông đã từng
nói: “Các trò sao chẳng học thi? Thi có thể bồi dưỡng đức tưởng tượng
(hưng), có thể nâng cao óc quan sát (quan), có thể rèn luyện tính hợp quần
(quần), có thể biết cách châm biếm (oán). Gần có thể thờ cha mẹ, xa có thể
thờ vua…” [21.Luận ngữ, XVII.9 tr.529].
Và ông đã dạy bảo con trai Bá Ngư của mình “Con đã học kỹ Chu Nam
và Thiệu Nam chưa? Người ta mà không học Chu Nam và Thiệu Nam thì có
khác nào đứng quay mặt vào tường đâu” [21.Luận ngữ, XVII.10 tr.529].
“Con đã học thi chưa? Không học thi, thì không lấy gì mà nói năng”.
“Con đã học lễ chưa? Không học lễ thì chẳng biết cách đứng với đời”.

Do đó, ở tuổi 70 ông đã thể hiện được một nhân cách lớn của Trung
Hoa cổ đại, và là niềm tự hào của Trung Quốc hiện đại.
Nhưng nếu chỉ dựa vào con đường tự học, vào năng lực cá nhân bẩm
sinh thì chưa đủ, chưa thể trở thành một nhà triết học lớn và có sự ảnh hưởng
cả ngàn năm triết thuyết của mình trên phần lớn Châu Á rộng lớn, mà suy
18
ngẫm tìm tòi và vận dụng những thành quả tư duy sáng tạo vào thực tiễn đời
sống xã hội thì mới làm nên được triết học của Khổng Tử. Ông từng nói với
học trò rằng: “ta có hiểu biết chăng? Ta không hiểu biết nhiều. Có người làm
ruộng đến hỏi ta, ta có biết gì đâu. Nhưng ta đi tìm hiểu từ đầu đến cuối vấn
đề người ta hỏi, rồi dẫn giải tường tận cho người ấy” [21.Luận ngữ IX.7
tr.374]. “Ví như đắp đất làm núi, chỉ cần một sọt đất nữa là thành, nếu ta
dừng, ấy là bởi ta dừng. Lại ví như giữa đất bằng dẫu chỉ mới để được một sọt
đất, nhưng vẫn quyết tâm tiếp tục, thì đó là ta đang đi tới (thành công) vậy”
[21.Luận ngữ, IX.18 tr.376].
Hoặc nói với trò Tứ: “Ngươi tưởng rằng ta là người học nhiều mà nhớ
được cả chăng? Không phải vậy ta chỉ lấy một cái mà xuyên suốt tất cả”
[21.Luận ngữ XV.2 tr.496].
Một vài đoạn trích trên đã chứng minh rằng ông đã suy ngẫm tìm tòi và
vận dụng vào đời sống xã hội (hỏi, dẫn giải người làm ruộng, đắp đất làm núi,
lấy một cái mà xuyên suốt tất cả), nó giống như sợi chỉ trong triết học Khổng
Tử, liền mạch và không đứt rời.
Tư tưởng triết học của ông được hình thành từ nền tảng của văn hóa
thánh hiền (Nghiêu, Thuấn, Vũ) và từ thực tiễn trong cuộc sống và được dày
lên bởi cuộc sống phức tạp và mâu thuẫn của ông trong một xã hội đầy phức
tạp và mâu thuẫn cũng không kém.
Nên ông rất đề cao học thuyết về đạo (đạo làm người) ông nói rằng
“nên để tâm chí vào đạo, nắm vững đức hạnh, noi điều nhân, vui thích với lục
nghệ” [21.Luận ngữ VII.6 tr.342].
Chính trong đạo này, thì tư tưởng rèn luyện về nhân cách cho con

người được tỏa sáng. Học trò của ông được chỉ bảo tận tình, rèn luyện để làm
sao xứng đáng và phấn đấu để trở thành người quân tử trong xã hội. Nên đạo
ở đây chính là lẽ phải, là chân lý phù hợp với hoàn cảnh sống, phù hợp với xã
hội lúc bấy giờ và phù hợp với ý thức phát triển tư duy của con người. Cái
19
nhân hợp lý của đạo ấy còn tồn tại đến ngày nay là như vậy, những tư tưởng
của ông vẫn còn nhiều giá trị cho đến tận bây giờ với nhiều câu nói như châm
ngôn cuộc sống. Ví dụ trong quan hệ với con người: “Mọi người ghét ai mình
cũng phải xem xét, Mọi người thích ai mình cũng phải xem xét” [21.Luận ngữ
XV.27 tr.500]. Hoặc: “Có ba thứ bạn có ích, có ba thứ bạn có hại. Bạn với
người ngay thẳng, bạn với người thành thật, bạn với người nghe nhiều học
rộng, đó là ba thứ bạn có ích. Bạn với kẻ nịnh hót a dua, bạn với kẻ giả dối,
bạn với kẻ bẻm mép, đó là ba thứ bạn có hại” [21.Luận ngữ XVI.4 tr.511].
Nhưng không phải ai cũng có đạo giống nhau: “Có thể cùng học, chưa chắc
có thể cùng đi vào đạo. Có thể cùng đi vào đạo, chưa chắc có thể đứng cùng.
Có thể đứng cùng, chưa chắc có thể cùng thông quyền đạt biến” [21.Luận
ngữ. IX 28 tr.378]. Và không phải mới sinh ra là biết đạo. “Ta chẳng phải
sinh ra đã biết đạo lí. Ta hiếu cổ, nên chăm tìm học đạo lí vậy” [21.Luận ngữ
VII.19 tr.345].
Do đó, người quân tử, để có nhân cách thì phải học đạo, là người “ấm
ức học đạo” đến mức “quên ăn, vui đến quên lo, không biết cái già sắp đến
với mình” [7.Luận ngữ VII.18 tr.345]. Vì học đạo sẽ làm cho nhân cách người
quân tử: “… yêu mến mọi người” [7.Luận ngữ XVII.4 tr.527].
Với bề dày vốn liếng và kinh nghiệm của mình, khi mà đã đạt đến trình
độ “tri mệnh” và “thuận nhĩ” thì ông nhận thức được giá trị siêu đạo đức đó là
đạo trời. Khổng Tử kính sợ Trời như một đấng siêu nhiên được nhân cách
hóa. Trời được xem là vị thần tối cao, bao trùm lên tất cả mọi việc. Từ thời
Hạ, Thương, Ân, Chu thì việc kính thiên, sùng bái thượng đế, coi vua là thiên
tử đã khẳng định một quan niệm tín ngưỡng truyền thống, đã quy định trời là
đấng tối cao và trời quy định vị thế của từng người trong xã hội, trời thưởng

phạt một cách công bằng với hành vi đối với con người. Người được trời giao
cho trọng trách thay trời chính là thiên tử, thiên tử thay trời hành đạo. Một
20
quốc gia có bình ổn hay không do thiên tử, do trời quy định. Do vậy, tư tưởng
triết học của ông ảnh hưởng và bị chi phối nhiều bởi lý do này:
“Người quân tử có 3 điều sợ: Sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời dạy
của thánh nhân” [21.Luận ngữ XVI.8 tr.512].
“Ta không muốn nói gì nữa…
….Trời có nói gì đâu? Mà bốn mùa cứ xoay vần, trăm loài cứ sinh hóa.
Trời có nói gì đâu” [21.Luận ngữ XVII.18 tr.530].
Kính sợ trời, học đạo để có nhân, trí, dũng, chính là tạo nên nhân cách
của người quân tử. Và cái đạo ấy của Khổng Tử được xác định: “Đạo ta lấy
một điều mà xuyên suốt tất cả” đó là “trung thứ” [7.Luận ngữ IV.15 tr.281].
“Sáng được nghe đạo, thì chiều chết cũng được” [21.Luận ngữ IV.8 tr280].
Và cuối cùng, tư tưởng của triết học của Khổng Tử không vượt ra khỏi
những đặc điểm chung của triết học Trung Quốc cổ đại, chịu ảnh hưởng của
những mâu thuẫn xoay vần của thời thế. Triết học cổ đại Trung Quốc có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Mối liên hệ chặt chẽ giữa triết học với đấu tranh giai cấp
trong xã hội. Nó gắn trực tiếp vai trò của nó trong đấu tranh chính trị - xã hội.
Do thời kì này sự phân công lao động đặc thù giữa các nhà chính trị và triết
học không rõ ràng, nên triết học bị lệ thuộc một cách trực tiếp vào thực tiễn
chính trị. Xã hội Trung Quốc thời Đông Chu đang chuyển sang quan hệ sản
xuất phong kiến chủ nô có những mâu thuẫn như sau:
Mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên với tầng lớp quý tộc nhà Chu. Chính
trong nhà Chu cũng có mâu thuẫn khi có sự phân chia tư tưởng theo hai mặt:
Bảo tồn nhà Chu và không hài lòng với nhà Chu, với trật tự cũ mà không
muốn cải biến trật tự đó bằng con đường cải lương cải cách. Mâu thuẫn giữa
nông dân công xã bị nhà Chu và lớp quý tộc mới lên bóc lột.
Những mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết, xây dựng nhà nước

kiểu mới để giải phóng lực lượng sản xuất, xã hội phát triển.
21
Thứ hai: Đặc thù triết học cổ Trung Quốc không đi đôi với sự quan sát
khoa học tự nhiên như ở phương tây (các nhà triết học là các nhà khoa học),
triết học Trung Quốc gắn liền với cuộc sống con người, về chính trị về đạo
đức, nghi lễ tôn giáo. Vì vậy họ đã xây dựng nên những ông vua nửa huyền
thoại như Nghiêu, Thuấn, Vũ lý giải nguồn gốc “trị dân” mang tính nhân văn
này.
Nhưng khi bánh xe lịch sử xoay vần, đời sống xã hội có sự biến đổi.
Nhà Chu được chia làm hai giai đoạn: Tây Chu và Đông Chu.
Thời kỳ Tây Chu (1111-770 TCN) khá thịnh vượng với chế độ Tông
pháp đã thắt chặt các quan hệ xã hội như là một phương thức tổ chức xã hội,
tạo nên tình cảm thân tộc như giúp đỡ nhau bảo vệ danh dự cho nhau, đề cao
hiếu đễ, thờ vua… Để Tông pháp được tốt, nhà Chu đã thực hiện chính sách
tỉnh điền vừa có tính chất “chăm dân”, làm cho kinh tế nông nghiệp và đất đai
không bị phân tán và khai thác dễ dàng khi dựa sức vào nhau.
Sang thời kỳ Đông Chu (722-221) hay còn gọi là Xuân Thu (722-481
TCN) và Chiến Quốc (453-221 TCN) thì chế độ Tông pháp không còn được
coi trọng, mối quan hệ thiên tử và chư hầu lỏng lẻo, vị trí huyết thống thân tộc
xa rời. Thiên Tử không còn đủ uy quyền như xưa nữa nên các chư hầu thường
xuyên chiến tranh cướp đất cướp dân với nhau, gây ra cảnh loạn lạc. Do vậy,
vừa phải chống sự xâm lăng các bộ lạc khác, vừa bị hạn hán và nạn đói liên
tiếp hoành hành, lại phải tiến hành chiến tranh đàn áp các cuộc nổi dậy của
chư hầu, nên nhà Chu suy yếu hẳn và chỉ tồn tại trên danh nghĩa, thực tế do
quá rộng, không quản lý hết nên có các chư hầu hàng năm cũng không đến
cống nạp bao giờ.
Đứng trước bối cảnh đó, có rất nhiều trường phái triết học ra đời, nhằm
tranh cãi có nên hay không nên khôi phục chế độ Tông pháp nhà Chu, hay cải
biến nhà Chu? Có tới chín trường phái triết học ra đời (Nho, Pháp gia, đạo
22

gia, âm dương gia…) nêu ra các tư tưởng của mình. Đây là thời kỳ “bách gia
chư tử” (trăm nhà trăm thầy), đua nhau lên tiếng.
Khổng Tử cũng vậy, ông tiếp thu tư tưởng của các vị thánh hiền và
thành lập Nho giáo. Mục đích của ông là bảo vệ nhà Chu, bảo vệ chế độ tông
pháp và lễ nghĩa nhà Chu. Ông đứng trên lập trường hoài cổ, cho rằng ngày
nay (thời Khổng Tử) không bằng thời xưa. Nên nguyện vọng của ông là củng
cố xã hội cho bằng thời Tây Chu và bản thân ông cũng cố gắng làm được điều
mà Chu Công từng làm. Nên ông đã đi thuyết khách, mong muốn có người
dùng đến đạo của mình. Ông đã đề ra các thuyết như “chính danh”, “đức trị”
để nhà cầm quyền thực hiện cách cai trị đó và học thuyết về đạo đức cho con
người quân tử. Đó là người quân tử phải có nhân, trí, dũng, có hiếu, lễ… “để
tâm trí vào đạo, nắm vững đức hạnh, noi theo điều nhân, vui thích với lục
nghệ” [21.Luận ngữ VII.6] đây chính là nhân cách của người quân tử.
1.2. Bàn về nhân cách trong tác phẩm Luận ngữ và giới thiệu cuốn
sách Luận ngữ.
Trước tiên chúng ta cần phải tìm hiểu nhân cách là gì? Thuật ngữ nhân
cách được tìm hiểu từ bao giờ? Và nhân cách có quan trọng trong vấn đề lối
sống của người dân hay không.
* Về quan điểm nhân cách
Hiện nay, thuật ngữ nhân cách được sử dụng phổ biến. Khi nói tới nhân
cách, người ta nghĩ tới những khía cạnh khác nhau về tâm lý con người như
tính cách, khí chất, năng lực, phẩm chất…
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều định nghĩa, như
Phạm Minh Hạc: “Nhân cách của con người là hệ thống các thái độ của mỗi
người thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của
người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng xã hội, phù hợp
càng cao nhân cách càng lớn” [8, tr.24].

×