ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC X HI V NHN VN
----------***-----------
NGUYN TH T UYấN
Tác động của toàn cầu hoá đến
truyền thông hiếu học của dân tộc viÖt nam
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI, 2008
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc Việt Nam với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước
đã hun đúc nên một bề dầy truyền thống vô cùng phong phú, đa dạng. Mỗi
nét sinh hoạt từ gia đình, làng xã, đến cộng đồng dân tộc, từ ăn uống, vui
chơi, giải trí đến lao động và học tập đều mang đậm sắc thái riêng của
người Việt và chỉ người Việt mới có. Một trong những truyền thống đã đi
cùng dân tộc suốt chặng đường lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và cả trong
tương lai là truyền thống hiếu học - một động lực đã giúp người Việt chúng
ta vươn lên dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Nhưng truyền thống đó dường như
đang bị cuốn vào vịng xốy như vũ bão của hiện tại và để lại phía sau nó
cả những vệt sáng - tối lẫn lộn.
Trong bối cảnh hiện nay, tồn cầu hố nói chung đã và đang trở
thành một xu thế tất yếu, khách quan và hợp với quy luật của thời đại. Tồn
cầu hóa cũng là vấn đề thu hút được sự quan tâm to lớn và ngày càng tăng
của nhiều nhà nghiên cứu trên mọi lĩnh vực, ở bất kỳ một quốc gia, khu vực
nào. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, nằm trong khu vực Châu Á
Thái Bình Dương - một trong những khu vực đang có nhiều biến động to
lớn. Cũng như tất cả các quốc gia khác trên thế giới, việc chúng ta tham gia
hội nhập vào q trình tồn cầu hố là hồn tồn tất yếu. Xu thế tồn cầu
hố diễn ra trong sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, sự áp dụng rộng rãi các thành tựu công nghệ hiện đại, sự bùng
nổ cách mạng thông tin trên phạm vi tồn cầu. Tồn cầu hố đã có khả
năng bao trùm lên mọi ngõ nhỏ nhất, hẻo lánh nhất, xa xơi nhất của hành
tinh chúng ta. Nó là cầu nối mọi quốc gia, dân tộc, nó phá vỡ rào cản không
gian giữa người với người, giữa các quốc gia với nhau. Thế nhưng, bên
cạnh đó, ta khơng thể hiểu một cách đơn giản, phiến diện như vậy về toàn
1
cầu hố. Tồn cầu hố là một q trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, có tính
chất hai mặt, bao chứa cả các yếu tố tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và
thách thức đối với tất cả các quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát
triển và chậm phát triển.
Dân tộc Việt Nam đang mở cửa đón nhận những cơ hội, những chân
trời mới mà toàn cầu hoá đưa lại cho chúng ta. Chúng ta đã chủ động hội
nhập với khu vực và thế giới, ra nhập các tổ chức khu vực và quốc tế như
ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Kết quả của quá trình mở cửa, hội nhập
đã làm thay đổi diện mạo đất nước, đời sống nhân dân được cải thiện, vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Nhưng chúng ta cũng
đang phải băn khoăn rất nhiều về cái được và cái mất khi tham gia hội nhập
vào q trình đó. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, tồn cầu hố là cơ hội
để bạn bè quốc tế biết đến Việt Nam với một nền văn hoá lâu đời, là cơ hội
cho nền văn hoá và các giá trị truyền thống của dân tộc được học hỏi, phát
huy. Song, chúng ta cũng lo lắng rằng những thách thức của tồn cầu hố
sẽ làm biến đổi hệ giá trị truyền thống của dân tộc ra sao?
Tồn cầu hố có khả năng làm năng động hoá các giá trị truyền
thống của dân tộc, phát huy và kế thừa các giá trị ấy trong bối cảnh mới, bộ
mặt mới của dân tộc. Tồn cầu hố cũng có khả năng đưa các giá trị truyền
thống của cha ông trong quá khứ về phục vụ cho đất nước ở hiện tại và
tương lai. Nhưng tồn cầu hố cũng có khả năng làm rối loạn các giá trị
truyền thống của dân tộc, áp đặt các giá trị ngoại lai và đảo lộn cả hệ thống
giá trị của chúng ta. Truyền thống hiếu học cũng khơng nằm ngồi những
thách thức đó.
Là một người con của dân tộc, cũng có những băn khoăn, lo lắng
cùng dân tộc, ở luận văn này, tác giả trở lại vấn đề đã được các nhà nghiên
cứu đi trước đặt ra. Song, mỗi người đi tìm một lời giải đáp cho riêng mình
2
và có cách lý giải của riêng mình. Từ trong hệ thống các giá trị truyền
thống vô cùng phong phú và quý báu của dân tộc, tác giả muốn bắt nguồn
từ một trong những truyền thống nổi trội - truyền thống hiếu học - truyền
thống mà nhờ đó, dân tộc Việt Nam đã đi những bước dài và có thể tiến xa
hơn nữa trong tương lai. Truyền thống đó giờ đây được chúng ta nâng niu,
phát triển và gìn giữ ra sao trong bối cảnh đất nước tham gia vào q trình
tồn cầu hố? Liệu nó có cịn là một giá trị nổi trội của truyền thống dân
tộc? Nó cịn đọng lại trong tiềm thức mỗi người ở mức độ nào và chúng ta
phải làm gì để “hiếu học” vẫn mãi là một trong những đức tính quý báu của
người Việt ở mọi nơi, mọi thời. Đó chính là lý do khiến tác giả lựa chọn đề
tài: “Tác động của tồn cầu hóa đến truyền thống hiếu học của dân tộc
Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Thuật ngữ “những vấn đề tồn cầu” xuất hiện cách đây khơng lâu,
vào cuối những năm 60 của thế kỷ XX, nhưng chúng đã được phổ biến
rộng rãi và thực tế đó khơng phải là điều ngẫu nhiên. Tồn cầu hố là kết
quả của cả một quá trình lịch sử lâu dài, là xu hướng tất yếu trong lịch sử
nhân loại do vậy nó cũng là đề tài thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của rất
nhiều nhà nghiên cứu, trở thành chủ đề chính trong nhiều cuộc hội nghị có
tính chất quốc tế, khu vực cũng như của mỗi quốc gia riêng biệt.
Chúng ta đón nhận thơng điệp về tồn cầu hóa từ rất nhiều nguồn thơng
tin, sách báo khác nhau. Trong đó, trước tiên phải nói đến thơng điệp mà
Thomas Friedman - tác giả của hai cuốn sách nổi tiếng “Chiếc Lexus và cây Ô
liu” và “Thế giới phẳng” - đã đưa đến cho tất cả chúng ta. Trong hai cuốn
sách, tác giả đã đưa ra một nhận định mới mẻ và táo bạo rằng tồn cầu hóa là
một thế lực khơng gì ngăn cản nổi, được thúc đẩy bởi những bước tiến dài
trong các lĩnh vực cơng nghệ, truyền thơng, tài chính… Đó là q trình thế
3
giới dường như “phẳng ra”. Thomas Friedman đã dùng những hình ảnh rất
độc đáo và thú vị để nói về q trình tồn cầu hóa. Trong các cuốn sách của
mình, ơng đã trình bày những vấn đề tồn cầu hóa hết sức súc tích và sinh
động. Ơng trình bày những vấn đề khơ khan khó hiểu đó một cách sáng sủa,
dí dỏm để giúp chúng ta lĩnh hội một cách dễ dàng.
Các nhà nghiên cứu trong nước cũng đã có nhiều cơng trình bàn đến
tồn cầu hóa và các tác động của nó đối với đất nước. Cơng trình “Tồn cầu
hóa - Phương pháp luận và phương pháp tiếp cận nghiên cứu” của tập thể
tác giả Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Trần Xuân Sầm (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001), đã tập hợp những bài viết về phương pháp luận,
phương pháp tiếp cận vấn đề tồn cầu hóa; đi vào khái niệm, bản chất,
nguồn gốc, tính tất yếu của tồn cầu hóa. Từ đó, các tác giả chỉ ra những
thuộc tính, tính hai mặt của tồn cầu hóa và những vấn đề đặt ra đối với các
nước đang phát triển trong quá trình hội nhập vào quá trình tồn cầu hóa
hiện nay.
Cơng trình “Tồn cầu hóa - cơ hội và thách thức đối với các nước
đang phát triển” của Đường Vinh Sường (Nxb. Thế giới, 2004), là cơng
trình nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phân tích q trình phát triển,
những đặc trưng cơ bản của tồn cầu hóa kinh tế, những cơ hội và thách
thức đặt ra với các nước đang phát triển và liên hệ với Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới.
Hai tác giả Lê Hữu Nghĩa và Lê Ngọc Tòng đã đồng chủ biên cuốn
“Tồn cầu hố - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” (Nxb. Chính trị quốc
gia, 2004). Trong đó, ở phần một các tác giả chỉ ra những nội dung, đặc
điểm, bản chất của tồn cầu hố và sang phần hai, các tác giả chỉ ra sự tác
động của toàn cầu hố kinh tế đến các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội,
cũng như thời cơ và thách thức của tồn cầu hóa đối với Việt Nam.
4
Đi từ góc độ tổng qt có cơng trình: “Những vấn đề toàn cầu trong
thời đại ngày nay” của hai tác giả Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Kim Lai, do Nhà
xuất bản Giáo dục ban hành năm 2005. Trong 590 trang của cuốn sách, tác giả
đã cho ta hiểu lý luận chung về vấn đề toàn cầu và phần từ điển các thuật ngữ
cơ bản về những vấn đề toàn cầu là nền tảng lý luận chung cho nghiên cứu.
Hệ vấn đề văn hoá xã hội là một trong năm hệ vấn đề cơ bản của nhóm các
vấn đề tồn cầu mà các tác giả đã đưa ra trong cuốn sách.
Bên cạnh đó, cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu như “Tồn cầu
hóa: những biến động lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa” của
tác giả Phạm Thái Việt, (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006); “Tồn cầu
hóa và tác động đối với sự hội nhập của Việt Nam” (Nxb. Thế giới, 2003),
cơng trình là sự hợp tác giữa các chuyên gia Đức công tác tại Viện Konrad
Adenauer ở Việt Nam với các giáo sư và giảng viên khoa quốc tế học,
trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội…
Các cơng trình đều đưa ra những quan điểm khác nhau về các vấn đề mà
tồn cầu hóa đặt ra, cũng như ảnh hưởng của nó đến Việt Nam.
Vấn đề truyền thống của dân tộc đã được rất nhiều các học giả, các
nhà văn hố trong và ngồi nước nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau.
Tiêu biểu phải kể đến cơng trình nghiên cứu của giáo sư Trần Văn Giàu:
“Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1980). Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến cơ sở hình
thành, nội dung và những biểu hiện của các giá trị tinh thần truyền thống
của dân tộc. Tác giả Phan Huy Lê với cơng trình “Tìm về cội nguồn” (Nxb.
Thế giới, Hà Nội, 1999), đã đi tìm những giá trị truyền thống trong con người
Việt Nam hiện đại, đi tìm mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại đặc biệt
trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cũng với tinh thần
đó, tập thể tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý với
5
cơng trình “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001) đã phản ánh rõ
những nét cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống được thể hiện trong mối
quan hệ giữa văn hóa truyền thống với sự phát triển. Trong đó, các tác giả
nhấn mạnh vị thế chủ thể của văn hóa nội sinh trong hội nhập, khai thác các
giá trị, những yếu tố tích cực của Nho giáo Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Truyền thống hiếu học của dân tộc đã được nghiên cứu ở rất nhiều
cơng trình cũng như các bài báo, tạp chí, trong đó phải kể đến tác giả
Nguyễn Thế Long trong bộ cơng trình nghiên cứu về “Truyền thống gia
đình và bản sắc dân tộc Việt Nam” đã dành tập hai để nói về “Truyền
thống hiếu học và tơn sư trọng đạo” (Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội,
2003). Ở đây, tác giả đã tập hợp rất nhiều bài viết về truyền thống hiếu học
và tôn sư trọng đạo, truyền thống ấy đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Cơng trình “Truyền thống tôn sư trọng đạo” (Nxb. Trẻ, Tp.HCM,
1998) của tác giả Hứa Văn Ân và tập thể các tác giả đã “trao đổi về truyền
thống tôn sư trọng đạo xưa và nay”, men theo những chặng đường khác
nhau của lịch sử giáo dục Việt Nam để hiểu được những tư tưởng, tình
cảm, những thói quen trong tư duy, lối sống và ứng xử của cộng đồng
người Việt với việc học hành, thi cử trong tiến trình lịch sử của nền giáo
dục nước nhà.
Đối với nước ta hiện nay, cùng với việc đổi mới đất nước, mở cửa giao
lưu hợp tác, chúng ta đón nhận xu thế tồn cầu hố khơng phải đã có một sự
thống nhất chung trên quan điểm. Bởi tồn cầu hóa mang lại cho chúng ta cả
thời cơ và những thách thức. Đặc biệt, nó đưa đến sự biến động các giá trị
truyền thống của dân tộc. Do vậy, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về tác
6
động của tồn cầu hóa đối với các giá trị truyền thống của dân tộc. Trước hết,
phải kể đến công trình “Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội” (Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002), ở đây, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã dành
một phần riêng nói về triết học và cơng cuộc đổi mới đất nước. Trong đó, tác
giả đặc biệt chú ý vấn đề khai thác các giá trị truyền thống của dân tộc và mục
tiêu phát triển đất nước trong bối cảnh tồn cầu hố. Đồng thời, cũng chỉ ra
những cơ hội và thách thức mà tồn cầu hóa đặt ra đối với chúng ta.
Cơng trình “Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu
hố” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) do Nguyễn Trọng Chuẩn và
Nguyễn Văn Huyên đồng chủ biên, đã tổng hợp các bài viết của nhiều tác giả
trình bày trong Hội thảo Quốc tế “Giá trị truyền thống trước những thách
thức của toàn cầu hóa” được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 5/2001. Các bài
tham luận đều tập trung làm rõ các vấn đề giá trị và giá trị truyền thống, về nội
dung, vị thế của giá trị dân tộc trước thách thức của tồn cầu hố, đồng thời
chỉ ra việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong xu thế tồn cầu hố.
Các cơng trình nghiên cứu trên hoặc tập trung vào vấn đề truyền thống
dân tộc hoặc tập trung vào vấn đề tồn cầu hóa và thách thức của tồn cầu hóa
đến các giá trị truyền thống của dân tộc nói chung, chưa có cơng trình nào đi sâu
tìm hiểu về tác động của tồn cầu hóa đến truyền thống hiếu học của dân tộc Việt
Nam. Bởi lẽ đó, tác giả mong được góp phần bổ sung làm rõ hơn về vấn đề này.
Ngồi ra, cịn rất nhiều cơng trình, bài viết khác có liên quan đến đề
tài luận văn. Đó cũng là những tài liệu tham khảo cho tác giả trong q
trình nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ truyền thống hiếu học của người Việt
Nam và sự biến đổi của giá trị đó trong xu thế tồn cầu hố hiện nay. Luận
văn chỉ rõ sự tác động của toàn cầu hố đối với truyền thống hiếu học, từ
đó đề ra các giải pháp nhằm gìn giữ, kế thừa và phát huy truyền thống hiếu
học của dân tộc.
7
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Phân tích đặc điểm của tồn cầu hóa và tác động của tồn cầu hóa
đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích diện mạo của truyền thống hiếu học Việt Nam và tác
động của tồn cầu hóa đến truyền thống hiếu học của dân tộc. Trên cơ sở
đó, đề ra phương hướng và các giải pháp phát huy truyền thống hiếu học
của dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở làm rõ sự tác động của tồn cầu hóa đến truyền thống
hiếu học của dân tộc, luận văn nghiên cứu việc phát huy truyền thống hiếu
học của dân tộc trong tồn cầu hóa.
Luận văn nghiên cứu vấn đề tồn cầu hóa một cách chỉnh thể và khái
quát, nhằm làm rõ hơn thực chất của quá trình tồn cầu hóa. Từ đó, làm rõ
sự tác động của tồn cầu hóa đến truyền thống hiếu học của dân tộc Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cở sở lý luận của luận văn là những quan điểm lý luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử; đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước; tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng
thời, luận văn cũng kế thừa kết quả của các cơng trình nghiên cứu trước đó.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, logic - lịch sử…
6. Đóng góp mới của luận văn
Ở luận văn này, tác giả tiếp tục nghiên cứu các vấn đề đặt ra đối với
các giá trị truyền thống trong xu thế tồn cầu hố, đặc biệt là đi sâu nghiên
cứu về truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam.
Luận văn chỉ rõ những biểu hiện của truyền thống hiếu học Việt
Nam và tác động của tồn cầu hóa đến truyền thống hiếu học. Đồng thời,
8
luận văn nêu ra phương hướng và một số giải pháp kế thừa và phát huy
truyền thống đó để đạt được hiệu quả cao nhất.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Sau khi hồn thành, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những
người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về vấn đề truyền thống
dân tộc nói chung và truyền thống hiếu học của người Việt Nam nói riêng
trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương và 4 tiết.
9
Chương 1
TỒN CẦU HĨA VÀ VAI TRỊ CỦA TRUYỀN THỐNG
HIẾU HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Về vấn đề toàn cầu hóa
1.1.1. Khái niệm và những nhân tố thúc đẩy q trình tồn cầu hóa
* Khái niệm tồn cầu hóa
Từ nửa sau thế kỷ XX cho tới nay, thế giới bước vào thời kỳ phát
triển đột biến với rất nhiều sự kiện nổi bật. Một trong những nguyên nhân
đưa đến sự thay đổi ấy là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
(KH&CN) và sự ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng đó vào
cuộc sống. “Nếu cuộc cách mạng KH&CN là một trong những khởi phát
dẫn tới chủ nghĩa tư bản hiện đại thì cũng chính cuộc cách mạng đó đã làm
xuất hiện xu thế tồn cầu hóa chi phối sự phát triển, biến đổi của thế giới
đương đại ngày nay” [10, 79].
Vài thập niên gần đây, thuật ngữ tồn cầu hóa được nhắc đến rất phổ
biến. Tồn cầu hóa trước hết là tồn cầu hóa kinh tế, nhưng ảnh hưởng và
tác động của nó thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ở
từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Thật ra, quá trình này đã được dự
báo từ rất sớm, khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời. Lúc đó, người ta gọi là q
trình quốc tế hóa. Cách đây 150 năm, C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” đã viết: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường
thế giới, thay cho tình trạng cơ lập trước kia của các địa phương, dân tộc
vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc
phổ biến của các dân tộc” [58, 543 - 602]. Q trình đó khơng ngừng phát
triển và hiện nay, nó được gọi bằng cái tên mới: Tồn cầu hóa.
Khái niệm tồn cầu hóa (globalization) xuất hiện lần đầu vào năm
1961, trong từ điển của Anh và được phổ biến từ khoảng cuối thập niên
10
1980 trở lại đây. Người ta lĩnh hội, lý giải và đánh giá nó theo các cách
khác nhau, thậm chí là loại trừ nhau. Vậy, tồn cầu hóa là gì và đâu là nội
dung cơ bản mà khái niệm này bao chứa? Đã có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về tồn cầu hóa để diễn đạt nhận thức mới của lồi người về một hiện
tượng, một q trình quan trọng trong đời sống quốc tế hiện đại. Dưới đây,
chúng tôi điểm lại một số quan điểm tiêu biểu về toàn cầu hóa:
1. “Tồn cầu hóa là một q trình phức tạp, thể hiện ra dưới dạng
những dòng tư tưởng, tư bản, kỹ thuật và hàng hóa ở quy mơ lớn,
đang tăng tốc và khuếch trương trên toàn thế giới và gây ra những
biến đổi căn bản trong xã hội của chúng ta”
2. “Tồn cầu hóa được hiểu như cách thức diễn đạt một cách ngắn
gọn quá trình mở rộng phổ của các quan hệ sản xuất (QHSX),
giao tiếp và công nghệ ra khắp thế giới. Quá trình này đã làm cho
các hoạt động kinh tế và văn hóa đan bện vào nhau”
3. “Tồn cầu hóa là tiến trình hội nhập các nền kinh tế trên thế giới
thành một nền kinh tế duy nhất. Q trình này được tính kể từ đầu
thế kỷ XX khi mà các đế chế ở châu Âu trở nên lệ thuộc vào các
thuộc địa của chúng và ngược lại”
4. “Tồn cầu hóa là phương Tây hóa (đặc biệt là Mỹ hóa) hay hiện
đại hóa. Nó là cơ chế hủy diệt những nền văn hóa và những thể
chế tự trị hiện hành, để thay vào đó bằng một cấu trúc xã hội nhất
dạng (chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa công nghiệp)”… [92, 22 - 24].
Quan niệm về tồn cầu hóa cịn rất phân tán và khác biệt. Bởi, tồn
cầu hóa là một hiện thực mới mẻ và là cái đang triển khai. Nhận thức về
tồn cầu hóa cịn phụ thuộc quan hệ lợi ích của chủ thể. Nội dung của thuật
ngữ tồn cầu hóa thường bị biến đổi ở từng lĩnh vực khác nhau. Nhưng
cuối cùng chúng ta cũng phải đi tìm những dịng chảy chủ đạo, những quan
điểm chung nhất về tồn cầu hóa.
11
Theo quan niệm rộng, đa số các học giả đều cho rằng tồn cầu hóa là
xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường hiện đại, làm tăng
sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên nhiều mặt của đời sống xã
hội. Ban thư ký Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho rằng toàn cầu
hóa là một quan niệm có nhiều mặt vì nó bao quát cả lĩnh vực kinh tế, xã
hội, chính trị và các hậu quả của sự phân phối [Xem 02].
Theo tác giả Lê Hữu Nghĩa, “tồn cầu hóa xét về bản chất là quá
trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn
nhau, phụ thuộc nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên
toàn thế giới” [64, 7].
Báo cáo phát triển con người năm 1999 của UNDP cho rằng: “Toàn
cầu hóa khơng mới, nhưng thời đại hiện nay của tồn cầu hóa có những
tính chất riêng biệt. Sự hẹp lại của không gian, sự biến mất của các đường
biên giới đang gắn kết cuộc sống của mọi người lại với nhau một cách sâu
sắc, chặt chẽ và trực tiếp hơn bao giờ hết” [64, 123].
Theo quan niệm hẹp, cốt lõi của tồn cầu hóa hiện nay là tồn cầu
hóa kinh tế. Đó thực chất là q trình mở rộng thị trường và lơi kéo vào đó
tất cả các tập đồn sản xuất, các chính phủ, các nước giàu và cả những
nước nghèo. Quá trình ấy diễn ra theo xu thế phương thức sản xuất và sinh
hoạt của con người thay đổi theo sự xuất hiện tri thức, trí tuệ.
Theo quan niệm của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD):
“tồn cầu hóa là sự vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ
tối ưu các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu, rút ngắn khoảng cách kinh tế
giữa các nước và khu vực” [64, 123].
Trong cuốn sách “Chiếc Lexus và cây Ôliu”, tác giả Thomas
Friedman cho rằng tồn cầu hóa “là một sự hội nhập không thể đảo ngược
giữa những thị trường, quốc gia và cơng nghệ tới mức chưa từng có - theo
phương cách tạo điều kiện cho các cá nhân, tập đoàn công ty và nhà nước
12
vươn quan hệ đến nhiều nơi trên thế giới xa hơn, sâu hơn với chi phí thấp
hơn bao giờ hết…” [33, 46].
Ngồi ra, chúng ta cịn gặp rất nhiều quan điểm về tồn cầu hóa xuất
phát từ rất nhiều góc độ khác nhau:
Theo tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, người ta đã chia thành các nhóm
vấn đề lớn: Nhóm vấn đề gắn với quan hệ về lợi ích chính trị, kinh tế, quan
hệ giữa các nền văn minh; Nhóm vấn đề nảy sinh từ sự tác động qua lại
giữa con người và giới tự nhiên; Nhóm vấn đề gắn với hệ thống cá nhân
con người và xã hội, trong đó có vấn đề giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Ba
nhóm vấn đề ấy luôn được đặt trong mối quan hệ tác động chặt chẽ, thường
xuyên với nhau [19, 16 - 19].
Dưới góc độ văn hóa học, các học giả đều nhấn mạnh vai trị của văn
hóa so với kinh tế hay chính trị, quan tâm đến “bản sắc cá thể và bản sắc
dân tộc sẽ ra sao khi phải đối mặt với sự trỗi dậy của thứ văn hóa tồn cầu”
[92, 45].
Căn cứ vào tiến trình lịch sử xã hội lồi người, A. Tofler đã mơ tả
lịch sử nhân loại qua hình ảnh các “làn sóng”. Theo A. Tofler, “cho tới
nay, lồi người đã trải qua hai đợt sóng thay đổi lớn. Đợt thứ nhất là cuộc
cách mạng nông nghiệp từ 10.000 năm về trước, đợt sóng thứ hai là cuộc
cách mạng công nghiệp khoảng 300 năm từ nửa sau thế kỷ XVII đến nửa
đầu thế kỷ XX, cùng với nó là sự ra đời của nền văn minh cơng nghiệp.
Song, trong những thập kỷ vừa qua, một bước ngoặt mới của lịch sử đã xảy
ra, sự ra đời của nền văn minh hậu cơng nghiệp, đó chính là đợt sóng thứ
ba” [84, 7]. “Các làn sóng” thay đổi, va chạm vào nhau trong mọi lĩnh vực,
làm chuyển dịch nền văn minh nhân loại. Cuối cùng, với sự xuất hiện của
các loại hình kinh tế mới, những dỡ bỏ rào cản về chính trị, cùng với tiến
bộ vượt bậc của cuộc cách mạng số đang làm cho thế giới phẳng ra và
khơng cịn nhiều trở ngại về địa lý như Thomas Friedman đã quan niệm
13
trong “Thế giới phẳng”. Và như vậy, theo Friedman, toàn cầu hóa là hiện
tượng khách quan và đang ở giai đoạn tăng tốc. Khác với A.Toffler,
T.Friedman dùng thuật ngữ mang tính hiện đại hơn là “Tồn cầu hóa 1.0,
2.0, 3.0”. Các quá trình này là quá trình hội tụ dần từng nhân tố làm phẳng
thế giới (theo ơng có 10 nhân tố và 3 sự hội tụ). Tồn cầu hóa 1.0 làm thế
giới co lại từ kích thước lớn về kích thước trung bình (từ năm 1492 - 1800).
Khi đó, các quốc gia và chính phủ kết nối lại với nhau, thúc đẩy sự hội
nhập tồn cầu. Tồn cầu hóa 2.0 (từ năm 1800 - 2000), làm thế giới co lại
từ cỡ trung bình xuống cỡ nhỏ, mở đầu cho nền kinh tế tồn cầu. Tồn cầu
hóa 3.0 từ khoảng năm 2000, làm thế giới co xuống cỡ siêu nhỏ, san bằng
sân chơi toàn cầu, làm phẳng thế giới và trao quyền cho các cá nhân từ mọi
ngõ ngách trên thế giới.
Thế nhưng có một sự thật là thế giới phẳng ra đối với tất cả mọi
người, với tất cả mọi lĩnh vực trên toàn thế giới hay chỉ phẳng ra đối với
một số người, một số lĩnh vực, một số quốc gia tồn tại lênh đênh trên mặt
nước mà “các làn sóng” đã nhấn chìm những phần gồ ghề “khơng phẳng”?
Rõ ràng, ở đây, tồn cầu hóa là một xu hướng mở rộng quan hệ giữa người
với người trên phạm vi toàn cầu.
Trên cơ sở những quan điểm khác nhau đó, để hiểu tồn cầu hóa một
cách khái qt, chúng tơi cho rằng: tồn cầu hóa là một khái niệm chỉ quá
trình vận động của lịch sử xã hội loài người từ những bộ phận, quốc gia
riêng lẻ và tương đối tách biệt đến những mối quan hệ chặt chẽ, tác động
qua lại và ràng buộc lẫn nhau trong mọi mặt của đời sống xã hội trên
phạm vi toàn cầu mà nền tảng là từ các quan hệ kinh tế.
Tuy nhiên ở đây, chúng ta cần phân biệt toàn cầu hóa với quốc tế hóa
và khu vực hóa. Quốc tế hóa với tư cách là con đẻ và sản phẩm của thời đại
công nghiệp là sự xuất hiện xu hướng tương tác quốc tế phát triển và thâm
nhập lẫn nhau về lợi ích, quan hệ kinh tế và thương mại. Xu hướng này đã
14
có tính chất tích cực và có định hướng rõ ràng ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp. Như vậy, quốc tế
hóa dường như là vạch xuất phát của tồn cầu hóa và đã trở thành một q
trình bao trùm lên toàn bộ thế giới [40, 424 - 427]. Khu vực hóa cũng xuất
hiện từ những năm 1950, đã và đang phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay
với sự ra đời của trên 40 tổ chức kinh tế, thương mại khu vực. Trong đó,
đáng chú ý là sự ra đời của Liên minh châu Âu (EU) năm 1993, Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967, Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á Thái bình dương (APEC) năm 1989, Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm
1996. Cả tồn cầu hóa và khu vực hóa đều là các khái niệm chỉ những hiện
tượng, q trình, xu hướng có nội dung về cơ bản giống nhau của quan hệ
kinh tế quốc tế vượt ra khỏi biên giới lãnh thổ quốc gia, chỉ khác nhau ở
quy mô, phạm vi địa lý của các chủ thể tham gia vào quá trình. Vậy, điểm
khởi đầu lịch sử của tồn cầu hóa và dấu ấn của tồn cầu hóa ở mỗi giai
đoạn phát triển là gì?
Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định
sản xuất vật chất là cơ sở khách quan, xuất phát điểm cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Con người vừa là sản phẩm lại vừa là chủ thể
của quá trình lịch sử xã hội. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất
(LLSX), trong đó quan trọng nhất là yếu tố con người là nguyên nhân làm
thay đổi quan hệ sản xuất (QHSX), từ đó dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc
thượng tầng và thay thế các hình thái kinh tế - xã hội (HT KH-XH). C. Mác
đã chỉ rõ: “sự vận động xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên chịu sự chi
phối của những quy luật” [50, 20]. Trong quá trình bảo vệ quan điểm của
C.Mác và Ph.Ănghen, V.I.Lênin lại khẳng định: “xã hội là một cơ thể sống
đang phát triển không ngừng, một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần
phải phân tích một cách khách quan những QHSX cấu thành một hình thái
15
xã hội nhất định, cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát
triển của hình thái xã hội đó” [50, 198].
Vận dụng học thuyết về HT KT-XH để giải thích hiện tượng tồn
cầu hóa, chúng ta thấy tồn cầu hóa khơng phải là một sự kiện nhất thời mà
là một xu thế tất yếu, khách quan, phổ biến. Sự xuất hiện của xu thế tồn
cầu hóa nằm ngay trong sự vận động, phát triển của LLSX thế giới dưới tác
động của cuộc cách mạng KH&CN. Nó là một q trình hợp lơgic của sự
phát triển lịch sử. Cần phải thừa nhận một thực tế là tri thức, khoa học và
công nghệ với tư cách là LLSX trực tiếp, như dự báo của C.Mác, đã trở
thành một nhân tố đóng vai trị quan trọng hàng đầu khơng chỉ đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội mà đối với cả những thay đổi về chính trị và phát
triển văn hóa trong thời đại hiện nay. Tuy nhiên, bản thân sự phát triển của
cuộc cách mạng KH&CN hiện đại và việc áp dụng những thành tựu của nó
ở đầu thế kỷ XXI lại đang đe dọa phá hủy hàng loạt ngành sản xuất hiện
vẫn rất cần thiết cho sự sống còn của nhiều người. KH&CN hiện đại cùng
với sự phát triển kinh tế trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay đang đặt con
người trước những vấn đề toàn cầu cấp bách. Trong bối cảnh đó, vai trị
định hướng của triết học với việc nhận thức và giải quyết các vấn đề mà
tồn cầu hóa đặt ra trên mọi phương diện ngày càng trở nên quan trọng và
cấp thiết.
Về phương diện kinh tế, tồn cầu hóa làm gia tăng các mối liên kết
và phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia, tạo nên một sự thay đổi căn bản
các hoạt động kinh tế của con người.
Về phương diện chính trị, tồn cầu hóa dẫn đến những sự biến đổi
nhất định và làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn về mặt chính trị
giữa các nước trên thế giới. Tính chủ động của q trình dẫn đến tồn cầu
hóa rõ ràng đang thuộc về Mỹ. Vì thế, khơng phải ngẫu nhiên mà có người
gọi tồn cầu hóa hiện nay là do Mỹ khởi đầu.
16
Về phương diện xã hội, tồn cầu hóa dẫn đến hàng loạt các vấn đề
như: bệnh tật, nghèo đói, an ninh, thất nghiệp, bất bình đẳng, tệ nạn xã hội,
tội phạm quốc tế…
Về phương diện văn hóa, tồn cầu hóa tạo nên q trình vận động
của các nền văn hóa dân tộc từ những bộ phận tương đối tách biệt, khép kín
đến hình thành những mối liên kết, xâm nhập, chi phối lẫn nhau. Vậy là,
tồn cầu hóa kinh tế đã kéo theo nó hàng loạt thay đổi về mọi mặt trong
quan hệ giữa tất cả các quốc gia trên thế giới.
Lịch sử tồn cầu hóa trải qua các giai đoạn phát triển đặc thù. Giai
đoạn thứ nhất, xuất hiện ngay từ khi hình thành thể chế chính trị gắn liền
với việc phân chia các vùng lãnh thổ của thế giới thành các quốc gia độc
lập thông qua sức mạnh quân sự. Giai đoạn thứ hai, bắt đầu từ thế kỷ XV
khi Crixtop Clombo tìm ra châu Mỹ và các nhà hàng hải tìm ra con đường
thơng thương trên biển. Xu thế tồn cầu hóa giai đoạn này gắn với các cuộc
chinh phục, xâm chiếm, khai thác thuộc địa và bành chướng thị trường của
các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) [10, 124 - 127].
Từ cuối thế kỷ XIX, hai cuộc chiến tranh thế giới đã nổ ra để các nước
đế quốc phân chia thị trường và vùng ảnh hưởng. Trên góc độ tồn cầu hóa,
chiến tranh đã xóa bỏ mọi thành quả do tiến bộ của nhân loại mang lại; mặt
khác, nó thúc đẩy sự sáng tạo kỹ thuật mới, sự xâm nhập lẫn nhau về ngôn
ngữ, tập quán, văn hóa và kỹ thuật… Trong thời kỳ chiến tranh, làn sóng tồn
cầu hóa có phần lắng xuống nhưng từ cuối những năm 1980 của thế kỷ XX
trở lại đây, tồn cầu hóa đã bùng lên mạnh mẽ dưới tác động của cuộc cách
mạng KH&CN hiện đại. Các khối kinh tế có tính tồn cầu được thiết lập như:
Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới WB, Tổ chức thương mại thế giới WTO…
Tồn cầu hóa hiện nay về bản chất là q trình mở rộng các QHSX TBCN vì
mục đích riêng của mình ra khắp thế giới. Phải chăng, các nước tư bản phát
triển là người có lợi nhiều nhất từ tồn cầu hóa?
17
Như vậy, đặc trưng cơ bản thứ nhất của toàn cầu hóa là sự chi phối
của các nước tư bản phát triển, đứng đầu là Mỹ. Q trình tồn cầu hóa là
q trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ở nấc thang cao,
đồng thời cũng là quá trình mở rộng QHSX TBCN trên phạm vi thế giới.
Phân tích bản chất tồn cầu hóa, lại một lần nữa chúng ta phải quán triệt
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa LLSX và
QHSX dưới tác động của cuộc cách mạng KH&CN. Trong thời đại của
chúng ta, cuộc cách mạng KH&CN làm đậm nét hơn những chênh lệch và
bất bình đẳng giữa các quốc gia, nhất là các nước tư bản phát triển với các
quốc gia đang phát triển. Tồn cầu hóa hiện nay dường như là “tồn cầu
hóa TBCN” hay “Mỹ hóa” và thực chất nó cũng là tồn cầu hóa của mâu
thuẫn vốn có giữa LLSX và QHSX về mặt giai cấp, xã hội [10, 161-162].
Đặc trưng thứ hai, nhịp độ, phạm vi và các lĩnh vực của tồn cầu hóa
hiện nay đang phát triển rất mạnh mẽ cả chiều rộng và chiều sâu. Từ kinh
tế, tồn cầu hóa đã lan sang cả lĩnh vực chính trị, xã hội và văn hóa, làm
thay đổi mọi mặt của tất cả các quốc gia trên thế giới.
Từ góc độ “đối thoại giữa các nền văn hóa” với một góc nhìn từ Việt
Nam, tác giả Phạm Xuân Nam đã nêu ra những đặc trưng của tồn cầu hóa hiện
nay: Thứ nhất, các tổ chức liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế, văn hóa, cũng
như về các lĩnh vực khác ngày càng có vai trị quan trọng. Thứ hai, đó là sự trỗi
dậy của các nước đang phát triển trong một trật tự thế giới mới đa cực. Đặc biệt
là sự vươn lên mạnh mẽ trong thời gian gần đây của một số nước như Ấn Độ,
Trung Quốc, của những con rồng châu Á… Thứ ba, cuộc cách mạng KH&CN
hiện đại là động lực thúc đẩy kinh tế tri thức ra đời, cái văn hóa và cái kinh tế
đan quyện vào nhau, trí tuệ trở thành yếu tố ngày càng quan trọng để tạo nên
diện mạo của một sản phẩm, một con người, một quốc gia.
Như vậy, nghiên cứu lịch sử toàn cầu hóa từ khi ra đời cho đến nay,
chúng ta phải thừa nhận một điều đó là xu thế tất yếu, khách quan, theo
18
đúng quy luật phát triển của xã hội loài người, một quá trình phát triển biện
chứng với rất nhiều giai đoạn phát triển khác nhau.
* Những nhân tố thúc đẩy q trình tồn cầu hóa
Dưới góc độ triết học chúng ta có thể thấy tồn cầu hóa là do sự tác
động của một số nhân tố sau đây:
Thứ nhất, nhân tố kinh tế: với sự phát triển của LLSX dưới tác động
của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại. “Nhờ cải tiến mau chóng cơng cụ
sản xuất và làm cho phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai
cấp tư sản đã lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn
minh” và “thay cho tình trạng cơ lập trước kia của các địa phương và dân
tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ
thuộc phổ biến giữa các dân tộc” [58, 598 - 599]. Từ đó, “nhịp độ phát triển
sản xuất đi liền với sự tăng lên mạnh mẽ và đa dạng của các nhu cầu, thỏa
mãn nhu cầu dịch vụ của xã hội. Quy mô rộng lớn của nó khơng chỉ ở trong
nước mà cịn ở nước ngoài, trong khu vực và trên thế giới. Do đó, lực
lượng sản xuất khơng giới hạn trong phạm vi quốc gia mà có tính chất quốc
tế và thế giới” [10, 92 - 93].
Thứ hai, nhân tố KH&CN hiện đại: sự phát triển của nhân tố
KH&CN hiện đại đã làm cải biến toàn bộ xã hội loài người. Thực chất, tiến
trình phát triển của KH&CN đã làm nên tiến bộ xã hội của xã hội công
nghiệp từ đầu thế kỷ XX, của xã hội tiêu thụ đại chúng những năm 1960 và
của xã hội thông tin từ cuối thế kỷ XX. Tồn cầu hóa và kinh tế tri thức
(KTTT) đã bắt đầu với các nước phát triển. Có rất nhiều cách định nghĩa
khác nhau về KTTT. Trong đó phổ biến là quan niệm do Tổ chức hợp tác
và phát triển kinh tế - OECD đưa ra năm 1996: “nền KTTT là nền kinh tế
dựa trên tri thức, trực tiếp căn cứ vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng
tri thức và thơng tin” [26, 5]. Đó là nền kinh tế lấy tri thức làm cơ sở
(Knowledge Based Economy), tri thức là sức mạnh, khoa học và kỹ thuật
19
đã trở thành LLSX trực tiếp. Chúng ta hiểu điều đó theo nghĩa, trí tuệ con
người đã phát triển vượt bậc, có thể sáng tạo và sử dụng những cơng cụ lao
động trí tuệ khơng chỉ để thay thế lao động cơ bắp mà cịn để thay thế ngay
chính lao động trí tuệ của mình. Như vậy, KTTT đã đánh dấu một bước
phát triển về chất trong quá trình con người vận dụng tri thức của mình vào
hoạt động lao động sản xuất. Đặc biệt, trong nền kinh tế tri thức với sự
bùng nổ và phát triển của các xa lộ thơng tin, sự xuất hiện của mạng tồn
cầu - “web” - cho phép người ta giao lưu, hợp tác và tìm hiểu về nhau một
cách dễ dàng hơn, cạnh tranh cũng trở nên khốc liệt hơn. Thế giới rộng lớn
dường như khơng cịn khoảng cách về khơng gian, thậm chí cả ngơn ngữ,
lối sống và văn hóa. Thế giới bị co lại về cỡ siêu nhỏ và trở nên “phẳng” ra
với một bộ phận dân cư trên toàn cầu.
Thứ ba, nhân tố chính trị - xã hội: Tồn cầu hóa mặc dù mang tính
khách quan song khơng thể khơng chịu sự chi phối của những quốc gia tư
bản chủ nghĩa lớn mạnh. Thời kỳ lịch sử nào cũng có một giai cấp đứng ở
vị trí trung tâm, có ảnh hưởng quyết định đến mơ hình thể chế chính trị, xã
hội. Trong thời đại hiện nay, vai trò ảnh hưởng to lớn ấy thuộc về giai cấp
tư sản, bởi họ đang nắm giữ phần lớn của cải công nghệ và quá trình sản
xuất của xã hội. Các nước muốn phát triển kinh tế phải tham gia vào sân
chơi chung và phải tuân theo những luật chơi chung do các nước lớn đặt ra.
Trong bối cảnh đó, các nước khơng thể khép kín, cơ lập hay bảo thủ trong
đường lối phát triển mà tất cả phải đi theo hướng đa phương hóa, đa dạng
hóa trong đường lối đối ngoại, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hướng tới
một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển. Tồn cầu hóa có thể được coi
là một bước tiến lớn lao của loài người và chúng ta phải tìm cách để đón
nhận, thích nghi với tồn cầu hóa vì mục tiêu phát triển đất nước, vì lợi ích
lâu dài của dân tộc.
20
1.1.2. Tính hai mặt của tồn cầu hóa
Là sản phẩm của sự phát triển trình độ của LLSX, quá trình tồn cầu
hóa đương nhiên sẽ có cả những tác động tích cực và tiêu cực đến xã hội
lồi người. Tồn cầu hóa sẽ liên kết thế giới lại dưới những biến đổi trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quá trình này vừa tạo những cơ hội
nhưng cũng tạo ra khơng ít thách thức về nhiều mặt cho các nước tham gia.
Đó chính là tính hai mặt của một vấn đề, là sự thống nhất của hai mặt đối
lập vừa bài trừ nhau, vừa bổ sung cho nhau trong một sự vật hiện tượng
theo quan điểm duy vật biện chứng của triết học Mác -Lênin. Tính hai mặt
của tồn cầu hóa được bộc lộ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vận
dụng phép biện chứng duy vật với quan điểm phát triển, quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, chúng ta sẽ nhận thức hai mặt của q
trình tồn cầu hóa hiện nay.
* Mặt tích cực của tồn cầu hóa
Tồn cầu hóa hiện nay chủ yếu là tồn cầu hóa kinh tế, do vậy, trước
hết chúng ta sẽ đi vào phân tích mặt tích cực của tồn cầu hóa trong lĩnh
vực kinh tế.
Nhìn nhận dưới góc độ LLSX, tồn cầu hóa thể hiện ra là sự chiến
thắng của nền văn minh công nghiệp, hậu công nghiệp đối với chế độ dã
man đương thời, cũng là quá trình lấn át của nền sản xuất lớn đối với nền
sản xuất nhỏ (và sẽ đè bẹp nó như là đồn tàu đè cái xe cút kít) [10, 162].
Nếu sự phát triển của KH&CN đưa đến sự phát triển của LLSX và
thúc đẩy q trình tồn cầu hóa, thì đến lượt nó, tồn cầu hóa cũng thúc đẩy
sự phát triển của LLSX và KH&CN. Đó là sự tác động qua lại hai chiều,
nhất là trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường rộng
lớn hiện nay. Tuy nhiên, tồn cầu hóa mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho
tất cả các nước, đặc biệt là các quốc gia nghèo và chậm phát triển nếu họ
không muốn tụt hậu hơn nữa. Điều này góp phần hạn chế những thảm họa
21
có thể xảy ra do khai thác thiên nhiên bừa bãi quá mức để tăng trưởng kinh
tế theo chiều rộng, vốn đã từng tồn tại một cách phổ biến trong nhiều năm.
Đồng thời, yếu tố cạnh tranh cũng sẽ thúc đẩy khả năng sáng tạo, cải tiến
công cụ lao động, kỹ năng, tay nghề của người sản xuất và trình độ của nhà
quản lý. KH&CN sẽ có điều kiện tốt nhất để được nghiên cứu, chuyển giao,
phổ biến và vận dụng trong quá trình sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển,
tăng năng suất lao động và tạo ra một khối lượng sản phẩm khổng lồ, đáp
ứng nhu cầu mọi mặt của con người.
Thứ hai, khi tham gia vào toàn cầu hóa, tất cả các nước phải điều chỉnh
cơ cấu sản xuất cho hợp lý, sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên, đặc biệt là
nguồn lực con người. Đó là yếu tố đưa đến sự phân công lao động một cách
hợp lý trên phạm vi toàn thế giới. Tất cả các quốc gia đều tham gia vào quá
trình sản xuất toàn cầu. Mỗi nước sẽ phát huy lợi thế riêng, hình thành nên
q trình chun mơn hóa sản xuất trên thế giới. Đồng thời, qua đó sẽ thúc
đẩy xu hướng xích lại gần nhau, hợp tác cùng có lợi giữa các quốc gia. Tuy
nhiên, mỗi quốc gia sẽ đón nhận những cơ hội của tồn cầu hóa theo cách
riêng và phù hợp với sự phát triển của mình.
Các nước phát triển được hưởng lợi nhiều nhất từ quá trình tồn cầu
hóa. Đó là cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa; cơ hội đổi mới,
nâng cấp cơng nghệ thông qua việc bán công nghệ lỗi thời cho các nước
khác; cơ hội thu được những nguồn lợi khổng lồ thông qua việc đầu tư trực
tiếp cả vốn, cả khoa học, cơng nghệ từ đó có thể áp đặt và nâng tầm ảnh
hưởng đối với các nước yếu hơn.
Các nước đang phát triển cũng có cơ hội thuận lợi cho sự phát triển
nhờ việc tham gia vào quá trình tồn cầu hóa. Đó là khả năng và cơ hội
tranh thủ được vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển
để khai thác tiềm năng của mình. Các nước này, từ cơ hội học tập và ứng
dụng thành tựu KH&CN sẽ có điều kiện phát triển LLSX nhanh, hiện đại
22
và nâng cao năng lực của nền kinh tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng thích nghi với yêu cầu của thị trường hiện đại và phát huy, tranh thủ
được các lợi thế cho mình. Chính vì vậy mà trong thời gian gần đây, chúng
ta được chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ và nhanh chóng của các nền kinh
tế, đặc biệt ở khu vực châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc… và các
nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Đó là những nền kinh tế có quan
điểm, đường lối, chiến lược đúng đắn trong đối sách với vấn đề tồn cầu
hóa và đã biết tận dụng những thời cơ của tồn cầu hóa một cách tốt nhất
để không bị tụt hậu ngày càng xa hơn.
Cơ hội mà tồn cầu hóa mang lại khơng chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà
còn ở các lĩnh vực xã hội khác. Tồn cầu hóa đặt nhân loại trước những vấn
đề toàn cầu, “những vấn đề mà tác động của chúng liên quan trực tiếp đến
cuộc sống, sự phát triển và vận mệnh của tất cả các quốc gia không phân
biệt giai cấp, dân tộc, chế độ xã hội… Điều ấy có nghĩa là vì lợi ích của
mình, các giai cấp, các dân tộc phải chung lưng để giải quyết những vấn đề
chung của toàn nhân loại” [19, 329]. Các quốc gia buộc phải mở cửa theo
xu hướng đối thoại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh để tìm cho mình cơ hội phát
triển mà khơng tự đánh mất mình. Cho tới nay, đã có hàng nghìn tổ chức
quốc tế ra đời để giải quyết các vấn đề toàn cầu trên tất cả các lĩnh vực, bảo
đảm cho sự phát triển toàn diện và an toàn của con người. Tồn cầu hóa
cũng làm cho sự giao lưu giữa các quốc gia, giữa công dân của các nước
với nhau ngày càng trở nên thuận tiện và chặt chẽ thông qua phương tiện
thơng tin, thư tín, điện thoại, fax, internet… Đó cũng là những nhân tố theo Thomas Friedman - đã làm “phẳng” thế giới, đã gắn kết con người ở
mọi quốc gia, khu vực lại với nhau. Cũng thông qua tồn cầu hóa, các nước
nghèo và chậm phát triển có điều kiện để phát triển hệ thống dịch vụ như y tế,
giáo dục, bảo hiểm và phúc lợi xã hội, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu
khoa học phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất, nâng cao mức sống của nhân dân.
23
Mặt tích cực của tồn cầu hóa cịn thể hiện trong lĩnh vực văn hóa.
Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là động lực phổ biến của xã
hội lồi người. Nhờ giao lưu văn hóa đúng hường mà các nước chậm phát
triển có cơ hội trở thành nước phát triển thông qua việc tiếp thu những giá
trị văn hóa nhân loại. Trong Tun ngơn của Đảng Cộng sản (1848),
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói về vai trị của thành tựu tinh thần của dân
tộc: “thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản
chung của tất cả các dân tộc khác. Tính đơn phương và phiến diện của dân
tộc ngày càng không tồn tại được nữa và từ những nền văn hóa dân tộc và
địa phương mn hình mn vẻ, đang nảy nở nền văn hóa chung tồn thế
giới… Một nước có thể và phải học hỏi kinh nghiệm lịch sử của dân tộc
khác” [58, 602]. Tuy nhiên, quá trình giao lưu văn hóa cần tính đến giá trị
chung, giá trị nhân loại và thừa nhận sự khác biệt giữa các nền văn hóa.
Đó là những mặt tích cực của tồn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay,
những yếu tố đó tác động đến tất cả các lĩnh vực và tất cả các nước trên thế
giới. Điều quan trọng là việc nhận thức và tranh thủ những yếu tố tích cực
ấy cho phù hợp với điều kiện của mỗi một quốc gia, mỗi dân tộc.
* Mặt tiêu cực của tồn cầu hóa
Bên cạnh đó, tồn cầu hóa cũng bao chứa cả những mặt tiêu cực, đặt
ra rất nhiều nguy cơ, thách thức cho các nước khi tham gia vào tồn cầu
hóa nhất là đối với những nước nghèo và chậm phát triển.
Trong lĩnh vực kinh tế, tồn cầu hóa thu hút tất cả các nước vào
guồng máy kinh tế chung của các khu vực hay thế giới, nhờ vậy các nước
nghèo có cơ hội sử dụng các khả năng để phát triển và mở rộng các quan hệ
kinh tế. Song, chính trong quá trình này lại chứa đựng những thách thức và
hàng loạt nguy cơ được biểu hiện trên những mặt sau đây:
Trước hết là nguy cơ tụt hậu nhất là tụt hậu về kinh tế vì bị áp đặt
bởi những quy định từ các nước lớn. Các nước nghèo, kém phát triển nếu
khơng nhanh chóng tạo ra được thiết chế kinh tế tương hợp với thiết chế
24