Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN VẬT LÍ 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.86 KB, 21 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
BẢN TÓM TẮT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MƠN VẬT LÍ 6

Họ và tên tác giả: DƯƠNG THỊ ÁNH HỜNG
Đơn vị cơng tác: Trường trung học cơ sở Thị Trấn
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Mơn Vật lí có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của trường
trung học cơ sở, cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vật lí cơ bản, bước đầu
hình thành ở học sinh những kỹ năng và thói quen làm việc khoa học.
Vật lí là một mơn khoa học thực nghiệm nên việc sử dụng các thiết bị thí nghiệm,
quan sát thí nghiệm, giải thích hiện tượng, thảo luận nhóm, sử dụng hình ảnh trực quan,
đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh trả lời…là khơng thể thiếu được trong q trình học tập bộ
mơn. Do đó việc hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức, hình thành kỹ năng quan sát,
hướng dẫn các em suy đốn các hiện tượng vật lí dần hình thành từng bước trong mỗi
bài học cụ thể. Thơng qua việc tiến hành thí nghiệm, học sinh tiếp nhận được kiến thức
một cách dễ dàng, hiểu sâu hơn về các hiện tượng vật lí.
Muốn hồn thành tốt tiết dạy trên lớp, chúng ta khơng thể khơng sử dụng thiết bị dạy
học làm thí nghiệm chứng minh trên lớp, đặt câu hỏi, sử dụng phiếu học tập…Vậy làm
thế nào để học sinh hứng thú học tập mơn Vật lí, giải thích được một số hiện tượng vật
lí thường xảy ra trong cuộc sống thường ngày? Chính vì lí do đó tơi chọn đề tài “Đổi
mới phương pháp dạy học mơn Vật lí 6”
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
-Học sinh lớp 6 trường THCS Thị Trấn.
-Các dạng bài tập mẫu hướng dẫn học sinh cách thực hiện.
-Thơng qua việc thực hiện nội dung đề tài, kiểm tra, so sánh kết quả học tập của học
sinh qua hai đợt: Giữa học kì I và học kì I.
III. ĐỀ TÀI ĐƯA RA GIẢI PHÁP MỚI:
-Hướng dẫn học sinh quan sát thí nghiệm, độc lập suy nghĩ trả lời các câu hỏi của giáo
viên.
-Phát huy tính tích cực, tinh thần tự giác trong học tập của học sinh.


-Giúp học sinh u thích mơn học, có tinh thần học hỏi ở thầy cơ, bạn bè…
IV. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
Qua sử dụng “Đổi mới phương pháp dạy học” học sinh học tập một cách tích cực hơn,
hứng thú tìm tòi nội dung của bài học, từng bước nâng cao chất lượng học tập. Một số
học sinh trung bình – yếu có sự tiến bộ hơn, giải thích được một số hiện tượng đơn giản
dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm
V. PHẠM VI ÁP DỤNG:
Đề tài được áp dụng cho tất cả các học sinh khối 6 của trường Trung học cơ sở Thị
Trấn nhưng được triển khai và thực hiện cụ thể hơn ở lớp 6A5
Thị Trấn, ngày 3 tháng 4 năm 2010
Người thực hiện

DƯƠNG THỊ ÁNH HỒNG
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm
A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Phát sinh cùng với xã hội loài người, giáo dục biến đổi và phát triển cùng với sự
biến đổi của xã hội. Ngay khi nước ta bước vào giai đoạn mới thì giáo dục cũng có
những biến chuyển quan trọng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã
xác định : "Giáo dục là quốc sách hàng đầu". Sự nghiệp giáo dục đã góp phần nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Vì vậy trọng tâm của ngành giáo dục là nâng cao chất lượng đào
tạo toàn diện, bồi dưỡng thế hệ trẻ có đủ phẩm chất và năng lực xứng đáng là người chủ
tương lai của đất nước, xây dựng lực lượng lao động và đội ngũ trí thức lớn có kiến thức
văn hoá, khoa học kỹ thuật … đó là nhiệm vụ và niềm tự hào của nhà nước ta trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thành tựu của sự nghiệp giáo dục là niềm tự hào
của các nhà giáo dục thuộc nhiều bậc học. Đặc biệt đối với bậc trung học cơ sở

(THCS), vì đối tượng của bậc học này mang tính phức tạp.
Để đạt được những thành tựu khả quan đòi hỏi các nhà giáo dục phải uốn nắn giáo
dục học sinh theo phong cách sư phạm. Muốn thế chúng ta phải có một phương pháp
giảng dạy như thế nào cho hợp lý, phù hợp với từng đối tượng, đặc điểm của từng bộ
môn, cụ thể là bộ môn Vật lí nói chung và Vật lí 6 nói riêng.
Người ta nói: "Trăm nghe không bằng một thấy" và "Học đi đôi với hành ". Vì thế
sử dụng các hình ảnh trực quan, thí nghiệm chứng minh trên lớp, dùng phiếu học tập…
là các phương pháp mà giáo viên dạy môn Vật lí thường sử dụng để truyền đạt kiến
thức. Vậy, chúng ta cần phải đổi mới hình thức dạy và học như thế nào giúp học sinh
lĩnh hội kiến thức nhanh nhất và hiệu quả nhất? Là một giáo viên của bậc Trung học cơ
sở thì việc tìm hiểu và việc sử dụng sáng tạo đổi mới phương pháp trong giảng dạy bộ
môn là rất cần thiết. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi đã đúc kết một số kinh nghiệm giúp
học sinh học tập một cách tích cực và sáng tạo hơn. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Đổi
mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6” làm đề tài nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
-Mục tiêu đề tài hướng tới nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tập của học sinh.
-Rèn luyện cho học sinh thực hiện thí nghiệm chứng minh trên lớp, sử dụng hình
ảnh trực quan, làm phiếu học tập…trong việc học tập môn Vật lí 6
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu : Đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí 6
- Khách thể : Học sinh khối 6 trường THCS Thị Trấn
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 3
Sáng kiến kinh nghiệm
IV.GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
-Đổi mới phương pháp trong dạy học môn Vật lí 6 có thể làm cho những em thích
học tập môn Vật lí có hứng thú học tập.
-Có thể rèn luyện cho học sinh có được một cách học để tiếp thu bài nhanh nhất.
-Đổi mới phương pháp dạy học là dùng hình ảnh để minh họa trong từng bài học cụ
thể, thí nghiệm chứng minh trên lớp,…
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :

-Nghiên cứu lý luận về đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí
-Nghiên cứu thực tế việc đổi mới phương pháp trong dạy học Vật lí lớp 6 trường
THCS Thị Trấn
-Từ thực tế trên đề xuất ý kiến về việc đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lí.
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
-Nội dung : Tập trung nghiên cứu việc sử dụng đổi mới phương pháp dạy học Vật lí
lớp 6.
- Địa bàn nghiên cứu : Học sinh khối 6 trường THCS Thị Trấn - Châu Thành - Tây
Ninh.
B.NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Luật giáo dục năm 2005 (điều 5) quy định “Phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy, sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người
học năng lực học tập, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Do
đó, đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác,
rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức
vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm
vui, hứng thú trong học tập...Từ đó học sinh dần hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm
chất. Đó là điều kiện cần thiết cho bản thân học sinh và cho sự phát triển của xã hội.
Đổi mới phương pháp dạy học các môn học nói chung và môn Vật lý nói riêng ở
trường THCS xuất phát từ các quan niệm sau:
-Mục tiêu của ngành giáo dục, trong đó hoạt động cơ bản là dạy học, là hình
thành và phát triển nhân cách của học sinh. Dạy học không chỉ đơn thuần cung cấp cho
học sinh những tri thức và kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được, mà phải
góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo.
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 4
Sáng kiến kinh nghiệm
Học sinh càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì phẩm
chất và năng lực của cá nhân càng sớm được hình thành phát triển và hoàn thiện. Tính
năng động, sáng tạo là những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại, phải

được hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
-Trước đây, trong giảng dạy các môn học, người giáo viên chỉ chú trọng truyền
đạt các tri thức khoa học của bộ môn mà coi nhẹ phương pháp học tập và nghiên cứu
mang tính đặc thù của môn học đó (gọi là phương pháp bộ môn). Ngày nay, cùng với tri
thức khoa học của môn học, giáo viên phải làm cho học sinh nắm vững và sử dụng các
phương pháp bộ môn. Điều đó có ý nghĩa to lớn với nhiệm vụ học tập trước mắt và cả
trong tương lai.
-Việc đổi mới phương pháp dạy học phải góp phần thực hiện sự phân hóa trong
dạy học. Năng lực của học sinh trong một lớp học không hoàn toàn giống nhau, việc
phân hóa tiến tới cá nhân hóa trong dạy học là xu hướng tất yếu để đảm bảo sự phát
triển tối ưu cho mỗi học sinh.
-Mỗi môn học có các đặc trưng riêng, Vật lí học là môn koa học thực nghiệm.
Đổi mới phương pháp phải xuất phát từ đặc trưng này của bộ môn.
Tóm lại, dạy học không chỉ là “dạy chữ” mà phải qua dạy chữ mà “dạy người”. Tất
nhiên, hình thành và phát triển nhân cách không chỉ có nhà trường. Trong nhà trường
cũng không chỉ có hoạt động dạy học, tuy nhiên dạy học là hoạt động chủ yếu.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
-Trong những năm thực hiện cải cách giáo dục chúng ta có nhiều cố gắng đổi mới
và đa dạng hóa cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, đổi mới nội dung giáo dục trong nhà
trường. Tuy nhiên, về phương pháp giáo dục và dạy học thì chưa có sự quan tâm đầy đủ,
phương pháp dạy học chưa được đổi mới tương xứng.
-Những năm gần đây, do nhiều tác động khách quan, phương pháp và chất lượng
dạy học đã có sự phân hóa và đã có không ít giáo viên giỏi, học sinh giỏi. Ở những giáo
viên này phương pháp dạy học có nhiều cải tiến theo hướng hiên đại. Về cơ bản giảng
dạy bộ môn Vật lí ở trường THCS hiện nay, trình độ chung của học sinh còn thấp, học
sinh chưa biết vận dụng linh hoạt các kiến thức đã được học vào cuộc sống hoặc chỉ vận
dụng kiến thức một cách đơn giản, máy móc…
III. NỘI DUNG VẤN ĐỀ:
1. Các biện pháp đổi mới phương pháp dạy học trong bộ môn Vật lí 6:
Trong quá trình giảng dạy, cùng với việc sử dụng đổi mới phương pháp dạy học

trong trường THCS, bộ môn Vật lí nói chung và Vật lí 6 nói riêng phải thực hiện kết
hợp một số giải pháp sau đây:
1.1/ Dạy học hợp tác theo nhóm:
Dạy học hợp tác theo nhóm là một thuật ngữ để chỉ cách dạy học trong đó học sinh
trong lớp được tổ chức thành các nhóm một cách thích hợp, được giao nhiệm vụ và
được khuyến khích thảo luận, hướng dẫn hợp tác làm việc với nhau giữa các thành viên
để cùng đạt được kết quả chung là hoàn thành nhiệm vụ của cả nhóm.
Hoạt động dạy học hợp tác theo nhóm thường bao gồm các bước:
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 5
Sáng kiến kinh nghiệm
Bước 1: Làm chung cho cả lớp
Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức; tổ chức nhóm, giao nhiệm vụ
cho từng nhóm và hướng dẫn cách làm việc theo nhóm.
Bước 2: Hoạt động nhóm
Từng nhóm làm việc riêng trong không khí thi đua với các nhóm khác. Thành viên
trong mỗi nhóm trao đổi ý kiến , phân công nhóm sau đó từng thành viên làm việc theo
sự phân công đó và có thể bàn bạc, trao đổi với nhau khi cần thiết. Giáo viên giám sát
sự hoạt động của nhóm và của từng cá nhân học sinh.
Bước 3:Thảo luận, tổng kết trước cả lớp
Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả, giáo viên tổ chức cho học sinh ở các nhóm khác
nhận xét, đánh giá và giáo viên xác nhận lại khi cần thiết. Giáo viên tổng kết, chốt lại
những điểm quan trọng sau khi các nhóm đã báo cáo xong. Cuối cùng giáo viên động
viên, khen ngợi các nhóm cũng như các cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ, phê phán
những cá nhân và nhóm chưa hoạt động tích cực.
Trong quá trình thực hiện dạy học hợp tác theo nhóm, giáo viên cần làm các công
việc sau:
*Tổ chức nhóm:
+Quy mô nhóm:
Mỗi nhóm nên có từ 3 đến 6 học sinh. Nhóm 3 đến 4 học sinh là nhóm nhỏ, thích
hợp với các hoạt động giải bài tập rèn luyện kĩ năng hay thực hành trong lớp. Với nhóm

nhỏ, các em thảo luận, đề ra được quyết định nhanh hơn, giáo viên quản lí các thành
viên trong nhóm dễ dàng hơn, nhưng việc bao quát các nhóm phức tạp hơn, việc theo
dõi hoạt động và thời gian để các nhóm trình bày kết quả phải nhiều hơn vì có nhiều
nhóm hơn.
Nhóm từ 5 đến 6 học sinh là nhóm lớn, chủ yếu thích hợp với những công cụ lớn,
phức tạp như thực hành thí nghiệm. Các nhóm lớn dễ tạo cho học sinh cảm giác vui, hồ
hởi và niềm tin vào sự thành công. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các thành viên trong
nhóm là phức tạp hơn, khó đạt được sự đồng thuận hơn. Giáo viên khó khăn hơn trong
việc quản lí các thành viên trong nhóm lớn nhưng dễ dàng bao quát chung các nhóm
hơn và thời gian để các nhóm trình bày kết quả cũng ít hơn.
+Phân công nhiệm vụ trong nhóm:
Trong các nhóm thường có các thành phần: Trưởng nhóm, thư kí nhóm, báo cáo viên
và các thành viên còn lại. Trưởng nhóm chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều khiển nhóm, thư
kí có trách nhiệm ghi chép lại các kết quả công việc của nhóm. Các thành viên còn lại
trong nhóm có trách nhiệm tham gia tích cực vào hoạt động của nhóm theo sự phân
công của nhóm trưởng.
Sự phân công nhiệm vụ trong nhóm cần linh hoạt, không phải luôn cần có đầy đủ các
thành phần như trên. Tuy nhiên một nhóm nhất thiết nên có trưởng nhóm để triển khai
hoạt động của nhóm. Các thành phần trong một nhóm cũng cần thực hiện luân phiên,
các em trong nhóm lần lượt trao đổi với nhau thực hiện các vai trò đó để đều có cơ hội
rèn luyện về mọi mặt như nhau.
*Các kiểu chia nhóm:
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 6
Sáng kiến kinh nghiệm
Chia nhóm theo trình độ học sinh. Khi đó, học sinh trong lớp được chia vào các
nhóm thường theo một số kiểu sau: Nhóm nhiều trình độ (trong nhóm có cả học sinh
giỏi, khá, trung bình, yếu); nhóm cùng trình độ (các em học sinh trong một nhóm có khả
năng học tập tương đối như nhau). Với nhóm nhiều trình độ các em học yếu có cơ hội
học hỏi các em học khá, giỏi. Ngoài những cách chia nói trên, vẫn có thể có những cách
chia nhóm dựa trên sự tương đồng với dụng cụ thực hành thí nghiệm, đảm bảo đầy đủ

các dụng cụ cho các nhóm thực hành có hiệu quả.
*Giao nhiệm vụ cho nhóm:
Giáo viên giao nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm thực hiện. Sau khi giao nhiệm vụ cho
các nhóm, giáo viên cần kiểm tra xem từng nhóm, từng học sinh đã hiểu được nhiệm vụ
của mình chưa. Có thể thực hiện đều này bằng cách hỏi một vài nhóm trưởng cũng như
một vài em khác, yêu cầu các em đứng lên nói rõ nhiệm vụ của mình. Giáo viên cũng
cần quy định rõ thời gian yêu cầu phải hoàn thành hoạt động nhóm, thường với mọi hoạt
động, thời gian từ 5 đến 7 phút.
*Giáo viên quản lí hoạt động nhóm:
Trong khi các nhóm hoạt động, giáo viên cần bao quát, chỉ đạo học sinh theo các chú
ý sau:
-Quan sát tất cả các nhóm, phát hiện và hỗ trợ các nhóm có khó khăn thông qua
các câu hỏi dẫn dắt, các hướng dẫn thích hợp.
-Phát hiện các nhóm làm việc chưa tích cực, mất trật tự…để nhắc nhở, uốn nắn.
Các nhóm tích cực khuyến khích, động viên kịp thời. Dù là khuyến khích hay nhắc nhở
học sinh, cử chỉ của giáo viên phải thể hiện thái độ thân mật, hợp tác, tạo niềm tin cho
học sinh.
*Tổ chức hoạt động thảo luận, tổng kết trước toàn lớp:
Khi các nhóm đã hoàn thành hoạt động, giáo viên yêu cầu mỗi nhóm cử đại diện lên
trình bày trước toàn lớp và nêu rõ quy định về cách trình bày như đứng tại chỗ hay lên
bảng, chỉ diễn đạt bằng lời nói hay kết hợp với viết bảng…Sau khi giáo viên yêu cầu
một vài nhóm lên trình bày, các nhóm khác quan sát, nhận xét, bổ sung. Sự nhận xét, bổ
sung lẫn nhau giữa các nhóm là rất quan trọng, nó thể hiện sự tương tác giữa các nhóm
và sự gắn kết của cả lớp trong mục tiêu chung của nhiệm vụ học tập. Sau khi mỗi nhóm
đã trình bày và có sự nhận xét, bổ sung của các học sinh ngoài nhóm, giáo viên đưa ra ý
kiến của mình, thể thức hóa kết quả của mỗi nhóm trước cả lớp.
Cuối cùng, sau khi các nhóm được chỉ định đều đã trình bày xong, giáo viên tổng
kết, chốt lại những điểm quan trọng trong kết quả của tất cả các nhóm và nhận xét, động
viên, khen ngợi các nhóm hoàn thành tốt nhiệm vụ, phê phán những khiếm khuyết đã
mắc phải của một số nhóm hay cá nhân trong quá trình thực hiện hoạt động nhóm.

1.2/ Sử dụng phương pháp trực quan trong tiết học:
Phương pháp trực quan hay nói chính xác hơn là nhóm các phương pháp sử dụng các
vật thực, mô hình, tranh vẽ… để minh họa cho các bài học nhằm cụ thể hóa cái nhìn
trừu tượng trong đối tượng và hiện tượng giúp học sinh khắc phục khó khăn ban đầu,
tiếp thu và vận dụng được các kiến thức một cách hiệu quả, nhanh chóng.
Phương pháp trực quan thường được sử dụng trong việc dạy và học môn Vật lí. Nhất
là đối với bậc trung học cơ sở, giáo viên cần sử dụng các vật thật, mô hình hay tranh vẽ
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 7
Sáng kiến kinh nghiệm
để minh hoạ cho các bài học thêm sinh động.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 5 “ Khối lượng – đo khối lượng” trong chương trình Vật lí 6, để
giúp học sinh hiểu thêm một số dụng cụ dùng để đo khối lượng thường dùng trong đời
sống, giáo viên cần dùng một số tranh vẽ sau:
Cân y tế Cân tạ Cân đòn Cân đồng hồ
Ví dụ 2: Bài 13: “Máy cơ đơn giản”. khi dạy bài học này, giáo viên cần đưa một số
tranh ảnh minh họa cho học sinh thấy được một số máy cơ đơn giản thường dùng là mặt
phẳng nghiêng, đòn bẩy và ròng rọc.
1.3/ Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề:
Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là cách thầy tổ chức tạo ra một tình huống
hấp dẫn gợi sự tìm hiểu của học sinh, gợi ra những vướng mắc mà học sinh chưa giải
Giáo viên: Dương Thị Ánh Hồng Trang 8

×