Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.77 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
* Chạm khắc đá Ninh Vân: Nói đến xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, nhân
dân cả nước đều biết đến nghề cổ truyền chạm khắc đá. Từ những hòn
đá sù sì, qua bàn tay của người thợ đã thành những tác phẩm nghệ thuật
hoàn hảo. Sản phẩm đá gồm các loại: tượng, chim thú, bể cảnh, bia,
thống, chậu hoa, bàn, ghế, sập, hương án, ngai, cầu, cổng, ngưỡng cửa, xà
nhà Ngoài ra còn có các mặt hàng thủ công mỹ nghệ và những đồ vật
bằng đá như: bộ ấm trà, gạt tàn thuốc lá, khóm trúc, bé cưỡi trâu, đĩa,
bát, tranh ảnh Tất cả đều được chạm khắc tinh tế, sống động, đường
nét tao nhã, uyển chuyển, mềm mại, dường như có phép lạ ở đôi bàn tay
và khối óc của các nghệ nhân 24
1
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
* Chạm khắc đá Ninh Vân: Nói đến xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, nhân
dân cả nước đều biết đến nghề cổ truyền chạm khắc đá. Từ những hòn
đá sù sì, qua bàn tay của người thợ đã thành những tác phẩm nghệ thuật
hoàn hảo. Sản phẩm đá gồm các loại: tượng, chim thú, bể cảnh, bia,
thống, chậu hoa, bàn, ghế, sập, hương án, ngai, cầu, cổng, ngưỡng cửa, xà
nhà Ngoài ra còn có các mặt hàng thủ công mỹ nghệ và những đồ vật
bằng đá như: bộ ấm trà, gạt tàn thuốc lá, khóm trúc, bé cưỡi trâu, đĩa,
bát, tranh ảnh Tất cả đều được chạm khắc tinh tế, sống động, đường
nét tao nhã, uyển chuyển, mềm mại, dường như có phép lạ ở đôi bàn tay
và khối óc của các nghệ nhân 24

2
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà
nước, đặc biệt là chính sách đổi mới về đối ngoại và kinh tế đối ngoại cùng với xu
hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng nhanh ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới, ngành du lịch Việt Nam nói chung và ngành du lịch của Ninh
Bình nói riêng cũng có những bước tiến nhất định và ngày càng có tác động tích


cực hơn đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Du lịch được xác
định “ là một ngành kinh tế mũi nhọn” trong các ngành kinh tế quốc dân và đang
hội nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và thế giới. Khách du lịch đến
Việt Nam đặc biệt là Ninh Bình đang ngày một tăng. Phát triển du lịch của Ninh
Bình là phù hợp với xu thế của thời đại, phù hợp với chiến lược phát triển du lịch
của Việt Nam đặc biệt là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Với vị trí địa lý và tiềm năng tài nguyên du lịch phong phú, những chính
sách phù hợp, thời gian qua du lịch Ninh Bình đã có bước phát triển đáng ghi
nhận, đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển du lịch của cả nước. Tuy nhiên
trong quá trình phát triển, nhiều tiềm năng du lịch chưa được khai thác hiệu quả,
sự phát triển du lịch Ninh Bình chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình.
Cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật của Tỉnh mặc dù đã được cải thiện rất nhiều trong
những năm gần đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, chất lượng
phục vụ còn thấp, sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, chưa phong phú. Đầu tư phát
triển du lịch trên địa bàn Tỉnh còn dàn trải và thiếu tập trung, khả năng thu hút vốn
từ các nhà đầu tư không được cao.
Là một người con sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Ninh Bình tươi đẹp, em
rất tự hào về quê hương yêu quý của mình. Hơn thế nữa, hiện nay ngành du lịch
Ninh Bình đang rất phát triển, có nhiều điều mới lạ. Đó chính là động lực thôi thúc
em nghiên cứu và viết khoá luận tốt nghiệp về đề tài :
“Đầu tư phát triển ngành du lịch tỉnh Ninh Bình.”
1
Nội dung báo cáo được chia làm 2 chương:
Chương I: Thực trạng đầu tư phát triển du lịch Ninh Bình giai đoạn
2005-2009
Chương II: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư
vào du lịch Tỉnh Ninh Bình.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do bị hạn chế về kinh nghiệm thực tế và
phương pháp nghiên cứu nên bài khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, các

cô chú trong sở Kế hoạch và Đầu tư Ninh Bình, cùng các bạn để tôi có thể rút kinh
nghiệm và học tập thêm những kiến thức bổ ích nhằm nâng cao chất lượng của
chuyên đề
2
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH
NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 2006-2009
1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội và tự nhiên ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát
triển ngành du lịch của Ninh Bình.
1.1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1 Vị trí địa lý:
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ. Vị trí giới hạn từ
19
o
50 đến 20
o
26 vĩ độ Bắc, từ 105
o
32 đến 106
o
20 kinh độ Đông. Phía Bắc giáp Hà
Nam; phía Đông giáp Nam Định; phía Đông Nam giáp biển Đông; phía Tây và Tây
Nam giáp Thanh Hóa; phía Tây giáp Hòa Bình.
Nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 90 km, nằm trên tuyến đường giao thông
đường sắt, đường bộ xuyên Việt, Ninh Bình trở thành một cầu nối giao lưu kinh tế,
văn hóa giữa hai miền Nam-Bắc. Ninh Bình lại nằm trong vùng dồi dào năng lượng;
có biển và hệ thống sông thông ra biển rất thuận lợi trong việc giao lưu với các tỉnh
và quốc tế.
Ninh Bình có các quốc lộ đi qua là 1
A
, 10, 12

B
, 45, có đường sắt Bắc Nam, có
nhiều sông chảy qua (sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Vân, sông Vạc, sông
Lạng…).
Toàn bộ lãnh thổ của tỉnh nằm ở rìa Tây Nam đồng bằng sông Hồng, giáp
với đồng bằng sông Mã qua vùng núi thấp Tam Điệp là phần cuối cùng của vùng
núi Tây Bắc, trong khu đệm Hòa Bình – Thanh Hóa và tiếp giáp biển Đông. Do là
vùng chuyển tiếp nên địa hình Ninh Bình khá phong phú, đa dạng, bao gồm cả các
núi, đồng bằng, bờ biển. Đặc biệt là ở Ninh Bình, dạng địa hình Karst khá phổ biến
và đây là dạng địa hình đặc biệt tạo nên các hang động và cảnh quan hấp dẫn, rất có
giá trị trong việc thu hút khách du lịch.
1.1.1.2.Địa hình:
Ninh Bình có một địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, đồi núi, nửa đồi núi
và vùng ven biển. Về địa hình có ba vùng khá rõ:
- Vùng đồi núi, nửa đồi núi với các dãy núi đá vôi, núi nhiều thạch sét, sa
3
thạch, đồi đất đan xen các thung lũng lòng chảo hẹp, đầm lầy, ruộng trũng ven núi,
có tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là đá vôi, có nhiều tiềm năng phát triển là phát
triển du lịch
- Vùng đồng bằng trung tâm là vùng đất đai màu mỡ, bãi bồi ven sông, có
nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, và
sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
- Vùng ven biển và biển có nhiều điều kiện phát triển nuôi trồng thuỷ sản
khai thác các nguồn lợi ven biển.
Đồi núi trùng điệp chiếm quá nửa diện tích tự nhiên của tỉnh; các vùng nửa
đồi núi tuy không lớn nhưng lại phân bố rải rác, xen kẽ chạy dài từ điểm cực Tây
huyện Gia Viễn theo hướng Đông Nam qua huyện Hoa Lư, Yên Mô xuống Kim
Sơn và ra tới biển Đông (giáp huyện Nga Sơn - Thanh Hoá). Điểm cao nhất so với
mặt biển là đỉnh Mây Bạc trên vườn Quốc gia Cúc Phương cao 656m, điểm thấp
nhất so với mực nước biển là xã Gia Trung huyện Gia Viễn (-0,4m). Huyện Gia

Viễn, Yên Mô và một phần huyện Hoa Lư là vùng trũng, hay bị úng lụt. Toàn tỉnh
có 18 km bờ biển thuộc huyện Kim Sơn, có cửa sông Đáy đổ ra biển tạo ra vùng bãi
bồi hàng năm tiến thêm ra biển khoảng 100 - 120m và quĩ đất tăng thêm hàng năm
khoảng 140 - 168ha. Với địa hình đa dạng như vậy, Ninh Bình có đủ điều kiện để
phát triển một nền kinh tế tổng
hợp. Đứng về mặt địa hình, Ninh Bình cần tính tới các phương án khai thác hợp lý
lãnh thổ để có sự phát triển tổng hợp, đạt nhịp độ tăng trưởng cao
1.1.1.3. Khí hậu:
Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sông Hồng, ngoài ảnh
hưởng sâu sắc của gió mùa Đông Bắc, Đông Nam, còn chịu ảnh hưởng của khí hậu
ven biển, khí hậu rừng núi và nửa rừng núi. Thời tiết trong năm chia làm hai mùa
khá rõ rệt: mùa khô từ tháng 11 - 12 năm trước đến tháng 4 năm sau; mùa mưa từ
tháng 5 - tháng 10.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 24,2
oC
và có sự chênh lệch không nhiều
giữa các vùng (hơn kém nhau từ 0,3-0,4
oC
); tháng 7 có nhiệt độ trung bình cao nhất
là 29,3
oC
, tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 17,9
oC
. Số giờ nắng trung bình
4
mỗi tháng là 117,3 giờ, tháng 6 cao nhất là 187,4 giờ, tháng 2 thấp nhất là 24,3 giờ.
Tổng số giờ nắng trung bình năm trên 1.400 giờ. Tổng nhiệt độ năm đạt tới trị số
trên 8.500
oC
, có tới 8-9 tháng trong năm có nhiệt độ trung bình trên 20

oC
.
Độ ẩm trung bình hàng năm là 83% và có sự chênh lệch không nhiều giữa
các tháng trong năm: tháng 2 cao nhất là 89%, tháng 11 thấp nhất là 75%; giữa các
vùng chênh lệch nhau trên dưới 1%.
Lượng mưa rơi trung bình toàn tỉnh đạt từ 1.860 - 1.950 mm, phân bố tương
đối đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ của Tỉnh. Trung bình một năm có 125 - 127 ngày
mưa. Lượng mưa trung bình mỗi tháng là 238,8 mm; tháng 9 cao nhất là 816 mm,
tháng 1 thấp nhất là 8,5 mm. Lượng mưa phân bổ không đều trong năm, thường tập
trung vào các tháng từ tháng 5 đến tháng 10 và chiếm từ 86 - 91% tổng lượng mưa
trong năm.
1.1.1.4 Thuỷ văn
Ninh Bình có nhiều sông và đầm hồ. Đây là nguồn nước mặt cung cấp nước cho
công nghiệp, nông lâm nghiệp và bồi đắp phù sa cho đồng ruộng. Hàng năm, hệ thống
sông ngòi ở Ninh Bình được nuôi dưỡng bằng nguồn nước mưa dồi dào, tạo nên lượng
dòng chảy tương đối phong phú (khoảng 30 l/s/km
2
). Mật độ mạng lưới sông ngòi
khoảng 0,6-0,9 km/km
2
. Các sông lớn thường chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam
để đổ ra biển. Ninh Bình có nhiều hồ lớn như hồ Đồng Thái, hồ Yên Thắng, hồ Đồng
Chương, hồ Yên Quang, hồ Đầm Cút, đầm Vân Long Với điều kiện thủy văn như
vậy rất thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi có nguồn gốc tự nhiên từ
nhiều miền địa lý khác nhau: nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới. Trên cơ sở đó có thể phát
triển nền nông nghiệp đa dạng. Đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi cho phát triển
công nghiệp, du lịch và các hoạt động phát triển kinh tế khác.
1.1.1.5 Sinh vật
Về các hệ động thực vật, nơi lưu giữ được thảm thực vật và động vật rừng có
giá trị đối với du lịch tại Ninh Bình là Vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng Cúc

Phương là loại rừng mưa nhiệt đới điển hình với cấu trúc thảm thực vật nhiều tầng
(5 tầng), phong phú về thành phần loài (2.000 loài). Động vật ở Cúc Phương cũng
rất phong phú với 233 loài động vật có xương sống, nhiều loài chim và 24 trong số
5
30 bộ côn trùng có mặt tại Việt Nam. Bên cạnh Vườn quốc gia Cúc Phương, khu
bảo tồn đất ngập nước Vân Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho hệ sinh thái
núi đá ngập nước. Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ loài Voọc quần đùi trắng -
một loài linh trưởng quý hiếm đã được ghi trong Sách đỏ thế giới.
1.1.1.6. Đất đai:
Ninh Bình có tổng diện tích tự nhiên là 139.011 ha, trong đó đất cho sản xuất
nông nghiệp là 61.959 ha (chiếm 44,57% diện tích tự nhiên), đất lâm nghiệp 27.644
ha (chiếm 19,89% diện tích tự nhiên), đất chuyên dùng 15.197 ha (chiếm 10,93%
diện tích tự nhiên), đất khu dân cư 5.346 ha (chiếm 3,85% diện tích tự nhiên) và đất
chưa sử dụng 17.094 ha (chiếm 12,3% diện tích tự nhiên).
Nhìn chung, tài nguyên đất ở Ninh Bình có độ phì trung bình với ba loại địa
hình ven biển, đồng bằng và bán sơn địa nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng
thuộc nhóm cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi
trồng thủy sản; đồng cỏ chăn nuôi, cây rừng đa tác dụng. Vùng gò đồi có nhiều tiềm
năng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển công nghiệp. Đây là
một lợi thế của Ninh Bình so với một số tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Hiện nay, diện tích đất chưa sử dụng là 17.094 ha trong đó khả năng đưa vào khai
thác cho các hoạt động kinh tế (trừ núi đá không rừng cây) còn 12.139 ha chiếm
8,73% diện tích tự nhiên.
1.1.1.7. Tài nguyên khoáng sản:
Đá vôi: đây là nguồn tài nguyên khoáng sản lớn nhất của Ninh Bình. Với
những dãy núi đá vôi khá lớn, chạy từ Hòa Bình qua Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư,
Tam Điệp, Yên Mô ra tới tận Biển Đông dài hơn 40 km; diện tích trên 1,2 vạn ha,
với trữ lượng hàng chục tỷ m
3
đá vôi, chất lượng tốt.

Đất sét: Phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp thuộc xã Yên Sơn, Yên
Bình, thị xã Tam Điệp, các huyện Gia Viễn, Yên Mô, dùng để sản xuất gạch ngói
và làm nguyên liệu cho ngành đúc, đảm bảo cho xây dựng các nhà máy sản xuất
gạch công suất 20-50 triệu viên/năm, khai thác ổn định trong vài chục năm.
Tài nguyên nước khoáng: Nước suối Kênh Gà (Gia Viễn) có vị mặn, trữ lượng
lớn, thường xuyên có nhiệt độ tới 53 - 54
OC
, có thể khai thác đưa vào tắm, ngâm chữa
6
bệnh kết hợp với du lịch rất tốt. Nguồn nước khoáng Cúc Phương dùng để sản xuất nước
giải khát và tắm ngâm chữa bệnh, có thành phần magiêbicarbonat cao.
Tài nguyên than bùn: có trữ lượng nhỏ (khoảng 2 triệu tấn), phân bố ở Gia
Sơn, Sơn Hà (Nho Quan), Quang Sơn (thị xã Tam Điệp)
Một số khoáng sản khác như: cát xây dựng, sét gốm sứ, sét ximăng, gạch
ngói trữ lượng nhỏ, phân bố rải rác ven vùng đồi núi thấp ven thị xã Tam Điệp, Gia
Viễn, Yên Mô.
Bên cạnh đó, Ninh Bình còn nằm gần các nguồn năng lượng lớn của quốc
gia ở miền Bắc như: bể than Quảng Ninh; thuỷ điện Hoà Bình; Nhiệt điện Phả Lại
giúp cho Ninh Bình thoả mãn các nhu cầu về than, điện phục vụ cho phát triển sản
xuất cũng như nhu cầu dân sinh.
1.1.2. Điều kiện dân cư, kinh tế - xã hội:
Dân số của Ninh Bình là 936.262 người trong đó số dân trong độ tuổi lao động
xấp xỉ 60%, mật độ dân số 659 người/ km
2
. Dân tộc ngoài dân tộc Kinh và dân tộc
Mường chiếm 1,7% dân số thì các dân tộc khác như Tày, Nùng, Thái, Hoa,
H’Mông, Dao…mỗi dân tộc có từ trên một chục đến hơn một trăm người. Dân tộc
Mường đã định cư khá lâu đời ở các xã thuộc miền núi cao như Nho Quan, Tam
Điệp, còn lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa truyền thống hấp dẫn du lịch. Các dân
tộc khác sống rải rác ở các địa phương trong tỉnh, không hình thành cộng đồng dân

tộc nhất định, đa số có quan hệ hôn nhân và chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong tục
tập quán sinh hoạt, sản xuất, truyền thống văn hóa của người Kinh.
Trong những năm qua, Ninh Bình đã thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-
xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII và XIV đề ra với kết quả
năm sau cao hơn năm trước. Kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng được tăng cường, văn
hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt cao; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn từ năm
1996-2000 đạt bình quân: 8,12%/ năm; từ năm 2001-2005 bình quân đạt
11,9%/năm; năm 2006 đạt 12,6%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Thu nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt
0,51 triệu đồng, năm 2006 đạt 6,42 triệu đồng, tăng 12,5 lần. Thu ngân sách năm
1991 đạt 24,4 tỉ đồng, năm 2006 đạt 878 tỉ đồng, tăng 35,98 lần.
7
Về nông nghiệp: tỉnh đã tập trung chỉ đạo chuyển được gần 9000 ha đất nông
nghiệp trồng cây có giá trị thấp sang nuôi trồng các loại cây, con có giá trị kinh tế
cao như: nuôi tôm sú, trồng cói ở Kim Sơn, nuôi tôm càng xanh, trồng dứa ở Tam
Điệp, Nho Quan, nuôi thả cá chim trắng ở Gia Viễn, Hoa Lư, cấy các giồng lúa đặc
sản: tám, nếp, dự ở Kim Sơn, Yên Khánh Cả tỉnh có 294 trang trại mỗi năm
doanh thu bình quân từ 20 triệu đồng trở lên.
Về công nghiệp: tỉnh đã phê duyệt quy hoạch 22 khu công nghiệp, cụm công
nghiệp với diện tích 880 ha trong đó có các khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn
như: khu công nghiệp Tam Điệp, khu công nghiệp Ninh Phúc, cụm công nghiệp
Gián Khẩu Ninh Bình đã ban hành các cơ chế, chính sách như: chính sách
khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu du lịch; chính sách
khuyến khích tài năng thu hút nhân tài; quỹ khuyến công ; quỹ hỗ trợ đầu tư phát
triển. Trên địa bàn tỉnh đã khởi công nhiều công trình lớn về giao thông, thuỷ lợi,
du lịch, thể thao như: hồ Yên Thắng; dự án phân lũ, chậm lũ Nho Quan và Gia
Viễn; sân vận động, Nhà thi đấu trung tâm; Nhà máy cán thép Tam Điệp công suất
36 vạn tấn/ năm; Nhà máy xi măng Tam Điệp công suất 1,4 triệu tấn/ năm Các
công trình đầu tư trên lần lượt đưa vào sử dụng sẽ tạo ra bước chuyển biến mạnh

trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Các hoạt động dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông,
bảo hiểm, tín dụng, du lịch đều đạt mức tăng trưởng bình quân trên 25%/ năm.
Thu ngân sách tăng bình quân trên 20%/ năm.
1.1.3.Tài nguyên du lịch
1.1.3.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên
Với diện tích tự nhiên 1.390,11 km
2
, tuy là một tỉnh không lớn nhưng Ninh
Bình là một tỉnh có địa hình rất đa dạng: có núi, đồng bằng, vùng ven biển, mang
đầy đủ sắc thái địa hình Việt Nam thu nhỏ… Đặc điểm về địa hình kết hợp với các
thành phần tự nhiên khác như hệ thống thủy văn, lớp phủ thực vật đã tạo cho Ninh
Bình tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng
đất này nhiều danh lam thắng cảnh kỳ thú, nhiều hang động nổi tiếng, quần thể hang
động Tràng An, Tam Cốc – Bích Động, vườn quốc gia Cúc Phương với hệ động
thực vật phong phú, khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long, khu du lịch sinh thái hồ
8
Yên Thắng, Yên Đồng, Yên Thái với cảnh quan đặc sắc và tính đa dạng sinh học
cao… Đây là tiền đề quan trọng cho việc phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn
như du lịch sinh thái, du lịch vui chơi giải trí, du lịch chữa bệnh, du lịch mạo hiểm,
du lịch tham quan… Một số tài nguyên tiêu biểu:
♦ Vườn quốc gia Cúc Phương (huyện Nho Quan):
Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thành lập vào
7/7/1962. Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật vô cùng
phong phú, đa dạng và độc đáo. Vườn có diện tích 22.200 ha, trong đó 3/4 là núi đá
vôi cao từ 300 đến 600m so với mặt biển. Tại đây có đỉnh Mây Bạc cao 648,2m.
Khí hậu ở Cúc Phương thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung
bình năm khoảng 24,7ºC. Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên sinh chứa nhiều bí
ẩn, và cảnh quan độc đáo. Tại đây có rất nhiều hang động với cảnh quan kỳ thú và
ẩn chứa những chứng tích văn hoá lịch sử lâu đời như động Trăng Khuyết, động
Chúa, động Thuỷ Tiên, động Người Xưa, hang Con Moong, động San Hô

Trong vườn còn có suối nước nóng 38ºC. Hệ thực vật rất phong phú với
1.944 loài thuộc 908 chi và 229 họ. Đặc biệt có cây chò xanh, cây sấu cổ thụ đều
trên dưới 1.000 năm tuổi, cao từ 50-70m. Riêng hoa phong lan có tới 50 loài, có loài
cho hoa và hương thơm quanh năm. Hệ động vật đa dạng bao gồm 71 loài thú, hơn
300 loài chim, 33 loài bò sát và 16 loài lưỡng cư. Nhiều loài thú quí như: gấu, ngựa,
lợn lòi, hổ, báo, chồn, sóc, khỉ Khu chăn nuôi nửa tự nhiên với các loài hươu sao,
nai, khỉ vàng, voọc quần đùi, sóc bay là nơi phục vụ công tác nghiên cứu của các
nhà khoa học và du khách có dịp chiêm ngưỡng như khi sống trong rừng tự nhiên.
Cúc Phương còn là quê hương của hàng trăm loài chim, bướm đẹp và lạ.
Hiện nay, vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành một trung tâm cung cấp
các loài thực vật quý hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho các chương trình trồng
rừng trong khu vực và trên cả nước. Nơi đây đã có những khu gây giống tự nhiên
đạt kết quả cho các loài chò chỉ, chò xanh, kim giao Trong tương lai vườn còn xây
dựng và mở rộng thêm cơ sở thực nghiệm để cung cấp giống nhiều loài cây thuốc,
cây cảnh quý hiếm cho những nơi có nhu cầu.
9
Đến Cúc Phương đẹp nhất vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, khi những cơn
mưa rừng dữ dội đã đi qua. Đường tới Vườn Quốc gia Cúc Phương rất thuận tiện.
Một khu rừng nguyên sinh với hệ sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng, phong phú được
bảo vệ nghiêm ngặt lại nằm trên tuyến đường du lịch với những điểm du lịch hấp
dẫn như Bích Động, cố đô Hoa Lư, bãi biển Sầm Sơn đang cuốn hút khách du lịch
đến tham quan và các nhà khoa học đến nghiên cứu. Tại vườn còn có một số
chương trình du lịch cho khách lựa chọn như đi bộ, du lịch mạo hiểm, leo núi…
♦ Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long:
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long là khu bảo tồn sinh cảnh đặc trưng cho
hệ sinh thái núi đá ngập nước có diện tích lớn nhất ở vùng đồng bằng sông Hồng
(khoảng 2.643 ha). Đây cũng là nơi khoanh vùng bảo vệ loài Voọc quần đùi trắng -
một loài linh trưởng quý hiếm đã được ghi trong Sách đỏ thế giới. Vân Long là một
vùng đất còn ít được khám phá với cảnh quan đặc biệt hấp dẫn. Du khách từ Hà Nội
về xuôi theo quốc lộ 1A xuống phía Nam, đến km 85 rẽ vào đường 12

B
tới vườn
quốc gia Cúc Phương, đến km 6 rẽ phải vào đường Thống Nhất của xã Gia Vân, đi
thêm 1 km nữa tới đê Đầm Cút là tới khu bảo tồn Vân Long.
Khu bảo tồn đất ngập nước Vân Long nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện
Gia Viễn, Ninh Bình là các xã: Gia Hưng, Liên Sơn, Gia Hòa, Gia Vân, Gia Lập,
Gia Tân, Gia Thanh ở phía Đông Bắc tỉnh Ninh Bình, cách thị xã Ninh Bình gần
20km về phía Bắc. Địa hình Vân Long bằng phẳng, độ chênh không quá 0,5m
nhưng có kiểu hình ô trũng giữa các dòng sông lớn nhất của Ninh Bình, nằm về
phía Nam của châu thổ Bắc Bộ. Đất ngập nước với mức sâu khoảng vài mét, đan
xen là các dãy núi đá vôi nổi lên cao sàn sàn dưới 300m, đỉnh núi Ba Chon cao nhất
tới 428m. Ranh giới giữa chân các dãy núi và cùng đất trũng ngập nước còn xen kẽ
một số đồi đá thấp có độ cao không quá 50m. Núi đá vôi và đồi cát chiếm ắ diện
tích. Là khu vực có đa dạng sinh học, có HST núi đá vôi là nơi sinh sống của quần
thể “Voọc quần đùi” lớn nhất Việt Nam.
Rừng Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 327 chi, 127 họ.
Đặc biệt có 8 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam (1996) là kiêng, lát hoa, tuế lá
rộng, cốt toái bổi, sắng, bách bộ, mã tiền hoa tán… Về động vật có 39 loài, 19 họ, 7
10
bộ thú; có 12 loài động vật quý hiếm như Voọc quần đùi (với số lượng lớn nhất ở
Việt Nam), gấu ngựa, sơn dương, cu li lớn, khỉ mặt đỏ, cày vằn,… Trong các loài
bò sát có 9 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam là rắn hổ chúa, kỳ đà, trăn đất, rắn
ráo trâu, rắn ráo thường, rắn sọc đầu đỏ, rắn cạp nong, rắn hổ mang, tắc kè. Điều
đáng chú ý là tại khu vực ngập nước Vân Long có loài cà cuống thuộc họ chân bơi,
một loài côn trùng quý hiếm, hiện còn rất ít ở Việt Nam. Cà cuống sống được thể
hiện sự trong lành của môi trường nước, của không gian cảnh quan xung quanh.
Không chỉ là khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước, Vân Long còn là nơi có
cảnh quan và di tích văn hóa có giá trị. Đây là núi Nghiên, núi Hòm Sách, núi Đá
Bàn, núi Mèo cào, kia là núi Cô tiên, núi Voi dựng, núi Cánh cổng… Mỗi trái núi là
một huyền thoại hấp dẫn. Khu Vân Long còn có 32 hang động đẹp, nhiều hang rộng

có giá trị như hang Cá, hang Bóng, hang Rùa, hang Chanh… ở đây còn có Kẽm
Chăn và đền thờ Mẫu, nơi thờ mẹ của bốn tướng Hồng Nương…
Non nước Vân Long, một cảnh núi ẩn mây trời, mây che ấp núi. Nước ở đây
mênh mông phẳng lặng, không có sóng to gió lớn, mang phong cảnh một miền quê
êm ả - một Vịnh Hạ Long không có sóng. Đây chính là một nơi du lịch sinh thái rất
tốt, là hiện trường nghiên cứu, học tập cho các nhà khoa học, sinh viên khi muốn
nghiên cứu về vùng đất ngập nước nội đồng của Việt Nam.
♦ Quần thể khu du lịch hang động Tràng An:
Nằm ở thôn Tràng An, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, cách cố đô Hoa Lư
khoảng 4km về phía Nam, diện tích trên 1.500ha, với những dải đá vôi, các thung lũng
và những dòng sông ngòi đan xen vào nhau tạo nên một không gian huyền ảo và thơ
mộng. Sau khi du khách dâng hương tưởng niệm tại hai đền vua Đinh và vua Lê, đến
bến thuyền sông Sào Khê. Từ đây những chiếc thuyền nan lướt nhẹ trên mặt nước qua
Xuyên Thuỷ Động sẽ đưa du khách vào thăm quần thể hang động Tràng An. Hai bên
dòng sông là những phong cảnh sơn thuỷ hữu tình mà thiên nhiên đã ban tặng nơi đây:
đây là núi ông Trạng, núi Hòm Sách, núi Mỏ Trả, kia là núi con mèo
Khu du lịch Tràng An có quần thể hang động như: hang Ba Giọt, hang Địa
Linh, hang Tối, hang Sáng, hang Ao Trai, hang Seo, và các thung lũng như: thung
đền Trần, thung Mây, thung Nấu rượu, thung Khống các hang xuyên thuỷ dài và
11
đẹp mới được khai thác sẽ làm cho du khách ngỡ ngàng. Tất cả dường như hoà
quyện vào nhau tạo nên một không gian kỳ thú.
♦ Tam Cốc:
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa danh nổi
tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội
100 km về phía Nam. Nơi đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều
hang động, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái Vi,
Tam Cốc, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Tam Cốc nghĩa là ba hang: hang Cả, hang Hai và hang Ba ở thôn Văn Lâm,
xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Du khách vào thăm Tam Cốc chỉ có một con đường

thủy duy nhất, vào ra mất khoảng hơn 1 giờ đồng hồ. Đến đình Các ở thôn Văn
Lâm, ra bến sông Ngô Đồng - con đường thủy dẫn vào Tam Cốc. Lúc thuyền luồn
vào ba hang, du khách sẽ cảm nhận được làn không khí trong lành, mát lạnh của
hương đồng gió nội. Thạch nhũ từ trần hang rủ xuống lô nhô óng ánh như những
khối châu ngọc kỳ ảo.
♦ Động Địch Lộng:
Động thuộc xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn, được nhân dân phát hiện từ năm
1739. Trong động có một nhũ đá giống tượng Phật nên đã lập bàn thờ Phật ở đây.
Đến năm 1740 động được nhân dân trong vùng tu bổ thành một ngôi chùa để thờ
Phật. Động rộng chừng 10 gian nhà, trong động được bày nhiều tượng Phật, tượng
La hán, tượng Hộ pháp đặt trên các bệ đá. Đặc biệt có hai tượng Phật được tạc bằng
đá xanh nguyên khối rất đẹp.
Động gồm có ba hang nối liền nhau, hang ngoài thờ Phật, rồi đến hang Tối,
hang Sáng. Vào động Địch Lộng du khách như đang lạc vào cõi trùng điệp của đá.
Nhiều nhũ đá mang hình dáng như voi uống nước, voi chầu, hổ phục, phượng múa,
rồng uống nước, khỉ cõng con… Mỗi không gian của vách động, trần động là một
bức tranh nghệ thuật, một nét chạm khắc tuyệt với của thiên nhiên, của thời gian
trên đá.
Một điều độc đáo là nhũ đá trong động thay đổi màu theo ánh sáng mặt trời.
Lúc rạng đông có màu hồng, buổi trưa lấp lánh như pha lê, và chuyển màu đỏ thẫm
12
khi hoàng hôn. Trong động còn có lối lên Trời, lối xuống Âm phủ, lối xuống Âm
phủ của động đầy huyền bí bởi nước của các nhũ đá đều đặn nhỏ giọt tạo nên một
bản nhạc không bao giờ dứt. Cảnh đẹp của Địch Lộng được vua Minh Mạng ban
tặng cho 5 chữ khi đến tham nơi đây - “Nam thiên đệ tam động” (Động đẹp thứ 3
Trời Nam).
♦ Động Tiên:
Động Tiên còn có tên gọi khác là động Móc, ở thôn Đam Khê, xã Ninh Hải,
huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách Bích Động gần 1km. Động gồm có ba hang
lớn, rộng, và cao vời vợi. Đường vào động phải đi qua một khe hang nhỏ, mấp mô.

Trần động là vân đá, nhũ đá rủ xuống lấp lánh nhiều sắc màu. Nhiều khối nhũ đá từ
trên trần rủ xuống nền động cao hơn chục mét tựa như những rễ cây đa cổ thụ.
Nhiều nhũ đá được đặt tên như: cây tiền, cây thóc, ông tiên, cô tiên, con voi, con hổ,
kỳ đà Xung quanh vách động và trên nền cũng có rất nhiều măng đá, nhũ đá.
Những nhũ đá được thiên nhiên chạm trổ vừa phóng khoáng, vừa tinh xảo mà sống
động. Đứng từ bên ngoài nhìn vào, dưới ánh sáng kỳ ảo động Tiên như một lâu đài
nguy nga tráng lệ trong huyền thoại. Đến thăm động Tiên, du khách sẽ như lạc bước
vào chốn bồng lai, tiên cảnh, được khám phá và hoà mình vào khung cảnh tự nhiên
kỳ thú.
♦ Động Sinh Dược:
Động Sinh dược thuộc địa phận thôn Xuân Trì, xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn,
là động xuyên thủy dài gần 2km. Vào động bằng một trong hai cửa, ngồi thuyền
mất hơn một giờ đồng hồ, du khách vào cửa động bên này sẽ ra cửa động bên kia.
Những dải nhũ đá thiên hình vạn trạng, quyến rũ sức tưởng tượng của du khách.
Chỗ này nhũ đá như được gọt dũa một cách tinh tế, chỗ kia như bột dẻo nặn ra rất
mềm mại. Có nhiều “con vật” như sống ở thời hồng hoang hiện về. Tùy theo hướng
ngồi và ánh sáng chiếu vào, du khách sẽ thấy nhũ đá với những dáng hình khác
nhau. Đặc biệt là có chỗ nhũ đá nhỏ li ti, có chỗ nhũ đá chảy dài xuống mặt nước,
sống trong nước như san hô. Điều kỳ lạ nữa là rất nhiều nhũ đá ở trên trần hang
trắng muốt như dát bạc, như muối trắng phau bao bọc xung quanh. Thành động là
những vách đá phẳng dựng đứng, chỗ này như đá xây, chỗ kia đá bào mòn đến trơ
13
trụi, nhẵn bóng. Chắc chắn du khách sẽ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp kỳ ảo của động và
không thể khám phá hết cái thế giới kỳ thú này chỉ thông qua một chuyến đi.
♦ Đèo Tam Điệp:
Đèo Tam Điệp còn có tên là đèo Ba Dội đã đi vào trong thơ ca của bà chúa
thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Đèo thuộc thị xã Tam Điệp, cách thị xã Ninh Bình 18km
về phía Nam. Nơi đây có 3 dãy núi đá vôi chạy suốt từ Hòa Bình về, ăn ra biển
Đông theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Chỗ núi đá hạ thấp xuống gọi là Đèo. Vì
có ba đèo liền nhau nên gọi là Tam Điệp.

Điều độc đáo ở đây là đèo Tam Điệp có đất đỏ. Từ đây, du khách có thể quan
sát cả một vùng rộng lớn. Toàn cảnh đèo là những dãy núi hùng vĩ, hiểm trở, quanh
co như những con rồng uốn khúc, đan xen là những thung lũng rộng và nhiều dòng
suối trong xanh uốn lượn. Đèo Tam Điệp không chỉ có cảnh đẹp mà còn là một
phong tuyến phòng ngự rất lợi hại, mang vị trí chiến lược trong quân sự như bức
tường thành thiên nhiên án ngữ con đường thiên lý ra Bắc vào Nam. Vì vậy, từ xa
xưa nơi đây đã được chọn là cửa ải (quận Cửu Chân - Thanh Hóa và quận Giao Chỉ
- Bắc Bộ). Như vậy, đèo Tam Điệp không chỉ là một thắng cảnh mà còn là một di
tích lịch sử nổi tiếng đã đi vào lịch sử, đi vào thơ văn của các thi nhân xưa và nay.
♦ Suối nước nóng Kênh Gà:
Suối nước nóng mặn Kênh Gà thuộc thôn Kênh Gà, xã Gia Thịnh, huyện Gia
Viễn. Du khách đến bến sông ở cống Đồng Trưa trên dòng sông Hoàng Long để bắt
đầu hành trình tham quan suối nước nóng Kênh Gà. Thuyền ngược dòng Hoàng
Long, du khách thỏa sức ngắm nhìn cảnh trời mây, sông nước. Núi Kênh gà trông
xa như hình một con lạc đà đang đi, nơi đây có một nguồn nước suối nóng mặn, vì
thế suối có tên là Kênh Gà. Dòng nước từ trong núi chảy ra, trong vắt, chưa bao giờ
ngừng. Mạch nước này có từ lâu lắm, nhưng đến năm 1940 người Pháp mới biết tới
và bắt đầu nghiên cứu và đưa vào khai thác. Nước khoáng Kênh gà chứa nhiều
muối natriclorua, kaliclorua, canxi, magieeclorua và muối Bicacbonat, nước không
màu, trong, nhiệt độ ổn định cho quanh năm là 53ºC. Nước khoáng Kênh Gà dùng
để tắm hay ngâm mình nhiều lần sẽ khỏi các bệnh như khớp mãn tính, viêm dây
thần kinh, các bệnh ngoài da và phụ khoa Nước suối Kênh gà uống vào có tác
14
dụng kích thích hoạt động của gan, mật, chữa bệnh bướu cổ, và dùng để bào chế
thành huyết thanh tiêm tĩnh mạch
♦ Động Vân Trình:
Động Vân Trình rộng gần 3.500m
2
, là một động lớn nhất và đẹp nhất của
tỉnh Ninh Bình, sánh ngang với động Thiên Cung ở Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh).

Động nằm trong núi Mõ, thuộc thôn Vân Trình xã Thượng Hòa huyện Nho Quan.
Núi Mõ là tên gọi tượng hình của dân gian, còn tên chữ thời xưa gọi là núi Thổ
Tích. Theo sách Đại Nam nhất thống chí “núi Thổ Tích cách huyện Gia Viễn 32
dặm về phía Tây, sườn núi có động, động lại chia làm hai, động trước có khe hở ánh
sáng thấu suốt, động sau rất sâu, khi vào tất phải dùng đuốc, phần này rộng rãi có
thể chứa được vài trăm người; thạch nhũ kết tụ, sắc óng ánh đáng yêu”.
Động Vân Trình gồm 2 hang liền nhau, so le một cao một thấp là hang Cả và
hang Hai. Trong cả hai hang đều là những nhũ đá đẹp như những “vách gấm”,
nhiều khối nhũ đá từ trên nóc động chảy xuống, có khối chạm đến nền hang, như
những nhánh rễ cây đa cổ thụ to lớn thả xuống mặt đất. Động Vân Trình còn giữ
nguyên được nét đẹp trinh nguyên, tinh khiết của đá. Du khách đến đây không cần
phải tưởng tượng về chốn bồng lai tiên cảnh, mà chính hang đã là cảnh thần tiên
hiện giữa cõi trần.
♦ Hồ Đồng Chương:
Một hồ nước trong nằm giữa hai xã Phú Lộc và Phú Long, huyện Nho Quan có
tên gọi là Đồng Chương. Xung quanh hồ là những dải đồi thông xanh mướt, nhấp nhô,
trùng điệp vây phủ lấy mặt hồ làm cho nước hồ đã xanh lại càng thêm xanh. Gần hồ có
thác Ba Tua, và dòng Chín Suối. Đi thăm hồ, rồi leo đồi lên đến đỉnh du khách sẽ gặp
được một hồ nước nhỏ gọi là Ao Trời, cũng trong xanh và không lúc nào cạn nước. Du
khách đến đây sẽ thấy được vẻ đẹp hòa quyện của thiên nhiên và con người nơi đây, vì
thế Đồng Chương được ví như “Đà Lạt” của Ninh Bình.
♦ Hồ Đồng Thái:
Cách thủ đô Hà Nội 115 km về phía Đông Nam hồ Đoòng Đèn và hồ Đồng
Thái trên địa bàn hai xã Đông Sơn (Thị xã Tam Điệp) và Yên Đồng (huyện Yên
Mô) có diện tích rộng hơn 380ha được bao bọc bởi dãy núi Tam Điệp hùng vĩ và
15
con đê trải dài hơn 10 km. Hồ có trữ lượng hơn 8.000.000m
3
nước với hàng trăm
loài thực vật, động vật thủy sinh không chỉ phục vụ cho tưới tiêu nông nghiệp, nuôi

trồng thủy sản mà còn là một điểm du lịch sinh thái lý tưởng.
♦ Núi chùa Bái Đính:
Ninh Bình là địa phương có nhiều hang động nổi tiếng. Trong đó, có một
động được người xưa khẳng định “Nào Địch Lộng, nào Thiên Tôn, Bàn Long, Bích
Động xem còn kém đây”, đó là hang động ở núi Bái Đính thuộc xã Gia Sinh, huyện
Gia Viễn.
Núi Bái Đính đứng độc lập, cao đến hơn 200m, có diện tích khoảng gần
150.000m
2
, quay hướng Đông, có dáng vòng cung hai bên khép lại tựa tay ngai tạo
thành một thung ở dưới rộng khoảng 3ha gọi là thung Chùa. Nhìn theo một góc
khác, núi lại trông giống một người khổng lồ ngồi quay lưng ra biển, hai chân duỗi
về phía Tây Bắc và Tây Nam. Đứng từ xa nhìn lên thấy cảnh núi ẩn mây trời, mây
che ấp núi tạo thành một bức tranh phong cảnh sơn lâm ngoạn mục. Núi Bái Đính
hiện còn giữ được cái nguyên sơ của núi rừng xa xưa, cây cối tươi tốt, có nhiều cây
cao to bao phủ núi non, xanh mướt một màu dịu mát.
Lên thăm động, du khách phải bước lên trên 300 bậc đá. Đi được nửa quãng
đường là đến hang Voi Phục, trong hang đặt tượng Đức Ông mặt đỏ - người có
nhiệm vụ trông coi toàn bộ cảnh chùa. Tiếp tục leo hết 300 bậc đá, phía bên tay phải
là động Sáng - động thờ Phật. Chiều cao của động trên 2m, dài 25m và rộng 15m,
nền hang bằng phẳng. Một điều rất kỳ lạ là trần hang không có các nhũ đá chảy
xuống mà bằng phẳng, nhẵn lỳ. Chỉ lác đác ở thành hang có nhũ đá. Tương truyền,
xưa kia Thiền sư Nguyễn Minh Không (1065-1141) khi đến đây tìm cây thuốc đã
phát hiện ra động này và từ đó biến làm động thờ Phật.
Đối diện với động Sáng thờ Phật là động Tối thờ Liễu Hạnh - bà chúa Thượng
Ngàn. Động Tối cao và rộng hơn gồm 7 hang, mỗi hang có cấu tạo khác nhau, có hang
ở trên cao, có hang ở sâu hơn 4m, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng như
lòng chảo nhưng đều thông nhau theo các ngách đá. Hang giữa rộng nhất là nơi thờ bà
chúa Thượng Ngàn, tượng bằng đá được sơn son thiếp vàng. Du khách đi thăm quan
núi Bái Đính không chỉ thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, mà điều quan trọng là

16
yêu thích khám phá thiên nhiên, tìm thấy sự đồng cảm, sự giao hòa giữa con người và
thiên nhiên, từ đó nâng tâm hồn con người thêm phong phú.
Thời kỳ Cách mạng tháng 8 năm 1945, núi chùa Bái Đính là nơi hoạt động bí
mật của các chiến sỹ cộng sản. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, núi chùa Bái Đính là nơi ở, làm việc của công an, bộ đội, ban tôn giáo vận khu
ủy… Nơi đây cũng dùng làm khu vũ khí, kho quân lương, bệnh viện… rất an toàn.
Ngày 18/6/1997 Bộ Văn hóa Thông tin đã ra quyết định số 1543, cấp bằng “Di tích
lịch sử văn hóa Núi Chùa Bái Đính”. Hiện nay, khu vực núi chùa Bái Đính đã được
UBND tỉnh phê duyệt dự án tu bổ tôn tạo lại chùa Bái Đính thành một tổ hợp vui
chơi giải trí, văn hóa tín ngưỡng tâm linh vào loại lớn của tỉnh và vùng đồng bằng
Sông Hồng. Chùa Bái Đính đã được đầu tư tu bổ, tôn tạo khang trang hơn, với pho
tượng Phật ngồi bằng đồng nặng 150 tấn (to nhất khu vực Đông Nam á), 3 pho
tượng Tam thế nặng 100 tấn và quả chuông đồng nặng 50 tấn. Ngoài ra, còn có khu
vườn tượng với 108 pho tượng các vị la hán được chế tác từ đá xanh Ninh Bình.
Khi dự án hoàn thành, nơi đây sẽ là một trung tâm dịch vụ du lịch lịch văn hóa tín
ngưỡng hấp dẫn.
Ngoài các điểm danh lam thắng cảnh trên, Ninh Bình còn có nhiều vùng
cảnh quan khác có giá trị, đặc biệt là hệ thống các hang động karst nằm trải dài dọc
theo lãnh thổ của tỉnh Ninh Bình (đáng chú ý là khu vực huyện Yên Mô và Tam
Điệp) trong đó đáng chú ý như động Mã Tiên, động Hang Mát, động Trà Tu, động
chùa Hang, hang Dơi, hang Bụt đều là những tài nguyên du lịch có giá trị; cùng
với hệ thống các hồ thủy lợi như hồ Yên Thắng, hồ Yên Đồng bên cạnh việc cung
cấp nước cho thủy lợi, sinh hoạt còn sẽ là những điểm tài nguyên du lịch sinh thái
hồ có nhiều khả năng hấp dẫn du khách.
♦ Hệ sinh thái vùng ven biển:
Với 18 km đường bờ biển nơi có cửa sông đổ ra với sự hình thành 2 cồn nổi
(Cồn Thoi và Hòn Nẹ), thảm thực vật ngập mặn đã hình thành tạo thành nơi cư trú
của nhiều loài sinh vật, đặc biệt là một số loài chim di cư quý hiếm như Cò thìa…
Đây cũng là một dạng tài nguyên du lịch tự nhiên có ý nghĩa đối với sự phát triển

du lịch của Ninh Bình.
17
1.1.3.2 Những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán ảnh hưởng tới phát triển
ngành du lịch của tỉnh.
Tài nguyên du lịch nhân văn là những giá trị vật chất cũng như tinh thần do
bàn tay và khối óc của sự đoàn kết của cộng đồng các dân tộc anh em cùng chung
sống ở Ninh Bình sáng tạo và gìn giữ trong dòng chảy của cuộc sống. Các tài
nguyên này bao gồm những di tích lịch sử - văn hóa, di tích lịch sử - cách mạng, các
làng nghề thủ công truyền thống, những giá trị văn hóa phi vật thể như văn nghệ
dân gian, lễ hội thể hiện bẳn sắc văn hóa hết sức đa dạng của nhân dân Ninh Bình
và là nguồn lực thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
1.1.3.2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa
♦ Cố đô Hoa Lư
Cố đô Hoa Lư là kinh đô của nhà nước phong kiến tập quyền ở nước ta, thuộc
xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, nằm trên một diện tích trải rộng khoảng 400ha.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên
nước là Đại Cồ Việt và chọn Hoa Lư là kinh đô. Kinh đô Hoa Lư tồn tại 41 năm (từ
năm 968 đến năm 1009) trong đó 12 năm là triều đại nhà Đinh và 29 năm kế tiếp là
triều đại nhà Tiền Lê (người đầu tiên là Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Lê Đại
Hành). Trước khi rời đô về kinh thành Thăng Long, Lý Công Uẩn lên ngôi vua tại
Hoa Lư, lấy đế hiệu là Lý Thái Tổ.
Hơn ngàn năm trước, Hoa Lư là đế đô thật nguy nga, tráng lệ. Những núi đồi
trùng điệp xung quanh vòng đai kinh đô như tấm bình phong; sông Hoàng Long
uốn khúc và cánh đồng Hoa Lư Nho Quan, Gia Viễn mênh mông là hào sâu thiên
nhiên rất thuận lợi về mặt quân sự. Khu thành Hoa Lư rộng đến 300ha. Thành gồm
hai khu là khu trong và khu ngoài, thông với nhau bằng một lối đi nhỏ hẹp và hiểm
trở. Mỗi khu gồm có nhiều vòng, nhiều tuyến nhỏ. Theo truyền thuyết, cung điện
được xây ở thành ngoài. ở phía Đông có lối đi chính vào thành. Đến năm 1010 Lý
Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, từ đó kinh đô Hoa Lư trở thành cố đô.
Ngày nay trên nền cung điện năm xưa là hai ngôi đền cách nhau chừng 500m. Một

đền thờ Đinh Tiên Hoàng và một đền thờ Lê Đại Hành. Về thăm lại đất Hoa Lư là
dịp để chúng ta chiêm ngưỡng các công trình kiến trúc, những nét đẹp của toàn bộ
18
khu di tích, ghi dấu thời kỳ mở nước huy hoàng, độc lập, tự chủ của đất nước Đại
Cồ Việt từ ngàn năm về trước
♦ Đền vua Đinh (làng Trường Yên Thượng, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư):
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Đền toạ lạc trên khuôn viên diện tích chừng
5 ha, thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17, theo
kiểu “nội công, ngoại quốc”. Lớp ngoài là Ngọ môn quan (cổng ngoài) có 3 gian
lợp ngói. Qua một sân ngắn vào đến lớp thứ hai là đến Nghi môn (cổng trong) 3
gian dựng bằng gỗ lim kiến trúc theo 3 hàng chân cột. Bốn góc ngoài của Nghi môn
nội có xây bốn cột trụ cao. Đi hết chính đạo, qua hai cột trụ lớn là đến sân rồng.
Giữa sân rồng có một long sàng bằng đá xung quanh chạm nổi, dài 1,8m, rộng
1,4m. Hai bên sập rồng có 2 con nghê đá chầu, được tạc trên hai tảng đá xanh
nguyên khối đẹp.
Từ sân rồng bước lên là Bái đường 5 gian, kiến trúc độc đáo. Tiếp đến là
Thiêu hương, kiến trúc theo kiểu ống muống, nơi thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh. Đi
hết toà Thiêu hương du khách bước vào chính cung 5 gian. Gian giữa thờ tượng vua
Đinh được đúc bằng đồng đặt trên bệ thờ bằng đá xanh nguyên khối. Hai bên bệ đá
có hai con rồng chầu bằng đá, tạc theo kiểu yên ngựa. Gian bên phải thờ tượng Đinh
Hạng Lang (ngoài), Đinh Toàn (trong) đều quay mặt về phía Bắc, là hai con thứ của
vua Đinh Tiên Hoàng. Gian bên trái thờ tượng Đinh Liễn quay mặt về phía nam là
con trưởng của vua Đinh Tiên Hoàng.
Đền Đinh Tiên Hoàng là một kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm khắc
gỗ và đá của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17 - 19. Đền vua Đinh nằm
giữa các tán cây đại thụ, các vườn cây ăn quả, cây cảnh đan xen nhau càng tạo nên
vẻ bề thế, hoành tráng tôn nghiêm của ngôi đền.
♦ Đền vua Lê (làng Trường Yên Hạ, xã Trường Yên, huyện Hoa Lư):
Đền thờ vua Lê Đại Hành cách đền vua Đinh chừng 300m. Đền nằm ở làng
Trường Yên Hạ nên còn gọi là đền Hạ. Trước mặt đền là núi Đèn, sau lưng là núi

Đìa. Đền có qui mô nhỏ hơn đền vua Đinh. Qua Nghi môn ngoại (cửa ngoài) theo
đường chính đạo lát gạch, phía bên trái là một hòn non bộ lớn, cao 3m tượng hình
chim phượng múa, mỏ quay vào đền, hai cánh như đang bay. Bên tay phải là nhà
19
Tiền bái, ở mặt tiền có hòn non bộ “Hổ phục” gồm gốc cây duối thân to có 9 núi,
tuổi thọ trên 300 năm. Bên trái nhà Tiền bái có hòn non bộ có dáng “voi quỳ” được
khắc hai chữ Hán “Bất di”.
Qua Nghi môn nội (cửa trong) cũng 3 gian, theo chính đạo kiến trúc đăng đối
là hai vườn hoa, tiếp đó là hai dãy nhà vọng. ở giữa vườn hoa bên phải có hai non
bộ “Phượng ấp”, bên trái là hòn non bộ “Long Mã”. ở sân rồng gần gian giữa của
Bái đường có long sàng bằng đá. Đền có ba toà: toà ngoài là Bái đường; toà giữa là
Thiêu hương thờ Phạm Cự Lượng (người có công với vua Lê Đại Hành) và Chính
cung nơi đặt tượng vua Lê Đại Hành (gian giữa), tượng thái hậu Dương Vân Nga
(bên trái) và tượng Lê Long Đĩnh con thứ 5 của vua Lê (bên phải). Điều đặc biệt ở
đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm khắc gỗ ở thế kỷ 17 đã đạt đến trình
độ điêu luyện, tinh xảo. Đền được xây dựng để tỏ lòng biết ơn của nhân dân đối với
ông vua đã có công lớn lao trong việc xây dựng đất nước vào thế kỷ thứ 10.
♦ Nhà thờ đá Phát Diệm
Nhà thờ đá Phát Diệm (thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn): cách Hà Nội
129 km về phía Nam, được xây dựng từ năm 1875 đến năm 1898. Phát Diệm có
nghĩa là phát sinh ra cái đẹp, tên Phát Diệm do Nguyễn Công Trứ đặt. Nhà thờ được
xây dựng với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ
19 thì chỉ việc vận chuyển hàng nghìn tấn đá, có những phiến nặng 20 tấn, hàng
trăm cây gỗ lim về tới Phát Diệm để xây nhà thờ cũng là một kỳ công. Kim Sơn vốn
là vùng đất mới khai khẩn, trước đây rất lầy lội, để xử lý độ lún của khu đất trước
khi xây dựng người ta đã chuyển cả một quả núi nhỏ cách 40km về Phát Diệm,
khách về thăm nhà thờ còn thấy núi Sọ, đấy chính là một phần của trái núi đã được
dân rời về Phát Diệm. Đây là một quần thể kiến trúc gồm có: Ao hồ, Phương Đình,
Nhà thờ lớn, Nhà nguyện kinh thánh Rô Cô, Nhà nguyện kinh trái tim chúa, Nhà
nguyện kinh thánh Giu-Se, Nhà nguyện kinh thánh Phê-Rô, ba hang đá nhân tạo,

nhà thờ đá.
♦ Đền Thái Vy:
Đền Thái Vy được xây dựng theo kiểu “nội công, ngoại quốc”. Trước đền có
giếng Ngọc xây bằng đá xanh. Qua nghi môn phía bên phải là gác chuông hai tầng,
20
tám mái, xây theo kiểu chồng diêm. Gác chuông làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi
hài, các đầu đao cong vút như đuôi chim phượng. Bên hông có quả chuông đúc năm
1698. Từ sân rồng bước theo các bậc đá có độ cao 1,2m là đến Ngũ Đại môn (5 cửa
lớn), có 6 cột đá tròn song song đều được chạm khắc nổi chầu và chính điện. Qua 5
cửa lớn là đến Bái Đường 5 gian uy nghi cũng có 6 cột đá vuông chạm khắc câu đối
ở mặt ngoài, các mặt khác chạm khắc nổi: long, ly, quy, phượng, cá chép hoá long.
Tiếp theo 4 hàng cột, đều được chạm khắc nổi long vân. Qua Trung đường vào 5
gian Chính tẩm cũng có 8 cột đá tròn được chạm khắc nổi: cầm, kỳ, thi, họa. Trong
cung khám của Chính Tẩm giữa là tượng Trần Thánh Tông, bên trái là tượng Trần
Thái Tông, bên phải là tượng hoàng hậu Thuận Thiên. Ngoài ra, trong Chính Tẩm
còn phối thờ Trần Nhân Tông (bài vị thờ), Trần Anh Tông.
Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 3 (âm lịch), lễ hội đền Thái Vy được tổ
chức, gọi là quốc lễ. Đây là dịp để nhân dân Ninh Bình và nhân dân cả nước tưởng
nhớ công lao các vua Trần - những người có công lớn với dân, với nước. Hình thức
tổ chức lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ được tiến hành hai hình
thức: rước kiệu và tế. Phần hội ở đền Thái Vy thực sự là phần vui chơi giải trí của
nhân dân và những người đến dự với các trò múa lân, múa rồng, đánh cờ người, đấu
vật, bơi thuyền
♦ Đền đức Thánh Nguyễn
Đền đức Thánh Nguyễn (đền Nguyễn Minh Không): tọa lạc tại xã Gia
Thắng, huyện Gia Viễn, thờ quốc sư Nguyễn Minh Không.
Nguyễn Minh Không sinh ngày 15/10 năm ất Tỵ (1065), đời vua Lý Thánh
Tông, tại Đàm Xá phủ Trường Yên, tên tự là Chí Thành. Năm 11 tuổi ông xuất giá,
thụ giáo đạo Phật với Từ Đạo Hạnh (? - 1117) người làng Yên Lãng (nay thuộc
huyện Từ Liêm, Hà Nội) là bậc cao tăng nổi tiếng. Trở thành nhà tu hành với pháp

danh Minh Không, ông đã lập ra nhiều chùa và trụ trì nhiều chùa. Trong chùa
Quỳnh Lâm ở Quảng Ninh, do Nguyễn Minh Không sáng lập, hiện còn lưu giữ một
pho tượng Phật Di lặc bằng đồng cao 6 trượng, được coi là một trong “An Nam tứ
đại khí” (Bốn báu vật lớn của Việt Nam). Không chỉ là một nhà tu hành lớn,
Nguyễn Minh Không còn là một danh y. Tương truyền, khi vua Lý Thần Tông mắc
21
trọng bệnh, Ngài được mời về cung chữa trị cho vua khỏi bệnh và được vua ban cho
hiệu “Quốc sư”, từ đó ngài được gọi là “Lý Quốc sư”. Nguyễn Minh Không còn được
suy tôn là ông tổ của nghề đúc đồng. Vua Lý Anh Tông (1138-1175) cho lập đền thờ ở
Kinh đô (phố Lý Quốc Sư ngày nay); Ngài còn được thờ ở chùa Keo xã Xuân Hồng
huyện Giao Thủy Nam Định; chùa Địch Lộng xã Gia Thanh huyện Gia Viễn Ninh
Bình và ở nhiều chùa ở các nơi khác trong cả nước và được tôn là Bậc Thánh.
Đền đức Thánh Nguyễn vốn là một ngôi chùa nhỏ do chính ông xây dựng
vào khoảng năm 1121. Đền được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc trên một
khu đất rộng gần 2 mẫu. Đền quay hướng Nam, trước đền có một con ngòi hình
rồng chín khúc (một nhánh của sông Hoàng Long), xa hơn nữa là sông Hoàng
Long, rồi đến các dãy núi phía Tây Nam có núi Rồng, núi Rắn, núi Phượng, núi
Voi, núi Đính. Bài vị của đức Thánh Nguyễn được thờ ở gian giữa của Chính Tẩm,
phía sau bài vị là bát hương và tượng Thánh ở tuổi 40 ngồi xếp bằng trong tư thế
thiền định.
1.1.3.2.2 Các lễ hội
Với lịch sử hình thành lâu đời, là nơi sinh sống của một số dân tộc thiểu số
như Mường, Tày, Nùng, Thái, Dao…, lại có truyền thống đấu tranh anh dũng, cần
cù lao động, chất phác, thật thà đã tạo nên một sắc thái văn hóa đặc trưng riêng có
của Ninh Bình. Các lễ hội như lễ hội Trường Yên, lễ hội đền Thái Vi, lễ hội chùa
Bái Đính, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ…, các làng nghề truyền thống như làng thêu
ren Ninh Hải, làng nghề chiếu cói Kim Sơn, làng chạm khắc đá Ninh Vân… góp
phần tạo nên một hệ thống tài nguyên du lịch văn hóa hấp dẫn, có giá trị để phát
triển du lịch.
* Lễ hội Trường Yên: Hội được tổ chức vào ngày mồng 10 đến 13 tháng 3

âm lịch hàng năm tại xã Trường Yên, Huyện Hoa Lư (Cố đô Hoa Lư) để tưởng nhớ
công đức vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành, bao gồm hai phần lễ và hội.
Phần Lễ Tổ chức rước nước ở bến Trường Yên (sông Hoàng Long) và được tổ
chức tế lễ rất trang nghiêm ở hai đền vua Đinh và vua Lê. Phần Hội: Tổ chức diễn
trò “Cờ lau tập trận”, thi viết chữ nho, cờ tướng, múa rồng, kéo chữ Mùa xuân
trẩy hội Trường Yên cũng là dịp du khách đi thăm di tích đền vua Đinh, đền vua Lê,
22
thăm lăng vua Đinh trên đỉnh núi Mã Yên, độ cao khoảng 150m, tưởng nhớ về
nguồn cội, tổ tiên - một vùng đất “địa linh nhân kiệt”.
* Lễ hội đền Thái Vi: Hội được tổ chức hàng năm từ ngày 14 đến ngày 17
tháng 3 âm lịch tại thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Đây là dịp để nhân
dân Ninh Bình và nhân dân cả nước tưởng nhớ công lao các vua Trần - những
người có công lớn với dân với nước. Phần Lễ được tiến hành dưới hai hình thức:
rước kiệu và tế. Rước kiệu ở đền Thái Vi không chỉ có một đoàn, mà là trên 30
đoàn của các xã trong huyện Hoa Lư và trong tỉnh Ninh Bình. Sau phần rước kiệu là
đến phần tế. Tế là nghi lễ quan trọng được tổ chức trước đền. Phần Hội ở đền Thái
Vi thực sự là phần vui chơi giải trí của nhân dân và những người đến dự hội, gồm
các trò: múa lân, múa rồng, đánh cờ người, đấu vật, bơi thuyền ngoạn mục.
* Lễ hội đền Địch Lộng: Lễ hội được tổ chức vào hai ngày: mùng 6 và
mùng 7 tháng 3 (âm lịch) tại chùa Địch Lộng thuộc huyện Gia Thanh, huyện Gia
Viễn. Phần Lễ tổ chức dâng hương và lễ Phật theo nghi thức nhà Phật. Phần Hội
cũng tổ chức các trò chơi dân gian như: múa lân, múa rồng, cờ tướng, thi viết chữ
nho
* Lễ hội chùa Bái Đính: được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng giêng hàng
năm tại thôn Sinh Dược xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn. Cũng như các lễ hội khác,
hội gồm có hai phần là phần lễ và phần hội. Phần Lễ thường tổ chức dâng hương,
tưởng nhớ các vị anh hùng có công với nước với dân. Phần Hội kéo dài từ 3 đến 5
ngày, tổ chức các trò chơi dân gian như: đánh cờ, đấu vật
* Lễ hội Báo bản Nộn Khê: Lễ hội được tổ chức vào ngày 14 tháng giêng
(âm lịch) hàng năm tại đình làng Nộn Khê, xã Yên Từ, huyện Yên Mô. Phần Lễ

ngoài việc tổ chức tế, dâng hương tôn vinh công đức của các vị tiền bối lập ra làng
xã, còn dâng hương tưởng nhớ, tỏ lòng biết ơn các liệt sỹ là con em của làng. Một
nét độc đáo của lễ hội Báo bản là kính báo lên Thành Hoàng, các bậc tiên tổ về sự
thành đạt, hiếu học của con em dân làng và những thành tích của làng đã đạt được
trong năm cũ. Phần Hội cũng có những trò vui chơi giải trí như các lễ hội khác.
* Lễ hội đền Nguyễn Công Trứ: tổ chức vào 3 ngày, từ ngày 13 đến ngày 15
tháng 11 (âm lịch) tại đền Nguyễn Công Trứ thuộc xã Quang Thiện, huyện Kim
23

×