Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Giải pháp hoàn thiện chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.57 KB, 63 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình hội nhập quốc tế Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh công cuộc
cải cách nền kinh tế một cách sâu sắc và toàn diện. Một trong những nội dung đặc biệt
quan trọng là yêu cầu đổi mới hoạt động ngành ngân hàng. Với đặc thù “kinh doanh
quyền sử dụng tiền tệ”, hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, liên quan đến
nhiều tác nhân, rất nhạy cảm với sự biến động của nền kinh tế, dễ dẫn đến những đổ vỡ
dây chuyền, ảnh hưởng đến toàn nền kinh tế. Vấn đề an toàn của hệ thống tài chính ngân
hàng được đặt lên hàng đầu, ngoài các hoạt động quản trị, điều hành thì các ngân hàng
không thể thiếu được hệ thống kiểm soát kiểm toán nội bộ hiệu quả. Một hệ thống kiểm
soát kiểm toán nội bộ vững mạnh có thể giúp đảm bảo đạt được các mục tiêu của ngân
hàng và duy trì công tác báo cáo tài chính và báo cáo quản trị đáng tin cậy; đảm bảo
tuân thủ luật pháp và các quy định, chính sách nội bộ của ngân hàng, giảm thiểu rủi ro
dẫn đến các khoản tổn thất không mong muốn hoặc gây ảnh hưởng đến danh tiếng của
ngân hàng.
Các quy định của Uỷ ban Basel đã nhấn mạnh tầm quan trọng và sự cần thiết phải
duy trì hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong ngân hàng thương mại. Việc phát
sinh những khoản thiệt hại đáng kể mà các ngân hàng trên thế giới phải gánh chịu trong
những năm gần đây đã buộc các ngân hàng phải chú ý nhiều hơn tới kiểm soát kiểm
toán nội bộ. Khi phân tích những vấn đề liên quan đến những khoản thiệt hại này, Uỷ
ban Basel đã chỉ ra rằng các ngân hàng có thể tránh được thiệt hại nếu duy trì một hệ
thống kiểm soát kiểm toán nội bộ hiệu quả, thực hiện kiểm soát trên tất cả các mặt hoạt
động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Kiểm soát, kiểm toán nội bộ sẽ ngăn
chặn hoặc tìm ra những nguyên nhân dẫn đến các khoản thiệt hại, qua đó hạn chế tổn
thất cho ngân hàng.
Ở Việt Nam, công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp đã bắt đầu
được các nhà quản trị quan tâm. Đối với các Ngân hàng thương mại, trong đó có Ngân
hàng TMCP Công thương VN, hoạt động tín dụng đã và đang là hoạt động chính, mang
lại thu nhập chủ yếu nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, hiện nay hoạt động này đang
còn nhiều bất cập, chưa ngăn chặn, chưa phát hiện kịp thời các sai phạm, chưa hạn chế
được rủi ro, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu tương đối cao. Vì vậy, nếu có giải


pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt
động tín dụng là rất cần thiết để hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần
nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
1
Từ thực tế trên, việc nghiên cứu giải pháp để tăng cường kiểm soát, kiểm toán nội
bộ của các ngân hàng thương mại nói chung cũng như đối với NHCTVN nói riêng trở
nên hết sức cần thiết và có tính thời sự trong nền kinh tế hội nhập.
Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp
Tên đề tài: “Giải pháp hoàn thiện chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối
với hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương VN”
Phần nội dung của chuyên đề được trình bày trong 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương VN
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hệ thống kiểm
soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương
VN
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT KIỂM
TOÁN NỘI BỘ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Những vấn đề cơ bản về hệ thống kiểm soát kiểm toán nội bộ đối với ngân hàng
thương mại
1.1 Hệ thống kiểm soát nội bộ
1.1.1 Khái niệm về hệ thống kiểm soát nội bộ
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), kiểm soát nội bộ là tất cả các chính sách,
thủ tục do nhà quản lý của tổ chức lựa chọn áp dụng để đảm bảo đạt được các mục tiêu
quản trị, quản lý có hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Uỷ ban Basel về giám sát hoạt động ngân hàng cho rằng: Kiểm soát nội bộ là
một cơ chế để giảm thiểu gian lận, sai sót, biển thủ tài sản và nhằm vào tất cả các rủi ro
mà ngân hàng đang phải đối mặt. Nó không chỉ là một thủ tục hay chính sách được thực

hiện ở một thời điểm nào đó mà là hoạt động liên tục diễn ra tại mọi cấp trong ngân
hàng.
Theo Quyết định 36/2006/NHNN của Ngân hàng Nhà nước VN thì Hệ thống
kiểm tra, kiểm soán nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, qui trình, qui định nội bộ,
2
cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng được thiết lập trên cơ sở phù hợp với qui định pháp
luật hiện hành và được tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo phòng ngừa, phát hiện, xử lý
kịp thời các rủi ro và đạt được các mục tiêu mà tổ chức tín dụng đó đặt ra.
Vậy có thể hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ là các chính sách, quy trình, thông lệ
và cơ cấu tổ chức được thiết lập nhằm có được sự đảm bảo ở mức độ hợp lý rằng ngân
hàng sẽ đạt được các mục tiêu kinh doanh và phòng ngừa, phát hiện hoặc khắc phục các
sự việc xảy ra ngoài mong muốn. Là công cụ quản lý rủi ro được hoà nhập vào chính
hoạt động của đơn vị, kiểm soát nội bộ là công việc của tất cả mọi người, ở mọi khâu
công việc.
1.1.2. Mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ
Theo Liên đoàn quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết lập nhằm đạt được
bốn mục tiêu: bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm
việc thực hiện các chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả của hoạt động
Bảo vệ tài sản của đơn vị: Tài sản của đơn vị có thể bị đánh cắp, lạm dụng vào
những mục đích khác nhau hoặc bị hư hại nếu không được bảo vệ bởi hệ thống kiểm
soát thích hợp.
Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin: các thông tin cung cấp phải đảm bảo tính
kịp thời về thời thời gian, tính chính xác và tin cậy về thực trạng hoạt động và phản ánh
đầy đủ và khách quan các nội dung chủ yếu của mọi hoạt động kinh tế, tài chính.
Đảm bảo việc thực hiện các chế độ pháp lý: Hệ thống kiểm soát nội bộ được
thiết kế phải đảm bảo các quyết định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt động của đơn
vị phải được tuân thủ đúng mức.
Đảm bảo hiệu quả của hoạt động và năng lực quản lý: Các quá trình kiểm soát
được thiết kế nhằm ngăn ngừa sự lặp lại không cần thiết các tác nghiệp, gây ra sự lãng
phí trong hoạt động và sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực trong doanh nghiệp

1.1.3. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ
a/ Môi trường kiểm soát: bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong đơn vị và bên ngoài ngân
hàng có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của kiểm
soát nội bộ.
Môi trường kiểm soát tạo ra phong thái của toàn doanh nghiệp và có ảnh hưởng tới ý
thức về kiểm soát của các nhân viên; là nền móng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Môi
trường kiểm soát bao gồm phương châm và phong cách kinh doanh của Ban lãnh đạo,
3
hiệu quả của cơ cấu tổ chức, tính hợp lý của các kế hoạch và mức độ tin cậy của các ước
tính của Ban lãnh đạo.
b/ Hệ thống kế toán: Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của Ngân hàng, một
hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo các mục tiêu kiểm soát chi tiết. Đảm bảo những
nghiệp vụ có thực mới được ghi vào sổ sách, mọi nghiệp vụ phải được phê chuẩn hợp lý,
đảm bảo phản ánh trọn vẹn đầy đủ các nghiệp vụ phát sinh và việc ghi chép được thực
hiện kịp thời theo quy định
c/ Các thủ tục kiểm soát: Các thủ tục kiểm soát do các nhà quản lý xây dựng dựa trên ba
nguyên tắc: Nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công phân nhiệm, Chế độ ủy
quyền
Nguyên tắc phân công phân nhiệm: Trách nhiệm và công việc cần được phân chi cụ thể.
Việc phân công phân nhiệm rõ ràng tạo ra sự chuyên môn hóa trong công việc, sai sót ít
xảy ra và khi xảy ra dễ phát hiện.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Nguyên tắc này quy định sự cách ly thích hợp về trách
nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và hành vi lạm
dụng, không bố trí kiêm nhiệm các nhiệm vụ phê chuẩn và thực hiện, thực hiện và kiểm
soát, ghi sổ tài sản và bảo quản tài sản.
Nguyên tắc ủy quyền và phê chuẩn: Theo sự ủy quyền, các cấp dưới được giao cho
quyết định và giải quyết một số công việc trong một phạm vi nhất định. Quá trình ủy
quyền được tiếp tục mở rộng xuống các cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia
trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất tính tập trung.
d/ Kiểm toán nội bộ: Là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội

bộ của doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả của
việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về kiểm soát nội bộ
1.1.4. Các nguyên tắc của hệ thống kiểm soát nội bộ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về 9 nguyên tắc cơ bản của hệ thống kiểm
tra, kiểm soát nội bộ(Điều 5 Quyết định 36/2006/NHNN):
Một là : Mọi rủi ro có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả và mục tiêu hoạt
động của tổ chức tín dụng đều phải được nhận dạng, đo lường, đánh giá một cách
thường xuyên, liên tục để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa và có biện pháp quản lý rủi ro
thích hợp. Mỗi khi có sự thay đổi về các mục tiêu kinh doanh, các sản phẩm, dịch vụ và
4
các hoạt động kinh doanh mới, tổ chức tín dụng phải rà soát, nhận dạng các rủi ro liên
quan để xây dựng, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, qui trình, qui định kiểm tra, kiểm soát
nội bộ phù hợp.
Hai là: Hsoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ là một phận không tách rời của các
hoạt động hàng ngày của tổ chức tín dụng. Cơ chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ được thiết
kế, cài đặt ngay trong mọi qui trình nghiệp vụ, tại tất cả các đơn vị, bộ phận của tổ chức
tín dụng dưới nhiều hình thức như :
- Cơ chế phân cấp uỷ quyền rõ ràng, minh bạch; đảm bảo tách bạch nhiệm vụ,
quyền hạn của các cá nhân, các bộ phận trong tổ chức tín dụng.
- Cơ chế kiểm tra chéo giữa các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia một qui trình
nghiệp vụ.
- Qui định về hạn mức rủi ro cụ thể đối với từng cá nhân, bộ phận trong việc thực
hiện các giao dịch.
- Qui trình và cơ chế thẩm định, kiểm tra, chấp thuận và duyệt cho phép thực hiện
các giao dịch; đảm bảo một qui trình nghiệp vụ phải có ít nhất 2 cán bộ thực hiện, không
có cá nhân nào có thể một mình tiến hành thực hiện và quyết định một qui trình nghiệp
vụ, một giao dịch cụ thể, ngoại trừ những giao dịch trong hạn mức được tổ chức tín
dụng cho phép phù hợp với qui định của pháp luật.
Ba là: cơ chế phân cấp uỷ quyền phải được thiết lập, thực hiện một cách hợp lý,

cụ thể, rõ ràng, tránh các xung đột lợi ích; đảm bảo một cán bộ không đảm nhiệm cùng
một lúc những cương vị, nhiệm vụ có mục đích, quyền lợi mâu thuẫn hoặc chồng chéo
với nhau; đảm bảo mọi cán bộ trong tổ chức tín dụng không có điều kiện để thao túng
hoạt động, bưng bít thông tin phục vụ các mục đích cá nhân hoặc che dấu các hành vi, vi
phạm qui định của pháp luật và qui định nội bộ.
Bốn là: đảm bảo chấp hành chế độ hạch toán, kế toán theo qui định và phải có hệ
thống thông tin nội bộ về tài chính, về hoạt động, về tình hình tuân thủ trong tổ chức tín
dụng và tình hình kinh tế, thị trường bên ngoài hợp lý, tin cậy, kịp thời nhằm phục vụ
cho công tác quản trị, điều hành có hiệu quả.
Năm là: hệ thống thông tin, tin học của tổ chức tín dụng phải được giám sát, bảo
vệ một cách hợp lý, an toàn và phải có cơ chế quản lý dự phòng độc lập (back- up) nhằm
xử lý kịp thời những tình huống bất ngờ như thiên tai, cháy, nổ… để đảm bảo hoạt động
kinh doanh thường xuyên, liên tục của tổ chức tín dụng.
5
Sáu là: đảm bảo mọi cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng đều phải quán triệt
được tầm quan trọng của hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ; vai trò của từng cá nhân
trong quá trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ có liên quan đến chức năng nhiệm vụ của bản
thân họ và phải tham gia thực hiện một cách đầy đủ và có hiệu quả các qui đinh, qui
trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ liên quan.
Bảy là: người điều hành các bộ phận, đơn vị nghiệp vụ, các cá nhân có liên quan
phải thường xuyên xem xét, đánh giá về tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra,
kiểm soát nội bộ; mọi khiếm khuyết của hệ thống này phải được báo cáo kịp thời với
cấp quản lý trực tiếp; những khiếm khuyết lớn có thể gây tổn thất hoặc nguy cơ rủi ro
phải được báo cáo ngay cho Tổng Giám đốc (Giám đốc), Hội đồng quản trị, Ban Kiểm
soát.
Tám là: tất cả các cá nhân, các bộ phận ở mọi cấp của tổ chức tín dụng phải
thường xuyên, liên tục kiểm tra và tự kiểm tra việc thực hiện các qui định, qui trình nội
bộ có liên quan và phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện hoạt động nghiệp vụ của
mình trước tổ chức tín dụng và pháp luật.
Chín là: lãnh đạo tại các đơn vị, bộ phận của tổ chức tín dụng phải báo cáo, đánh

giá về kết quả kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại đơn vị mình; đề xuất biện pháp xử lý đối
với những tồn tại, bất cập (nếu có) gửi lãnh đạo cấp quản lý “trực tiếp” theo định kỳ
hoặc đột xuất theo yêu cầu của lãnh đạo cấp quản lý trực tiếp.
1.2. Kiểm toán nội bộ
1.2.1 Khái niệm về kiểm toán nội bộ
Theo Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ quốc tế (IIA) “Kiểm toán nội bộ là một
chức năng đánh giá độc lập bên trong tổ chức, để kiểm tra và đánh giá các hoạt động
của tổ chức, như là một hoạt động phục vụ tổ chức”
Theo Uỷ ban Basel về giám sát hoạt động ngân hàng“Kiểm toán nội bộ là hoạt
động đảm bảo và tư vấn độc lập, khách quan nhằm gia tăng giá trị và nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức”
Theo Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 của Ngân hàng Nhà
nước VN “Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập,
khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ; đánh giá độc lập về tính thích
hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong tổ chức tín
dụng, thông qua đó đơn vị thực hiện kiểm toán nội bộ đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm
6
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp
phần đảm bảo tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật”.
Như vậy, Kiểm toán nội bộ là một bộ phận chuyên trách, hoạt động độc lập và
khách quan được thành lập bên trong một tổ chức nhằm mang lại cho tổ chức sự đảm
bảo về khả năng kiểm soát các hoạt động của tổ chức, tư vấn cho tổ chức các giải pháp
chấn chỉnh hoạt động của mình, góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho tổ chức.
1.2.2. Sự cần thiết của kiểm toán nội bộ
Một hệ thống kiểm soát nội bộ cho dù được thiết lập tốt đến đâu thì cũng khó
tránh khỏi những hạn chế bởi:
- Trình độ của cán bộ nghiệp vụ , đặc biệt là với những lĩnh vực, sản phẩm mới
- Quá trình công tác của cán bộ nghiệp vụ đã trở nên mệt mỏi nên để xảy ra sai
sót
- Cơ chế kiểm tra kiểm soát gắn liền với quy trình nghiệp vụ trở nên vô hiệu khi

có sự cấu kết, thông đồng.
- Có những cán bộ tha hoá biến chất, cố tình gian lận
- Có sự can thiệp của lãnh đạo
Do đó cần phải thiết lập hệ thống kiểm toán nội bộ chuyên trách để khắc phục
những hạn chế của cơ chế kiểm tra, kiểm soát gắn liền với quy trình nghiệp vụ. Bằng
việc tiếp cận hệ thống và có phương pháp, kiểm toán nội bộ đánh giá hiệu quả hệ
thống quản lý rủi ro, hệ thống kiểm soát nội bộ, sau đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của các hệ thống này.
1.2.3. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ
Mục tiêu thứ nhất, giúp Hội đồng quản trị, Ban lãnh đạo ngân hàng thực hiện
chức năng giám sát của mình đối với quy trình báo cáo thông tin tài chính, phi tài chính
nhằm đảm bảo rằng các thông tin được công bố là trung thực, rõ ràng và không bị lạm
dụng.
Mục tiêu thứ hai, đánh giá tính hiệu quả của hệ thống quản lý rủi ro, hệ thống
kiểm soát nội bộ. Phát hiện nguyên nhân những sơ hở, yếu kém trong hoạt động từ đó đề
xuất và tư vấn cho Hội đồng quản trị, Ban điều hành các biện pháp, giải pháp để cải tiến
hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống quản lý rủi ro.
7
Mục tiêu thứ ba, giúp nâng cao vị thế của ngân hàng thông qua việc hoàn thiện
môi trường quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ của ngân hàng.
1.2.4. Các chức năng của kiểm toán nội bộ
Chức năng kiểm tra: là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật để xem xét, đối chiếu
mức độ trung thực của các thông tin, tài liệu và tính hợp pháp của việc thực hiện các
nghiệp vụ hay lập các bản khai tài chính.
Chức năng đánh giá: Thông qua kiểm tra, kiểm toán nội bộ thực hiện đánh giá
tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các số liệu, thông tin tài liệu được kiểm tra.
Chức năng xác nhận: Thông qua kiểm tra, đánh giá, kiểm toán nội bộ xác nhận
thực trạng của thông tin đã kiểm tra về tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các
thông tin đó.
Chức năng tư vấn: Trên cơ sở những phát hiện trong quá trình kiểm tra, đánh

giá, kiểm toán nội bộ đề xuất và tư vấn các giải pháp để khắc phục sai sót, cải tiến và
hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, giúp ngân hàng đạt được mục tiêu của mình
1.2.5. Nguyên tắc của kiểm toán nội bộ
Để thực hiện được chức năng và nhiệm vụ, kiểm toán nội bộ phải đảm bảo được
các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc độc lập: kiểm toán viên không bị chi phối bởi các điều kiện có ảnh
hưởng đến tính khách quan. Những sự kiện đó cần phải được quản lý ở cấp độ từng
kiểm toán viên, từng cuộc kiểm toán, từng bộ phận và ở cấp độ doanh nghiệp. Muốn
vậy, bộ phận kiểm toán nội bộ phải độc lập với các đơn vị, các bộ phận điều hành, tác
nghiệp của tổ chức tín dụng; hoạt động của kiểm toán nội bộ phải độc lập với các hoạt
động điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng.
Nguyên tắc khách quan: Bộ phận kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên nội bộ phải
đảm bảo tính khách quan, trung thực, công bằng, không định kiến khi thực hiện nhiệm
vụ kiểm toán nội bộ. Tức là khi độc lập về mặt nhận thức cho phép kiểm toán viên có
thể thực hiện được công việc kiểm toán ở mức độ trung thực cao nhất và không có bất
kỳ một sự chi phối đáng kể nào ảnh hưởng đến công việc kiểm toán.
Nguyên tắc chuyên nghiệp: kiểm toán viên phải là người có kiến thức, trình độ
và kỹ năng kiểm toán nội bộ cần thiết, không kiêm nhiệm các cương vị, các công việc
chuyên môn khác của tổ chức tín dụng.
8
Nguyên tắc liên tục: các ngân hàng phải thiết lập được bộ phận kiểm toán nội bộ
chính thức, hoạt động lâu dài, phù hợp với quy mô và bản chất hoạt động của đơn vị.
1.2.6. Nội dung hoạt động kiểm toán nội bộ: Gồm 04 hoạt động
* Hoạt động 1: Đánh giá rủi ro và lập kế hoạch kiểm toán
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán với một chi phí thấp nhất, đơn vị
phải xây dựng một phương pháp đánh giá rủi ro có hệ thống nhằm:
Dựa trên những đánh giá đó phân loại mức độ rủi ro của từng bộ phận, từng
nghiệp vụ để lập kế hoạch kiểm toán hàng năm. Những bộ phận có rủi ro càng cao thì
tần suất kiểm toán càng lớn. Tuy nhiên, kế hoạch kiểm toán còn phải tuỳ thuộc cả vào
điều kiện nguồn lực của doanh nghiệp để cân nhắc giữa chi phí và lợi ích đem lại

* Hoạt động 2: Thực hiện các cuộc kiểm toán
Mỗi cuộc kiểm toán cụ thể được tiến hành theo trình tự của quy trình kiểm toán.
Quy trình được quy định áp dụng thống nhất cho các cuộc kiểm toán mà đoàn kiểm toán
và KTV nội bộ phải tuân thủ khi tiến hành kiểm toán, nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu
quả của các cuộc kiểm toán. Quy trình kiểm toán thông thường gồm bốn bước:
* Hoạt động 3: Lập báo cáo về hoạt động kiểm toán
- Báo cáo kiểm toán nội bộ được tổng hợp theo định kỳ (Quý, năm);
- Báo cáo theo dõi các đơn vị, bộ phận, cá nhân thực hiện các kiến nghị của kiểm
toán nội bộ
* Hoạt động 4: Đảm bảo chất lượng kiểm toán nội bộ
Bộ phận kiểm toán nội bộ cần phải xây dựng và duy trì các thủ tục đảm bảo chất
lượng, nhằm: Đảm bảo hoạt động của kiểm toán nội bộ gia tăng giá trị các hoạt động
của ngân hàng; đảm bảo các hoạt động kiểm toán nội bộ tuân thủ theo các chuẩn mực
và nguyên tắc đạo đức hiện thời. Các thủ tục đảm bảo chất lượng bao gồm:
Việc đánh giá liên tục hay định kỳ do kiểm toán nội bộ tự đánh giá hoặc do nhóm
đảm bảo chất lượng đánh giá, bao gồm:
- Việc tuân thủ đối với luật pháp, các quy định và chuẩn mực ngân hàng được
đề cập trong yêu cầu kiểm toán
- Việc tuân thủ đối với chính sách và quy trình kiểm toán nội bộ
- Tính hiệu quả trong việc kiểm toán
9
- Mức độ thoả mãn của các bên hữu quan, bên được kiểm toán đối với công
việc của kiểm toán nội bộ (qua xây dựng bảng câu hỏi).
1.3. Mối quan hệ giữa kiểm soát, kiểm toán nội bộ và quản trị rủi ro
a/ Phân biệt giữa kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ
Kiểm soát nội bộ không phải là một phòng ban cụ thể mà là môi trường kiểm soát
bao trùm hết mọi chính sách, chế độ, quy trình và trong đó kiểm toán nội bộ là một nhân
tố cơ bản không thể thiếu được trong môi trường đó. Kiểm soát nội bộ là công việc của
tất cả mọi người ở mọi khâu trong đơn vị. Còn bộ phận kiểm toán nội bộ gồm các
phòng, ban được thành lập thành một hệ thống, độc lập trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất

trong doanh nghiệp, nhằm cung cấp một sự giám sát và đánh giá thường xuyên về toàn
bộ hoạt động của đơn vị, trong đó có hệ thống kiểm soát nội bộ. Như vậy, kiểm toán nội
bộ chỉ là một phần trong hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kiểm soát kiểm toán là
cấu trúc nòng cốt của quản trị điều hành doanh nghiệp; là cơ sở nền tảng, điều kiện tiên
quyết của quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
b/ Mối quan hệ giữa kiểm soát, kiểm toán nội bộ và quản trị rủi ro
Có thể mô tả mối quan hệ giữa kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ và quản trị rủi
ro theo mô hình như sau:
Hình 1.3: Mô hình mối quan hệ giữa quản trị rủi ro và kiểm soát nội bộ
Quản trị rủi ro là việc tiếp cận một cách hệ thống để xác định, đo lường, giám sát
và quản lý các rủi ro trong kinh doanh của một doanh nghiệp. Kiểm soát nội bộ (một
phần của quản trị rủi ro), “bao gồm các cơ chế của một doanh nghiệp để thực hiện giám
sát rủi ro trước, trong và sau các hoạt động kinh doanh”. Kiểm toán nội bộ là công tác
đánh giá lại một cách hệ thống các hoạt động tài chính và phi tài chính để đảm bảo các
10
Quản trị rủi ro
Kiểm soát nội bộ
nhân viên của họ luôn tuân thủ các quy định, đảm bảo độ tin cậy của các báo cáo và đảm
bảo sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
1.4. Mối quan hệ giữa hệ thống kiểm soát kiểm toán nội bộ với Thanh tra ngân
hàng và kiểm toán bên ngoài
Với Thanh tra Ngân hàng Nhà nước
Thanh tra ngân hàng có vai trò giám sát và thanh tra nhằm góp phần đảm bảo an
toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi
tiền. Còn kiểm soát kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng có vai trò giám sát và kiểm tra
nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân tổ chức tín dụng. Cụ thể:
Đối với các cơ quan kiểm toán bên ngoài
Mục đích cơ bản của kiểm toán nhà nước là nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước,
của kiểm toán độc lập là cung cấp những thông tin đáng tin cậy cho các bên thứ ba (chủ
yếu là các cổ đông, các đối tác). Do đó, kiểm toán bên ngoài chủ yếu là kiểm toán báo

cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ. Còn kiểm toán nội bộ cũng nhằm cung cấp các
thông tin tin cậy, sự tuân thủ các quy định nhưng mục tiêu chủ yếu là kiểm toán hoạt
động nhằm sử dụng nguồn lực hiệu quả nhất. Kết quả của kiểm toán nội bộ chỉ có giá trị
đối với bản thân doang nghiệp, còn kết quả của kiểm toán bên ngoài với có giá trị pháp
lý.
2. Hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng trong ngân
hàng thương mại
2.1. Sự cần thiết của kiểm soát kiểm toán đối với hoạt động tín dụng
2.1.1. Tín dụng và vai trò của hoạt động tín dụng
* Khái niệm về hoạt động tín dụng ngân hàng
Có thể hiểu đơn thuần hoạt động tín dụng là: ngân hàng cung cấp cho khách
hàng một khoản tiền. Khách hàng có trách nhiệm phải trả lãi và hoàn trả gốc theo đúng
thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
* Vai trò của hoạt động tín dụng trong ngân hàng thương mại (NHTM)
Đối với nền kinh tế: hiện nay tín dụng vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh
tế, trước yêu cầu tăng trưởng cho nền kinh tế thì nhu cầu về vốn tín dụng là chủ yếu.
Đối với bản thân các ngân hàng: Hoạt động tín dụng chiếm phần lớn trong tài
sản có của ngân hàng thương mại, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
11
trong tổng thu nhập. Cho dù ngày nay, các ngân hàng hiện đại có xu hướng chuyển dịch
sang đầu tư vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhưng tín dụng vẫn là hoạt
động cơ bản, giữ vị trí quan trọng trong danh mục tài sản của các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, sản phẩm đa dạng:
khách hàng vay vốn thuộc nhiều thành phần, nhiều ngành kinh tế khác nhau, điều kiện
kinh doanh khác nhau, trình độ và phẩm chất đạo đức khác nhau…do đó luôn phải đối
mặt với rất nhiều rủi ro, việc quản lý hoạt động này luôn là bài toán khó đối với các
ngân hàng.
* Các rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng trong NHTM
Rủi ro lớn nhất trong hoạt động tín dụng là rủi ro tín dụng: là khả năng xảy ra
những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu khi người vay không trả nợ đúng hạn,

không trả hoặc trả không đầy đủ gốc và lãi. Đối với ngân hàng, rủi ro tín dụng vừa mang
tính chất khách quan vừa mang tính chất chủ quan. Sự khách quan trong rủi ro tín dụng
làm cho nó trở nên không thể loại trừ. Mặt khác, bởi lợi nhuận phần nào cũng là một
phần thưởng của rủi ro nên người ta chỉ tìm cách hạn chế rủi ro tới mức có thể chấp
nhận được mà thôi.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:
Thứ nhất, những yếu tố bất khả kháng tác động đến người vay khiến họ không trả
nợ được hoặc trả nợ không đầy đủ cho ngân hàng. Thuộc về các yếu tố này bao gồm:
thiên tai, chiến tranh, những thay đổi không dự tính trước được trong chính sách của
Chính phủ,… Những yếu tố bất khả kháng này, đặc biệt là những thay đổi chính sách có
thể tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay.
Thứ hai, trình độ yếu kém của người vay trong việc quản lý các dự án đầu tư,
phương án sản xuất kinh doanh dẫn tới sử dụng vốn vay không hiệu quả trong khi bản
thân các dự án này có khả năng sinh lời tốt. Sự việc này cũng có thể dẫn tới tổn thất cho
ngân hàng nếu người vay không trả nợ đầy đủ, đúng hạn hoặc không có khả năng trả.
Thứ ba, người vay có chủ ý lừa đảo cung cấp thông tin sai lệch hoặc cố ý không
trả nợ cho ngân hàng mặc dù họ kinh doanh có lãi. Những thông tin nội bộ của doanh
nghiệp đến với ngân hàng thường là thông tin không cân xứng nên ngân hàng khó xác
định độ tin cậy của các thông tin đó.
Thứ tư, ngân hàng đánh giá sai do trình độ cán bộ, thiếu am hiểu về người vay và
lĩnh vực kinh doanh của họ.
12
Thứ năm, là rủi ro đạo đức do cán bộ ngân hàng cố ý gian lận, thông đồng làm
sai, lách chế độ.
Tiếp đến là rủi ro tác nghiệp: là khả năng xảy ra những tổn thất khi các nhân viên
ngân hàng thực hiện sai quy trình, không tuân thủ chính sách và các quy định của ngân
hàng, khi các chính sách, quy trình nghiệp vụ không phù hợp với thực tiễn. Rủi ro tác
nghiệp cũng có thể phát sinh do chính sách và quy trình cho vay lỏng lẻo, phương pháp
xem xét, phân tích còn hạn chế.
Rủi ro tín dụng và rủi ro tác nghiệp là hai loại rủi ro chính tác động tới chất lượng

của hoạt động tín dụng ngân. Rủi ro này thể hiện qua hai chỉ tiêu chính là nợ quá hạn và
nợ xấu; trong đó, nợ xấu là một cảnh báo nguy cơ tổn thất rất cao.
Do đó cần phải có biện pháp giải quyết và phương án dự phòng hữu hiệu, như:
xây dựng các chính sách tín dụng, xây dựng quy trình phân tích và thu thập thông tin tín
dụng, hệ thống phân loại xếp hạng khách hàng, đào tạo và luân chuyển cán bộ tín dụng,
… gọi chung là xây dựng một hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ hiệu quả.
2.1.2. Sự cần thiết và những lợi ích của kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt
động tín dụng
* Bảo vệ tài sản và độ tin cậy của các thông tin
Đối với ngân hàng thương mại, có nhiều nguyên nhân buộc ngân hàng phải đưa
vấn đề an toàn tài sản, đặc biệt là an toàn trong hoạt động tín dụng lên hàng đầu
Thứ nhất, ngân hàng có một số lượng chủ nợ khổng lồ, họ có có thể đòi lại khoản
tiền đã gửi vào ngân hàng bất cứ lúc nào nếu cảm thấy không an tâm khi có những thông
tin bất lợi về hoạt động của ngân hàng.
Thứ hai, ngân hàng cũng là một chủ nợ lớn, sử dụng tới khoảng 70% vốn huy
động để cho vay, cho vay là khoản mục sinh lời chủ yếu của các NHTM. Rủi ro từ
những khoản mục cho vay này ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba, bộ máy tổ chức của ngân hàng cực lớn, bao gồm nhiều đơn vị, thành viên
phân bố trên một không gian rộng nên sự phân quyền rất mạnh, Ban quản trị rất khó
nắm bắt được tổng thể hoạt động ngân hàng để kịp thời ra quyết định.
Thứ tư, hoạt động tín dụng ngân hàng liên quan tới nhiều lĩnh vực trong nền kinh
tế. Dẫn đến, các ngân hàng luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro và cực kỳ nhạy cảm
khi môi trường kinh tế thay đổi.
13
Hoạt động kiểm soát kiểm toán nội bộ được tổ chức tốt và phù hợp giúp ngân
hàng bảo vệ được tài sản và độ tin cậy của các thông tin.
* Đảm bảo tuân thủ luật pháp và các quy định
Với vai trò là “huyết mạch” của nền kinh tế và đặc thù về tổ chức có sự phân
quyền mạnh mẽ trong nội bộ ngân hàng nên hoạt động của ngân hàng đòi hỏi phải chấp
hành nghiêm túc pháp luật của nhà nước cũng như yêu cầu ngặt nghèo về sự tuân thủ

các quy định nội bộ của Ban quản trị tối cao. Một hệ thống kiểm soát kiểm toán nội bộ
vững mạnh sẽ đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy, quy chế, quy trình mà Ban
lãmh đạo đã thiết lập, áp dụng cho từng hoạt động. Đặc biệt là hoạt động tín dụng, do
tính chất phức tạp của nó cùng những ảnh hưởng lớn mạnh của nó tới hiệu quả kinh
doanh của ngân hàng. Ban quản trị cấp cao của ngân hàng càng đặc biệt chú trọng tới
việc quản lý chặt chẽ hoạt động này, hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
* Dự báo và ngăn ngừa rủi ro
Hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ trong một tổ chức đóng vai trò chủ chốt
trong quản trị rủi ro. Kiểm soát kiểm toán nội bộ không chỉ chú trọng tới công tác hậu
kiểm mà kiểm soát, kiểm toán nội bộ mạnh phải ngăn chặn được sai phạm, dự báo và
phòng ngừa rủi ro và hướng tới nâng cao hiệu quả chứ không đơn thuần chỉ tìm ra
nguyên nhân để giải quyết hậu quả. Việc dự báo và ngăn ngừa rủi ro đương nhiên sẽ tốt
hơn và tốn ít chi phí hơn so với những tổn thất xảy ra. Đánh giá rủi ro trong quản trị rủi
ro nhằm vào cả những rủi ro có thể lượng hoá (như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro
thanh khoản ) và rủi ro không thể lượng hoá được (như rủi ro tác nghiệp, rủi ro luật
pháp, rủi ro danh tiếng của ngân hàng). Quá trình đánh giá rủi ro nhằm xác định loại rủi
ro nào ngân hàng có thể kiểm soát được, loại nào không, xác định nguy cơ rủi ro mới
cho các giao dịch mới, những lĩnh vực mới … đánh giá rủi ro trong quản trị có nghĩa
rộng hơn đánh giá rủi ro của kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Kiểm soát, kiểm toán nội bộ
thường nhằm vào những rủi ro không lượng hoá được, bắt nguồn từ những nguyên nhân
chủ quan từ phía ngân hàng, từ phía khách hàng. Ngoài ra, rủi ro cũng xảy ra do quy
trình tín dụng chưa được xây dựng chặt chẽ, cơ cấu tổ chức chưa hợp lý Kiểm soát,
kiểm toán nội bộ là một công cụ hữu hiệu giúp ban giám đốc ngân hàng phát hiện điểm
chưa phù hợp để kịp thời chấn chỉnh, bổ sung, hạn chế nguy cơ tổn thất cho ngân hàng.
Như vậy, một hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ mạnh sẽ ngăn ngừa và phát
hiện những gian lận, sai sót làm cho các hoạt động tín dụng được minh bạch, chủ động
trước rủi ro, kịp thời đưa ra những phán quyết để bảo vệ tài sản giữ an toàn trong hoạt
động tín dụng, góp phần đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
14
Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích mong đợi, đòi hỏi hệ thống kiểm soát kiểm

toán nội bộ phải được thiết lập hợp lý, phải trên cơ sở cân nhắc giữa chi phí và lợi ích
mang lại, sẽ không thể chấp nhận với bất cứ phương pháp kiểm soát kiểm toán nào nếu
chi phí của nó quá cao so với lợi ích mang lại.
2.2. Nội dung hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với nghiệp vụ tín dụng
Các hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ được thiết kế và thực hiện nhằm vào
rủi ro đã nhận diện được qua quá trình đánh giá rủi ro của hoạt động tín dụng. Nhằm
mang lại sự hiệu quả và hiệu năng cho hoạt động tín dụng, đảm bảo sự đáng tin cậy của
các số liệu và sự tuân thủ luật pháp và các quy định nội bộ. Xét một cách tổng quát, hoạt
động kiểm soát, kiểm toán được hiện qua 3 bước chủ yếu sau:
Một là: Thiết lập các chính sách, quy trình cho những mục tiêu kiểm soát phải
đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhằm: giảm
thiểu rủi ro, chống gian lận đem lại an toàn hiệu quả cho hoạt động tín dụng.
Các chính sách, quy trình kiểm soát phải gắn kết với hoạt động tín dụng hàng
ngày, và trong quy trình đó đã được cài đặt các chốt kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro ở
mức thấp nhất: từ việc chấp hành các văn bản pháp quy đến việc ban hành các chính
sách, quy chế, quy trình nội bộ phù hợp như:
Xây dựng các cơ chế, chính sách, chiến lược về tăng trưởng, về cơ cấu danh mục
cho vay;
Quy định về phân cấp uỷ quyền, về giới hạn tín dụng; về nguyên tắc phân công,
phân nhiệm; về nguyên tắc bất kiêm nhiệm;
Quy định về các điều kiện, nguyên tắc, đối tượng cho vay; điều kiện về tài sản
đảm bảo; các phương thức cho vay;
Ban hành các quy trình cho vay đối với từng loại hình sản phẩm;
Xây dựng hệ thống đánh giá xếp hạng khách hàng làm để xét duyệt cho vay; để
xác định mức trích lập dự phòng rủi ro;
Xây dựng hệ thống tài khoản và các quy định về hạch toán kế toán các khoản
vay, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro…đảm bảo tuân thủ các quy định và đáp
ứng tốt yêu cầu quản lý.
Hai là: Thực hiện các thủ tục kiểm soát tương ứng với các chính sách đã đề ra.
Trong đó, vấn đề cần được coi trọng nhất là: mọi thành viên trong ngân hàng cần phải

nhận thức đúng tầm quan trọng của kiểm soát nội bộ, ý thức được trách nhiệm của mình
15
trong vai trò kiểm soát viên để tuân thủ tuyệt đối những quy định của pháp luật, của
chính sách nội bộ đã đề ra.
Ba là: Xác minh đánh giá việc thực hiện các chính sách này có được tuân thủ hay
không; đồng thời đánh giá sự phù hợp, hiệu quả của các chính sách đó có cần bổ sung
chỉnh sửa hay không. Đây là công việc thường xuyên, liên tục của bộ phận kiểm toán
nội bộ:
* Mục tiêu của kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng
- Đánh giá tính nghiêm túc, đúng đắn trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện
nghiệp vụ tín dụng bao gồm các chiến lược, chính sách, các điều kiện
- Xác định tính hiện thực chính xác, tính phù hợp của các khoản vay: dư nợ, tỷ lệ
nợ quá hạn, nợ xấu; lãi suất áp dụng; tỷ lệ tài sản đảm bảo, định giá tài sản đảm bảo,
mức trích lập dự phòng
- Xác định hạch toán các khoản tín dụng, lãi có đầy đủ, cập nhật, đúng tính chất,
phân loại có đúng tài khoản hay không.
- Phát hiện những sơ hở, gian lận trong hoạt động tín dụng, những rủi ro và
những tiềm ẩn rủi ro để đề xuất những biện pháp giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng
tín dụng.
* Yêu cầu của kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng
- Đánh giá việc tuân thủ các chính sách, các quy định, quy trình hoạt động tín
dụng hiện hành
- Đánh giá rủi ro trong hoạt động tín dụng
- Đánh giá các thủ tục kiểm soát trong hoạt động tín dụng của toàn hệ thống có
đảm bảo tính thích hợp, tính kinh tế, tính hiệu quả.
- Đánh giá tính trung thực và độ tin cậy của các thông tin về hoạt động tín dụng
cả ở từng chi nhánh và toàn hệ thống.
- Đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đề ra của hoạt động tín dụng
- Kiểm tra các biện pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng.
- Xác nhận về dư nợ và thực trạng tín dụng

* Đối tượng của kiểm toán hoạt động tín dụng
16
- Kiểm toán tổng thể cơ cấu nghiệp vụ tín dụng, phát hiện những rủi ro tiềm ẩn,
rủi ro luỹ kế qua cơ cấu tín dụng.
- Kiểm toán việc tổ chức thực hiện quy trình nghiệp vụ; việc chấp hành các văn
bản hiện hành.
- Kiểm toán đánh giá từng khoản vay
* Nội dung kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng
- Kiểm toán việc thực hiện triển khai chiến lược các chính sách tín dụng
- Kiểm toán cơ cấu tín dụng, kiểm toán mức độ tập trung tín dụng như thế nào, có
phù hợp để giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động hay tập trung nhiều vào những
danh mục kém hiệu quả hoặc tập trung quá lớn vào một số khách hàng dễ dẫn đến rủi ro
- Kiểm toán tốc độ tăng trưởng xem có phù hợp với tốc độ tăng trưởng, với chủ
trương phát triển của nền kinh tế hay không
- Kiểm toán việc thực hiện chấp hành các tỷ lệ đảm bảo an toàn tín dụng theo quy
định
- Kiểm toán chất lượng tín dụng, diễn biến chất lượng tín dụng. Theo thành phần
kinh tế, theo lĩnh vực kinh tế, theo khu vực địa lý, theo loại tiền cho vay và theo thời hạn
cho vay.
- Kiểm toán tuân thủ quy trình cho vay ( kiểm tra trước, trong và sau khi cho
vay), là kiểm toán từng bước của quy trình từ khi tiếp xúc nhận hồ sơ ban đầu của khách
hàng, thẩm định tín dụng (thẩm định những chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, tài sản đảm
bảo…), quyết định cho vay, lãi suất áp dụng, giám sát tín dụng, thu nợ, quản lý hồ sơ,
lưu giữ tài sản bảo đảm hay xử lý các khoản nợ xấu.
- Kiểm toán tính đúng đắn kịp thời của các khoản thu nhập từ lãi cho vay, tài
khoản hạch toán.
- Kiểm toán về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
- Kiểm toán về tổ chức, chỉ đạo điều hành nghiệp vụ cho vay, là kiểm toán về cơ
cấu tổ chức các phòng ban, việc bố trí công việc như thế nào, việc phân công phân
nhiệm từng cán bộ đã phù hợp hay chưa, việc triển khai các văn bản chế độ đã kịp thời

đầy đủ hay chưa.
- Kiểm toán về chất lượng cán bộ nghiệp vụ, khả năng đáp ứng được yêu cầu
công việc đảm nhận.
17
- Kiểm toán về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tín dụng, khả năng
thiết kế các chương trình tự động ngăn chặn các rủi ro, khả năng kết nối giữa các
chương trình quản lý trong nghiệp vụ tín dụng, khả năng cung cấp thông tin đầy đủ cập
nhập theo các yêu cầu
- Kiểm toán các hệ thống xếp hạng, phân loại khách hàng, đánh giá khả năng tài
chính, phi tài chính của khách hàng
- Kiểm toán hệ thống kiểm soát nội bộ: tính đầy đủ, hoàn thiện, hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nói chung cũng như đánh giá sự phù hợp của quy trình cho vay để có
kiến nghị sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Qua kiểm tra, phân tích đánh giá, bằng những bằng chứng kiểm toán; Kiểm toán
nội bộ chỉ những sai phạm, những hạn chế kiếm khuyết của hệ thống kiểm soát và đưa
ra những khuyến nghị nhằm hạn chế ngăn chặn các rủi ro góp phần nâng cao hiệu quả
của hoạt động tín dụng
* Phương pháp kiểm toán:
Ngoại trừ những chỉ tiêu có thể kiểm toán toàn bộ số dư, còn lại cần tiến hành
chọn mẫu để kiểm tra chi tiết trên mẫu đó. Mẫu được chọn phải có tính đại diện cao, bao
trùm tất cả các loại hình cho vay theo từng cách phân tổ: theo thời hạn, theo nhóm khách
hàng, theo ngành sản suất, theo quy mô doanh nghiệp, theo khu vực địa lý, … theo chất
lượng tín dụng. Trong khi có tập trung vào những món vay lớn, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro
cao thì mẫu vẫn phải bao gồm thoả đáng những khoản vay khác.
Về cách thức kiểm toán có thể xác nhận trực tiếp với khách hàng hoặc có thể
bằng cách gián tiếp gửi cho khách hàng bảng kê xác nhận.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại
Chất lượng của hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với hoạt đông kinh doanh nói chung
cũng như đối với hoạt động tín dụng nói riêng của ngân hàng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố,

cả các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan.
2.3.1. Các nhân tố chủ quan
Trước hết, có thể kể đến quan điểm của lãnh đạo ngân hàng về vai trò của kiểm
soát, kiểm toán nội bộ. Nhiều nhà lãnh đạo ngân hàng không coi trọng hoạt động kiểm
soát, kiểm toán nội bộ, đầu tư không đúng mức cho hoạt động này. Đặc biệt là lực lượng
kiểm toán viên được lựa chọn và tuyển dụng một cách tuỳ tiện, không có một cơ chế
18
thực sự độc lập trong hoạt động của ngân hàng, cơ sở vật chất cho hoạt động kiểm toán
không được đầu tư đúng mức. Khi đó, chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ sẽ không
cao. Ngược lại, khi lãnh đạo ngân hàng quan tâm đúng mức, kiểm soát, kiểm toán nội bộ
sẽ được đặt đúng vị trí của nó, từ đó, góp phần tích cực trong việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả hiệu quả của ngân hàng.
- Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng. Khi quy mô ngân hàng càng lớn,
hoạt động càng đa dạng, phức tạp đòi hỏi hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ cũng phải
tăng cường phù hợp. Sự thay đổi nếu không kịp thời, chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội
bộ sẽ không thể cao.
Hệ thống thông tin, đặc biệt là hệ thống thông tin về tình hình quản trị tài chính của
ngân hàng. Hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ chỉ có tác dụng tích cực khi thông tin
được cung cấp với độ chính xác cao và cập nhật. Các thông tin này sẽ ngay lập tức được các
kiểm tra viên xử lý và báo cáo, tạo điều kiện cho lãnh đạo ngân hàng nắm sát tình hình, từ
đó có những biện pháp điều chỉnh thích hợp. Hệ thống thông tin tốt sẽ giúp các ngân hàng
tránh khỏi các tiêu cực và rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kiểm soát, kiểm toán nội bộ: phần mềm quản
trị điều hành, kiểm toán chuyên dụng, hệ thống máy tính, các thiết bị chuyên dùng sẽ là
những công cụ đắc lực giúp nâng cao hiệu quả các hoạt động ngân hàng.
Số lượng và chất lượng cán bộ ngân hàng: Khi hoạt động ngân hàng càng đa
dạng và phức tạp, quy mô ngân hàng càng lớn, đòi hỏi ngân hàng phải có đủ số lượng
cán bộ cần thiết, có đủ năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, đồng thời, ngân
hàng cần có chính sách đào tạo, tuyển dụng và đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút nhân tài cho
hoạt động nói chung và nhất là kiểm toán viên nội bộ. Có như vậy, hoạt động kiểm soát,

kiểm toán nội bộ mới có thể có chất lượng như mong muốn.
Tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin được cung cấp bởi bộ phận kiểm toán
một cách khách quan, kịp thời. Ban lãnh đạo ngân hàng phải quan tâm đúng mức tới
những thông tin báo cáo do kiểm toán nội bộ cung cấp và được tiếp nhận xử lý một cách
khách quan và kịp thời.
Điều cơ bản đối với cơ cấu và tổ chức của kiểm toán nội bộ là tính độc lập trong
khuôn khổ chung của ngân hàng. Quan hệ báo cáo cần được thiết lập sao cho người
đứng đầu bộ phận kiểm toán nội bộ có trách nhiệm là người điều hành có đủ thẩm quyền
để có thể thực hiện cuộc kiểm toán nội bộ với quy mô cần thiết. Vì vậy, người đứng đầu
19
bộ phận kiểm toán nội bộ phải báo cáo trực tiếp với các cấp lãnh đạo cao nhất trong
ngân hàng Hội đồng quản trị và Ban Tổng Giám đốc.
2.3.2. Các nhân tố khách quan
Nhân tố pháp lý: Kiểm toán nội bộ của ngân hàng thương mại cần có vị trí độc
lập tương đối, được thể chế trong Luật các tổ chức tín dụng, trong các văn bản dưới luật
và ngay trong điều lệ của từng ngân hàng. Nếu quyền hạn, nghĩa vụ của kiểm toán nội
bộ không được quy định chi tiết, lãnh đạo ngân hàng thương mại có thể bỏ qua việc thiết
lập hệ thống kiểm toán nội bộ, hoặc có thể xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ một
cách hình thức và tuỳ tiện, khi đó, chất lượng kiểm toán nội bộ sẽ không cao. Mặt khác,
chính sách của Nhà nước, Kiểm toán Nhà nước sẽ hỗ trợ tích cực cho hoạt động của
kiểm toán nội bộ, từ đó sẽ nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ của NHTM.
Nhân tố từ phía Kiểm toán Nhà nước. Sự hỗ trợ của Kiểm toán Nhà nước về
đào tạo, việc ban hành các chuẩn mực kiểm toán cũng như quy trình và phương pháp
kiểm toán, hoạt động kiểm toán thường xuyên của sẽ hỗ trợ tích cực cho kiểm toán nội
bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, từ đó đánh giá chính xác thực trạng chất lượng kiểm toán
nội bộ của NHTM, giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng và hệ thống kiểm toán nội bộ của
ngân hàng nâng cao chất lượng hoạt động.
Các nhân tố khác như hiệp hội kiểm toán, sự hỗ trợ, đánh giá đúng mức của các
cơ quan ban nghành về hoạt động kiểm toán nội bộ là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt
động kiểm toán nội bộ của các NHTM.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT, KIỂM TOÁN NỘI BỘ
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VN
1 Khái quát Ngân hàng TMCP Công thương VN (NHCTVN)
1.1. Sơ lược về lịch sử phát triển NHCTVN
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công thương Việt Nam (NHCTVN), tiền
thân là Ngân hàng Công thương Việt Nam, được thành lập dưới tên gọi Ngân hàng
chuyên doanh Công thương Việt Nam theo Nghị định số 53/NĐ-HĐBT ngày 26 tháng
03 năm 1988 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức bộ máy NHNNVN và chính thức được
đổi tên thành “Ngân hàng Công thương Việt Nam” theo quyết định số 402/CT của Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng ngày 14 tháng 11 năm 1990.
Ngày 27 tháng 03 năm 1993, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 67/QĐ-
20
NH5 về việc thành lập NHCTVN thuộc NHNNVN. Ngày 21 tháng 09 năm 1996, được
sự ủy quyền của Thủ tướng Chính Phủ, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 285/QĐ-
NH5 về việc thành lập lại NHCTVN theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước được quy
định tại Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính
Phủ.
Ngày 23 tháng 09 năm 2008, Thủ tướng ký quyết định 1354/QĐ-TTg phê duyệt
phương án cổ phần hóa Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngày 02 tháng 11 năm
2008, Ngân hàng Nhà nước ký quyết định số 2604/QĐ-NHNN về việc công bố giá trị
doanh nghiệp Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngày 25 tháng 12 năm 2008, Ngân
hàng Công thương tổ chức bán đấu giá cổ phần ra công chúng thành công và thực hiện
chuyển đổi thành doanh nghiệp cổ phần.
Ngày 03/07/2009, Ngân hàng Nhà nước ký quyết định số 14/GP-NHNN thành
lập và hoạt động Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam. NHTMCP
Công thương Việt Nam chính thức hoạt động theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
lần đầu số 0103038874 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp Hà Nội cấp ngày 03/07/2009
1.2 Phạm vi lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng bao gồm:
Huy động vốn: Hoạt động huy động vốn bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng
bằng nội và ngoại tệ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu, và các giấy tờ có

giá khác để huy động nguồn vốn, vay từ các định chế tài chính trong nước và nước
ngoài, vay từ NHNN, và các hình thức vay vốn khác theo quy định của NHNN.
Hoạt động tín dụng: Tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chính
của NHCTVN. Các hoạt động tín dụng của NHCTVN bao gồm cấp vốn vay bằng nội và
ngoại tệ, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê tài chính, và các hình thức cấp tín dụng khác
theo quy định của NHNN.
Hoạt động đầu tư: Các hoạt động đầu tư của NHCTVN được thực hiện thông qua
việc tích cực tham gia vào thị trường liên ngân hàng và thị trường vốn. Tài sản đầu tư
bao gồm Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu kho bạc, Tín phiếu NHNN, Công trái xây
dựng Tổ quốc, Trái phiếu giáo dục, Trái phiếu Chính quyền địa phương, Trái phiếu
NHTM, v.v. Ngoài ra NHCTVN còn góp vốn mua cổ phần của các doanh nghiệp trong
và ngoài nước và góp vốn liên doanh với các tổ chức nước ngoài.
Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: NHCTVN tập trung cung cấp dịch vụ thanh
toán và ngân quỹ cho khách hàng, bao gồm thanh toán trong nước và quốc tế, thu chi hộ
khách hàng, thu chi bằng tiền mặt và séc.
21
Các hoạt động khác: Bên cạnh các dịch vụ kinh doanh chính, NHCTVN cung cấp
một số dịch vụ bổ sung cho khách hàng bao gồm các hoạt động trên thị trường tiền tệ,
kinh doanh giấy tờ có giá bằng VND và ngoại tệ, chuyển tiền trong nước và quốc tế,
chuyển tiền kiều hối, kinh doanh vàng và ngoại hối, các hoạt động đại lý và ủy thác, bảo
hiểm, các hoạt động chứng khoán thông qua các công ty con, dịch vụ tư vấn tài chính,
dịch vụ quản lý vốn, dịch vụ thấu chi, dịch vụ thẻ, gửi và giữ tài sản, cho vay ứng trước
tiền bán chứng khoán, dịch vụ ngân hàng qua điện thoại, dịch vụ ngân hàng điện tử, v.v.
Sản phẩm và dịch vụ cung cấp
oDịch vụ thẻ (thẻ tín dụng quốc tế, thẻ ghi nợ, thẻ trả trước)
oDịch vụ chuyển tiền kiều hối
oDịch vụ bảo hiểm và tái bảo hiểm
oDịch vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh
oCho thuê tài chính
Cho vay (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) và đầu tư

Dịch vụ huy động tiền gửi dân cư (ngắn, trung, dài hạn)
Dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước
Dịch vụ chứng khoán
Dịch vụ mở và sử dụng tài khoản
Dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu
Các dịch vụ ngân hàng bán buôn và bán lẻ trong và ngoài nước
Dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ
Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Dịch vụ chiết khấu và tái chiết khấu
Dịch vụ ngân hàng điện tử Internet Banking, Phone Bangking, Mobile Banking
và SMS Banking
Hoạt động ngân hàng đại lý
Các dịch vụ khác theo Điều lệ hoạt động của Ngân hàng.
1.3. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP Công thương VN
22
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển đến nay, NHCTVN đã phát triển theo mô
hình ngân hàng đa năng với mạng lưới hoạt động được phân bố rộng khắp trên 56 tỉnh,
thành phố trong cả nước, bao gồm 01 Hội sở chính; 03 Sở Giao dịch; 145 chi nhánh;
527 phòng giao dịch; 116 quỹ tiết kiệm; 1042 máy rút tiền tự động (ATM); 05 Văn
phòng đại diện; và 04 Công ty con bao gồm Công ty cho thuê tài chính, Công ty cổ phần
Chứng khoán Ngân hàng Công thương (NHCTVNSC) và Công ty Bất động sản và đầu
tư tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam và Công ty Bảo hiểm Ngân hàng công
thương Việt Nam; 03 đơn vị sự nghiệp bao gồm Trung tâm thẻ, Trung tâm Công nghệ
thông tin, Trường Đào tạo và Phát triển nguồn nhân lực. Ngoài ra, NHCT còn góp vốn
liên doanh vào Ngân hàng Indovina, góp vốn vào 08 công ty trong đó có Công ty cổ
phần Chuyển mạch Tài chính quốc gia Việt Nam, Công ty cổ phần Xi măng Hà Tiên,
Công ty cổ phần cao su Phước Hòa, Ngân hàng thương mại cổ phần Gia Định, Ngân
hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công Thương v.v.
Sơ đồ 2-1. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Công thương Việt Nam
23

1.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của NHCTVN
NHCTVN là một trong những ngân hàng lớn nhất Việt Nam, nhưng so với quốc
tế vẫn là một ngân hàng quy mô nhỏ. Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngành
ngân hàng, đòi hỏi NHCTVN cũng như các NHTM trong nước khác phải thực hiện
chương trình cơ cấu lại ngân hàng. Với mục tiêu tổng quát là “Xây dựng một NHCTVN
thành một ngân hàng chủ lực và hiện đại ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh có hiệu
quả, tài chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa chức năng, chiếm thị
trường lớn ở Việt Nam.
Với sự quan tâm, chỉ đạo của Chính phủ, NHNN cùng với sự nỗ lực hết mình
trong tất cả các lĩnh vực NHCTVN đã gặt hái được những thành công nhất định, thể
hiện qua một số chỉ tiêu chủ yếu trong bảng tổng hợp sau:
Bảng 2-1. Một số chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2007 – 2009
HỘI
SỞ
HỘI
SỞ
SỞ GIAO
DỊCH
SỞ GIAO
DỊCH
CHI
NHÁNH
CẤP I
CHI
NHÁNH
CẤP I
VĂN
PHềNG ĐẠI
DIỆN
VĂN

PHềNG ĐẠI
DIỆN
PHềNG
GIAO DỊCH
PHềNG
GIAO DỊCH
CÁC
PHềNG
BAN
CÁC
PHềNG
BAN
QUỸ TIẾT
KIỆM
QUỸ TIẾT
KIỆM
TRUNG
TÂM ĐÀO
TẠO IT
TRUNG
TÂM ĐÀO
TẠO IT
CễNG TY
TRỰC
THUỘC
CễNG TY
TRỰC
THUỘC
PHềNG
GIAO DỊCH

PHềNG
GIAO DỊCH
CÁC
PHềNG
BAN
CÁC
PHềNG
BAN
CHI
NHÁNH
CẤP II
CHI
NHÁNH
CẤP II
QUỸ TIẾT
KIỆM
QUỸ TIẾT
KIỆM
PHềNG
GIAO DỊCH
PHềNG
GIAO DỊCH
CÁC
PHềNG
BAN
CÁC
PHềNG
BAN
CÁC
PHềNG

BAN
CÁC
PHềNG
BAN
CÁC
PHềNG
BAN
CÁC
PHềNG
BAN
KẾ TOÁN
TRƯỞNG
KẾ TOÁN
TRƯỞNG
CHI
NHÁNH
PHỤ
THUỘC
CHI
NHÁNH
PHỤ
THUỘC
CÁC
PHềNG KỸ
THUẬT
CÁC
PHềNG KỸ
THUẬT
VĂN
PHềNG ĐẠI

DIỆN
VĂN
PHềNG ĐẠI
DIỆN
QUỸ TIẾT
KIỆM
QUỸ TIẾT
KIỆM
24
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Chỉ tiêu 2007 2008 2009
Tổng tài sản
166.112.971 193.590.357
243.785.208
Cho vay 113.323.273 136.875.526 161.619.376
Đầu tư
37.404.891 40.959.079
40.440.804
Vốn huy động
155.466.442 181.254.198
231.007.895
Vốn chủ sở hữu
10.646.529 12.336.159
12.777.313
Lợi nhuận sau
thuế
1.149.442 1.804.464
2.583.131
LN/TSC (ROA)
0,76% 1,35%

1,54%
LN/Vốn CSH
(ROE)
14,12% 15,7%
20,25%
Tỷ lệ an toàn vốn
(CAR)
9,25% 12,021% 8,46%

Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm và báo cáo thường niên của NHCTVN
2. Thực trạng công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại Ngân
hàng TMCP Công thương VN
2.1. Mô hình tổ chức và Quy chế hoạt động của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội
bộ:
Mô hình tổ chức của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ của NHCTVN từ trước thời
điểm chuyển đổi thành Ngân hàng TMCP Công thương VN (2/7/2009):
Trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng được
Quốc hội thông qua ngày 15/06/2004, đã tách bạch hai chức năng kiểm toán nội bộ và
kiểm soát nội bộ. Theo đó, NHCTVN đã dần hoàn chỉnh bộ máy kiểm tra kiểm soát,
kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ thuộc Ban Kiểm soát; hệ thống kiểm tra kiểm soát
nội bộ thuộc bộ máy điều hành. Cụ thể như sau:
25

×