Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Phân tích chính sách chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.38 KB, 32 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BẢN BÁO CÁO
Tên đề tài:
PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH/CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VIỆT NAM
GV
LỚP: QLKT-K21C
Nguyễn Thị Hiếu
Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Nhóm 5 – QLKT K21C
MỤC LỤC
Mở đầu 2
1.1. Đặt vấn đề 2
1.2. Giới hạn, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu 3
1.2.1. Giới hạn nghiên cứu 3
1.2.2. Mục êu nghiên cứu 4
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu 4
Cơ sở lý luận và thực tiễn 6
2.1. Khái quát những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực nông thôn 6
2.2. Quy luật vận động của nguồn nhân lực nông thôn 8
2.3. Một số kinh nghiệm quốc tế 10
Nội dung và thảo luận 13
3.1. Thực trạng nguồn nhân lực 13
3.2. Hiện trạng đào tạo nghề 14
3.3. Vấn đề cung cầu về đào tạo nghề 16
3.4. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực nông thôn 20
3.5. Các vấn đề đặt ra 24
3.6. Đề xuất giải pháp chính sách 26
Kết luận 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32


Mở đầu
1.1. Đặt vấn đề
Sau hơn 20 năm thực hiện đường đối đổi mới, ngành nông nghiệp và phát triển
nông thôn đã có những bước phát triển đáng khích lệ. Nông nghiệp luôn tăng trưởng ổn
định, là cơ sở nền tảng và tiền đề vững chắc cho sự phát triển của đất nước, bộ mặt nông
thôn ngày càng đổi mới, đời sống của người dân dần được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên,
những thành tựu đạt được cho đến nay chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa
đồng đều giữa các vùng. Có nhiều nguyên nhân của tồn tại mà một trong những nguyên
GV: 2
Nhóm 5 – QLKT K21C
nhân chính là do nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện vẫn đang thiếu hụt nghiêm trọng
nguồn nhân lực có kỹ thuật, kĩ năng và trình độ cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn và đất nước mặc dù hàng năm Nhà nước vẫn đang dành
một khoản ngân sách không nhỏ cho công tác đào tạo nghề. Lao động nông thôn luôn
được đánh giá là một nguồn nhân lực dồi dào và tiềm năng đối với công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những năm qua và trong thời gian tới. Tuy nhiên, trên
thực tế trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động nông thôn còn nhiều bất cập, thị
trường lao động nông thôn mang tính tự phát và chưa hoàn hảo. Một trong những nguyên
nhân chủ yếu của tồn tại này là do tâm lý trọng “đại học” xem nhẹ học nghề trong cộng
đồng người dân, khả năng chi trả của người dân cho học nghề còn hạn chế. Bên cạnh đó,
việc học nghề chưa thực sự gắn với thị trường sử dụng lao động, học xong rất khó tìm
việc làm. Hệ thống cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn còn nhiều bất cập: số lượng cơ
sở đào tạo còn thiếu, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu - đặc biệt là các cở sở
thuộc ngành nông nghiệp và PTNT; nội dung đào tạo chưa thực sự đáp ứng được đòi hỏi
ngày càng cao của thực tiễn và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Xuất phát từ những lý do đó chúng tôi thực hiện đề tài: “Phân tích chính sách/
chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Việt Nam”.
1.2. Giới hạn, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Giới hạn nghiên cứu

Đề tài giới hạn trong phạm vi thời gian những năm gần đấy, liên quan đến bức tranh
nguồn nhân lực ở nông thôn và trong nông nghiệp, thực trạng công tác đào tạo nguồn
nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp, các thuận lợi, khó khăn và hạn chế của nó; Từ đó
có những khuyến nghị về chủ trương chính sách. Không đi sâu và mở rộng cho toàn bộ
các ngành kinh tế và khu vực khác ngoài khu vực nông nghiệp và nông thôn.
GV: 3
Nhóm 5 – QLKT K21C
1.2.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn nước ta,
chủ trương và chính sách hiện tại, từ đó đề ra khuyến nghị giải pháp chính.
1.2.2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa lý thuyết về nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn, đào tạo
nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
Thực trạng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
Xu thế vận động của nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện
nay.
Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn.
Chủ trường và chính sách chủ yếu đối với công taccs đào tạo nguồn nhân lực cho
nông nghiệp, nông thôn. Khuyến nghị giải pháp chính.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Khai thác các nguồn số liệu có sẵn đa qua xử lý (số liệu thứ cấp) từ các nguồn khác
nhau để mô tả thực trạng.
Xây dựng khung lý thuyết để khái quát vấn đề:
GV: 4
Nhóm 5 – QLKT K21C
GV: 5
Nhóm 5 – QLKT K21C
Cơ sở lý luận và thực tiễn
2.1. Khái quát những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực nông thôn

a. Nguồn nhân lực
Dưới đây là một số khái niệm về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích lũy
được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995).
Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2002), là tổng thể các tiềm năng lao động của
một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó.
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến
thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát
triển kinh tế- xã hội trong một cộng đồng.
Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hóa được trong công tác kế
hoạch hóa ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số, bao gồm những người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy định của bộ Luật Lao Động Việt
Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến hết 55 tuổi).
Trên cơ sở đó, một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân lực hay
nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng
lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động
có nhu cầu nhưng không có việc làm (thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm học sinh
trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu lao động.
b. Nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn
Từ các khái nhiệm trên, ta có thể hiểu:
Nguồn nhân lực cho nông nghiệp hay nguồn nhân lực con người cho nông nghiệp
bao gồm lực lượng lao động trong nông nghiệp và laod động dự trữ cho nông nghiệp.
Nguồn nhân lực cho nông thôn hay nguồn lực con người cho nông thôn bao gồm lực
lượng lao động hiện có đang phục vụ cho nông thôn và lao động dự trữ sẽ phục vụ cho
nông thôn cũng như sẽ có ở nông thôn. Nguồn nhân lực này bao gồm cả số lượng lao
động sẽ từ nông thôn chuyển cho khu vực đô thị và của khu vực đô thị cung cấp cho nông
thôn.
GV: 6
Nhóm 5 – QLKT K21C
c. Đào tạo nguồn nhân lực, chủ trương chủ yếu cho đào tạo nguồn nhân lực

cho nông nghiệp, nông thôn.
Theo giáo trình kinh tế lao động “Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến
thức nhất định và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được
một số công việc nhất định. Đào tạo gồm đào tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến
thức chuyên nghiệp”.
Theo quá trình quản trị nhân lực đào tạo được biểu hiện là các hoạt động nhằm giúp
cho người lao động có thể thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của mình.
Với nguồn nhân lực thì đào tạo luôn đi liền với phát triển. Theo nghĩa rộng: phát
triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong
những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của
người lao động. Theo nghĩa hẹp: phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi
công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa
trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức hoặc phát triển khả năng nghề nghiệp
của họ.
Một cách định nghĩa khác: Phát triển được hiểu là quá trình làm tăng kiến thức, kỹ
năng, năng lực và trình độ của cá nhân người lao động để họ hoàn thành công việc ở vị trí
cao hơn trong nghề nghiệp của bản thân họ.
Phát triển xét trên phạm vi phát triển con người thì đó là sự gia tăng giá trị cho con
người về cả tinh thần, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, kỹ năng … lẫn thể chất. Phát triển nguồn
nhân lực con người nhằm gia tăng các giá trị đó cho con người, làm cho con người trở
thành những người lao động có năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 08 năm 2008, Hội nghị lần thứ VII
Ban chấp hành trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Đào tọa nguồn
nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn được cụ thể hóa là : “Tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại hóa cho nông
dân; đào tạo nghề cho bộ phân con em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động;
đồng thời tập trung đao tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở. Hình
thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm
GV: 7

Nhóm 5 – QLKT K21C
bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hóa
công tác đào tạo nghề”. Đây là một chủ trương lớn của Đảng nhằm phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
2.2. Quy luật vận động của nguồn nhân lực nông thôn
Trong lịch sử loài người, quá trình vận động và phát triển nông thôn bao gồm phát
triển song song 3 bộ phận : (1) Phát triển kinh tế nông thôn, bao gồm phát triển các hoạt
động nông, lâm, thủy sản phù hợp với điều kiện tự nhiên, sinh thái và yêu cầu của thị
trường về hàng hóa nông, lâm, thủy sản và phát triển các hoạt động kinh tế khác ngoài
nông, lâm, thủy sản để tăng thu nhập và cải thiện đời sống của người dân nông thôn; (2)
Phát triển các cộng đồng xã hội nông thôn ngày một văn minh và hiện đại trên nền tảng
văn hóa truyền thống; (3) Duy trì và hoàn thiện môi trường sinh thái tự nhiên (đất, nước,
tài nguyên, khí hậu) mang đặc thù của nông thôn.
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển nói trên, nguồn nhân lực nông thôn
cũng vận động theo và trải qua các giai đoạn sau:
a. Giai đoạn gia tăng lao động làm việc trong các ngành của khu vực nông,
lâm, thủy sản với các lý do sau:
Trong giai đoạn này sự vận động của nguồn nhân lực xã hội nói chung và nguồn
nhân lực nông thôn nói riêng diễn ra theo xu hướng sau:
Người dân nhờ vào trực tiếp làm nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao, nói cách khác là
kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, đó là thời kỳ tiền tư bản ở Châu Âu, Châu Mỹ, các
châu lúc khác và hiện nay là các quốc gia chưa hoặc mới bắt đầu vào quá trình CNH nền
kinh tế, ở đó cơ cấu kinh tế và thu nhập của người dân từ sản xuất nông nhiệp chiếm tỷ
trọng cao. Trong điều kiện đó, số lượng dân cư và lao động làm nông nghiệp chiếm tỷ
tọng cao trong dân số và lao động xã hội không ngừng tăng. Các nguồn lực khác như đất
đai, tiền vốn cũng được tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp
Cùng với gia tăng dân số và lao động làm nông nghiệp, hàng hóa nông sản ngày
càng được sản xuất ra nhiều hơn, đáp ứng đủ yêu cầu tiêu dùng nội địa và bắt đầu có dư
thừa để xuất khẩu, bán ra thị trường quốc tế, tạo ra nền kinh tế nông nghiệp hướng xuất
khẩu, gia tăng các hoạt động chế biến và dịch vụ cho hoạt động hàng ngày.

GV: 8
Nhóm 5 – QLKT K21C
b. Giai đoạn hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa nền kinh tế
Trong giai đoạn này sự vận động của nguồn nhân lực xã hội nói chung và nguồn
nhân lực nông thôn nói riêng diễn ra theo xu hướng sau:
Cơ cấu lao động xã hội dịch chuyển theo sự chuyển dịch của cơ ccaaus các ngành
kinh tế với xu hướng chính là chuyển từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác như công
nghiệp, dịch vụ và các hoạt động phi nông nghiệp khác, nói cách khác là vận động của
nguồn nhân lực có hướng đi khỏi nông nghiệp, chuyển sang lĩnh vực kinh tế khác, sự
“quay về với nông nghiệp” vẫn có thể xảy ra, nhưng là hạn hữu và không thể trở thành xu
hướng chủ đạo trong nông thôn.
Lao động trẻ mới bước vào tuổi lao động càng nhanh chóng rời bỏ nông nghiệp để
tham gia vào các hoạt động kinh tế phi nông ngiệp trên địa bàn nông thôn và ở các đô thị,
khu công nghiệp.
Lao động làm nông nghiệp giảm dần và ngày càng “già hóa”, năng suất lao động
nông nghiệp giảm nhanh nếu như các hoạt động nông nghiệp không được thay thế bằng
máy móc và phương tieenjc ơ giới khác, mà vẫn giữ phương thức canh tác truyền thông,s
sử dụng lao động chân tay là chính (thô sơ).
Tỷ lệ nhân lực làm nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ dần trong tổng lao động xã hội,
tạo tiền đề để hình thành phương thức sản xuất nông nghiệp mới.
c. Giai đoạn công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ kinh tế nông thôn
Trong giai đoạn này sự vận động của nguồn nhân lực xã hội nói chung và phần nhân
lực nông thôn nói riêng diễn ra theo xu hướng khác nhau:
Nguồn nhân lực nông thôn chuyển dịch nhanh sang các ngành nghề khác theo nhịp
độ của công nghiệp hóa, đô thị hóa ở từng vùng và trên quy mô cả nước. Tốc độ chuyển
dịch biến động nhanh ở các vùng cận đô thị, vùng công nghiệp mới, ở những nơi này lao
động nông nghiệp có thể mất đi hoàn toàn trong thời gian ngắn, chuyển nhanh sang các
ngành nghề khác theo sức hút của các ngành này.
Biến động xã hội trong nguồn nhân lực nông thôn diễn ra mạnh do nguy cơ rủi ro và
ảnh hưởng tiêu cực của sự dịch chuyển quá trình nhanh từ nông nghiệp sang các ngành

GV: 9
Nhóm 5 – QLKT K21C
nghề khác trong khi lao động nông nghiệp chưa được chuẩn bị đầy đủ về tay nghề mới và
cuộc sống mứoi
Những cơ hội mới đi kèm với những bất ổn về đời sống, việc làm xảy ra đồng thời
với sự gia tăng tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa.
2.3. Một số kinh nghiệm quốc tế
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực nông thôn là một trong những yếu tố quan
trọng đầu tiên của toàn bộ chính sách phát triển nguồn nhân lực nông thôn, nó rạo ra nền
tảng và căn cứ để xây dựng các chương trình, chính sách và giải pháp thúc đẩy phát triển
các thành tố của nguồn nhân lực phát triển theo một định hướng nhất quán, dài hạn và
đồng bộ. Thiếu chiến lược phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực nông
thôn nói riêng thì không thể có chính sách tốt về phát triển nguồn nhân lực.
Thực tiễn cho thấy các quốc gia thành công trong phát triển nguồn nhân lực nông
thôn (với kết quả tạo ra đội ngũ lao động có số lượng hợp lý với yêu cầu sử dụng và chất
lượng cao) đều phải có chiến lược phát triển nguồn nhân lực nông thôn rất rõ ràng và nhất
quán, tạo cơ sở để triển khai các chính sách cụ thể với mục tiêu thúc đẩy nguồn nhân lực
phát triển theo định hướng đã định của Nhà nước. Trên Thế giới các nước đã thành công
và có kinh nghiệm tốt trong việc hình thành chiến lược phát triển nguồn nhân lực nông
thôn có thể kể đến như : Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapo…
Kinh nghiệm quốc tế của một số nước cho thấy phát triển đào tạo nghề nói chung
và đào tạo nghề cho lao động nông thôn luôn được Chính phủ các nước quan tâm đặc biệt
với vai trò là một thành tố chính trong Chiến lược phát triển nguồn nhân lực:
- Chính phủ các nước thường có các chính sách nhất quán và đồng bộ về phát triển
đào tạo nghề lồng ghép trong Chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời,
Chính phủ sẽ giao các cơ quan quản lí xác định và thiết lập hệ thống tiêu chuẩn để
quản lí thống nhất chất lượng đào tạo trên phạm vi cả nước tương ứng với hệ thống
bằng cấp, chứng chỉ nghề. Đồng thời, quy hoạch phát triển đào tạo nghề trên cơ sở
có tầm nhìn xa về xu hướng phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là xu hướng phát
triển của khoa học và công nghệ, để từ đó có chiến lược đáp ứng về nhân lực.

GV: 10
Nhóm 5 – QLKT K21C
- Phân cấp rõ ràng việc quản lí đào tạo nghề theo ngành dọc và theo vùng địa lí để
đảm bảo tính chủ động của các cơ quan quản lí đồng thời tạo sự linh hoạt cho hoạt
động đào tạo nghề được phân bố tại các vùng địa phương theo quy hoạch tổng thể
của cả nước.
- Phát triển nguồn đào tạo nghề được nhất quán từ khâu đào tạo, sử dụng và bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đảm bảo cân bằng cung cầu lao
động trên thị trường theo các ngành kinh tế cũng như theo vùng địa lí.
- Phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn được thực hiện song song theo hai
hướng là đào tạo để chuyển dịch cơ cấu lao động (là chủ yếu, gắn liền với quá
trình công nghiệp hóa) và đào tạo nghề để nâng cao năng suất lao động trong nông
nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh công tác hướng nghiệp cho học sinh ngay từ cấp
PTCS để có định hướng học nghề ngay sau khi học hết PTTH.
- Đào tạo nghề được phát triển đa dạng và vai trò của các đối tác xã hội được chú
trọng; đồng thời phát huy tính chủ động của các cá nhân trong một xã hội học tập
suốt đời.
- Kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo lý thuyết và thực hành tại cơ sở đào tạo với thực
hành tại nơi sử dụng lao động, gắn kết chặt chẽ giữa “học” và “hành”, đào tạo
theo địa chỉ, gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của nơi sử dụng lao động.
GV: 11
Nhóm 5 – QLKT K21C
GV: 12
Nhóm 5 – QLKT K21C
Nội dung và thảo luận
3.1. Thực trạng nguồn nhân lực
Từ các số liệu thống ke cho thấy nước ta có quy mô dân số cao trên thế giới, phân
bổ không đều giữa thành thị và nông thôn; lao động chủ yếu tập trung ở khu vực nông
thôn và trong thành phần kinh tế tư nhân.
Quy mô dân số nước ta là 86,927 triệu người (năm 2010) đứng thứ 3 trong khu vực

(sau Indonesia và Philippines), đứng thứ 13 trên thế giới. Chủ yếu sống ở khu vực nông
GV: 13
Nhóm 5 – QLKT K21C
thôn chiếm 69,83%, tỷ lệ giới tính nam, nữ có chênh lệch không đáng kể, khoảng 58%
dân số trong tuổi lao động, trong đó độ tuổi lao động từ 15-34 chiếm khoảng 45% lực
lượng lao động.
Hàng năm số lượng tham gia lực lượng lao động trên 1 triệu người, cứ 3 người
bước vào tuổi lao động thì có 1 người hết tuổi lao động. Thành phần kinh tế tư nhân có
lực lượng lao động nhiều nhất chiếm 86,1% có vai trò chủ đạo trong giải quyết công ăn,
việc làm cho toàn xã hội.
3.2. Hiện trạng đào tạo nghề
Năm 2007, lực lượng lao động nông thôn đạt 34,8 triệu người. Giai đoạn 1996-
2007, lực lượng lao động nông thôn tăng với tốc độ bình quân 1,64%/năm, hay khoảng
0,5 triệu người/năm. Tuy nhiên, do tốc độ tăng lực lượng lao động giảm dần qua các năm
nên tỷ lệ lực lượng lao động nông thôn trong tổng lực lượng lao động cả nước đã giảm từ
gần 80% năm 1990 xuống còn dưới 75% vào năm 2007.
GV: 14
Nhóm 5 – QLKT K21C
Trong thời kỳ 1996-2005, do nhiều nguyên nhân lực lượng lao động nông thôn có
trình độ chuyên môn kĩ thuật
1
tiếp tục gia tăng mạnh, đạt 19,35%/năm và tỷ lệ lao động
có trình độ chuyên môn kĩ thuật trong tổng lực lượng lao động nông thôn thời kỳ 1996-
2005 tăng 13,59% (từ 7,78% năm 1996 đến 23,17% năm 2005). Nhìn chung, trong giai
đoạn 1996-2005, cơ cấu lao động nông thôn theo trình độ chuyên môn kĩ thuật đã chuyển
dịch nhanh hơn rất nhiều so với cơ cấu lao động nông thôn chia theo trình độ học vấn.
Mặc dù vậy, nhìn chung trình độ chuyên môn kĩ thuật của lao động nông thôn vẫn
còn khá thấp. Năm 2005, lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật chỉ chiếm 16,88%
trong tổng lực lượng lao động nông thôn. Trong đó, lao động nông thôn có trình độ sơ
cấp, học nghề và công nhân kỹ thuật không có bằng chiếm 11,56%; cao đẳng, đại học trở

lên chỉ chiếm 2,12% trong tổng lực lượng lao động nông thôn. Bên cạnh đó, có tới trên
27,6 triệu lao động nông thôn không có trình độ chuyên môn kĩ thuật (lao động phổ
thông), chiếm 83,12% trong tổng lực lượng lao động nông thôn. Tỷ lệ này cao hơn rất
nhiều so với khu vực thành thị (tỷ lệ lao động phổ thông chỉ chiếm 49,3%).
Nhìn chung, cơ cấu lao động nông thôn theo trình độ chuyên môn kĩ thuật hiện nay
chưa hợp lý, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật bậc cao còn quá thấp. Tỷ lệ
tương quan trung bình giữa lao động có trình độ tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học trở lên/lao
động tốt nghiệp trung cấp/lao động đã qua đào tạo nghề (bao gồm đào tạo nghề ngắn hạn
và dài hạn) của cả nước vào năm 2005 là 1/0,86/2,74 và của lực lượng lao động nông
thôn là 1/1,51/5,46 và đây là một thách thức lớn cho nông thôn Việt Nam khi gia nhập
WTO nếu không cải thiện đáng kể chất lượng nguồn nhân lực.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước: Nhằm nâng cao chất lượng lao
động nông thôn đáp ứng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới, Đảng đã đề ra hàng loạt chủ trương lớn, và đã được thể chế hoá
thành các chính sách cụ thể của Nhà nước liên quan đến công tác dạy nghề, phát triển
nguồn nhân lực nông thôn. Gần đây nhất, Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban chấp hành
Trung ương ĐCSVN, Hội nghị lần thứ bảy khóa X về nông nghiệp nông dân và nông
1
Lao động có trình độ CMKT bao gồm những người đã được đào tạo, hay tự đào tạo từ trình độ sơ cấp, học nghề,
CNKT có bằng hoặc không bằng, Trung học chuyên nghệp, Cao đẳng và Đại học trở lên.
GV: 15
Nhóm 5 – QLKT K21C
thôn trong đó nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực nông thôn đã được đặc biệt quan tâm
thể hiện bằng chủ trương tăng cường đào tạo bồi dưỡng kiến thức khoa học kĩ thuật sản
xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân, đào tạo nghề cho bộ phận con em nông
dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động; tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ
quản lí, cán bộ cơ sở. Nghị quyết TW cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc hình thành
Chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo
hàng năm đào tạo 1 triệu lao động nông thôn, thực hiện tốt việc xã hội hóa công tác đào
tạo nghề.

Các quy định pháp luật cũng như các chính sách này có tác dụng bước đầu tạo môi
trường, hành lang pháp lý và chính sách thuận lợi để phát triển mạnh công cuộc dạy nghề
cho người lao động, nâng cao khả năng tạo việc làm, thúc đẩy chuyển dịch lao động nông
nghiệp, nông thôn. Hệ thống chính sách về đào tạo nghề đặc biệt là đào tạo nghề cho lao
động nông thôn trong những năm gần đây đã từng bước được hoàn thiện và hỗ trợ khá
đắc lực cho việc hình thành và phát triển hệ thống cơ sở đào tạo nghề rộng khắp trên cả
nước và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Ngoài ra, đối với riêng lĩnh vực nông
nghiệp mỗi năm cũng đã có hàng trăm ngàn lao động nông thôn được đào tạo nghề với
hàng trăm tỷ đồng hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, trong đó chủ yếu là thanh niên, đối
tượng chính sách, lao động bị thu hồi đất nông nghiệp do chuyển đổi mục đích sử dụng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đáng kể đó hệ thống chính sách này cũng còn bộc
lộ nhiều tồn tại cần phải điều chỉnh ví dụ như hình thức và mức độ hỗ trợ lao động học
nghề cần mạnh và thực tế hơn hay cần có chính sách tạo cơ chế kết nối giữa nơi đào tạo
và sử dụng lao động… để tiếp tục tạo môi trường tốt cho sự phát triển bền vững và hiệu
quả của công tác dạy nghề.
3.3. Vấn đề cung cầu về đào tạo nghề
Kết quả khảo sát thực địa của đề tài “Nghiên cứu, đề xuất chính sách đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” của Viện chính sách và chiến lược phát
triển nông nghiệp nông thôn (2008) cho thấy:
GV: 16
Nhóm 5 – QLKT K21C
Về phía cầu đào tạo nghề nói chung cũng như trong quá trình khảo sát cho thấy
hiện nay với xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa lao động nói chung và đặc biệt là lao
động nông thôn đang có nhu cầu khá lớn về việc học nghề vừa để nâng cao tay nghề vừa
nhằm thay đổi nghề nghiệp, nâng cao thu nhập. Vấn đề là làm sao để có thể kết nối được
nhu cầu về đào tạo nghề này với cung đào tạo nghề hiện có đồng thời cần có các chính
sách phù hợp để hỗ trợ cho lao động đến được với các chương trình dạy nghề. Trên thực
tế, mặc dù các hỗ trợ vẫn đã và đang được áp dụng tuy nhiên các hỗ trợ này dường như
chưa đủ để thu hút người lao động rời bỏ hẳn công việc hàng ngày để tham gia học nghề.
Do vậy, rất có thể trong thời gian tới các chính sách hỗ trợ cho người lao động tham gia

học nghề cần được điều chỉnh kể cả về mặt định mức cũng như hình thức hỗ trợ để đảm
bảo các chương trình đào tạo nghề cho người lao động được thực hiện một cách có hiệu
quả. Các chính sách hỗ trợ cho người đi học nghề cần đặc biệt lưu ý đến hai vấn đề định
mức hỗ trợ và phương thức hỗ trợ để đảm bảo người đi học có thể học được nghề và sau
đó sử dụng được nghề đã học. Vấn đề còn lại là với các hỗ trợ cung đào tạo nghề sẽ đáp
ứng mức cầu về đào tạo nghề này như thế nào?
Trên bình diện tổng thể cũng như trong quá trình khảo sát thực tế đều cho thấy hệ
thống cơ sở đào tạo hiện tại kể cả của cả nước cũng như của riêng Bộ NN&PTNT chưa
đủ đáp ứng yêu cầu của xã hội về đào tạo nghề. Sự thiếu hụt về mức cung này không chỉ
đơn thuần liên quan đế lượng mà liên quan đến cả chất lượng của cung đào tạo nghề. Do
vậy, trong thời gian tới hệ thống cơ sở đào tạo nghề nói chung và các cơ sở đào tạo nghề
cho lao động nông thôn cần nhanh chóng mở rộng để đáp ứng về số lượng nhu cầu đào
tạo nghề đồng thời cải thiện cơ sở hạ tầng, vật chất cũng như đội ngũ giáo viên, giáo
trình… để nâng cao chất lượng đào tạo nghề. Với đặc thù của công tác đào tạo nghề đòi
hỏi đầu tư cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị… tương đối lớn nên vấn đề này chắc chắn sẽ
cần phải có sự chung tay của nhiều bên vừa đề giảm gánh nặng ngân sách vừa tăng hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư. Đây cũng chính là nguyên nhân để trong quá trình đầu tư phát
triển cần đặc biệt chú ý đến chính sách xã hội hóa công tác đào tạo nghề.
Để đảm bảo cung và cầu gặp nhau về mặt chính sách cũng cần có những điều
chỉnh nhất định đối với cả phía cầu (người muốn đi học nghề), phía cung (nơi cung cấp
GV: 17
Nhóm 5 – QLKT K21C
việc dạy nghề) và cả cầu nối (hệ thống kết nối cung-cầu) đào tạo nghề. Các chính sách
này được xây dựng nhằm tạo ra những sự can thiệp từ phía Nhà nước để sửa chữa những
thất bại của thị trường, tập trung vào ba khía cạnh:
- Hỗ trợ người muốn đi học nghề nhưng chưa đi học được vì không đáp ứng được các
yêu cầu về tài chính, trình độ văn hóa hay thời gian học tập trung ;
- Hỗ trợ phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo đặc biệt là vấn đề về đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng, vật chất, trang thiết bị phục vụ việc dạy và học nghề đảm bảo vừa đáp ứng
đủ về số lượng vừa đạt chất lượng đào tạo nghề theo đúng yêu cầu của thị trường, của

thực tế sản xuất. Ngoài ra, các chính sách cần đề cao và đẩy mạnh việc xã hội hóa
công tác đào tạo nghề để giảm gánh nặng đầu tư cho ngân sách đồng thời tăng hiệu
quả của hoạt động đào tạo nghề;
- Hỗ trợ phát triển và hoàn thiện mạng lưới kết nối giữa người lao động, cơ sở đào tạo
nghề và các doanh nghiệp nơi sử dụng lao động nhằm đảm bảo người lao động muốn
đi học nghề sẽ có đủ thông tin để lựa chọn nghề cũng như cơ sở đào tạo nghề để học
và sau khi được đào tạo nghề có thể tiếp cận được ngay với doanh nghiệp, với sản
xuất.
Trên bình diện vĩ mô có thể nhận thấy trong bối cảnh hiện nay, cầu về đào tạo
nghề sẽ có những biến đổi lớn nhằm xây dựng được lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn kĩ thuật, tay nghề cao đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể, từ
nay tới 2010 dự kiến sẽ cần đào tạo cho 1 triệu lao động nông thôn ở trình độ sơ cấp nghề,
công nhân kĩ thuật ngắn hạn không có bằng nghề đồng thời cũng cần đào tạo hơn 400
ngàn lao động nông thôn đạt trình độ công nhân kĩ thuật có bằng (dài hạn), trung học
nghề. Giai đoạn 2010-2020, quy mô đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần đào tạo gần
5 triệu lao động nông thôn ở trình độ sơ cấp nghề, công nhân kĩ thuật ngắn hạn không có
bằng nghề đồng thời cũng cần đào tạo gần 1,2 triệu lao động nông thôn đạt trình độ công
nhân kĩ thuật có bằng nghề (dài hạn, trung cấp trở lên).
Mặt khác, số lượng lao động ở lại nông thôn so với tổng lực lượng lao động nông
thôn sẽ giảm dần trong giai đoạn 2010-2020 (giảm về tỷ trọng nhưng vẫn tăng về số
GV: 18
Nhóm 5 – QLKT K21C
lượng). Đến năm 2020, dự báo tổng số lao động vẫn ở lại nông thôn sẽ là khoảng hơn 39
triệu người, trong đó việc làm phi nông nghiệp là khoảng 19,5 triệu người và phi nông
nghiệp là khoảng 19,7 triệu người. Đến năm 2020, cơ cấu việc làm phi nông nghiệp/nông
nghiệp gần như cân bằng 50/50, trong khi đó, cơ cấu này ở năm 2006 chỉ là 37/62.
Trong khi đó, nếu chỉ tính các trường đào tạo nghề thuộc Bộ NN&PTNT quy mô
năm 2007 là 24.500 sinh viên đại học - cao đẳng, 23.500 học sinh trung cấp chuyên
nghiệp, gần 35.000 học sinh học nghề dài hạn (trung cấp nghề và cao đẳng nghề) và
17.000 học sinh học nghề ngắn hạn. Các trường đào tạo nghề nông nghiệp và phát triển

nông thôn khác ngoài hệ thống Bộ NN&PTNT hàng năm tuyển sinh khoảng 12.000 sinh
viên đại học - cao đẳng, 20.000 học sinh hệ trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Giả sử
các điều kiện khác không đổi, hàng năm hệ thống cơ sở đào tạo nghề trung và dài hạn sẽ
thiếu năng lực để đáp ứng yêu cầu học nghề của khoảng hơn 300 ngàn lao động muốn học
nghề. Mặt khác, giả sử hệ thống đào tạo nghề ngắn hạn hiện tại không đổi với năng lực
đào tạo nghề khoảng hơn 900 ngàn lao động/năm tức là từ nay đến năm 2010 cũng sẽ chỉ
đào tạo được cho khoảng hơn 1,8 triệu lao động - còn dư khoảng gần 500 ngàn lao động
cần được đào tạo ngắn hạn không có nơi đào tạo.
Như vậy, tình trạng hiện nay trên thị trường đào tạo nghề là thiếu cung - thừa cầu.
Để cân bằng được thị trường, một cách tự nhiên sẽ cần phải điều chỉnh tăng cung để đáp
ứng với mức cầu hiện có. Có nghĩa là trong thời gian tới sẽ cần đẩy mạnh việc đầu tư mở
rộng hệ thống cơ sở đào tạo nghề để trước hết đáp ứng về mặt số lượng nhu cầu học nghề
của lao động. Quá trình đầu tư này sẽ cần được xem xét và thực hiện sao cho vừa cân đối
được lượng cung và cầu vừa đảm bảo đáp ứng đầu yêu cầu về chất lượng của đào tạo
nghề. Nói cách khác, cần tăng cả chất và lượng cung đào tạo nghề để đáp ứng yêu cầu
của xã hội. Đồng thời, để đảm bảo cung và cầu gặp nhau về mặt chính sách cũng cần có
những điều chỉnh nhất định đối với cả phía cầu (người muốn đi học nghề), phía cung (nơi
cung cấp việc dạy nghề) và cả cầu nối (hệ thống kết nối cung-cầu) đào tạo nghề. Các
chính sách này được xây dựng nhằm tạo ra những sự can thiệp từ phía Nhà nước để sửa
chữa những thất bại của thị trường.
GV: 19
Nhóm 5 – QLKT K21C
3.4. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực nông thôn
Theo TS. Nguyễn Tiến Dũng, tổng số lao động đang làm việc trong các lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân là trên 47 triệu người, trong đó lao động đang làm việc trong
nông thôn chiếm gần 70%, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 51%. Để đáp ứng
nhu cầu nhân lực của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, cần phải chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu lao động trong nông thôn (mục tiêu đến năm 2020 chỉ còn 30% lao động
trong nông nghiệp) và đào tạo nghề có sứ mạng rất lớn, góp phần rất quan trọng vào việc
chuyển dịch này. Trong Nghị quyết số 26-NQ-TW ngày 5-8-2008 của Ban chấp hành

Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn có đề ra: “Giải quyết việc
làm cho nông dân là nhiệm vụ ưu tiên xuyên suốt trong mọi chương trình phát triển kinh
tế - xã hội của cả nước; bảo đảm hài hòa giữa các vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Có kế hoạch cụ thể về đào tạo nghề và chính
sách bảo đảm việc làm cho nông dân, nhất là ở các vùng chuyển đổi mục đích sử dụng
đất. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động từ nông thôn…. Hình thành Chương trình mục tiêu
quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm hằng năm đào tạo khoảng
1 triệu lao động nông thôn; phấn đấu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng
30% lao động xã hội; tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, ngày 28-10-2008 Chính phủ đã ra
Nghị quyết số 24/2008/NQ- CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, trong
đó có mục tiêu: “Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển một bộ phận lao
động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập
của dân cư nông thôn tăng lên 2,5 lần so với hiện nay”. Một trong những nhiệm vụ chủ
yếu trong Chương trình hành động của Chính phủ là: “Xây dựng Chương trình mục tiêu
quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực nông thôn. Tập trung xây dựng kế hoạch và giải
pháp đào tạo cho bộ phận con em nông dân đủ trình độ, năng lực vào làm việc ở các cơ
sở công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ và chuyển nghề; bộ phận nông dân còn tiếp
tục sản xuất nông nghiệp được đào tạo về kiến thức và kỹ năng để thực hành sản xuất
nông nghiệp hiện đại; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản
lý, cán bộ cơ sở”.
GV: 20
Nhóm 5 – QLKT K21C
Để cụ thể hóa Chương trình hành động, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động
nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Trong Quyết định này đã thể hiện rõ
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất
lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông

thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi
lao động nông thôn, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia đào
tạo nghề cho lao động nông thôn”. Đề án 1956 đã đề ra mục tiêu tổng quát: “ Bình quân
hằng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, trong đó đào tạo, bồi
dưỡng 100.000 lượt cán bộ, công chức xã. Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo
nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch
cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn…”. Đối tượng của Đề án này là lao động nông thôn trong độ tuổi lao
động, có trình độ học vấn và sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó ưu tiên đào
tạo nghề cho các đối tượng là người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi, người có
công với cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của hộ nghèo,
người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người thuộc diện có đất thu hồi…
Đề án đã đề ra đồng bộ các chính sách đối với người học nghề, chính sách đối với
người dạy nghề (bao gồm giáo viên, giảng viên trong các cơ sở dạy nghề; cán bộ kỹ thuật,
kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh và
các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, nông dân sản xuất giỏi tham gia dạy nghề) và chính
sách đối với các cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn.
Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã nêu, Đề án đã đề ra đồng bộ 5 nhóm giải
pháp, gồm (1) Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, xã hội, của cán bộ, công chức
xã và lao động nông thôn về vai trò của đào tạo nghề đối với tạo việc làm, tăng thu nhập
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn; (2) Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo
nghề; (3) Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý; (4) Phát triển chương
GV: 21
Nhóm 5 – QLKT K21C
trình, giáo trình, học liệu; (5) Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát đánh giá việc thực
hiện Đề án.
Đề án cũng đã đề ra 8 nhóm hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn, bao gồm
(1) Tuyên truyển, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn; (2) Điều tra,
khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn; (3) Thí điểm các mô hình
dạy nghề cho lao động nông thôn; (4) Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề

đối với các cơ sở dạy nghề công lập; (5) Phát triển chương trình, giáo trình, học liệu và
xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề; (6) Phát triển đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý dạy
nghề; (7) Hỗ trợ lao động nông thôn học nghề; (8) Giám sát, đánh giá tình hình thực hiện
Đề án.
Đồng thời với Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, ngày
4-6-2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt “Chương
trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020”. Theo đó, sẽ
có 11 nhóm nội dung phải triển khai thực hiện từ nay đến năm 2020, trong đó có nội dung
“đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công nghiệp vào nông
thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn”.
Có thể nói, chưa bao giờ vấn đề đào tạo nghề nói chung và đào tạo nghề cho lao
động nông thôn lại được Đảng và Nhà nước quan tâm như hiện nay và đã có những cơ
chế, chính sách và các giải pháp đồng bộ để thực hiện. Đến nay đã có gần 80% số tỉnh đã
đưa nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn vào nghị quyết của đại hội đảng bộ
tỉnh giai đoạn 2011-2015.
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là việc làm có tính xã hội và nhân văn sâu
sắc, do đó đã nhận được sự đồng thuận rất cao của người dân, của các cấp, các ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các doanh nghiệp, các phương tiện thông tin đại
chúng. Tư tưởng bao trùm của các chủ trương, đề án của Đảng và Nhà nước về đào tạo
nghề cho nông dân và lao động nông thôn là góp phần tạo ra lực lượng sản xuất hiện đại
trong nông nghiệp; tạo ra những lao động có kiến thức, có kỹ năng sản xuất hiện đại, có
khả năng thích ứng với sự cạnh tranh quốc tế trong sản xuất nông nghiệp.
GV: 22
Nhóm 5 – QLKT K21C
Một trong những khác biệt của đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án
1956 so với các chương trình, dự án trước đó về dạy nghề cho nông dân, là yêu cầu cao về
“đầu ra”. Theo mục tiêu của Đề án 1956, từ nay đến năm 2015, 70% số lao động nông
thôn sau khi được đào tạo nghề có việc làm phù hợp với nghề được đào tạo và tỷ lệ này
đạt được là 80% vào những năm sau đó. Để đạt được yêu cầu này, ngay sau khi có Quyết
định số 1956 QĐ-TTg, tất cả các địa phương trong cả nước đã đồng loạt tổ chức điều tra,

khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn; nhu cầu sử dụng lao động
qua đào tạo nghề của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; năng
lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn. Công tác điều tra được thực hiện từ các
thôn, bản, xóm, ấp, tới từng hộ gia đình, trên cơ sở nhu cầu nghề nghiệp thực tiễn của
người dân nông thôn. Tính đến nay 63/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành việc điều tra,
khảo sát nhu cầu và có 33 tỉnh, thành phố đã tổng hợp số liệu điều tra. Theo thống kê sơ
bộ, hiện có khoảng 12% - 15% số lao động nông thôn có nhu cầu được đào tạo nghề với
trên 600 nghề khác nhau, trong đó nhóm nghề nông nghiệp chiếm trên 42%. Đây là căn
cứ rất quan trọng để các cơ sở dạy nghề trong cả nước tổ chức xây dựng chương trình và
mở các khóa dạy nghề phù hợp.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã hướng dẫn các địa phương tổ chức triển
khai thực hiện đề án theo 19 nhóm công việc cụ thể. Tuy mới triển khai thực hiện, nhưng
các ngành, các địa phương đã có những hoạt động thiết thực, sáng tạo, đã đưa ra nhiều mô
hình dạy nghề và hình thức dạy nghề thích hợp. Một số mô hình đã bước đầu triển khai có
hiệu quả, như mô hình đào tạo nghề cho lao động ở các vùng chuyên canh, vùng nguyên
liệu cho các cây công nghiệp như thuốc lá, chè… (có sự phối hợp giữa địa phương và các
doanh nghiệp); mô hình dạy nghề cho lao động trong các làng nghề (sự phối hợp giữa
địa phương, các cơ sở dạy nghề và các làng nghề); mô hình dạy nghề ngắn hạn cho
người nông dân ở cộng đồng (sự phối hợp giữa địa phương, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
và các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư)… Hoạt động dạy nghề cho nông
dân và lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở chuyên dạy nghề mà còn thu hút
được sự tham gia của các viện nghiên cứu, các trường đại học; sự tham gia giảng dạy của
những lao động kỹ thuật từ các doanh nghiệp; những nghệ nhân, người có tay nghề cao
GV: 23
Nhóm 5 – QLKT K21C
trong các làng nghề… Bản thân người nông dân và lao động nông thôn là những đối
tượng được thụ hưởng chính sách cũng đã tích cực, ủng hộ chủ trương của Chính phủ, từ
việc xác định được nhu cầu học nghề của mình phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương đến việc tham gia đầy đủ các khóa đào tạo. Qua thí điểm một số mô
hình đào tạo nghề cho lao động vùng chuyên canh ở một số địa phương (như Lạng Sơn,

Cao Bằng, Tây Ninh, Gia Lai…) cho thấy, kỹ năng nghề của người nông dân đã được
nâng lên, do đó năng suất lao động, chất lượng cây trồng và thu nhập đã tăng lên rõ rệt.
Đặc biệt, trong quá trình đào tạo, người nông dân còn được cung cấp những kỹ năng về
hội nhập kinh tế, về các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm của thế giới và Việt Nam;
về cách ứng xử với môi trường (công nghệ sạch) và bước đầu còn được trang bị những
kiến thức về khởi sự doanh nghiệp. Những kết quả bước đầu này đã tạo động lực để thu
hút những lao động nông thôn khác trong thôn, bản, làng, xã tham gia các khoá đào tạo
nghề được tổ chức tại địa bàn. Các doanh nghiệp, các cơ sở dạy nghề tham gia dạy nghề
cho nông dân và lao động nông thôn, không chỉ thuần túy dạy nghề mà còn tư vấn, hướng
dẫn người nông dân cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo đảm “đầu ra” hoặc là sản
phẩm hoặc là tiếp nhận lao động sau khi được học nghề. Tại những địa bàn nghèo, các
doanh nghiệp ngoài việc hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề, còn hỗ trợ đầu tư các công trình xã
hội, như trường học, xây dựng đường liên thôn, liên bản…, góp phần xóa đói, giảm
nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới. Riêng đối với 11 xã thí điểm
xây dựng nông thôn mới, mỗi xã tối thiểu đã tổ chức được hai lớp dạy nghề cho nông dân
theo các mô hình đặc thù của xã.
3.5. Các vấn đề đặt ra
Để các hoạt động đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn thực sự hiệu
quả, tạo được sự đồng thuận cao của người dân, cần tiếp tục thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, phải có sự “vào cuộc” mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị ở địa phương.
Nhận thức đúng về đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn là cơ hội để nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương, nâng cao chất lượng, năng suất lao động;
góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường
quốc tế. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có sự quan tâm của cấp uỷ
GV: 24
Nhóm 5 – QLKT K21C
đảng, sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính
trị - xã hội… thì ở đó công tác dạy nghề cho nông dân và lao động nông thôn đạt được kết
quả mong muốn.
Thứ hai, đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu

cầu sử dụng lao động thực sự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh- dịch vụ trên địa bàn; từ
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương; đồng thời dựa trên nhu cầu thực
tế về nghề nghiệp của người dân, chứ không phải là các hoạt động có tính phong trào,
nhất thời. Vì vậy, công tác điều tra, khảo sát nhu cầu phải thực hiện thường xuyên; nắm
chắc các nhu cầu thực tế (theo từng nghề, nhóm nghề, vị trí công việc…) của người dân ở
từng địa phương (xã, huyện) và của doanh nghiệp. Để làm tốt việc này, ngoài việc huy
động các cơ quan chuyên môn (lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, thống
kê…) cần kết hợp với công tác tuyên truyền, tư vấn nghề nghiệp, thông tin đến từng người
dân về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp
Thứ ba, do tính đa dạng vùng miền và tính đặc thù của người nông dân và lao
động nông thôn (trình độ học vấn không đồng đều, lao động theo mùa vụ, thói quen canh
tác…), nên việc tổ chức các khóa đào tạo phải rất linh hoạt về chương trình đào tạo, hình
thức đào tạo, phương thức đào tạo, phương pháp truyền đạt… Chương trình đào tạo phải
gắn với học liệu sinh động, đa dạng và thiết thực, phù hợp với trình độ của người học.
Thứ tư, đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn phải gắn với giải quyết
việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động; gắn với xóa đói, giảm nghèo và góp phần bảo đảm
an sinh xã hội ở nông thôn; gắn với xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, trong quá trình thực
hiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo và
doanh nghiệp, nhất là vai trò của chính quyền cấp xã, cấp huyện. Thực tế thời gian qua
cho thấy, ở nơi nào có sự phối hợp tốt giữa các đối tác này thì ở đó công tác đào tạo nghề
đạt được kết quả rất tích cực (người dân có việc làm, năng suất lao động và thu nhập của
người dân được nâng lên, giảm nghèo bền vững…). Đặc biệt, dạy nghề cho nông dân và
lao động nông thôn phải gắn kết chặt chẽ với Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ (theo Quyết định số 800/QĐ-
TTg ngày 4-6-2010).
GV: 25

×